Đề cương Phân tích và đầu tư chứng khoán - Phân tích kỹ thuật

docx 32 trang nguyendu 4890
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương Phân tích và đầu tư chứng khoán - Phân tích kỹ thuật", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxde_cuong_phan_tich_va_dau_tu_chung_khoan_phan_tich_ky_thuat.docx

Nội dung text: Đề cương Phân tích và đầu tư chứng khoán - Phân tích kỹ thuật

  1. Contents 11 PHÂN TÍCH KỸ THUẬT 2 Câu 1: Trình bày khái niệm và các giải định trong phân tích kỹ thuật 2 Câu 2: Trình bày các dạng đồ thị cơ bản trong phân tích kỹ thuật 3 Câu 3: Trình bày các khái niệm cơ bản trong phân tích kỹ thuật: Xu thế và đường xu thế; Kênh; Mức hoàn lại; Khung giao dịch; Mức kháng cự và hỗ trợ; Điểm đột phá. 4 Câu 4: Trình bày các hình mẫu kỹ thuật cơ bản trong phân tích kỹ thuật 5 Câu 5: Trình bày các nội dung cơ bản của lý thuyết DOW 6 Câu 6: Trình bày các nội dung cơ bản của lý thuyết sóng Elliott 9 Câu 7: Trình bày những khó khăn trở ngại trong phân tích kỹ thuật. Nhận xét về hoạt động PTKT ở Việt Nam 13 Câu 8: Trình bày khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phân tích kỹ thuật. Phân tích các điều kiện ứng dụng phân tích kỹ thuật trên TTCK Việt Nam 16 Câu 9: Phân tích các giả định trong phân tích kỹ thuật 17 Câu 10: Trình bày các công cụ sử dụng trong phương pháp kỹ thuật, các hình mẫu kỹ thuật, các chỉ dẫn kỹ thuật và các chỉ số động lượng, phân tích khối lượng giao dịch 18 Câu 11: Phân tích cơ sở lý luận của phân tích kỹ thuật 27 1
  2. 11 PHÂN TÍCH KỸ THUẬT Câu 1: Trình bày khái niệm và các giải định trong phân tích kỹ thuật Bài làm: * Các khái niệm Xu thế: Xu thế là một khái niệm dùng để chỉ diễn biến của một sử kiện nào đó theo một quy luật hay một chiều hướng nhất định được gọi là xu thế. Trong phân tích kỹ thuật các chuyên gia chia làm hai loại xu thế chính đó là:Xu thế giá tăng: gồm liên tiếp các đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần(đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy trước cao hơn đáy sau). Xu thế giá giảm: ngược lại. Đường xu thế: Xu thế giá tăng và xu thế giá giảm cũng được nghiên cứu dưới dạng các đường xu thế, đường xu thế có thể kéo dài nhiều năm. Qúa trình vẽ đường xu thế khá đơn giản tuy nhiên sẽ rất dễ nhầm. Điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được đường xu thế là có hai điểm tuy nhiên người ta thường đợi cho đến khi xuất hiện đáy thứ cao hơn 2 đáy trước và xu thế đi qua 3 đáy, đường xu thế đi qua 3 đáy thường là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao. Kênh: Kênh là khoảng giao động của giá, nếu giá giao động trong một dải thì dải đó được gọi là kênh.Giải giao động đó được xác định bởi 2 đường biên là đường xu thế và đường kênh, 2 đường nay song song với nhau. Mỗi lần giá chạm hoặc gần đến đường kênh và quay trở lại xuống đến đường xu thế là một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh có thể sử dụng trong cho kiếm lời trong ngắn hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo sử dụng kênh để tiến hành các giao dịch ngược hướng thị trường. Mức hoàn lại (Mức điều chỉnh): Trong bất kỳ một một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động theo xu thế thị trường thì giá sẽ điều chỉnh một chút trước khi quy trở lại chuyển động theo xu thế cũ. Những chuyển động ngược xu thế này thường có độ lớn ở vào khoảng có thể sử dụng được gọi là mức điều chỉnh, mức điều chỉnh trung bình vào khảng 50%. Nếu mức điều chỉnh cao hơn thì khả năng sẽ xẩy ra sự đảo chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu hướng ngược lại mà không theo xu thế cũ nữa. Khung giao dịch: Thị trường có thể ở trong 3 xu thế là: xu thế tăng giá, xu thế giảm giá, xu thế giao động ngang. Có đến 1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình mẫu “phẳng” nằm ngang gọi là 2
  3. khung giao dịch.Khung giao dịch là một giải nằm ngang trên đồ thị trong đó bao gồm các dao động của giá trong thời gian dài. Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp lực cung cầu tương đối cân bằng và giá duy trì ở mức cân bằng thị trường. Hỗ trợ và kháng cự: - Mức hỗ trợ: mức giá ở đó mức cầu cho một CP là đủ để, ít nhất là làm dừng xu thế giảm giá của thị trường và cũng có thể đổi chiều xu thế đó - Mức kháng cự: là mức giá mà ở đó lượng cung đủ để giá sẽ ngừng không tăng nữa và có thể chuyển động ngược lại đi xuống. Điểm đột phá: Điểm xuất hiện khi giá của thị trường dịch chuyển ra ngoài xu thế của kênh * Các giả định: xem câu 13 Câu 2: Trình bày các dạng đồ thị cơ bản trong phân tích kỹ thuật Bài làm: * Line chart: thể hiện giá đóng cửa của ngày giao dịch * Bar chart: phản ánh rõ nét sự biến động của giá chứng khoán Hai ký tự mà dạng biểu đồ này sử dụng đó là: high high open Close close open low low * Candlestick chart:Hai ký tự mà loại biểu đồ này sử dụng đó là 3
  4. high High open Màu đỏ Mau xanh(giá (giá xuống) tăng) close low low Câu 3: Trình bày các khái niệm cơ bản trong phân tích kỹ thuật: Xu thế và đường xu thế; Kênh; Mức hoàn lại; Khung giao dịch; Mức kháng cự và hỗ trợ; Điểm đột phá. Bài làm: * Xu thế và đường xu thế: -Xu thế xuống: đỉnh và đáy sau thấp hơn -Xu thế lên: đỉnh và đáy sau cao hơn -Xu thế ngang:không có giá lên và xuống Đây là xu thế lên * Kênh Kênh là khoảng giao động của giá,nếu giá sẽ dao động trong một dải thì dải đó gọi là kênh.Dải dao động đó được xác định bởi 2đường biên là đường xu thế và đường kênh,2đường này song2 với nhau. 4
  5. * Hỗ trợ là mức giá mà tại đó nhà đầu tư cảm thấy đầu tư vào đó có lợi và ng bán cũng không muốn bán với giá thấp hơn,xu thế giảm giá dừng lại Hỗ trợ * Kháng cự tại mức giá này ng bán đã cảm thấy lợi nhuận chấp nhận đc và bán ra còn ng mua không muốn mua ở mức cao hơn nữa,xu thế tăng dừng lại Câu 4: Trình bày các hình mẫu kỹ thuật cơ bản trong phân tích kỹ thuật Bài làm: * Hình mẫu kỹ thuật đảo chiều xu hướng thị trường Double bottom (mô hình 2 đáy): là thời kỳ chuyển đổi xu thế giảm giá thành xu thế tăng giá,nó mang tính đảo chiều.(dễ nhận thấy nhưng cũng dễ nhầm nên cần cẩn thận) Double top (mô hình 2 đỉnh): thể hiện sự đảo ngược của xu hướng tăng giá chứng khoán_đánh dấu quá trình chuẩn bị cho xu hướng đi xuống của xu hướng tăng giá Falling wedge (mô hình cái nêm hướng xuống): mô hình này bắt đầu thì biên khoảng cách giữa 2 đường xu thế rộng sau đó độ rộng giảm dần khi giá chứng khoán giảm(khi đỉnh và đáy dần hội tụ) Đường nêm đi lên: dạng thị trường bắt đầu rộng ở đáy và thu hẹp khi giá tăng,khoảng giá thu hẹp. 5
  6. Head and shoulders top (đỉnh đầu vai): Hình mẫu gồm 3 đỉnh cao nhọn được tạo bởi 3 điểm khôi phục-tăng giá trở lại sau khi giá giảm trong sự biến động của giá chứng khoán. Triple bottom (hình mẫu kỹ thuật ba đáy): biểu diễn xu thế giẩm sút trong quá trình nó trở thành một xu thế tăng giá,như vậy nó chỉ còn hợp lệ khi nó vẫn trong quá trình giảm sút so với 2 đỉnh ở giữa hay là nó chưa đi xuyên chép qua đường vòng cổ(vượt qua mức kháng cự của mô hình) Triple top: là 1 hình mẫu dạng đảo chiều của thị trường nó đánh dấu 1 thời kỳ chuyển tiếp giữa 1 xu thế tăng giá và 1 xu thế giảm giá Rounding bottom (hình mẫu kỹ thuật đáy vòng cung): là mô hình chuyển tiếp từ 1 khuynh hướng giảm giá liên tục sang 1 khuynh hướng tăng giá mạnh * Các hình mẫu kỹ thuật củng cố xu hướng thị trường Ascending triangle (tam giác hướng lên): mang tính củng cố hay báo hiệu sự tiếp tục xu thế hiện tại của thị trường Descending Triangle (tam giác hướng xuống): xuất hiện trong thị trường xuống giá và cũng mang tính củng cố(hay duy trì) xu thế hiện tại Symmetrical triangle (tam giác cân): Khi thoát khỏi hình tam giác thị trường chắc chắn sẽ đi theo hướng dao động nào có khối lượng giao dịch lớn nhất trong tam giác cân này Cup and handle (mô hình cốc và chuôi): khi thị trường đang trong xu thế lên giá và nó củng cố xu thế đó của thị trường.Mô hình này gồm 2 phần:phần “cốc” và phần cái “chuôi”,mô hình cốc kéo dài trong 1 đến 6 tháng còn mô hình chuôi kéo dài trong 1 đến 4 tuần Flags and Pennants (cờ chữ nhật và cờ đuôi nheo) Cờ đuôi nheo + Dạng 1: xu hướng giá lên thì nên mua tại mức giá mà thị trường vượt lên trên đường thẳng nối các điểm cận trên của lá cờ đuôi nheo + Dạng 2: xu hướng giá xuống nên thực hiện giao dịch bán tại thời điểm thị trường trượt qua đường thẳng nối các điểm cận dưới của lá cờ đuôi nheo Cờ chữ nhật Khi hình chữ nhật có quy mô nhỏ và hướng của thị trường khi thoát khỏi hình chữ nhật cho thấy rằng đây là dấu hiệu thị trường tiếp tục xu hướng gía như lúc trong hình chữ nhật Câu 5: Trình bày các nội dung cơ bản của lý thuyết DOW Bài làm: Cơ sở để xây dựng cũng như đối tượng nghiên cứu của lý thuyết chính là những biến động của bản thân thị trường (thể hiện trong chỉ số trung bình của thị trường) và không hề dựa trên cùng cơ sở của Phân tích cơ bản là các thống kê hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 6
  7. * 12 nguyên lý quan trọng: Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả Bởi vì nó phản ánh những hoạt động có liên kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tư, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể ảnh hưởng đến cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì ngay khi xảy ra chúng đã được thị trường phản ánh ngay vào giá của các loại chứng khoán. Ba xu thế của thị trường Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán nói chung, dao động của thị trường tạo thành các xu thế giá, trong đó quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Xu thế cấp 1 Như đã nói đến ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động lớn của giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Nếu như mỗi đợt tăng giá liên tiếp đều đạt đến mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước. Còn ngược lại nếu mỗi biến động giảm đều làm cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá. Xu thế cấp 2 Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tác động làm gián đoạn quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm thời (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh xuất hiện ở các Bull Market; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục xuất hiện ở các Bear Market. Thường thì những biến động trung gian này kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng. Chúng sẽ kéo ngược lại khoản 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1 Xu thế nhỏ (Minor) Đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần, hường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói đến, bản thân chúng không thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thông thường thì một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế cấp 2 liên tiếp, đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động nhỏ khác nhau. Xu thế nhỏ là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tác động vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất lớn và điều này hầu như là không thể. Bull Market (thị trường con bò tót - thị trường tăng giá) Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời kì. Thời kì đầu tiên là quá trình “tích tụ”, trong quá trình này, những nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ tiến hành xem xét các doanh nghiệp, 7
  8. có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy khả năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình hình thành tăng trưởng nhanh chóng, có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ doanh nghiệp và doanh thu của nó cũng tăng dần và bắt đầu thu hút các mối quan tâm trên thị trường. Đây chính là thời kì mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo trường phái Phân tích kỹ thuật. Cuối cùng là thời kì thứ 3, trong thời kì này thị trường sôi sục với những biến động của nó. Công chúng rất háo hức với từng biến động của thị trường. Tất cả các thông tin tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức tưởng tượng và đang là những vấn đề nóng hổi được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày. Nhưng thực sự thì sau hai năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào? Bear Market (Thị trường con gấu - thị trường giảm giá) Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành ba thời kỳ. Thời kỳ đầu tiên là thời kỳ “phân bổ”. Trong thời kỳ này những nhà đầu tư có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số kinh doanh nói chung) của những công ty mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không bình thường và họ muốn nhanh chóng thoát khỏi vị thế sở hữu cổ phiếu của những công ty này. Khối lượng giao dịch vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của xu hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng bắt đầu có dấu hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận. Thời kỳ thứ hai được gọi là thời kỳ "hỗn loạn". Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán bắt đầu trở lên vội vã bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá bắt đầu tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao dịch đạt đến mức đỉnh điểm. Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng lại được duy trì bởi những lệnh bán nhiều và liên tục thể hiện “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của toàn bộ thời kỳ giảm giá trước, cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Bear Market kết thúc tất cả với những tin xấu về các doanh nghiệp, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã thể hiện ra và có thể đến. Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị trường. Điều nguyên lý này muốn nói đến là không thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ thông qua xem xét biến động của duy nhất một loại chỉ số bình quân Khối lượng giao dịch áp dụng kèm với xu thế thị trường. 8
  9. Điều này thể hiện một thực tế là khi giá biến động theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có xu hướng mở rộng hơn. Do vậy, với Bull Market, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao dịch sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu phục hồi. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2. Đường ngang là những chuyển động ngang có tính chất trung gian của thị trường phản ánh thời kỳ mà giá biến động rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 đến 3 tuần hoặc đôi khi là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường xuất hiện mô hình dạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối cân bằng. Những biến động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan trọng của thị trường bởi nếu là đỉnh thì đó chính là giai đoạn “phân bổ” - giai đoạn ban đầu của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” - giai đoạn đầu của một Bull Market. Chỉ sủ dụng mức giá đóng cửa để nghiên cứu. Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao đến các mức biến động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày mà chỉ quan tâm đến những số liệu cuối ngày giao dịch, chẳng hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày. Một xu thế cần được giả định rằng vẫn đang tiếp tục cho đến khi có một dấu hiệu thực sự về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định. Nguyên lý thứ mười hai giúp đề phòng với những thay đổi (phản ứng) quá sớm trong quan điểm về thị trường. Điều này không nhằm làm nhà đầu tư trì hoãn hành động của mình lại một cách không cần thiết, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường là đã rõ ràng, nhưng nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết chờ đợi cho đến khi họ chắc chắn về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về những người quá nôn nóng với hành động của họ. * Hạn chế của Lý thuyết Dow: Lý thuyết Dow quá trễ. Lý thuyết Dow không phải là luôn đúng. Lý thuyết Dow thường làm cho nhà đầu tư phải băn khoăn. Lý thuyết Dow không giúp gì được cho những nhà đầu tư theo các biến động trung gian. Câu 6: Trình bày các nội dung cơ bản của lý thuyết sóng Elliott Lý thuyết sóng Elliott là một trong những cơ sở lý thuyết quan trọng cho phân tích kỹ thuật 9
  10. * Hướng tiếp cận Theo lý thuyết sóng, sự thay đổi của giá cả sẽ tạo ra những cơn sóng. Ba khía cạnh cơ bản với mức độ quan trọng lần lượt của lý thuyết này là: mô hình, tỉ lệ và thời điểm. Mô hình tức hình mẫu đồ thị sóng, đây là phần quan trọng nhất của lý thuyết. Việc phân tích các tỉ lệ là rất cần thiết để xác định các mức hoàn lại (Retracement) và các mức giá mục tiêu (Price Objectives) thông qua mối quan hệ giữa các sóng khác nhau. Yếu tố cuối cùng là thời điểm, có thể được dùng để xác định các mô hình và tỉ lệ đã hoặc sắp xuất hiện. Lý Thuyết Sóng Elliott được áp dụng cho các chỉ số bình quân của TTCK, đặc biệt là chỉ số Công Nghiệp DowJones. Một cách cơ bản nhất, lý thuyết này cho rằng TTCK luôn lặp đi lặp lại một chu kỳ gồm 5 sóng hướng gia tăng xu thế hiện tại và 3 sóng ngược hướng xu thế hiện tại. * Nội dung cơ bản Sóng điều chỉnh và sóng kéo Một chu kì sẽ gồm 8 sóng, 5 sóng hướng cùng chiều và 3 sóng hướng ngược chiều thị trường. Khi thị trường lên giá, ở phần 5 sóng được đánh số thì các sóng 1, 3, 5 được gọi là các sóng kéo, còn các sóng 2, 4 gọi là các sóng điều chỉnh- sẽ điều chỉnh xu thế của 3 sóng 1, 3, 5 (tên gọi của chúng được đặt theo hướng chuyển động). Với 3 sóng ở nửa bên kia của mô hình, được đánh dấu bằng các chữ cái a, b, c cũng được gọi là các sóng điều chỉnh nhưng khác sóng 2, 4 ở chỗ tính chất điều chỉnh của chúng là với toàn thị trường.  Sóng kéo số 1. Đợt sóng đầu tiên này là có điểm xuất phát từ thị truờng con gấu (suy thóai), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ đầu. Lúc này thông tin cơ bản về các công ty niêm uớc vẫn đang là thông tin tiêu cực. Chiều hướng của thị trường trước khi sóng 1 xảy ra chủ yếu vẫn là thị truờng suy thoái. Những nhà phân tích cơ bản vẫn đang tiếp tục điều chỉnh thu nhập kỳ vọng thấp xuống so với dự kiến. Khối lương giao dịch có tăng chút ít theo chiều hướng giá tăng. Tuy vậy việc tăng này là không đáng kể  Sóng điều chỉnh số 2. Sóng chủ 2 sẽ điều chỉnh sóng 1, nhưng điểm thấp nhất của sóng 2 không bao giờ vượt qua điểm xuất phát đầu tiên của sóng 1. Tin tức dành cho thị trường vẫn chưa khả quan. Thị trường đi xuống ở cuối sóng để thực hiện việc “kiểm tra” độ thấp của thị trường. Khối lượng giao dịch sẽ ít hơn đợt sóng 1. Giá sẽ được điều chỉnh giảm và thuờng nằm trong khoảng 0.382 đến 0.618 của mức cao nhất của sóng  Sóng kéo số 3. Thông thường đây là sóng lớn nhất và mạnh mẽ nhất của xu hướng lên giá. Ngay đầu sóng 3, thị trường vẫn còn nhận những thông tin tiêu cực, vì vậy có nhiều nhà kinh doanh không kịp chuẩn bị để mua vào. Khi sóng 3 đang ở lưng chừng, thị trường bắt đầu nhận 10
  11. những thông tin cơ bản tích cực và những nhà phân tích cơ bản bắt đầu điều chỉnh thu nhập kỳ vọng, giá của sóng 3 tăng lên với tốc độ khá nhanh. Điểm cao nhất của sóng 3 thường cao hơn điểm cao nhất của sóng 1 với tỷ lệ 1,618:1  Sóng điều chỉnh số 4. Đây thật sự là một con sóng điều chỉnh. Giá có khuynh hướng đi xuống và đôi khi có thể răng cưa kéo dài. Sóng 4 thường sẽ điều chỉnh sóng 3 với mức 0.382 – 0.618 của sóng 3. Khối lượng giao dịch của sóng 4 thấp hơn của sóng 3. Đây là thời điểm để mua vào nếu như nhà kinh doanh nhận biết được tiềm năng tiếp diễn liền sau đó của con sóng 5. Tuy vậy việc nhận biết điểm dừng của sóng 4 là một trong những khó khăn của các nhà phân tích kỹ thuật trường phái sóng Elliot.  Sóng kéo số 5. Đây là đợt sóng cuối cùng của 5 con sóng “chủ”. Thông tin tích cực tràn lan khắp thị trường và ai cũng tin rằng thị trường đang ở trong thế bò húc. Khối lượng giao dịch của sóng 5 khá lớn , tuy vậy thông thường vẫn nhỏ hơn sóng 3. Điều đáng nói là những nhà kinh doanh “không chuyên nghiệp” thường mua vào ở những điểm gần cuối sóng 5. Vào cuối con sóng 5, thị trường nhanh chóng chuyển hướng.  Sóng điều chỉnh A. Sóng này bắt đầu cho đợt sóng điều chỉnh A,B,C. Trong thời gian diễn ra sóng A, thông tin cơ bản vẫn đang rất lạc quan. Mặc dù giá xuống, nhưng phần đông các nhà kinh doanh vẫn cho rằng thị trường đang trong thế b. húc. Khối lượng giao dịch tăng trưởng khá đều đặn theo con sóng A.  Sóng điều chỉnh B. Giá tăng trở lại và với mức cao hơn so với điểm cuối sóng A. Sóng B được xem là điểm kéo dài của thị trường b. húc. Khối lượng giao dịch của sóng B thường thấp hơn của sóng A. Vào lúc này, những thông tin cơ bản của các công ty không có những điểm tích cực mới, thế nhưng cũng chưa chuyển hẳn qua tiêu cực.  Sóng điều chỉnh C. Giá có khuynh hương giảm nhanh hơn các đợt sóng trước. Khối luợng giao dịch tăng. Hầu như tất cả mọi nhà kinh doanh, đầu tư đều nhận thấy r. sự ngự trị của“gấu ngủ” trên thị trường, chậm nhất là trong đợt sóng nhỏ thứ 3 của sóng C. Sóng C thường lớn như sóng A. Điểm thấp nhất của sóng C ít nhất bằng điểm thấp nhất của sóng A nhân với 1.618. Cùng với việc xem xét mô hình chu kỳ của các loại sóng, một điều quan trọng không thể bỏ qua là mức độ hay độ lớn của mỗi chu kỳ. Elliott đã sắp xếp đưa và đưa ra 9 mức độ của các chu kỳ sóng theo thứ tự giảm dần như sau: Grand Super Cycle, Super Cycle, Cycle, Primary, Intermediate, Minor, Minute, Minuette,Subminuette Cho dù nghiên cứu chu kỳ sóng với qui mô nào thì nguyên tắc chung là 5 lên, 3 xuống là không thay đổi. Mỗi sóng lại có thể phân thành nhiều sóng ở mức độ nhỏ hơn, mỗi sóng ở 11
  12. cấp độ thấp hơn đó lại có thể chia thành những sóng ở cấp thấp hơn nữa. Ngược lại mỗi một sóng bao giờ cũng là một bộ phận của một sóng ở mức cao hơn. Một đặc trưng quan trọng của sóng: Một sóng lớn thì đựoc chia thành nhiều sóng nhỏ, nhưng việc sóng đó được chia thành 5 hay 3 sóng nhỏ là tuỳ thuộc vào hướng của nó. Chẳng hạn các sóng(1), (3), (5) được chia thành 5 sóng nhỏ bởi vì 3 sóng này cùng hướng với sóng lớn hơn chứa chúng - sóng (1). Còn các sóng (2), (4) ngược lại xu hướng sóng (1)nên chỉ phân được thành 3 sóng nhỏ. Có một nguyên tắc cần lưu ý là khi thị trường đang trong quá trình hình thành 5 sóng thì sẽ không xảy ra bất kì sự điều chỉnh nào đối với xu thế hiện tại. Kênh: Kênh giao động của sóng cũng là một khía cạnh quan trọng của lý thuyết sóng Elliott, Elliott còn dùng khái niệm kênh khi xem xét thị trường ở điểm giá mục tiêu và để xác nhận khi thị trường đã hoàn tất một chu kỳ sóng. Dãy số Fibonacci với vai trò là cơ sở toán học của Lý thuyết Sóng Elliott. Mô hình sóng thể hiện rất rõ việc có thể phân chia một sóng thành các sóng ở mức nhỏ hơn. Số lượng các sóng lớn và các sóng nhỏ bộ phận được tính toán dựa trên những con số 1, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, . . không phải ngẫu nhiên mà chúng đều nằm trong dãy số Fibonacci, dãy số này là cơ sở toán học của Nguyên Lý Sóng Ellio Dãy này có các đặc điểm là : Tổng của 2 số liền nhau là số thứ 3 liền sau chúng. Kể từ số thứ 4 của dãy, tỉ lệ giữa hai số liền nhau bất kì sẽ tịnh tiến đến giá trị 0, 618 1/1=1, 1/2=0. 5, 2/3=0. 67, 3/5=0. 6, 5/8=0, 625, 8/13=0. 65, Tỉ lệ hoàn lại Fibonacci Tỉ lệ này dùng để xác định các mức giá mục tiêu với các sóng kéo và sóng điều chỉnh, 8 ứng dụng của dãy Fibonacci ở trên cũng được áp dụng cho mục đích này. Mức hoàn lại thường được dùng nhiều nhất là 61,8% (làm tròn đến 62%), 38% và 50%. Nếu xu thế thị trường còn đang mạnh thì mức hoàn lại thấp nhất thường là 38%, còn với thị trường đã yếu thì mức hoàn lại tối đa là 62%. Nhìn chung đa số mức hoàn lại ( đến 2/3 tổng số) là 50%. Thời điểm mục tiêu với Fibonacci Việc áp dụng nguyên tắc của Fibonacci trong tính toán thời điểm là có thể, chỉ có điều việc này tương đối phức tạp. Nói chung người ta thuờng xác định một điểm mốc mà sau điểm đó người ta kỳ vọng sẽ xuất hiện những đỉnh hay đáy quan trọng của thị trường, từ điểm mốc đó xác định những điểm trong tương lai có quan hệ với nó theo qui luật của dãy Fibonacci. Kết hợp cả ba khía cạnh của Lý thuyết Sóng. 12
  13. Tình huống lý tưởng nhất khi cả ba yếu tố mô hình sóng, kết quả phân tích tỉ lệ và ước lượng thời điểm mục tiêu đều cùng chỉ ra một dự kiến về tình hình thị trường. Ví dụ: nghiên cứu cho thấy sóng thứ 5 đã hoàn thiện, chiều cao của sóng 5 đạt bằng 1,618 chiều cao tính từ đáy sóng 1 đến đỉnh sóng 3 và thời gian từ khi xuất hiện 1 đáy trước đó(trong xu thế hiện tại của thị trường) cho đến nay đã được 13 tuần và kể từ đỉnh gần nhất trong quá khứ đến nay là 34 tuần. Thậm chí giả sử rằng sóng 5 đã diễn ra trong 21 ngày. Với tất cả các con số đều nằm trong dãy Fibonacci thì mọi khả năng đều chỉ ra rằng thị trường sắp xuất hiện một đỉnh mới. Lý thuyết Sóng từ khi mới được tìm ra thì bản chất của nó là áp dụng cho các chỉ số bình quân của toàn thị trường chứng khoán. Nó sẽ không thực sự là một công cụ tốt với thị trường của từng cổ phiếu riêng lẻ. Như thế với thị trường của những nhóm cổ phiếu nhỏ thì Lý thuyết này sẽ không phát huy hiệu quả cao bởi một trong những nền móng cơ bản của Lý thuyết này đó là dựa trên cơ sở tâm lý của số lượng lớn người tham gia vào thị trường. Câu 7: Trình bày những khó khăn trở ngại trong phân tích kỹ thuật. Nhận xét về hoạt động PTKT ở Việt Nam Bài làm: * Khó khăn trở ngại trong phân tích kỹ thuật Bộ số liệu phân tích là một khó khăn đối với nhà phân tích kỹ thuật, nếu như bộ số liệu không chính xác không liền mạch thì sẽ dẫn đến kết quả sai. Dự đoán trong phân tích cơ bản đối lập với phân tích kỹ thuật: bởi lẽ những nhà phân tích kỹ thuật luôn vận động theo nhịp thị trường bằng cách đoán nhận xu thế của nó, trong khi những nhà phân tích cơ bản lại chịu ảnh hưởng từ những biến động của thị trường. Những nhà đầu tư luôn phải đối mặt với khó khăn trong phân tích và chọn thời điểm đầu tư, đối với thị trường quyền chọn thì việc xác định thời điểm đầu tư là yêu cầu hàng đầu, chiến lược mua và nắm giữ không thể áp dụng để đầu tư kiếm lời trên thị trường quyền chọn. Yếu tố thời gian là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến phân tích kỹ thuật trong thực những yếu tố ngắt quãng của thời gian có thể gây ra những sai số. Những kết quả của quá khứ chỉ có thể phản ánh được một phần xu thế thị trường trong tương lai. Những khó khăn trong việc ứng dụng nguyên lý toán học là rất khó khăn, đôi khi thực hiện làm trơn bộ số liệu phù hợp với nguyên lý toán nhưng lại vi phạm nguyên lý kinh tế Việc áp dụng PTKT vào thực tiễn cũng bộc lộ nhiều khó khăn do: Phân tích kỹ thuật có quá nhiều giả định Phân tích kỹ thuật đối lập với nguyên lý bước đi ngẫu nhiên và thị trường hiệu quả Phân tích kỹ thuật luôn có một đỗ trễ nhất định do sử dụng bộ số liệu của quá khứ 13
  14. Lý thuyết Dow không phải lúc nào cũng đúng, lý thuyết này thường làm cho ĐT phải băn khoăn. Lý thuyết Dow cũng không giúp gì cho nhà đầu tư theo những biến động trung gian * Nhận xét về hoạt động ptkt ở VN Trong thời gian qua, ptkt được các nhà đầu tư ứng dụng nhiều hơn tại Việt Nam và có triển vọng sẽ phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới. Các chỉ số kỹ thuật như A/D, MARC , đã được sử dụng để mô tả và dự đoán biến động của các chỉ số vnindex và chứng khoán giao dịch trên sàn. Do tính chất tương đối dễ học vì chỉ cần học sử dụng các phần mềm nên nhà đầu tư VN ngày càng ưa chuộng sử dụng p2 này để đưa ra các qđ mua và bán, giao dịch trên thị trường. Tuy nhiên có thể thấy thị trường chứng khoán VN còn non trẻ và việc ứng dùng ptkt gặp ko ít các khó khăn. Thứ nhất Giá trong nhiều trường hợp chưa phản ánh hết các hành động của thị trường. Giá chứng khoán tại mỗi thời điểm phản ánh một tập hợp tâm lý của rất nhiều các nhà đầu tư trên thị trường. Các nhà đầu tư này bao gồm cả những nhà dự đoán thị trường giỏi nhất cho đến công chúng theo sau. Tâm lý của họ thể hiện sự kỳ vọng hay thất vọng về chứng khoán với các xu hướng và tin tức trên thị trường. Các nhà đầu tư có chung tâm lý sẽ có cùng hành động giống nhau. Các hành động bán hay mua tại một thời điểm, với quy mô khác nhau của tất cả các nhà đầu tư thể hiện thành cung và cầu.Sau khi phân nhóm, do tính chất ưu tiên giá cao đối với cầu và ưu tiên giá thấp đối với cung, các nhà đầu tư phải cạnh tranh với chính những người có cùng hành động giống mình để có thể thực hiện thành công việc Mua hoặc Bán chứng khoán. Do giả định giá phản ánh tất cả các hành động của thị trường, các nhà phân tích sử dụng phân tích kỹ thuật chỉ cần tập trung vào giá-khối lượng, thông qua nhiều công cụ đo lường khác nhau, là có thể thấy được các trạng thái tâm lý của thị trường. Chúng ta đều biết các chỉ số trong PTKT (MACD, RSI, MFI, OBV, A/D, ) được xây dựng trên cơ sở các mối tương quan của giá hoặc khối lượng. PTKT nhìn nhận cung và cầu cân bằng tại mức giá giao dịch và khối lượng giao dịch. Tại thị trường Việt Nam, trong nhiều trường hợp đã không phản ánh đầy đủ mối quan hệ giữa cung và cầu: Khi cầu hoặc cung áp đảo, áp lực tăng giá hoặc giảm giá là rất lớn, biên độ giao động hẹp làm cho các nhà đầu tư không thể tăng giá mua hoặc giảm giá bán nhiều hơn các mức giá trần hoặc giá sàn. Điều này làm cho sức mạnh trong tâm lý của các nhà đầu tư bị kìm nén, chúng gây nên tình trạng khan hiếm giả tạo khi mức giá chào mua/chào bán không đáp ứng được kỳ vọng của những nhà đầu tư có kỳ vọng ngược lại, họ không giao dịch. Với các đặc trưng này của thị trường, trong các trường hợp tranh mua/tranh bán, giá chậm trễ trong việc phản ánh mối quan hệ cung-cầu. Thị trường cần trải qua một vài ngày giao dịch để giá có thể phản ánh đầy đủ các hành động của thị trường. Giả định tiền đề của PTKT có lẽ cần phải điều chỉnh lại để thích ứng với TTCK Việt Nam: Coi sự dịch chuyển giá là 14
  15. một quá trình và không nên nhấn mạnh tính thời điểm, đặc biệt là khi thị trường tranh mua hoặc tranh bán. Khi thị trường tranh mua/tranh bán, dư cầu/dư cung với khối lượng lớn và áp đảo, một số nhà đầu tư đặt các lệnh mua/bán nhưng không có ý định thực hiện các lệnh này nếu nó được thị trường đáp ứng. Đây chính là cầu ảo/cung cảo. Mục đích của chúng là nhằm gây tâm lý hoài nghi cho các nhà đầu tư khác. Chúng rất khó có thể tách biệt rõ ràng với cầu thực và cung thực (nếu sự phân biệt là cần thiết cho việc phân tích). Vấn đề này có lẽ chỉ xuất hiện ở các thị trường như Việt Nam Thứ hai Ảnh hưởng từ sự chậm trễ của giá . Các chỉ số kỹ thuật vốn được xây dựng như là các công cụ hỗ trợ cho việc đánh giá các xu hướng và mức độ biến động giá. Ở TTCK Việt Nam, khi giá chậm trễ trong việc phản ánh các hành động của thị trường, các chỉ số kỹ thuật cũng bị ảnh hưởng theo. Ảnh hưởng này thể hiện ở 2 vấn đề sau:  Vấn đề khối lượng giao dịch Theo các tài liệu về PTKT, KLGD tăng sẽ củng cố cho xu hướng hiện tại. Giá tăng mạnh hoặc giảm mạnh, do các nhà đầu tư hoạt động mạnh hơn (mua hoặc bán nhiều hơn), kéo theo KLGD tăng lên. Ở Việt Nam, khi thị trường tăng mạnh hoặc giảm mạnh lại thường là thời điểm tranh mua hoặc tranh bán, KLGD có xu hướng thu hẹp. Sau đó, khi KLGD tăng mạnh thường là thời điểm phân phối (xả hàng hoặc gom hàng), chúng đặt ra nghi vấn cho sự tồn tại của xu hướng trước đó , chưa cho thấy ý nghĩa của sự củng cố xu hướng. Hậu quả của tình trạng này là các chỉ số kỹ thuật xây dựng dựa trên KLGD như On Balance Volume, Money Flow Index, A/D line, bị ảnh hưởng.  Sự ảnh hưởng của tính chậm trễ đến các chỉ số được xây dựng trên cơ sở của giá Trên thực tế, các chỉ số PTKT được xây dựng dựa trên mối tương quan thuần tuý của giá (không có sự kết hợp với KLGD) là rất nhiều: MACD, Momentum, MA, Stochatic Oscillator, Và sự chậm trễ phản ánh hành động của thị trường của giá tại TTCK VN ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của các ptkt trên. Như vậy, có thể thấy tính chất riêng có của TTCK Việt Nam: Thị trường có biên độ hẹp. Chúng gây ảnh hưởng lớn đến khả năng phản ánh các hành động thị trường của giá chứng khoán. Đặc biệt, trong các trường hợp tranh mua/tranh bán mạnh mẽ, giá cần trải qua nhiều phiên tăng hoặc giảm mạnh để giúp cho cung và cầu cân bằng. Khi giá chậm trễ, các chỉ số PTKT cũng bị ảnh hưởng. Nhà đầu tư nào sử dụng nhiều các chỉ số này mà chưa quan tâm đúng mức đến các xu hướng vận động, trong nhiều trường hợp họ sẽ không thấy hết những nguy cơ tiềm ẩn của thị trường. Thứ ba Sự chậm trễ quá mức của các chỉ số kỹ thuật. Các chỉ số kỹ thuật vốn được xây dựng như là các công cụ hỗ trợ cho chiến lược giao dịch của nhà đầu tư. Chúng không phải là chủ đề chính của phân tích kỹ thuật. Đặc biệt là các chỉ số kỹ thuật thường chậm hơn sự biến động 15
  16. giá. Ở thị trường chứng khoán Việt Nam, khi giá không phản ánh hết các hành động của thị trường, các chỉ số bị ảnh hưởng và còn tỏ ra chậm chạp hơn. Khi áp dụng ở Việt Nam các tín hiệu bán (sell signal), tín hiệu mua (buy signal) mà nhiều nhà giao dịch thường thực hiện theo phân tích kỹ thuật, trong một số trường hợp, đã là quá trễ để thực hiện mua/bán. Thị trường tranh mua hoặc tranh bán và không còn cơ hội cho nhà đầu tư theo sau. Thứ tư Sự áp dụng máy móc của người sử dụng ở Việt Nam. Do tính chất phân tích sự kỳ vọng/thất vọng của nhà đầu tư trong ngắn hạn, phân tích kỹ thuật đòi hỏi phải hiểu rõ và áp dụng hiệu quả các quy luật tâm lý, sử dụng nhiều công cụ để đo lường tâm lý và nhạy bén với thông tin. Việc sử dụng phân tích kỹ thuật là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi một quá trình nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm. Thế nhưng, với nhiều người Việt Nam, việc sử dụng phân tích kỹ thuật dường như là một câu chuyện hết sức đơn giản: sử dụng một phần mềm chuyên dụng; cập nhật dữ liệu giá và khối lượng giao dịch; vẽ các chỉ số kỹ thuật; quan sát các tín hiệu mua (buy signal), tín hiệu bán (sell signal). Nghi ngờ khi giá chứng khoán đi vào vùng mua quá mức (overbought), bán quá mức (oversold) Câu 8: Trình bày khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phân tích kỹ thuật. Phân tích các điều kiện ứng dụng phân tích kỹ thuật trên TTCK Việt Nam Bài làm: * Khái niệm: Phân tích kỹ thuật là việc dự báo vận động của giá chứng khoán trong tương lai dựa vào giá quá khứ, không đưa ra dự báo tuyệt đối * Mục đích: Được áp dụng như một khâu trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư hoặc giao dịch trên TTCK. * Ý nghĩa: Phân tích kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng trong việc trợ giúp NĐT nếu họ muốn: + Xác định thời điểm bắt đầu của xu hướng giá ( lên hay xuống) của 1 chứng khoán trên thị trường + Xác định giáo dịch tùy theo xu hướng giá đó + Xác định thời điểm kết thúc một xu hướng giá ( lên hay xuống) của 1 chứng khoán trên thị trường + Thoát khỏi thị trường hoặc tiến hành đổi chiều giao dịch ( từ mua sang bán hoặc ngược lại) * Phân tích các điều kiện ứng dụng phân tích kỹ thuật trên TTCK Việt Nam Ưu điểm: 16
  17.  PTKT có điều kiện phát triển trên TTCK Việt Nam do tốt cho đầu tư dài hạn thông qua phân tích xu thế nền kinh tế  lựa chọn công ty tốt  hiểu được các yếu tố chính tác động đến công ty/ ngành  là một phương pháp tương đối dễ hiểu và dễ dùng. NĐT có thể chỉ cần biết đọc các kiểu mẫu đồ thị trực quan và một số chỉ số khác. Điểm yếu:  Mất nhiều thời gian  Kỹ thuật định giá phụ thuộc nhóm ngành / công ty  Tính chủ quan ( do các giả định). Giá chưa thực sự điều chỉnh thị trường  Các thông tin dùng để phân tích không đầy đủ và không chính xác ( số liệu từ BCTC)  Tại VN, PTKT đang trở nên phổ biến song chưa thực sự hiệu quả do thị trường chứng khoán VN là thị trường mới, số liệu thời gian ít, quy mô nhỏ.  Tâm lý NĐT mang tính chất bầy đàn đặc trưng do trình độ NĐT ko đồng đều và chất lượng. Áp dụng PTKT 1 cách máy móc do khi sử dụng không hiểu rõ và áp dụng hiệu quả các quy luật tâm lý, sử dụng nhiều công cụ để đo lường tâm lý và nhạy bén về thông tin dẫn đến các quyết định đầu tư chủ quan và sai lầm. Tóm lại, thị trường VN đang thay đổi nhanh chóng vì vậy chỉ nên nhìn nhận phân tích kỹ thuật như nhiều phương pháp phân tích khác, sẽ bổ trợ lẫn nhau và nên hiểu rằng, PTKT có thể chỉ làm quyết định đầu tư trở nên dễ dàng hơn, không phải luôn luôn tốt hơn. * Liên hệ Việt Nam: Với một Thị Trường Chứng Khoán biến động và lình xình như năm 2010, câu hỏi: “Dùng phương pháp phân tích nào?” để chọn lọc cổ phiếu, vạch ra chiến lược đầu tư khả thi, dường nh khó giải. Vậy phương pháp cho năm 2011 sẽ là gì? Bài viết xin đưa ra một số điểm tích cực và hạn chế của các phương pháp phân tích khi áp dụng tại Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam. Phân tích kỹ thuật (PTKT) Nền tảng của PTKT dựa trên số liệu trong quá khứ theo ba giả định cơ sở: biến động thị trường phản ánh tất cả, giá dịch chuyển theo xu thế chung và lịch sử lặp lại. Các CTCK chủ yếu dựa trên phương pháp này để đưa ra những ngưỡng hỗ trợ/kháng cự và kịch bản cho chỉ số VNIndex trong bản tin thị trường hàng ngày. Yếu tố khác biệt rất cơ bản, có thể coi là điểm “chống chỉ định”, khi áp dụng PTKT với Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam là biên độ giá trong phiên, khác hẳn với Thị Trường 17
  18. Chứng Khoán khác không áp dụng biên độ giá. Do vậy, dưới sự thao túng giá, hiện tượng tăng trần hết biên độ +/-5% trong nhiều phiên không còn quá xa lạ với nhà đầu tư. Với những cổ phiếu bị thao túng giá, PTKT gần như không có giá trị do đồ thị giá được điều khiển một cách có chủ đích, ép lên, xuống trái với lý thuyết kinh điển trong PTKT. Ví dụ: khi đường giá vượt khỏi dải Bollinger Band (BB), thông thường giá sẽ bị điều chỉnh vào bên trong dải BB này. Nhưng những cổ phiếu bị làm giá “siêu hạng” như aaa hay DHT, quy tắc này hoàn toàn bị phá vỡ bởi yếu tố “bàn tay vô hình”. Ngoài ra, mô hình kỹ thuật kinh điển (pattern) (theo giả thuyết lịch sử lặp lại): vai đầu vai, hai đỉnh kép (double top), hai đáy kép (double bottom), rất khó có thể áp dụng hiệu quả tại thị trường Việt Nam. Lý do vẫn là biên độ giá trong phiên, cộng thêm yếu tố tâm lý trong việc ra quyết định của nhà đầu tư. Khi thị trường tăng không ai muốn bán, và ngược lại khi thị trường lao dốc thì đua nhau xả hàng. Chính vì thế, nếu nhận biết đồ thị giá nhiều khả năng rơi vào những trường hợp như thế, nhà đầu tư chỉ khoanh tay đứng nhìn, không thể làm gì khác hơn vì cổ phiếu có lượng dư mua trần hoặc dư bán sàn rất lớn. Phân tích kỹ thuật được áp dụng rất phổ biến trong đầu tư chứng khoán, nhưng nhà đầu tư nên lưu ý hai điểm hạn chế trên để tránh áp dụng một cách máy móc cho các trường hợp cổ phiếu bị thao túng giá. Phân tích tâm lý So với hai phương pháp trên, phân tích tâm lý chi phối khá nhiều trong quyết định đầu tư và ảnh hưởng cả phân tích cơ bản và kỹ thuật. Ví dụ thứ nhất, nhà đầu tư tự đặt cho mình cái “bẫy kỳ vọng” dựa trên số liệu tài chính “đẹp” của doanh nghiệp (phân tích cơ bản) và mẫu hình kỹ thuật chuẩn mực. Đơn cử với mức thu nhập trên cổ phần (EPS) là 7.000đ/cp, cổ phiếu ABC phải đạt mức giá kỳ vọng 7x, đồng thời, diễn biến giá của ABC rơi vào mô hình “cốc và tay cầm” nên kiểu gì cũng sẽ tăng giá mạnh. Tuy nhiên, thị trường không đánh giá cao ABC do tính chất ngành nghề nhiều rủi ro và tính thanh khoản thấp nên ABC chỉ đạt mức giá cao nhất 4x. Nhà đầu tư vẫn tiếp tục nắm giữ, chờ đợi giá lên 7x, ngay cả khi toàn thị trường sụt giảm mạnh. Nhận định mang tính chủ quan, lệch pha với diễn biến thị trường gây ra tổn thất tài sản lớn, trở nên rất phổ biến tại thị trường Việt Nam. Xét ví dụ thứ hai, tâm lý bầy đàn luôn hiện hữu và thể hiện ở sự biến động thái quá của thị trường chứng khoán non trẻ. Trong đợt tăng giá đầu tháng 12/2010, không thể lý giải được tại sao Thị Trường Chứng Khoán biểu hiện tích cực trong bối cảnh bất lợi của kinh tế vĩ mô (lãi suất tăng, tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động mạnh)! Xuất phát điểm từ một vài “đổm lửa nhỏ” mang tính đầu cơ mua gom hàng giá rẻ, cộng thêm việc chốt NAV (giá trị tài sản ròng) của các quỹ đầu tư, thị 18
  19. trường bùng phát thành một cơn lốc màu xanh khi lượng tiền đổ vào đạt mức kỷ lục trong phiên ngày 14/12 với 5.000 tỷ đồng. Phân tích tâm lý đầu tư có những ưu điểm nhất định, bổ sung cho hai phương pháp truyền thống Trái với những lo ngại về nguồn vốn đầu tư hạn hẹp, người ta thấy một bài học tâm lý quen thuộc “không bán khi giá tăng và quyết tâm bán khi giá giảm!” trở thành yếu tố bản lề trong kịch bản tăng giá của Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam. Một ví dụ khác cho thấy tâm lý nhà đầu tư luôn nhạy cảm trước mọi phán đoán hay dự báo. Khi hầu hết các CTCK nhận định thị trường có thể lên 650 điểm, thực tế, thị trường chỉ có thể đạt đỉnh ở 600 điểm do lo ngại việc đồng loạt hiện thực hóa lợi nhuận. Ở khía cạnh đối lập, nhà đầu tư luôn “đi tắt đón đầu” thị trường nếu phải xử lý những thông tin dự báo chỉ số sẽ xuống mức 170 điểm. Khi thị trường giảm đến 200 điểm, hoạt động mua vào đồng loạt giúp chỉ số không thể giảm sâu tới mức kỳ vọng mà các CTCK nhận định. Yếu tố tâm lý luôn tác động và can thiệp sâu vào thị trường hơn là những gì chúng ta tưởng tượng ! Nhìn nhận một cách tổng quan, phân tích tâm lý đầu tư tỏ ra có những ưu điểm nhất định, bổ sung cho hai phương pháp truyền thống (cơ bản và kỹ thuật). Bản thân hai phương pháp phân tích cơ bản và kỹ thuật đều chứa đựng hành động hay phản xạ của nhà đầu tư để xử lý thông tin đó. Để đầu tư thành công, nhà đầu tư phải kết hợp nhiều yếu tố, lựa chọn phương pháp đầu tư phù hợp, đặc biệt nghiên cứu yếu tố tâm lý đầu tư tại Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam. Tại sao phải sử dụng phân tích kỹ thuật Nhiều người sử dụng phân tích kỹ thuật đơn giản chỉ vì trông họ có vẻ ”pro” hơn so với những nhà đầu tư khác với chiếc laptop và đồ thị chi chít các chỉ báo. Tuy nhiên, chúng tôi không nghĩ đó là lý do chính để chúng ta bỏ công sức nghiên cứu loại hình phân tích này. Sau đây là một số lý do mà chúng tôi cho rằng quan trọng. Thứ nhất, không phải lúc nào bạn cũng có thể trả lời câu hỏi ”Tại sao?” bằng các yếu tố cơ bản. Cơn ác mộng cổ phiếu ngân hàng có thể coi là một ví dụ điển hình. Tích luỹ, đi ngang và xuống! Để lý giải cho điều này xin kể cho các bạn nghe một mẫu chuyện sau. Khi chúng tôi đi trao đổi ở một quỹ đầu tư thuộc vào loại lâu đời nhất và lớn nhất ở Việt Nam, một chuyên viên phân tích nói với tôi rằng một cổ phiếu tốt đã tăng giá quá cao giống như một phụ nữ đang ở độ tuổi 35 – 40: vẫn còn đẹp, còn quyến rũ nhưng đã hết kỳ vọng. Đàn ông có xu hướng ưa chuộng những cô gái 18 – 20 hơn vì tiềm năng tăng trưởng vẫn còn rất lớn! Chúng tôi miễn bình luận về nhận xét mang tính hài hước này. Tuy nhiên chúng ta có thể học hỏi 19
  20. vài điều tư nó. Rõ ràng, một cổ phiếu tốt chưa chắc đã đem lại một khoản đầu tư tốt. Yếu tố kỳ vọng hầu như rất kho đo lường nếu như bạn chỉ sử dụng phân tích cơ bản. Nhưng khi bạn sử dụng phân tích kỹ thuật thì có thể giải quyết được khá triệt để vấn đề này. Khi một nhà đầu tư mua cổ phiếu, anh ta đã phản ánh kỳ vọng của mình vào giá. Phân tích kỹ thuật đi phân tích giá và tìm hiểu xu hướng biến động của chúng. Vì vậy, một cách gián tiếp cũng đã phân tích xu hướng biến động của kỳ vọng rồi. Thứ hai, biến động giá không hoàn toàn ngẫu nhiên. Chúng biến động có quy luật và phân tích kỹ thuật nghiên cứu những quy luật này. Điều này bắt nguồn từ một nhận định rằng giá trị nội tại - vốn là sản phẩm của các mô hình định giá – không hề bất biến. Bạn thử nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra khi chính phủ Mỹ thiết lập một mức thuế mới cao hơn đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Rõ ràng là dòng tiền tương lai của các doang nghiệp này sẽ bị ảnh hưởng và đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp. Như vậy thì cái gọi là giá trị nội tại của những doanh nghiệp này thực sự thay đổi lớn bởi vì giá trị doanh nghiệp phụ thuộc vào hiện giá của các dòng thu nhập trong tương lai. Vì vậy, việc nghiên cứu xu hướng là điều đáng làm và bạn không thể vin vào khái niệm ”giá trị nội tại” hay ”đầu tư dài hạn” để bào chữa cho những sai lầm của mình. Trong trường hợp có những thông tin mới xuất hiện rõ ràng bạn phải định giá lại các cổ phiếu của mình khi mà thu nhập tương lai thay đổi. Nếu bạn đã từng xem bộ phim Cẩm Y Vệ do Chung Tử Đơn đóng vai chính, hẳn chúng ta còn nhớ một câu nói khá ấn tượng của nhân vật Thanh Long: ”Cẩm Y Vệ chúng tôi không cần biết lý do, chỉ cần biết thời gian, địa điểm, đối tượng”. Nếu bạn là một tay sát thủ (Cẩm Y Vệ) trên thị trường chứng khoán hẳn bạn phải nhờ đến phân tích kỹ thuật để trả lời cho yếu tố thời gian (thời điểm ra vào thị trường) và địa điểm (mức giá). Lý do thứ ba để bạn bắt đầu nghiên cứu phân tích kỹ thuật là: phân tích cơ bản sẽ giúp bạn xác định những cổ phiếu tốt còn phân tích kỹ thuật sẽ giúp bạn xác định thời điểm và mức giá tốt. Đương nhiên, bạn vẫn có thể tham khảo kết quả định giá từ các mô hình DCF, PE hay RE. Và chúng tôi đánh giá cao những trường hợp các ngưỡng chống đỡ mạnh của phân tích kỹ thuật lại trùng hoặc thấp hơn một chút so với kết quả định giá của phân tích cơ bản. Khi đó bạn có thể lựa chọn giải pháp mua mạnh tay. Có một vị đàn anh đã từng nói với tôi rằng phân tích kỹ thuật hay phân tích cơ bản khi đã đạt đến đỉnh cao sẽ gần giống nhau. Tôi chưa nghĩ đến điều đó. Tuy nhiên, có một thực tế không thể phủ nhận là ngày càng có nhiều nhà đầu tư tìm cách kết hợp hai trường phái này theo nhiều cách khác nhau. Giống như John Harackiewicz (Chuyên viên phân tích kỹ thuật cấp cao của SBS và Cố vấn Phân tích kỹ thuật cho Saigon Asset Management) đã từng phát biểu tại hội thảo “Ứng dụng phân tích kỹ thuật trong quản lý danh mục đầu tư”, ông nghĩ rằng trong tương lai một kỹ thuật đầu tư hiệu quả là sự kết hợp 50/50 giữa phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. 20
  21. 1.3. Tầm ứng dụng của phân tích kỹ thuật đến đâu Chúng tôi không hề có ý muốn phóng đại tầm ứng dụng của phân tích kỹ thuật nhằm mục đích PR. Nhưng thực sự là ngày nay đang có rất nhiều nhà đầu tư ở nhiều loại thị trường khác nhau trên thế giới sử dụng loại hình phân tích này. Sự hấp dẫn của nó thực sự rất mãnh liệt. Một số nhà đầu tư nghĩ rằng phân tích kỹ thuật chỉ có thể áp dụng cho thị trường ngoại hối hoặc vàng – nơi có tỷ lệ người sử dụng phân tích kỹ thuật khá cao. Nhận định này dựa trên lập luận rằng cái gì càng được nhiều người sử dụng thì nó càng chính xác. Liệu suy nghĩ này có đúng? Chúng tôi không nghĩ vậy. Giả sử tất cả nhà đầu tư trên thị trường đều biết rằng vùng 430 – 450 điểm là một vùng chống đỡ mạnh thì liệu họ có chờ đợi đến khi VN-Index xuống đến mức đó để mua. Điều tương tự cũng xảy ra trên thị trường vàng và ngoại hối. Ai cũng muốn mình đi trước kẻ khác và nếu như tất cả mọi người đều biết cùng một điểm mua có thể điểm đó sẽ bắt đầu bị ”trừ hao” dần. Rõ ràng với lập luận như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng cho tất cả các loại thị trường từ hàng hoá, cổ phiếu, chỉ số, vàng cho đến trái phiếu chính phủ Mỹ. Dưới đây là một đồ thị của trái phiếu chính phủ Mỹ và bạn hoàn toàn có thể áp dụng những phân tích kỹ thuật để tìm kiếm xu hướng của nó. Nhiều triển vọng, nhưng cần tránh lạm dụng Từ thực tế phát triển các thị trường, chúng ta sẽ càng thấy cơ hội để phân tích kỹ thuật phát triển rộng rãi ở Việt Nam trong thời gian tới là khá lớn. Nguyên nhân vì đây là phương pháp phân tích khá dễ học và dễ dùng. Nhà đầu tư không cần phải mất nhiều năm học những chỉ số phân tích phức tạp, không cần học cách “đọc” các thông tin tài chính từ các báo cáo tài chính, không cần hiểu về lý thuyết danh mục đầu tư, không cần biết về chiết khấu dòng tiền Những gì họ học là các kiểu mẫu hình đồ thị trực quan, dễ nhớ, những chỉ số có phần mềm tính sẵn, họ chỉ cần nhớ cách sử dụng khá đơn giản. Khi có nhiều người dùng phân tích kỹ thuật sẽ tạo thành một quá trình tạm gọi là “tự mình khen mình”, nghĩa là khi nhiều người biết phân tích kỹ thuật, khi mẫu hình đồ thị tạo ra một tín hiệu giá tăng, và ai học phân tích kỹ thuật cũng biết được điều này, ai cũng đổ đi mua, cuối cùng giá tăng thật. Thế là mọi người lại bảo nhau “phân tích kỹ thuật” đúng thật! Đây là một thực tế của nhiều thị trường tài chính lớn trên thế giới khi chính phân tích kỹ thuật được xem là nhân tố chính dẫn dắt giá chạy trong ngắn hạn (đặc biệt là thị trường ngoại hối, điều này được nhiều nghiên cứu thừa nhận). Dù điều này là tốt hay xấu, người ta lại cũng đổ xô đi học phân tích kỹ thuật, vì nó trở thành một nhân tố ảnh hưởng thị trường. Thế là nhiều người biết phân tích kỹ thuật thì lại càng nhiều người hơn đi học phân tích kỹ thuật. 21
  22. Ngay cả những người không tin vào nó cũng sẽ đi học, vì “ai cũng dùng thì mình cũng nên biết ”. Như vậy, nhìn về khía cạnh phát triển, xem ra phân tích kỹ thuật có nhiều cơ hội để “phát huy” ở Việt Nam, một phần do nó thật sự hữu ích, mặt khác, do nó dễ học. Nhưng, nếu lạm dụng phân tích kỹ thuật, cho rằng nó tốt hơn các kỹ thuật khác, có thể giúp dự đoán trước được thị trường thì rất nguy hiểm. Thật ra vì thị trường thường xuyên thay đổi các điều kiện về giao dịch, về kỹ thuật, về công cụ mới, những mẫu hình quá khứ sẽ bắt đầu sai lệch. Nếu nhà đầu tư không nhận ra điều này, họ sẽ dễ thất bại. Ngay bản thân các tài liệu về phân tích kỹ thuật mới hiện nay trên thế giới đang có những điều chỉnh đáng kể so với các phương pháp truyền thống, vì sự xuất hiện của nhiều công cụ như option, futures, các kỹ thuật giao dịch mới của các quỹ đầu tư đang tạo ra các dạng nhiễu và lực thị trường mới. Thị trường Việt Nam đang thay đổi nhanh chóng, và vì vậy, chỉ nên nhìn nhận phân tích kỹ thuật như nhiều phương pháp phân tích khác, sẽ bổ trợ lẫn nhau, và nên hiểu rằng, phân tích kỹ thuật có thể chỉ làm cho quyết định đầu tư trở nên dễ dàng hơn, không phải luôn luôn tốt hơn. Câu 9: Phân tích các giả định trong phân tích kỹ thuật Bài làm: Phân tích kỹ thuật là việc nghiên cứu giá, khối lượng và mối liên hệ giữa chúng nhằm đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả. Phân tích kỹ thuật nghiên cứu những biến động của thị trường, chủ yếu thông qua việc sử dụng các đồ thị nhằm mục đích dự đoán các xu thế biến động giá trong tương lai, điều này được dựa trên 3 giả định làm cơ sở cho việc tiếp cận phân tích * Biến động thị trường phản ánh tất cả (một phần của Giả thuyết Thị trường hiệu quả) Đây là một giả thiết nền tảng của phân tích kỹ thuật. Giả thiết này cho rằng bất cứ yếu tố nào có khả năng ảnh hưởng đến giá như tâm lý, chính trị hay các yếu tố tài chính của doanh nghiệp, tổ chức đều được phản ánh trong sự biến động giá chứng khoán trên thị trường. Điều này có nghĩa là việc nghiên cứu biến động của giá là yếu tố chủ yếu để đưa ra những nhận định về xu hướng tương lai, từ đó đưa ra những quyết định đầu tư Với giả thiết này, giá phản ánh những biến động trong cung, cầu, cụ thể là khi giá tăng vì dù bất cứ lý do gì thì cầu phải vượt cung và thị trường tăng giá, và ngược lại. * Giá vận động theo xu thế Nếu như giả thiết trên là nền tảng cho mọi phân tích thì giả thiết giá vận động theo xu thế là giả định quan trọng nhất của Phân tích kỹ thuật. Giả định này dựa trên cơ sở sự vận động của giá không phải là một biến ngẫu nhiên theo thời gian mà sự biến động này tuân theo 22
  23. những quy luật nhất định. Giả định này dẫn tới hệ quả “ một xu thế giá đang vận động sẽ tiếp tục theo xu thế của nó và ít khi có đảo chiều”. Điều này có nghĩa là những phân tích và nghiên cứu nhằm tiếp cận các xu thế đều nhằm để đi theo những xu thế hiện tại đến khi có dấu hiệu đảo chiều. * Lịch sử sẽ tự lặp lại Giả định này nghĩa là “tương lai chỉ là sự lặp lại của quá khứ”, việc nghiên cứu quá khứ nhằm đưa ra những dự đoán trong tương lai. Hầu hết các nội dung của phân tích kỹ thuật và việc nghiên cứu biến động thị trường đều phải nhằm vào nghiên cứu tâm lý con người, ví dụ như những mô hình giá được xác định và chứng minh từ hàng trăm năm nay. Việc áp dụng những mô hình này đã phát huy hiệu quả và giả định rằng sẽ vẫn tiếp tục có hiệu quả trong tương lai bởi chúng dựa trên phân tích nghiên cứu tâm lý con người. Câu 10: Trình bày các công cụ sử dụng trong phương pháp kỹ thuật, các hình mẫu kỹ thuật, các chỉ dẫn kỹ thuật và các chỉ số động lượng, phân tích khối lượng giao dịch Bài làm: * Các công cụ sử sụng trong phương pháp kỹ thuật: các loại biểu đồ Biểu đồ dạng đường thẳng (line chart): Được sử dụng trên thị trường chứng khoán và được dùng một cách phổ biến nhất và được sử dụng trong thời gian lâu nhất. Hiện nay do KHKT phát triển, diễn biến của thị trường phức tạp nên loại biểu đồ này ít được sử dụng. Thường được sử dụng: thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động, khớp lệnh theo phương pháp định kỳ theo từng phiên hoặc nhiều lần trong một phiên (mức độ chưa thể bằng khớp lệnh liên tục) Ưu điểm: dễ sử dụng do đã được sử dụng rộng rãi từ trước trên các thị trường ck Nhược điểm: không đáp ứng được những diễn biến phức tạp và liên tục trên thị trường hiện nay, mức độ giao động trong thời gian ngắn và độ lệch khá cao, hiệu quả thấp trong phân tích Biểu đồ dạng then chắn (bar chart): Áp dụng:được sử dụng rộng rãi trên các thị trường chứng khoán hiện đại theo hình thức khớp lệnh liên tục Ưu: phán ánh rõ nét sự biến động của giá chứng khoán khi độ giao động của giá chứng khoán trong một phiên giao dịch là lớn (do theo hình thức khớp lệnh liên tục) Biểu đồ dạng ống (candlestick chart): 23
  24. là dạng cải tiến của biểu đồ dạng then chắn, được sử dụng phổ biến trên các thị trường chứng khoán hiện đại, phản ánh rõ nét nhất về sự biến động của giá chứng khoán trên thị trường theo hình thức khớp lệnh liên tục * Các hình mẫu kỹ thuật: Hay còn gọi là các mô hình giá hay hình mẫu giá là các “bức tranh” hay các mô hình biến động nhất định của giá xuất hiện trên biểu đồ giá thị trường Tam giác hướng lên – ascending triangle: Mô hình trung gian mang tính củng cố hay báo hiệu sự tiếp tục xu thế hiện tại của thị trường, đôi khi mang tính đảo ngược. Mô hình này cần ít hơn 3 tháng để hoàn thiện và khi xuất hiện thường kèm theo gia tăng khối lượng giao dịch. Đường kháng cự nằm ngang và đường hỗ trợ hướng lên cho thấy các mức giá cao có xu thế giữ nguyên còn các mức giá thấp nhất có xu thế tăng dần lên nghĩa là người mua có động cơ mạng hơn người bán Breakout sẽ xuất hiện ở khoảng giữa điểm 2/3 và 3/ 4 chiều ngang của mô hình (tính từ điểm bắt đầu mô hình đến điểm cắt nhau của hai đường kháng cự và hỗ trợ)."Breakout" phá vỡ đường kháng cự sẽ chứng tỏ mô hình mang tính củng cố còn nếu phá vỡ đường hỗ trợ sẽ chỉ ra rằng mô hình mang tính đảo chiều Mô hình cốc và chuôi – cup and handle: Mô hình cốc và chuôi xuất hiện khi thị trường đang trong xu thế lên giá và nó củng cố xu thế đó của thị trường. Mô hình này gồm hai phần: phần “cốc”- 1-6 tháng, mô hình chuôi – 1- 4 tuần. Phần cốc hình thành sau một đợt tăng giá, sau khi mô hình cốc hoàn thành một mô hình khung giao dịch sẽ tiếp tục hình thành ở phía bên phải và tạo nên “chuôi” Tính củng cố sẽ được đảm bảo nếu xu thế tăng giá ban đầu kéo dài vài tháng, đáy cốc nếu quá nhọn dễ chuyển tính chất thành mô hình đảo chiều. Mức hoàn lại với thị trường bất ổn, độ sâu của cốc sẽ trong khoảng 1/ 3 đến 1/2 , hoặc 2/3 Mô hình chuôi làm đợt tăng giá ở bên phải cốc ngừng lại và biến động nhỏ trong một khung giao dịch, chiều cao khung thường là 1/3 chiều cao cốc. breakout xuất hiện phá vỡ mức kháng cự và tiếp tục xu thế tăng giá của thị trường. Tam giác hướng xuống – descending triangle: Xuất hiện trong thị trường giảm giá và mang tính củng cố xu thế hiện tại. Thời gian tồn tại của mô hình là 1- 3 tháng, hai đường kháng cự và hỗ trợ có xu hướng hội tụ 24
  25. và khối lượng giao dịch sẽ ít dần đi khi đến gần điểm hội tụ. Mô hình này phản ánh tâm lý người mua: cổ phiếu vượt quá giá trị thực của nó và mức giá hợp lý phải thấp hơn, nếu xuất hiện breakout giá sẽ tiếp tục giảm. Tam giác cân – symmetrical triangle: Hình mẫu trung gian chuyển tiếp của xu thế biến động giá CK, thường cần 1 tháng để hình thành. Đây là một hình mẫu đáng tín cậy để giao dịch nhưng tín hiệu đáng tin cậy để giao dịch là sự xuyên chéo một trong hai đường trendline bởi đường biểu diễn sự biến động giá ck một cách rõ ràng. Mô hình cờ chữ nhật và cờ đuôi nheo – flags and pennants: Là những hình mẫu thể hiện tiếp tục xu thế của thị trường trong ngắn hạn. Thông thường trước khi xảy ra những hình mẫu KT này thì được xác nhận bằng sự tăng hoặc giảm giá mạnh kết hợp với khối lượng giao dịch lớn., nó đánh dấu điểm chính giữa của xu thế biến động giá Hình chữ nhật – rectangle: Là một dạng mô hình tiếp tục xu thế của thị trường, có thể diễn ra trong một vài tuần hoặc vài tháng, giống như một kênh giao dịch cho đến cuối của xu thế biến động giá CK, đôi khi được xem như những khung giao dịch. Hình mẫu này giống với tam giác cân là đều dự báo những đỉnh và đáy của xu thế, tuy nhiên lại khác ở chỗ hình mẫu chỉ hoàn thiện khi xuất hiện breakout Mô hình 2 đáy – double bottom: Hình thành khi giá tạo thành hai điểm đáy liên tiếp trên cùng một đồ thị. Mô hình này chỉ hoàn thiện khi giá tăng vượt qua điểm bắt đầu hình thành đáy thứ hai. Mô hình này là thời kỳ chuyển đổi xu thế giảm giá thành tăng giá, nó mang tính đảo chiều Để nhận diện chính xác mô hình thì đáy thứ hai không xuống vượt quá đáy thứ nhất, khoảng thời gian giữa 2 đáy càng dài thì độ chính xác càng cao Mô hình hai đỉnh – double top: Hình thành khi đường biểu diễn sự biến động giá CK thành hai đỉnh trên đồ thị. Mô hình này chỉ hoàn thiện khi giá CK rơi xuống dưới mức sàn đáy của toàn mô hình, thể hiện sự đảo ngược của xu hướng tăng giá, báo hiệu một thị trường giảm giá 25
  26. Cái nêm hướng xuống – falling wedge: Chỉ báo thị trường tăng giá. Tuy nhiên dấu hiệu tăng giá chỉ được nhận ra cho đến khi có breakout thoát khỏi đường kháng cự Đỉnh đầu vai – head and shoulders top: Là hình mẫu đảo ngược xu thế thị trường, đánh dấu sự đảo chiều của xu thế giá CK từ xu thế tăng thành xu thế giảm. Nhà phân tích KT chuyên nghiệp thường nhận biết thông qua những biến cố thực sự Đáy vòng cung – rounding bottom: Hình mẫu đảo ngược xu hướng biến động thị trường dài hạn, dùng để phân tích các biểu đồ hàng tuần, đại diện cho một thời kỳ củng cố dài hạn trong xu thế biến động giá CK. Mô hình chuyển tiếp từ một khuynh hướng giảm giá liên tục sang tăng giá mạnh Ba đáy- triple bottom: Mô hình cải tiến của mô hình đỉnh đầu vai ngược, là mô hình đảo ngược của xu thế biến động thị trường. mô hình này biểu diễn xu thế giảm xút trong quá trình nó trở thành một xu thế tăng giá. Mô hình này chỉ hợp lệ khi nó vẫn trong quá trinh giảm xút so với hai đỉnh ở giữa Ba đỉnh – triple top: Mô hình cải tiến của mô hình đỉnh đầu vai, ba đỉnh cao xấp xỉ bằng nhau, được bắt đầu bằng một xu thế tăng giá và giá giảm mạnh sau khi xuất hiện đỉnh thứ 3. Đây là hình mẫu dạng đảo chiều của thị trường, đánh dấu thời kỳ chuyển tiếp giữa xu thế tăng giá và giảm giá Một đỉnh trong bộ ba xuất hiệ khi giá chứng khoán đang ở trong giai đoạn tăng giá, sự tăng giá lên tới mức kháng cự của mô hình sau đó giá chứng khoán giảm xuống mức hỗ trợ của mô hình, sau đó xuất hiện sự tăng giá trở lại nhưng chỉ đạt đến mức kháng cự ngang bằng với mức kháng cự của mô hình và lại giảm xuống, sự tăng giá trở lại mức kháng cự thứ ba trước khi giá chứng khoán bị giảm một cách nhanh chóng xuống dưới mức hỗ trợ của mô hình. * Các chỉ dẫn kỹ thuật và chỉ số động lượng Đường trung bình trượt (Moving Average) Đường trung bình trượt là giá trị trung bình tại từng thời điểm, khi phân tích chúng ta phải chọn một khoảng thời gian thích hợp để phân tích. Đường trung bình trượt là chỉ dẫn quan trọng để theo rõi khuynh hướng biến động của giá CK và sự đảo chiều của những khuynh hướng này. 26
  27. Có 4 loai đường trung bình trượt: đường trung bình trượt giản đơn( SMA), đường trung bình trượt tuyến tính có trọng số, đường trung bình trượt tính theo hệ số mũ, đường trung bình trượt biến đổi( VMA) Đường chuẩn MACD MACD là chỉ tiêu biểu diễn sự quy tụ hay phân kỳ của trung bình chuẩn động, MACD là chỉ báo động lượng dung để báo hiệu sự thay đổi của khuynh hướng biến động giá chứng khoán, và để dự báo khuynh hướng mới. Đường MACD tỏ ra có hữu hiệu trên thị trường chứng khoán có tính ổn định cao hơn là thị trường có tính bất ổn. Có 2 khả năng chính của những tín hiệu phát sinh bởi đường MACD đó là: sự xuyên chéo và sự phân kỳ. - Sự xuyên chéo: - Sự phân kỳ: Đường MACD Histogram( MACD_H) Đường MACD_H bao gồm những đường kẻ sọc thẳng đứng, trong vùng giữa đường MACD_H va đường Zeroline của nó dễ dàng phân biệt với đường MACD và đường tín hiệu của nó. Thông thường sự thay đổi của đường MACD_H trước sự thay đổi của đường MACD, những tín hiệu mà đường MACD mang lại thường thể hiện qua chiều hướng của nó, còn đường MACD thì mang lại tín hiệu thông qua sự xuyên chéo đường không và sự phân kỳ của nó. Chỉ số kênh hàng hoá ( Commodity Channel Index: CCI) CCI là một chỉ dẫn kỹ thuật trong PTKT, là một chỉ số động lượng cung cấp cho chúng ta những chỉ báo kỹ thuật về các điểm Overbought và Oversould của CK trên thị trường. Đường CCI được sử dụng để tính toán và xác định thời điểm mua và bán CK, công thức tính 27
  28. P = H+L+C P : giá CK trung bình hằng ngày 3 H : giá CK cao nhất trong ngày P1+P2+ +Pn L : giá CK thấp nhất trong MAn = ngày n C : Giá CK đóng cửa trong ngày n  M A n MA: trung bình trượt giá CK M D i 1 n MD: median deviation P MA CCI n 0,015.MD Đường CCI là đường so sánh CK tại thời điểm hiện tại với trung bình giá chứng khoán trong một khoảng thời gian xác định, đường CCI càng tiến đến 100 nghĩa là giá CK càng ngày càng tăng so với trung bình giá của nó và ngược lại. Đường RSI (Relative strength index: RSI ) Chỉ số RSI (chí số sức mạnh tương đối) là chỉ số có thể cung cấp cho chúng ta những cảnh báo sớm những cơ hội mua và bán chứng khoán. Là chí số động lượng đo sức mạnh tương đối của một chứng khoán nhất định hoặc của cả thị trường, sự phân kỳ là một dấu hiệu hết sức quan trọng mà đường RSI đem lại. Đường RSI vượt qua đường chỉ báo kỹ thuật trên tức là đường 70% thì đó là dấu hiệu để bán chứng khoán, đường RSI dưới đường 30% đó là chỉ báo cho cơ hội đầu tư đang đến gần. Bộ giao động stochastic Là một chỉ số động lượng mà nó có thể cho biết sức mạnh hoặc tình trạng yếu kém của thị trường, thông thường nó đem lại tín hiệu sớm của xu hướng đổi chiều. Stochastic được phát triển bởi Dr Georpe Lane và được minh hoạ bởi hai đường tín hiệu: % k là đường tín hiệu sớm và đường % D là đường tín hiệu trễ. * Phân tích khối lượng giao dịch Phân tích khối lượng trong mối tương quan với giá  GIÁ ỔN ĐỊNH: 28
  29.  Khi giá cả ổn định với khối lượng lớn: Bên chi phối thị trường mất dần khả năng chi phối. Người mua bắt đầu mua tại điểm kết thúc xu hướng xuống. Người bán bắt đầu bán mạnh tại điểm kết thúc giá lên => Những động thái trên khiến cho thị trường sẽ đảo chiều.  Khi giá cả ổn định với khối lượng nhỏ: Cả hai bên mua bán đều không tích cực giao dịch. Xu hướng thị trường sẽ tiếp diễn  GIÁ BIẾN ĐỘNG:  Giá cả không bao giờ tăng giảm một cách tính cờ: + Giá tăng khi có một lượng mua lớn, thường thấy: -Khối lượng tăng và giá tăng theo: các tổ chức lớn đang tích cực mua vào. -Khối lượng tăng và giá giảm: các tổ chức bán ra. + Nếu khối lượng rất nhỏ: chứng tỏ người bán đông hơn người mua. Vì vậy khối lượng giao dịch khi giá lên thường lớn hơn lượng giao dịch khi giá xuống.  Khi khối lượng tăng và giá cũng tăng: Hiện tượng này không báo hiệu thị trường sẽ đảo chiều  Khi khối lượng thấp kèm theo giá tăng nhẹ: Thị trường thường đảo ngược xu hướng khiến giá giảm.  Khi giá cả tăng với khối lượng nhỏ: -Hàng hóa khan hiếm -Khi có đủ điều kiện bán, bên bán sẽ bán ra và bên mua cũng sẽ mua vào khiến cho lượng giao dịch lớn -Tới khi bên mua ngừng mua (vì giá đã khá cao) làm cho lượng giao dịch thành công không thể tăng đột biến.  Khi giá cả giảm với khối lượng nhỏ: -Hàng hóa bị rẻ rung -Khi đủ điều kiện mua, người mua bắt đầu mua vào nên lượng giao dịch cao khiến cho tốc độ giảm giá chậm lại hoặc giá sẽ tăng. 29
  30. -Tới khi bên bán ngừng bán (sợ bản thân bị hớ) làm cho lượng cung giảm khiến cho lượng giao dịch thành công cũng không thể tăng đột biến được.  Khi khối lượng và giá cả tăng giảm đột ngột: + Nếu khối lượng tăng đột ngột: Phải tìm hiểu kỹ thị trường mạnh hay yếu + Nếu giá cả đột ngột tăng mạnh Khi giá cả đột ngột tăng mạnh kèm theo khối lượng lớn hơn rất nhiều so với mức trung bình thì giá thường tiếp tục biến động theo hướng đó. Sau một thời gian tăng sẽ có một ngày khối lượng đạt tới đỉnh điểm. Sau đó, giá sẽ đổi chiều, đi xuống vì khối lượng không còn đủ lớn để giá tiếp tục theo hướng cũ Các xu hướng trên có thể được tóm tắt vào bảng sau giá Khối lượng Thị trường Tăng Tăng Mạnh Tăng Giảm Cảnh giác Giảm Tăng Yếu Giảm Giảm Hết sức cảnh giác giá Khối lượng Thị trường Tăng Tăng Các tổ chức mua vào Giảm tăng Các tổ chức bán ra giá Khối lượng Thị trường Tăng Tăng K có đảo chiều tăng Giảm Đảo chiều,giá giảm Phân tích dựa vào các chỉ tiêu khác Khi đường biểu diễn các chỉ số (Momentum, RSI, MACD )di chuyển ngược chiều với đường giá: hiện tượng phân kỳ. 30
  31. -Phân kỳ dương: đường chỉ số tăng – đường giá giảm -Phân kỳ âm: đường chỉ số giảm – đường giá tăng  NGUYÊN LÍ: -Các phương pháp phân tích khối lượng đều dựa vào sự biến đổi khối lượng giao dịch cụ thể trên thị trường. -Dựa theo xu hướng đồ thị, phương pháp phân tích khối lượng căn cứ vào hai yếu tố cơ bản: Sự xuất hiện phân kỳ âm và phân kỳ dương (Bài 6: “Hội tụ và phân kỳ”) Tốc độ thay đổi đột biến về khối lượng giao dịch trên thị trường. Cụ thể: -Khi xuất hiện phân kỳ dương: dự đoán xu hướng tăng -Khi xuất hiện phân kỳ âm: dự đoán xu hướng giảm -Khi khối lượng thay đổi đột biến: dự đoán xu hướng thị trường sẽ thay đổi. Vì vậy, thường dùng đồ thị giá và các chỉ số để phát hiện các hiện tượng trên.  SỬ DỤNG ĐỒ THỊ GIÁ -Đồ thị giá cho ta một cái nhìn tổng thể về sự thay đổi: giá cả và khối lượng trong một khoảng thời gian nhất định. -Đồ thị giá là sự minh hoạ bằng hình ảnh về giá cả - khối lượng trong quá khứ và sự biến động của chúng là những manh mối về xu thế thị trường trong tương lai Những dự đoán qua đồ thị giá: -Khối lượng giao dịch tăng thường diễn ra trước khi giá tăng -Giá tăng đột ngột thường tuân theo quy luật đồng thời tạo ra các mô hình đặc biệt trên đồ thị giá. -Những mô hình trên thường xuất hiện khi thị trường có điều chỉnh. Chúng được tạo ra ngay trước khi cổ phiếu phá vỡ những mức giá cũ để bắt đầu tạo ra những mức giá mới cao hơn nhiều. Tóm lại: -Khi cổ phiếu phá vỡ mức giá cũ, khối lượng sẽ tăng (tối thiểu 50%) trên khối lượng giao dịch trung bình. -Khối lượng ngày hôm trước tăng và giá tăng: tín hiệu tốt -Khối lượng ngày hôm trước tăng và giá giảm: tín hiệu xấu -Nếu cả hai, khối lượng và giá cả đều giảm: không có hiện tượng bán tháo. 31
  32. SỬ DỤNG CHỈ SỐ: Thường dùng các chỉ số cân bằng khối lượng (OBV) và chỉ số lưu lượng tiền (MFI) để phân tích một cách cụ thể + Chỉ số cân bằng khối lượng (OBV) Chỉ số cân bằng khối lượng là sự kết hợp giữa khối lượng giao dịch và giá cả. nó có tác dụng đo lường sự di chuyển của đường giá: mạnh, yếu hay chưa rõ rang. + Chỉ số lưu lượng tiền (MFI) Chỉ số lưu lượng tiền là sự kết hợp giữa khối lượng giao dịch và giá cả. Nó là cơ sở để phát hiện thị trường đang trong giai đoạn tích luỹ hoặc phân phối (Bài 8) đồng thời nó là những tín hiệu để xác nhận xu hướng giá và tín hiệu thị trường đảo chiều Câu 11: Phân tích cơ sở lý luận của phân tích kỹ thuật Bài làm: Biến động thị trường phản ánh tất cả: Tất cả các yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến giá như tâm lý, chính trị, tình hình nền kinh tế, tình hình kinh doanh của DN đều được phản ánh đầy đủ trong biến động giá của thị trường. Đây là một trong những điều kiện của thị trường hoản hảo. Giá chuyển dịch theo xu hướng chung: Là giả định quan trọng nhất của phân tích kỹ thuật. Giả định này cho rằng xu thế biến động giá không phải là một biến ngẫu nhiên theo thời gian mà vận động theo những quy luật nhất định. Lịch sử sẽ lặp lại: Giả định này cho rằng xu hướng biến động giá sẽ có tính chu kỳ, sẽ lặp lại sau một khoảng thời gian xác định. 32