Thanh toán quốc tế trong ngoại thương - Chủ đề 6: Tủi ro trong thanh toán quốc tế

docx 19 trang nguyendu 7340
Bạn đang xem tài liệu "Thanh toán quốc tế trong ngoại thương - Chủ đề 6: Tủi ro trong thanh toán quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxthanh_toan_quoc_te_trong_ngoai_thuong_chu_de_6_tui_ro_trong.docx
  • pptxC5. Rủi ro trong TTQT.pptx

Nội dung text: Thanh toán quốc tế trong ngoại thương - Chủ đề 6: Tủi ro trong thanh toán quốc tế

  1. Chủ đề 6 RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ A. Khái niệm. Rủi ro trong thanh toán quốc tế là những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế liên quan đến các giao dịch quốc tế,nguyên nhân phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia thanh toán quốc tế như: nhà xuất khẩu,nhập khẩu,các ngân hàng,các tổ chức cá nhân và các tác nhân trung gian hoặc do những nhân tố khách quan khác gây nên như thiên tai,chiến tranh,chính trị Rủi ro trong giao dịch quốc tế cũng như rủi ro trong giao dịch thương mại trong nước,nhưng khoảng cách về địa lý,những khác biệt về văn hóa,luật pháp làm tăng thêm các khó khăn liên quan đến giao dịch quốc tế. B. Phân loại rủi ro Để đánh giá được rủi ro và đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro chúng ta có thể phân loại rủi ro theo những nguyên nhân phát sinh ra nó.Theo nguyên nhân phát sinh thì có 2 loại rủi ro đó là : rủi ro thương mai và rủi ro thanh toán I. Rủi ro thương mại 1. Khái niệm: là rủi ro hiện diện trong tất cả các giao dịch giữa các thương gia,rủi ro trong giao dịch quốc tế cũng giống như những rủi ro xảy ra trong các giao dịch nội địa tuy nhiên nó phức tạp hơn nhiều trong xử lý. 2. Nguyên nhân. Đối với người xuất khẩu:  Do những khuyết tật của khâu thanh toán.  Sự suy yếu tài chính của con nợ. Người mua hàng bất ngờ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán trong kỳ hạn đã thỏa thuận,khi ngân quỹ của họ hết tiền,họ sẽ đề nghị gia hạn trả nợ. Sự thanh toán có thể được thỏa hiệp nếu người mua chưa thể cải thiện được tình hình tài chính. Đối với người nhập khẩu: Rủi ro xảy ra khi vi phạm các điều khoản của hợp đồng thương mại. 3. Ảnh hưởng. Đối với người xuất khẩu.  Trường hợp người mua tuyên bố không còn khả năng chi trả,doanh nghiệp đó sẽ bị giải thể theo luật pháp.Nợ của nhà xuất khẩu chỉ được thanh toán sau khi các khoản nợ được gọi là ưu tiên giải quyết xong như các khoản tiền lương,các khoản nợ các tổ chức xã hội,thuế Nhà xuất khẩu rất ít cơ hội thu hồi dù rất nhỏ các khoản mà người mua đã nợ.Trước sự mất khả năng chi trả của người mua,có rất ít biện pháp hữu hiệu nếu người xuất khẩu không thực hiện các điều kiện an toàn về thanh toán trước khi thực hiện hợp đồng thương mại,hoặc không mua bảo hiểm của các công ty chuyên trách về vấn đề này. Đối với người nhập khẩu. 1
  2.  Về thời hạn gửi hàng: Theo hợp đồng đã ký kết,người nhập khẩu bắt buộc phải nhận hàng trong thời hạn đã thỏa thuận để họ có thể giao hàng cho đối tác của mình.Mọi sự chậm trễ trong quá trình vận chuyển từ người xuất khẩu đều gây khó khăn cho nhận hàng hóa theo đúng hạn của hợp đồng,sẽ gây tổn thất khi người mua không đúng thời hạn đã thỏa thuận với đối tác.  Vận chuyển hàng từng phần: khi hàng hóa được vận chuyển làm nhiều lần( từng phần mỗi lần) theo Incoterms sự vận chuyển hàng thuộc trách nhiệm người nhập khẩu,thì người nhập khẩu sẽ không được giá ưu đãi khi vận chuyển hàng với khối lượng lớn.  Số lượng hàng: Khi người nhập khẩu nhận được hàng với số lượng ít hơn như đã yêu cầu thỏa thuận trong hợp đồng sẽ gây ra hậu quả o Lượng hàng thiếu gây tổn hại cho người nhập khẩu vì không thể thực hiện đầu tư hay dự án như đã định trước,không thu được lợi nhuận như đã dự tính,ngược lại vẫn phải bỏ ra một khoản chi phí,phải trả lãi cho khoản vay để mua hàng. o Nguy cơ đối tác của người nhập khẩu sẽ hủy hợp đồng ,tẩy chay không hợp tác với người nhập khẩu nếu hàng hóa đó có vai trò quan trọng trong kinh doanh, điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của người nhập khẩu trên thị trường.  Những thay đổi trong điều kiện vận chuyển hàng hóa: tuy hợp đồng đã ký cụ thể phương tiện vận chuyển,song trong quá trình vận chuyển hàng có những tình huống thay đổi chuyển hàng bằng phương tiện châm hơn,gây sự chậm trễ trong nhận hàng,ảnh hưởng đến giao hàng với đối tác.  Sự thay đổi về điều kiện và thời gian thanh toán: Nhiều khi hợp đồng thương mại đã ký qui định cụ thể về các điều kiện và thời gian thanh toán ,song người xuất khẩu đơn phương thay đổi buộc nhà nhập khẩu phải thanh toán luôn một lần toàn bộ số tiền hàng mới được nhận hàng ,điều này khiến cho nhà nhập khẩu bị động phải có khoản vay từ ngân hàng để tài trợ cho việc thanh toán với phần lãi phải trả.Nếu khoản vay lớn sẽ gây khó khăn trong việc vay vốn và ảnh hưởng đến khả năng nhận hàng.  Yếu tố giá cả : trong quá trình thực hiện hợp đồng,với lý do đặc biệt như chính trị,thiên tai người xuất khẩu yêu cầu người nhập khẩu phải trả theo một giá cao hơn so với giá thỏa thuận.Trong trường hợp này người nhập khẩu có thể từ chối hợp đồng và tìm người cung cấp mới,song sẽ bị nhận hàng chậm hơn so với quy định với đối tác.Nhiều khi người nhập không có sự lựa chọn nào khác buộc phải chấp nhận giá cao và tổn thất trong lợi nhuận.  Yếu tố chất lượng của hàng hóa: Hàng hóa với chất lượng không như chuẩn mực đã ký kết hay như theo tên gọi gốc,sẽ gây ra những rắc rối đối với người nhập hàng trong quan hệ với các cơ quan chức năng ( cơ quan hải quan,thuế ) cũng như từ phía khách hàng của người nhập khẩu  Nguồn gốc của hàng hóa: khi hợp đồng hàng hóa đã ký,nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa tại nước nào thì không thể thay thế việc nhập hàng từ nước khác.Trường hợp hải quan xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa không đúng như hợp đồng đã ký,người nhập khẩu phải trả thêm khoản lệ phí.  Rủi ro liên quan đến chi phí hàng phải lưu kho: trong trường hợp vận đơn hàng hóa chuyển đến sau khi hàng đã đến nơi nhập hàng,người nhập hàng chưa thể nhận được hàng vì chưa có hồ sơ chứng từ(do đến chậm) Người nhập hàng phải trả một 2
  3. khoản phát sinh mới là tiền lưu kho,chi phí này cũng là gánh nặng cho người nhập khẩu.  Rủi ro trong bảo hiểm: trong hợp đồng thương mại được ký,các bên tham gia thiếu sự quản lý chặt chẽ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng trong vận chuyển hàng hóa,hàng hóa được đền bù với giá cao nhất như trong thỏa thuận bảo hiểm,nhưng khoản tiền được nhận thấp hơn nhiều so với giá trị thực của hàng hóa.  Điều kiện về vệ sinh, y tế: việc thực hiện kiểm định về an toàn,vệ sinh y tế của hàng hóa không được như trong giấy chứng nhận của người xuất khẩu,hàng hóa sẽ không được nhập vào nước nhận hàng. 4. Biện pháp khắc phục. Tìm hiểu kĩ về đối tác trước khi thực hiện hợp đồng. Nắm bắt rõ thông lệ quốc tế trước khi kí kết hợp đồng. Trong hợp đồng phải quy định chặt chẽ về quyền lợi cũng như nghĩa vụ của hai bên khi có rủi ro xảy ra. Mua bảo hiểm cho hàng hóa. II. Rủi ro trong thanh toán : Đây là những bất ngờ, gây hậu quả tổn thất cho các bên tham gia thanh toán, đặc biệt đối với các NH khi thực hiện cung ứng dịch vụ thanh toán cho các bên tham gia kinh doanh, giao dịch quốc tế. Loại rủi ro này gồm có: Rủi ro tín dụng Rủi ro đạo đức Rủi ro quốc gia Rủi ro pháp lý Rủi ro ngoại hối Rủi ro tác nghiệp 1. Rủi ro tín dụng: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương mại, và các định chế tài chính nhưng đây cũng chính là lĩnh vực nghiệp vụ phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu về rủi ro tín dụng là thực sự cần thiết để các ngân hàng thương mại, DN XNK có được các giải pháp cần thiết để hạn chế rủi ro này và đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất. Đây là rủi ro mất khả năng thanh toán của một trong các bên tham gia vào thanh toán đặc biệt trong phương thức tín dụng chứng từ. Với khái niệm như trên thi ta có thể phân RRTD thành 3 loại: RRTD của nhà NK, của nhà XK, và của Ngân hàng. 1.1. Phân loại: 3
  4. Rủi ro tín dụng của nhà nhập khẩu: Khi nhà nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh của mình bị vỡ nợ, phá sản mất khả năng thanh toán sẽ gây rủi ro cho Ngân hàng phát hành thư Tín dụng (L/C). Khi Ngân hàng phát hành L/C thay mặt người nhập khẩu cam kết trả tiền cho bên xuất khẩu, trong trường hợp các NH không yêu cầu ký quỹ 100%, mà ngược lại NH tài trợ cho vay đối với người nhập khẩu, gặp trường hợp mất khả năng thanh toán của người Nhập khẩu, rủi ro trong thanh toán hàng nhập xảy ra, sẽ gây không ít khó khăn, tổn thất cho NH pháp hành. Rủi ro tín dụng của nhà xuất khẩu: Rủi ro này thường xảy ra trong trường hợp NH thực hiện chiết khấu chứng từ đối với hàng xuất khẩu, sự thiếu sót trong khâu kiểm tra chứng từ, gây tình trạng sai sót trong hồ sơ thanh toán bị từ chối thanh toán, trường hợp này NH chiết khấu có quyền truy đòi lại số tiền đã thanh toán cho người xuất khẩu, song nếu người xuất khẩu không còn khả năng thanh toán sẽ gây hậu quả rủi ro cho NH chiết khấu. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng phát hành: Nếu NH phát hành mất khả năng thanh toán vì một lí do nào đó, hoặc bị đóng cửa, bị vỡ nợ phá sản sẽ dẫn đển rủi ro cho NH chiết khấu và người xuất khẩu, điều này phụ thuộc nhiều vào mức độ tín nhiệm của NH phát hành. Tuy hãn hữu này xảy ra trong lịch sử, song cũng đã có những NH thương mại bị sụp đổ. 1.2. Nguyên nhân Trong nền kinh tế thị trường các DN cũng như các NHTM phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, chịu sự chi phối lớn của các quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh nên phải thường xuyên đối mặt với RR từ mọi phía. Có khi do giá cả thay đổi, do công nghệ lạc hậu, khả năng quản lý và điều hành yếu kém, khủng hoảng tài chính gây phản ứng dây chuyền khiến các DN gặp khó khăn, thua lỗ trong kinh doanh, thậm chí vỡ nợ, phá sản Do thông tin tín dụng không đầy đủ, nếu có 1 bên không nắm vững tình hình tài chính, uy tín khả năng thanh toán của đối tác, không am hiểu, không kiểm tra được các thông số kĩ thuật và hiệu quả của dự án mà mình tài trợ, thì RRTD là điều khó tránh khỏi. Đây chính là thông tin không cân xứng. 1.3. Ảnh hưởng : Nhẹ nhất là ngân hàng, DN bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng,DN không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nến kinh tế . Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro. 1.4. Biện pháp Thực hiện đúng các quy định của Pháp luật về cho vay, bảo lãnh Đặc biệt chú trọng các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc, thủ tục cho vay và cấp tín dụng khác. Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh, hoạt động khách hàng. 4
  5. Thực hiện đúng các chính sách quản lý rủi ro tín dụng có hiệu quả. Áp dụng các biện pháp kiên quyết đối với trường hợp khách hàng chây ỳ trả nợ. Bảo hiểm tiền vay. Có khoản dự phòng rủi ro. 1.5. Các chỉ số đánh giá RRTD: Dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ cho vay x 100% Quy định hiện nay cho phép dư nợ quá hạn của NHTM ≤3%.  Nợ quá hạn 360 ngày: Nợ có khả năng mất vốn. Tỷ trọng nợ xấu Tổng dư nợ cho vay  Nợ xấu: là những khoản nợ quá hạn > 90 ngày, mà không đòi được.  Theo quy định hiện nay, tỷ lệ này không được vượt quá 3%. Tổng dư nợ cho vay Hệ số rủi ro tín dụng = Tổng tài sản hiện có x 100% 2. Rủi ro đạo đức Là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức hay còn được hiểu là tín nhiệm, uy tín trong kinh doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong thương mại và thanh toán quốc tế, vì các bên tham gia thương vụ thường ở rất cách xa nhau thậm chí không hề gặp mặt nhau trong quá trình thực hiện thương vụ. 2.1 . Phân loại: Rủi ro đạo đức của nhà nhập khẩu: Nếu khách hàng nhập khẩu không phải là bạn hàng lâu năm, có tín nhiệm thì rất dễ có những hành vi lừa người bán xếp hàng lên tàu, rồi trì hoãn, từ chối thanh toán bằng những thủ đoạn nghiệp vụ bắt lỗi sai sót chứng từ, ép giá người bán để thu lợi cho mình. Trong nhiều trường hợp nhà xuất khẩu đành chịu bán lỗ còn hơn thuê tàu chở hàng về, có khi do giá cả hàng hóa nhập khẩu giảm, người mua hàng sợ thu lỗ trong kinh doanh cố tinh không nhận bộ chứng từ để lấy hàng, hoặc trì hoãn không thanh toán nên đẩy NH vào tình thế khó khăn trong xử lý vốn, đặc biết trong nghiệp vụ thanh toán trả chậm. Ngoài ra, tính chân thực của hồ sơ chứng từ rất quan trọng vì có những sự lừa đảo trong lập chứng từ của NH “Ma”. Rủi ro đạo đức của Nhà xuất khẩu: Khi nhà xuất khẩu cố ý giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, nhưng lại xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo phù hợp với các 5
  6. điều khoản ký kết hợp đồng thương mại, hoặc nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ khống giả mạo (không giao hàng) NH theo bộ hồ sơ hoàn hảo vẫn buộc phải thực hiện thanh toán cho người hưởng lợi, khi đó nhà nhập khẩu phải gánh chịu mọi rủi ro. Nếu NH tài trợ cho người nhập khẩu thì rủi ro này NH cũng phải hứng chịu. Bởi vậy, người mua phải có những biện pháp kiểm tra thông tin qua các hãng vận tải xem hàng hóa có thực sự được giao lên phương tiện vận tải hay không, nếu phát hiện có dấu hiệu lừa đảo thì cần kết hợp với NH đưa ra những biện pháp ngăn chặn kịp thời. Trường hợp giá cả hàng hóa quốc tế tăng, người bán hàng sợ thiệt không muốn giao hàng cho người mua hàng nữa, điều này gây thiệt hại cho người mua, vì kế hoạch sản xuất kinh doanh bị phá vỡ. Tất cả những vi phạm trên của nhà xuất khẩu đều được coi là những rủi ro đạo đức. Rủi ro đạo đức của nhà chuyên chở: Người bán hàng giao hàng cho người chuyên chở, nhưng họ bị lừa đảo, nhận hàng lấy tiền rồi biến mất, hoặc bán mất hàng. Trong khi đó NH vẫn phải thực hiện việc thanh toán cho người bán hàng theo hồ sơ chứng từ, còn việc kiện hàng chuyên chở, hoặc chờ bảo hiểm hoàn toàn tách rời nhau, việc chờ đợi, kiện tụng rất mất thời gian và tốn kém, gây thiệt hại cho cả người mua và người bán. Rủi ro đạo đức của Ngân hàng: Trong nhiều trường hợp NH phát hành cũng vi phạm cam kết của mình, như trì hoãn, chây ỳ, hoặc từ chối thanh toán bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Hoặc ngược lại đối với sự thiếu trung thực của NH chiết khấu khi bộ hồ sơ không hoàn hảo vẫn gửi điện cam kết hồ sơ chuẩn đòi tiên NH phát hành, NH phát hành tin tưởng thanh toán sẽ gặp rủi ro, việc đòi lại được tiền rất khó khăn. 2.2. Nguyên nhân: Nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đầy đủ, không cân xứng. Thiếu những thông tin chính xác về khả năng tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như uy tín, tính trung thực của đối tác. Vì vậy đã đưa ra những quyết định sai lầm gây nên rủi ro trong thanh toán. Đặc biệt phương thức thanh toán tín dụng chứng từ theo UCP 600 qui định việc thanh toán dựa hoàn toàn vào chứng từ hồ sơ thanh toán, mà không căn cứ vào thực trạng hàng hóa. Sự tách biệt giữa thanh toán theo hồ sơ và hàng hóa đã tạo ra kẽ hở cho một số tổ chức, cá nhân tiến hành lừa đảo, vì thể rủi ro đạo đức vẫn còn cơ sở tồn tại. 2.3. Ảnh hưởng: Rủi ro đạo đức là một trong những rủi ro gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến môi trường đầu tư nói chung, ảnh hưởng trực tiếp đến các NĐT nói riêng .Nếu RRĐĐ xảy ra sẽ dẫn tới nguy cơ tổn hại về mặt tài chính đối với các bên tham gia. 2.4. Phương pháp hạn chế: Cần thành lập ra cơ quan chuyên thu thập đánh giá sự minh bạch tài chính đối với các chủ thể tham gia. Những thông tin này cần được củng cố một cách liên tục và miễn phí. Thực hiện cam kết trừng phạt các rủi ro đạo đức mà bên kém ưu thế dựa vào hợp đồng. 6
  7. Ưu tiên hợp tác làm ăn với các bạn hàng lâu năm, có uy tín. Nếu không tin tưởng đối tác thì cần phải yêu cầu tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó để hạn chế 2 loại RR trên thì Nhà nước cần: Tạo sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô, tiếp tục hoàn thiện các chính sách, pháp luật nhằm tạo dựng môi trường kinh tế thông thoáng, ổn định và thuận lợi, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển phù hợp với yêu cầu của các tổ chức kinh tế, các quy ước, định chế thương mại quốc tế mà chúng ta tham gia. Củng cố, phát triển và hoàn thiện môi trường pháp luật cho hoạt động TTQT. Sớm hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật trong nghiệp vụ TTQT của NHTM đáp ứng các yêu cầu mới của nền kinh tế. Các quy định này cần được tiến hành từng bước phù hợp với tiến trình vận động của nền kinh tế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo tính độc lập, đặc thù của nước ta. Nâng cao chất lượng điều hành vĩ mô về tiền tệ, tín dụng. Duy trì chính sách tỷ giá thị trường có sự quản lý của nhà nước và thực hiện chính sách quản lý ngoại hối có hiệu quả. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động TTQT. Nhà nước cần tiếp tục đưa ra các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống tài chính, thị trường chứng khoán và hệ thống NH. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động TTQT, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro trong quá trình hoạt động TTQT của NHTM. Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm. 2.5. Ví dụ về rủi ro đạo đức: Tập đoàn Nestle có nhập khẩu bơ từ hãng Latel của Na Uy để sản xuất các loại sữa giàu dinh dưỡng. Cuộc mua bán được giới thiệu thông quan một số thông tin trên Internet. Do đang trong lúc cần nguyên liệu gấp nên Nestle đã nhanh chóng thoả thuận hợp đồng nhập khẩu với Latel. Họ đã thoả thuận thanh toán theo L/C, vì vội vàng nên Nestle chưa đề cập kỹ các nội dung cụ thể của L/C mà nhanh chóng chuyển tiền cho Latel theo L/C thông qua một ngân hàng do Nestle chỉ định. Nhưng rồi, tiền thì được gửi đi mà hàng thì mãi vẫn chưa thấy về. Tìm hiểu kỹ thì Nestle mới vỡ lẽ ra rằng, Latel chỉ là một công ty ảo trên mạng, không có thật. Trong trường hợp này thì công ty Latel là 1 công ty lừa đảo và rủi ro đạo đức này là do bên xuất khẩu. 3. Rủi ro quốc gia 3.1. Khái niệm: Rủi ro quốc gia: là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, về chính sách quản lý ngoại hối –ngoại thương của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiên hàng nhà nhập khẩu không nhận được hàng hóa. 3.2. Nguyên nhân: Là những nguyên nhân gây ra biến cố chính trị xã hội kinh tế tại một nước: 7
  8. Mâu thuẫn về sắc tộc đảng phái ,tôn giáo đe dọa sự ổn định nội bộ của một nước. Xung đột xã hội thông qua các cuộc biểu tình đình công bạo động chiến tranh. Vấn đề nợ nước ngoài chồng chất khiến cho chính phủ nước nhập khẩu buộc phả đưa ra biện pháp cấm thanh toán hoặc chuyển ngoại tệ ngoại hối ra nước ngoài. Dự trữ ngoại hối ở mức thấp và cán cân thanh toán quốc tếcuar quốc gia bị thâm hụt nặng nề, khiến cho chính phủ nước nhập khẩu buộc phải đưa ra biện pháp cấp báchduwngf thanh toán với nước ngoài. Sự cấm vận về kinh tế của quốc tế đối với nước nhập khẩu khiến cho mọi hoạt động thương mại của nước đó ở nước ngoài bị kiếm soát gắt gao thậm chí bị phong tỏa nên ngân hàng không thể thanh toán tiền hàng cho nước ngoài. Chính sách quản lý ngoại hối của nước nhập khẩu đột ngột thay đổi thực hiện chính sách ngoại hối thắt chặt hay cấm vận trong thanh toán gây rủi ro cho nhà nhập khẩu và ngân hàng của họ. 3.3. Hậu quả: Rủi ro Quốc gia có thể còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp RR tín dụng mà ngân hàng và khách hàng gặp phải. Trong trường hợp ngân hàng đầu tư cho công ty nước ngoài thì ngay cả trong trường hợp công ty có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vốn vay, nhưng cũng có thể không thực hiện được, bởi vì Chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán cho nước ngoài do dự trữ ngoại hối hạn hẹp hoặc vì lí do chính trị. 3.4. Biện pháp khắc phục: Khả năng tiếp cận các thị trường tài chính quốc tế của quốc gia sẽ bảo đảm cho quốc gia đó khả năng linh hoạt ứng phó với những tình huống khó khăn trong khả năng thanh toán ngoại tệ. Khi khả năng tiếp cận bị hạn chế thì rủi ro đối với quốc gia sẽ tăng lên. Mối quan hệ của quốc gia với các nhà cung cấp tín dụng của khu vực tư nhân, bao gồm những cam kết vay mượn và thái độ của các chủ ngân hàng trong việc cho vay thêm đối với những người đi vay trong quốc gia đó. Vị thế hiện thời của quốc gia đối với các nhà cung cấp tín dụng đa phương và chính thức, nó bao gồm khả năng của quốc gia để có đủ tư cách và chịu đựng được những chương trình điều chỉnh kinh tế của IMF hay các chương trình phù hợp khác khi quốc gia đó gặp những khó khăn tài chính (như trường hợp của Indonesia trong khủng hoảng tài chính năm 1997). Nếu vị thế của quốc gia tốt thì sẽ đáp ứng được những điều kiện của các chương trình hỗ trợ quốctế. Xu hướng trong đầu tư nước ngoài và khả năng của quốc gia trong việc thu hút đầu tư nước ngoài trong tương lai sẽ đem đến lợi ích đối với quốc gia thông qua khả năng huy động nguồn vốn nhằm phát triển kinh tế, tạo ra thu nhập cho quốc gia. Từ đó giảm được rủi ro quốc gia hoặc ngược lại sẽ gia tăng rủi ro cho quốc gia. Khả năng khuyến khích các nguồn lực để phát triển kinh tế, mà đầu tiên đó là việc tư nhân hóa các công ty thuộc sở hữu nhà nước. Những cơ hội của tiến trình tư nhân hóa này giúp cho khả năng huy động các nguồn lực nhằm tăng trưởng kinh tế, giảm thiểu được rủi ro quốc gia. 3.5. Ví dụ 8
  9. VD1: Với tình hình kinh tế nước ta hiện nay, nhập siêu ở tỷ lệ cao,tỷ lệ lạm phát tháng 1/2011 là 1,74% , dự trữ ngoại hối tính đến ngày 21/1/2011 là 13,1 tỷ USD. Trước tình hình như vậy chính phủ việt nam đã phải sử dụng biệp pháp tình thế như cấm nhập khẩu và dừng thanh toán bằng ngoại tệ với một số mặt hàng như: ô tô, điều hoà . VD2: Năm 2010 chứng kiến cuộc tranh chấp chủ quyền Quần đảo Điếu Ngư giữa Trung quốc và Nhật Bản. Sau khi một con tàu đánh cá và nhóm thủy thủ của Trung Quốc bị Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản bắt giữ ngày 8/9, Bắc Kinh đã phản ứng với sự tức giận điên cuồng, cắt đứt quan hệ ngoại giao, giảm bớt các chuyến tàu chở hàng Nhật Bản và thậm chí tạm thời đình chỉ việc xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản, loại nguyên liệu mà nước này đang rất cần để sản xuất mọi thứ từ các xe ôtô hybrid (loại xe chạy bằng nhiều loại năng lượng) cho đến chất siêu dẫn. Việc đình chỉ xuất khẩu của Trung Quốc đã gây nên nhưng thiệt hại cho cả TQ và NB. 4. Rủi ro ngoại hối 4.1. Khái niệm: Là rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng ngoại tệ nào đó, khi tỷ giá biến động sẽ gây tổn thất cho một trong hai phía đối tác tham gia thanh toán. 4.2. Phân loại Rủi ro ngoại hối đối với nhà nhập khẩu: xảy ra khi ngoại tệ được lựa chọn trong thanh toán lên giá. Rủi ro ngoại hối đối với nhà xuất khẩu: xảy ra khi ngoại tệ được lựa chọn trong thanh toán mất giá Rủi ro ngoại hối đối với ngân hàng: Trong giao dịch thanh toán L/C các ngân hàng cũng gặp phải rủi ro ngoại hối, những rủi ro này xuất hiện khi:  Các ngân hàng có trạng thái “đoản” về ngoại tệ được sử dụng trong thanh toán và ngoại tệ này lên giá. Trạng thái ngoại tệ “đoản” (hay trạng thái ngoại tệ âm) xảy ra khi phát sinh các giao dịch làm giảm quyền sở hữu về ngoại tệ đó như bán ngoại tệ, trả lãi huy động vốn, trả phí dịch vụ, cho, tặng, biếu, viện trợ bằng ngoại tệ, ngoại tệ bị mất, rách nát hay hư hỏng.  Các ngân hàng có trạng thái “trường” về ngoại tệ được sử dụng trong thanh toán và các ngoại tệ này giảm giá. Trạng thái ngoại tệ “trường” (hay trạng thái ngoại tệ dương) xảy ra khi phát sinh các giao dịch làm tăng quyền sở hữu về ngoại tệ đó như mua ngoại tệ, thu lãi cho vay, thu phí dịch vụ, nhận quà biếu, viện trợ, nhận lương, thưởng bằng ngoại tệ. 4.3. Nguyên nhân: Sự biến động của tỷ giá dẫn tới rủi ro ngoại hối. Tỷ giá biến động trên 2 phương diện:  Ảnh hưởng của nhân tố bên ngoài là tình hình kinh tế, thị trường tài chính và quốc tế chính sách can thiệp của các nước,các chính sách này không nằm trong tầm khống chế can thiệp của một quốc gia.  Sự tương tác nhiều chiều của chính sách kinh tế- tài chính-tiền tệ ở mỗi nước. 9
  10. Các yếu tố tác động tới tỷ giá đó là:  Trạng thái của cán cân thanh toán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu ngoại tệ thông qua đó tác động trực tiếp lên tỷ giá  Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước hữu quan.  Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước, giữa thị trường tiền tệ nội địa và thị trường tiền tệ quốc tế.  Một số các nhân tố khác như các cú sốc về chính trị x ã hội và các ảnh hưởng về thiên tai, chiến tranh, sự nhạy cảm về tâm lý. 4.4. Biện pháp khắc phục: Thực hiện các hợp đồng song song Tự phòng ngừa bằng quỹ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng cách thực hiện giao dịch hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn. Phòng ngừa rủi ro ngoại hối thông qua thị trường tiền tệ. 4.5. Ví dụ: Một công ty Việt Nam nhập khẩu 1 lô hàng trị giá 100.000 USD từ Mỹ. Tỉ giá lúc ký hợp đồng là 20.000 USD/VND, nhưng khi thanh toán cho công ty bên Mỹ thì tỷ giá là 21.000 USD/VND. Như vậy, do không thực hiện các biện pháp để phòng ngừa rủi ro ngoại hối mà nhà nhập khẩu đã phải chịu thiệt hại 1 khoản là 100 triệu VND. 5. Rủi ro pháp lý 5.1. Khái niệm Rủi ro pháp lý là rủi ro xảy ra trong trường hợp có tranh chấp hay khiếu nại giữa các bên tham gia thanh toán.Khi đó vấn đề đặt ra là tòa án nước nào thụ lý, xử lý vụ án trên cơ sở pháp luật nước nào ? Cho dù trong hợp đồng ngoại thương đã đề cập đến vấn đề này song không phải ko có phức tạp.Bởi vì ko có một bên nào có thể thông thạo và nắm vững luật pháp của bên đối tác. Những rủi ro này rất đa dạng ví dụ như : liên quan đến xác lập quyền và chuyển dịch quyền sở hữu, quyền quản lý tài sản theo pháp luật nước ngoài; liên quan đến các rào cản thương mại và kỹ thuật của các Chính phủ, rủi ro liên quan đến các thoả thuận về thuế hoặc rủi ro liên quan đến sở hữu trí tuệ đã có thể phân ra rất nhiều dạng như: liên quan đến nhãn hiệu thương hiệu; liên quan đến vấn đề sáng chế; liên quan đến bí quyết kỹ thuật và chuyển giao công nghệ; liên quan đến vấn đề bản quyền Mỗi dạng rủi ro liên quan đến hàng loạt quy định pháp lý và kỹ thuật chuyên môn, được thiết lập trên những hệ thống pháp luật đặc thù của từng nước khác nhau. 5.2. Nguyên nhân Nguyên nhân sâu xa: của rủi ro pháp lý chính là môi trường pháp lý và luật pháp của các bên khác nhau .mặc dù thanh toán quốc tế đã sử dụng phương thức tín dụng 10
  11. chứng từ theo UCP 600 nhưng ở các nước khác nhau thì giao dịch này lại bị điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp của các nước.CP và luật pháp quốc gia tạo nên hành lang pháp lý cho giao dịch L/C trong thương mại quốc tế nhưng việc vận dụng UCP vào mỗi quốc gia thì tùy thuộc vào pháp luật mỗi nước.Luật quốc gia và thông lệ quốc tế thường tôn trọng lẫn nhau nhưng ko phải ko có mâu thuẫn .Nếu có sự đối nghịch thì luật quốc gia sẽ được đặt lên trên va phải được tuân thủ vì vậy rủi ro pháp lý là khó tránh khỏi. Nguyên nhân trực tiếp:  Thứ nhất là do chính lãnh đạo doanh nghiệp hiểu biết chưa đầy đủ về hệ thống pháp luật và chính sách của nước ngoài, về pháp luật và thông lệ quốc tế  Thứ hai, không thẩm định tư cách pháp lý, tài chính của đối tác nước ngoài, tính xác thực, chân thật của những giấy tờ mà đối tác cung cấp.  Thứ ba, ý thức chấp hành pháp luật của nhiều doanh nghiệp nhiều khi chưa tốt.  Thứ tư, chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý, kinh doanh trong khi đó thì pháp luật nước ngoài rất chặt chẽ và phức tạp. do thiếu kinh nghiệm nên rất dễ bị “mắc bẫy” của đối tác trong các điều khoản hợp đồng. 5.3. Hậu quả Có rất nhiều loại rủi ro và mỗi loại rủi ro sẽ gây ra những hậu quả có mức độ nghiêm trọng khác nhau.Có những rủi ro để lại hậu quả rất lớn không chỉ về mặt kinh tế không đáng có mà còn gây ra những hậu quả nặng nề không đo đếm được, có thể là làm ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị trường cũng như thương hiệu, uy tín và khả năng cạnh tranh thị trường.Ví dụ như trường hợp Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam cũng đã từng hứng chịu những rủi ro pháp lý trong thương mại quốc tế khi bị nước ngoài đăng ký mất bản quyền nhãn hiệu trên thị trường quốc tế. Nhãn hiệu Vinataba chỉ mới được đăng ký trong nước nhưng, khi tiến hành đăng ký ở nước ngoài mới phát hiện một công ty của Indonesia đã sử dụng thương hiệu này tại 13 quốc gia.Ttrong trường hợp này, sản phẩm Vinataba không thể xuất khẩu sang các nước đã bị đăng ký tước đoạt thương hiệu. Đồng thời, công ty tại những nước này có thể sản xuất Vinataba giả để đưa vào Việt Nam. Ngoài ra, những ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp và ngành thuốc Việt Nam không phải là nhỏ. Tổng công ty Thuốc lá đã thực hiện việc đòi lại nhãn hiệu của mình nhưng đến nay mới chính thức thành công trên thị trường Campuchia, Lào và đang tiếp tục tiến hành tại thị trường Trung Quốc. Công việc này không những rất khó khăn mà còn hết sức tốn kém. Hay trường hợp ban đầu chỉ là vấn đề về lao động và tiền công, khi có phát sinh tranh chấp đã không xử lý kịp thời nên đối tác đã lợi dụng biến thành một vụ kiện thương mại.kết quả là Vietnam Airlines bị kiện đòi bồi thường gần 1 triệu USD ở Italia. Những rủi ro do nguyên nhân thẩm đinh thiếu chính xác về thông tin về tư cách pháp lí tài chính của đối tác cũng như người đại diện nước ngoài sẽ gặp phải vấn đề khi hợp đồng bị vi phạm. Việc kiện và đồi bồi thường là khá cao thường phải theo kiện khá dài. 11
  12. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tính đến tháng 10/2009, Việt Nam đã phải đối mặt với 41 vụ kiện thương mại trong thị trường xuất khẩu, trong đó, đại đa số là các vụ kiện chống bán phá giá (34 vụ), chiếm trên 80%. 5.4 Các biện pháp phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro Có rất nhiều biện pháp để phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro pháp lí: Thứ nhất, các doanh nghiệp phải tự nâng cao nhận thức của mình về pháp luật thương mại quốc tế; chủ động tìm hiểu về những quy định pháp lý liên quan đến xuất nhập khẩu tại các thị trường lớn để đưa ra cho mình những đối sách hợp lí. Thứ hai, có kế hoạch, phòng chống rủi ro pháp lý bằng các xây dựng pháp chế doanh nghiệp chuyên nghiệp với những nhân viên đủ năng lực, trình độ để ký kết hợp đồng giao thương với nước ngoài. Thứ ba, tạo thói quen sử dụng tư vấn của luật sư, chuyên gia pháp lý trong hoạt động thương mại quốc tế Thứ tư, kiểm tra xác minh tư cách pháp lý và năng lực tài chính của đối tác nước ngoài trước khi chính thức ký hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hoặc khi thiết lập các quan hệ hợp tác khác với đối tác nước ngoài Thứ năm, riêng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam nên sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng lớn trong nước để thực hiện phương thức thanh toán với nước ngoài. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu thì doanh nghiệp nên thỏa thuận trong tín dụng thư hồ sơ bộ chứng từ hàng xuất được chiết khấu Trên cơ sở đó doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn một phương thức thanh toán quốc tế để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Tuy nhiên cũng cần có một vài phương thức thanh toán dự phòng trong trường hợp không thỏa thuận được với đối tác phương thức tối ưu có lợi cho mình Thứ sáu, về phía các cơ quan Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin về pháp luật, thị trường của các quốc gia khác, thu thập thông tin về sự thay đổi của thị trường, pháp lý của các quốc gia đó. Các cơ quan đại diện cho Nhà nước ở các thị trường phải trực tiếp nắm bắt thông tin về các doanh nghiệp, pháp lý, thị trường để cung cấp cho doanh nghiệp Việt Nam. Chính những nguồn thông tin này là một kênh quan trọng để doanh nghiệp trong nước phòng tránh, giảm thiểu được rủi ro khi tham gia các hoạt động thương mại quốc tế. 6. Rủi ro tác nghiệp 6.1. Khái niệm : Rủi ro tác ngiệp là những rủi ro sai sót kĩ thuật do chính các bên tham gia gây ra rủi ro này được thể hiện trong việc lập hồ sơ chứng từ ko hoàn hảo không đáp ứng đầy đủ các điều kiện và điều khoản của L/C hoặc hành động ko đúng theo UCP và các thông lệ tập quán quốc tế khác. Đặc biệt xảy ra nhiều trong phương thức tín dụng chứng từ. 12
  13. Đặc thù của phương thức thanh toán này là các ngân hàng chỉ thực hiện nghiệp vụ thanh toán trên bề mặt các chứng từ, vì vậy, phương thức này đòi hỏi một cách khắt khe về sự phù hợp tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán và L/C. Một sự sai khác nhỏ cũng có thể bị người mua và ngân hàng phát hành L/C bắt lỗi và từ chối thanh toán. Đây là trở ngại lớn đối với người bán vì họ khó khăn trong việc đáp ứng đầy đủ các yêu cầu khắt khe đó, như các sai sót liên quan đến chứng từ hồ sơ trực tiếp do người bán lập( các sai sót trong hóa đơn thương mại, phiếu đóng gói , bảng kê chi tiết hàng hóa ) người bán có thể chủ động sửa chữa những sai sót này, song có những chứng từ không phải do người bán lập mà có sai sót, như sai sót trong vận đơn, xuất xứ hàng hóa, phiếu liểm định hàng hóa hoặc các chứng từ do bên thứ ba lập, thì người bán không thể khắc phục được, hoặc khắc phục sai sót rất khó khăn. Trường hợp nếu các ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ không phát hiện ra sai sót, hoặc bỏ qua các lỗi cho là nhỏ, sau khi thực hiện thanh toán, hoặc chiết khấu cho người bán. Ngân hàng đó sẽ chịu mọi rủi ro nếu ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán. Đặc biệt trong trương hợp Ngân hàng chiết khấu L/C đồng thời là Ngân hàng xác nhận L/C, thì nó không có quyền truy đòi lại người xuất khẩu số tiền đã chiết khấu. Rủi ro có thể xảy ra đối với ngay cả Ngân hàng phát hành L/C cũng như trong kiểm tra chứng từ mở L/C, đối với loại L/C không hủy ngang khi đã được phát hành thì ngân hàng không thể tự ý hủy bỏ hoặc sửa đổi, chỉ được phép thông báo sai sót trong vòng 5 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ chứng từ, nếu quá thời gian đã qui định đó, ngân hàng mất quyền từ chối và chịu mọi rủi ro Đối với ngân hàng thông báo L/C cần thiết phải xác định tình trạng mã khóa của Ngân hàng phát hành L/C, nếu không xác định được điều này phải nêu rõ trong thông báo L/C cho người xuất khẩu, nói rõ không chịu trách nhiệm về tính xác thực của L/C này, nếu trong việc này không cẩn trọng sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng thông báo và cho người xuất khẩu. 6.2. Phân loại. Trong phương thức tín dụng chứng từ quá trình thực hiện thanh toán có sự tham gia của nhiều thành phần, mỗi bộ phận này sẽ chịu một phần rủi ro nếu xảy ra vấn đề với các chứng từ. Rủi ro đối với nhà Xuất khẩu: trở ngại lớn nhất của nhà XK là họ rất khó có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu khắt khe về sự phù hợp tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán và L/C. Với các sai sót liên quan đến chứng từ hồ sơ trực tiếp do người bán lập (sai sót trong hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết hàng hoá ) người bán có thể chủ động sửa chữa sai sót này nhưng với những chứng từ không phải do người bán lập mà có sai sót trong vận đơn, xuất xứ hàng hoá, phiếu kiểm định hàng hoá hoặc các chứng từ do bên thứ ba lập, thì người bán không thể khắc phục được hoặc khắc phục rất khó khăn Rủi ro đối với các Ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ: trong trường hợp các NH tham gia thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ không phát hiện ra sai sót, hoặc bỏ qua những lỗi cho là nhỏ, sau khi thực hiện thanh toán hoặc chiết khấu cho người bán, NH đó sẽ chịu mọi rủi ro nếu NH phát hành L/C từ chối thanh toán. Đặc biệt trong trường 13
  14. hợp NH chiết khấu L/C đồng thời là NH xác nhận L/C, thì nó sẽ không có quyền truy đòi lại người xuất khẩu số tiền đã chiết khấu. Rủi ro đối với Ngân hàng phát hành L/C: rủi ro cũng có thể xảy ra với cả NH phát hành L/C trong kiểm tra chứng từ mở L/C. Đối với loại L/C không thể huỷ ngang khi đã được phát hành thì NH không thể tự ý huỷ bỏ hay sửa đổi, chỉ được phép thông báo sai sót trong vòng 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ chứng từ. Nếu quá thời gian đã quy định đó NH mất quyền từ chối và phải chịu mọi rủi ro Rủi ro đối với Ngân hàng thông báo L/C: ngân hàng thông báo L/C cần thiết phải xác định tình trạng mã khoá của NH phát hành L/C, nếu không xác định được điều này thì phải nêu rõ trong thông báo L/C cho người XK, nói rõ không chịu trách nhiệm về tính xác thực của L/C này, nếu không cẩn trọng trong việc này sẽ dẫn đến rủi ro cho NH thông báo và cả người XK. 6.3. Nguyên nhân. Rủi ro tác nghiệp xảy ra chủ yếu là do trình độ ngoại thương và các bên tham gia còn non yếu nên chưa nắm bắt được các yều cầu rất khắt khe của L/C, của quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ UCP.600, dẫn đến sai sót trong quá trình giao dịch từ lúc soạn thảo kí kết hợp đồng ngoại thương đến khi lập chứng từ và thanh toán. Mặt khác rủi ro còn xảy ra do trình độ nghiệp vụ , ý thức thực hiện nghiệp vụ của các thành viên tham gia thiết lập hồ sơ thanh toán. Đối với các NHTM tham gia hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ rủi ro tác nghiệp xảy ra do một số nguyên nhân sau: Rủi ro do cán bộ ngân hàng: o Thực hiện các nghiệp vụ, nhiệm vụ không được uỷ quyền hoặc phê duyệt vượt quá thẩm quyền cho phép. o Không tuân thủ theo quy định, quy trình nghiệp vụ của NHCT, NHNN và các văn bản pháp luật hiện hành. o Không tuân thủ các quy định /quy trình của hệ thống hỗ trợ, hệ thống core, không hỗ trợ kịp thời hoặc hỗ trợ không hiệu quả, có hành động gây khó khăn cho bộ phận nghiệp vụ. o Có hành vi lừa đảo và/hoặc hành động phạm tội, câu kết với đối tượng bên ngoài gây thiệt hại cho NH. Rủi ro do quy định, quy trình nghiệp vụ: o Có nhiều điểm bất cập, chưa hoàn chỉnh, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng gây thiệt hại cho NH. o Chưa phù hợp, gây khó khăn cho cán bộ tác nghiệp trong NH. Rủi ro từ hệ thống hỗ trợ, Core: o Do dữ liệu không đầy đủ hoặc hệ thống bảo mật thống tin không an toàn. o Do thiết kế hệ thống không phù hợp, gián đoạn của hệ thống (xử lý, truyền thông, thông tin) và/hoặc do các phần mềm /các chương trình hỗ trợ cài đặt trong hệ thống lỗi thời, hỏng hóc hoặc không hoạt động Rủi ro do các tác động bên ngoài: Rủi ro các văn bản, quy định của chính phủ, các ban ngành liên quan có sự thay đổi hoặc có những quy định mới làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. 14
  15. Mặt khác trong xu thế phát triển của thời đại hiện nay, Rủi ro tác nghiệp dường như tiếp tục tăng do  Môi trường kinh doanh phức tạp hơn Hội nhập quốc tế ngày một tăn Sự phụ thuộc vào công nghệ nhiều hơn. Tốc độ và khối lượng giao dịch tăng hơn. 6.4. Tác động của rủi ro tác nghiệp đối với các chủ thể tham gia. Đối với nhà Xuất khẩu: Rủi ro này gây thiệt hại về tài chính cho nhà XK rất lớn. Hàng hoá không được giao dịch, nhà XK không thu được khoản tiền thanh toán, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của nhà XK. Đối với các Ngân hàng tham gia: rủi ro tác nghiệp đều gây ra những tổn thất về tài chính cho các ngân hàng.  Đối với các ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ, nếu không có sự kiểm tra kĩ lưỡng các chứng từ thì vẫn sẽ có thể bị ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán và không có quyền truy đòi từ nhà XK.  Với các Ngân hàng phát hành L/C, sai sót trong L/C nếu không được kịp thời sửa chữa thì NH bắt buộc phải thanh toán theo đúng quy định trong L/C đã được mở và phải chịu mọi tổn thất tài chính do những sai sót đó.  Với Ngân hàng thông báo L/C do phải đảm bảo về tình chân thực trên bề mặt của L/C và có trách nhiệm thông báo những sai sót, sửa đổi, bổ sung cho NH phát hành và người XK nên nếu NH này không đảm bảo thực hiện được những điều trên thì sẽ phải chịu trách nhiệm với những tổn thất do mình gây ra, đền bù cho NH phát hành. Ngoài ra rủi ro tác nghiệp còn làm giảm uy tín của các NH đối với các doanh nghiệp X- NK.Hoạt động thanh toán quốc tế là một trong những nghiệp vụ cơ bản của các NHTM và mang lại lợi nhuận hoạt động chiếm tỷ lệ lớn cho NH. Vì vậy việc giảm uy tín sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của NH. 6.5. Các biện pháp khắc phục. Đối với NHTM:  Hiện đại hoá công nghệ hoạt động TTQT của NH theo mặt bằng trình độ quốc tế. Các NH cần đầu tư vào các phương tiện thông tin hiện đại phục vụ hoạt động thanh toán quốc tế. Đồng thời cải tiến phát triển, hoàn thiện các phương thức thanh toán quốc tế tiện ích phục vụ cho khach hàng. Hiện đại hoá cơ sở kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tăng khối lượng TTQT, hội nhập với khu vực và thế giới.  Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên về chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, đạo đức nghề nghiệp và ý thức phòng ngừa rủi ro. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển của đất nước nói chung cũng như của từng NHTM nói riêng. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động TTQT nói riêng, thì vấn đề đào tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác chuyên môn có trình độ, năng lực, phẩm chất là hết sức quan trọng và cần thiết. 15
  16.  Nâng cao năng lực quản trị rủi ro đối với đội ngũ cán bộ quản trị, điều hành các cấp và tăng cường công tác kiểm tra giám sát rủi ro trong hoạt động TTQT.  Tăng cường công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Các NH cần cập nhật đầy đủ thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro cho quá trình hoạt động TTQT của NHTM. Lựa chọn, áp dụng những phương pháp và công cụ phòng ngừa, hạn chế rủi ro thích hợp theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế  Tăng cường công tác đối ngoại với các NH nước ngoài. Các NHTM cần phải thiết lập mới và củng cố mạng lưới các NH đại lý và các văn phòng đại diện ở nước ngoài. Thông qua đó cung cấp thông tin, hỗ trợ cho doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng và thực hiện các hoạt động TTQT một cách an toàn, hiệu quả và nhanh chóng. Đối với khách hàng:  Rủi ro trong hoạt động TTQT phần lớn phát sinh từ khách hàng - những người trực tiếp tham gia vào quá trình hoạt động TTQT. Do vậy, để giảm bớt rủi ro trong quá trình hoạt động TTQT, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phải trang bị tốt kiến thức chuyên môn và trình độ ngoại ngữ cho cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ trực tiếp làm công tác xuất nhập khẩu. Cần am hiểu về thông lệ quốc tế trong buôn bán ngoại thương, am hiểu phong tục, tập quán và pháp luật của nước có quan hệ ngoại thương. 6.6 Một số ví dụ về rủi ro tác nghiệp: VD1: Quy định khá chặt chẽ là thế nhưng trên thực tế có không ít trường hợp các công ty tiến hành thanh toán qua L/C gặp phải nhiều bài học khá đau đớn khi tranh chấp xảy ra. Nếu bạn không hiểu rõ và kỹ càng về bản chất của thư tín dụng cùng những quy định pháp lý của nó thì rất có thể bạn sẽ mắc phải những sơ sót dẫn đến việc không nhận được thanh toán từ phía bên đối tác kinh doanh. Lagergren, một hãng kinh doanh các sản phẩm nội thất lớn của Thuỵ Điển, đã bán một lô hàng đồ gỗ cho tập đoàn Cadtrak Furniture Co.Ltd của Đài Loan. Về phần mình, theo thoả thuận giữa hai bên, Cadtrak đã mở tại ngân hàng của mình một thư tín dụng L/C để chuyển nhượng số tiền hàng trị giá 760.000 USD cho Lagergren qua một ngân hàng Thuỵ Điển. Theo thoả thuận giữa hai bên, hàng sẽ được giao thành hai chuyến, mỗi chuyến cách nhau muộn nhất là 20 ngày . Tiền hàng cũng được thanh toán làm hai lần và việc thanh toán qua L/C sẽ tuân theo UCP500. Có hai điều kiện được quy định cho thư tín dụng. Thứ nhất, ngân hàng Đài Loan sẽ tiến hành thanh toán khi nhận được một bộ đầy đủ vận đơn đường biển đã xếp hàng hoàn hảo. Thứ hai, ngân hàng Thuỵ Điển sẽ phải đợi giấy chấp nhận hàng do ngân hàng tại Đài Loan của Cadtrak cấp. Giấy này sẽ được cấp sau khi có thông báo của Cadtrak rằng họ đã nhận được hàng và hàng đã được cơ quan y tế Đài Loan tại cảng chấp nhận. Sau khi hàng đến Đài Loan, ngân hàng Thuỵ Điển đã gửi bộ chứng từ của chuyến hàng cho Cadtrak và đã bị Cadtrak từ chối với lý do thời gian giữa hai chuyến giao hàng đã vượt quá 20 ngày. Ngân hàng Thuỵ Điển đã không chấp nhận điều này. Do vậy, ngân hàng đã thuyết phục Cadtrak chấp nhận điều không đúng nguyên tắc trên. Sau cùng, Cadtrak chấp nhận thời gian giao hàng quá 20 ngày nhưng vẫn bảo lưu ý kiến từ chối của mình với lý do 16
  17. đợi sự chấp nhận lô hàng của Bộ Y tế Đài Loan, cơ quan mà công ty Cadtrak nộp đơn xin kiểm tra hàng. Sau đó không lâu, Cadtrak thông báo rằng họ chính thức từ chối hàng của Lagergren vì Cơ quan Y tế Đài Loan tại cảng đã phát hiện ra nguy cơ mối mọt trong lô hang đồ gỗ này. Lagergren lập luận rằng, trong biên bản của Cơ quan y tế đã không có dòng chữ bác bỏ sản phẩm. Tuy nhiên, Cadtrak vẫn giữ nguyên quan điểm của mình vớI nhận định rằng: "theo thông lệ, hàng đồ gỗ phải đủ độ tin cậy để lưu kho trong vòng 12 tháng”. Cadtrak cho rằng sản phẩm mà họ đặt đã không được đảm bảo về chất lượng và bởi vậy khăng khăng không chấp nhận lô hang này. Về phía Lagergren, hãng đã có đơn kiện gửi Uỷ ban trọng tài quốc tế (Unctad) mà hai bên đã lựa chọn giải quyết khi có tranh chấp. Đơn kiện ghi rõ Cadtrak đã từ chối không đúng cách bộ chứng từ và yêu cầu được thanh toán khoản tiền hàng cộng lãi suất hàng năm 13%. Trước hết, Uỷ ban trọng tài cho rằng lý do duy nhất mà hàng chưa thuộc quyền sở hữu của Cadtrak - người mở thư tín dụng, là do họ đã từ chối lô hàng đó khi hàng đã đến nơi. Quyết định phải đưa ra là trong tình huống này liệu điều kiện "hàng hoá đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" được thoả mãn hay chưa? Tiếp đó, Uỷ ban trọng tài định nghĩa bản chất của thư tín dụng và cách mà người ta phải hiểu nó: “Thư tín dụng là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng mở thư tín dụng thanh toán hoặc sẽ thanh toán nếu các điều kiện của thư tín dụng được thoả mãn, nếu thư tín dụng đó dùng để thanh toán (Điều 3 Quy tắc và Thực hành thống nhất tín dụng chứng từ)”.Bản chất của thư tín dụng là người bán chắc chắn sẽ được thanh toán nếu xuất trình đúng bộ chứng từ. Một đặc tính cơ bản của tín dụng chứng từ là tính hình thức của nó. Các chứng từ được xuất trình chỉ có thể là đúng hoặc không đúng. Sự mập mờ ở đây không được chấp nhận. Một tín dụng chứng từ không thể được hiểu theo bất cứ một luật quốc gia nào mà các bên không có thoả thuận, thư tín dụng phải được hiểu theo các thông lệ được áp dụng cho đối tượng này trong thương mại quốc tế. Một đặc tính nữa của thư tín dụng là việc thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các bên. Chỉ cần các điều kiện trong thư tín dụng được thoả mãn và người hưởng lợi xuất trình đúng bộ chứng từ thì việc thanh toán sẽ được thực hiện. Cadtrak lập luận rằng trong trường hợp này, với việc hàng giao không được người mở thư tín dụng chấp nhận nên điều kiện "hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" đã không được thoả mãn. Nhưng theo trong tài thì việc thư tín dụng có được thanh toán hay không phụ thuộc vào thiện chí của người mở thư tín dụng (nguời mua). Việc hiểu điều kiện "hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" như vậy mâu thuẫn với mục đích của thư tín dụng chứng từ. Theo đó, việc thanh toán không được phụ thuộc vào thiện ý hay ý chí chủ quan của Cadtrak. Ở đây, hàng của Lagergren không có bất cứ sai phạm gì theo thoả thuận giữa hai bên, mà việc hạn sử dụng của hàng hoá là do Cadtrak không kiểm chứng từ trước, hãng có thể khởi kiện vi phạm hợp đồng chứ không thể từ chối thanh toán được. Điều đó có nghĩa là nếu căn cứ vào lập luận của Cadtral thì hoàn toàn không an toàn cho Lagergren. Như vậy rõ ràng Cadtrak đã sai khi từ chối việc thanh toán hoặc việc cho phép thanh toán cho Ngân hàng Thuỵ Điển. Bởi vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định Lagergren được hưởng số tiền hàng cộng với mức lãi suất là 13%/năm trong thời gian thanh toán quá hạn. Qua vụ việc trên, chúng ta có thể nhìn thấy một thực tế rằng, ngay cả những phương thức thanh toán an toàn nhất thì nguy cơ rủi ro cũng có thể xuất hiện. Để tránh được rủi ro, 17
  18. các công ty cần nghiên cứu kỹ lưỡng về đối tác cũng như những quy định pháp luật về phương thức thanh toán đang được áp dụng. Sau đây là một số rủi ro thường gặp khi thanh toán qua L/C: VD2: Thương vụ này được bắt đầu từ ngày 17.7.2000, khi Hợp đồng ngoại thương số 611/171/20 được bên bán là Công ty Helm Dungenmittel GmbH, Hamburg (Đức) (gọi tắt là Công ty Helm) và bên mua là Công ty XNK tổng hợp III - chi nhánh Hà Nội (gọi tắt là Công ty Centrimex - HN) ký kết. Theo đó, Công ty Helm bán cho Công ty Centrimex - HN 10.000 tấn phân urê Trung Quốc, trị giá hợp đồng 1.451.935,75USD, thanh toán theo phương thức L/C thông qua ngân hàng bên bán BHF (Đức) và ngân hàng bên mua Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I (gọi tắt là SGD No1). Sau khi L/C số LN/SGDI - 00/071 của thương vụ được mở tại SGD No-1 ngày 19.7.2000 bên bán bắt đầu bốc hàng lên tàu DEWAN-1 của Pakistan tại cảng Bayuquan (Trung Quốc) giao hàng cho bên mua theo điều kiện CFR quy định bởi các điều kiện thanh toán quốc tế INCOTERMS 2000 mà L/C của thương vụ này áp dụng. Điều kiện CFR là: Giao hàng tại nơi đi cho bên mua thông qua chủ tàu được bên mua uỷ nhiệm. Theo đó, khi hàng được giao qua lan can tàu, quyền sở hữu của bên mua về lô hàng đó bắt đầu được xác lập. Ngày 27.9.2000, tàu DEWAN-1 cập cảng TPHCM theo đúng hợp đồng đã ký. Tuy vậy, toàn bộ lô hàng này đã bị bên mua từ chối tiếp nhận với lý do: "Công ty chúng tôi không có vận đơn đường biển (B/L) để nhận hàng và vì bộ chứng từ không phù hợp với L/C". Như vậy Centrimex - HN đã tự chối bỏ hàng của chính mình. Tàu DEWAN-1 buộc lòng phải nhổ neo quay về làm thủ tục hoá giá lô hàng, lấy tiền tự trang trải các khoản chi phí vận chuyển. Nhưng qua tham khảo nhiều chuyên gia trong ngành thương mại hàng hải, chúng tôi thấy như sau: Đúng là trên B/L không ghi chú ngày bốc hàng lên tàu mà chỉ ghi ngày cấp vận đơn 6.9.2000. Tuy nhiên, theo Điều 25(a) (iv) của các quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng thư - ấn bản số 500 (gọi tắt là UCP 500) của Phòng Thương mại quốc tế (L/C ghi áp dụng quy tắc này), ngày cấp vận đơn được coi là ngày bốc hàng lên tàu và ngày giao hàng. Số tiền 1.451.935,75USD được ghi bằng chữ trên hối phiếu: "Một*bốn*năm*một*chín*ba*năm 75/100USD" không phù hợp với cú pháp Việt Nam, mà lẽ ra phải được viết là: "Một triệu bốn trăm năm mươi mốt nghìn chín trăm ba mươi lăm dollars và bảy mươi nhăm cent". Tuy nhiên, theo đoạn 2, Điều 13 (a) của UCP 500, "các chứng từ không được quy định trong thư tín dụng sẽ không được các ngân hàng kiểm tra". Trong thương vụ này, L/C không quy định Ngân hàng BHF phải có hối phiếu đi kèm để đòi tiền Công ty Centrimex - HN. Do vậy, hối phiếu ở đây không được coi là một chứng từ thanh toán. Về tên của ngân hàng trả tiền được ghi trên hối phiếu, qua xác minh chúng tôi thấy, đích thực đây là tên của SGD No-1. Trong hối phiếu có nhắc đến tên của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam nhưng là để dẫn chiếu (đề cập) đến L/C. Theo cách lập luận trên, hối phiếu không phải là một chứng từ thanh toán. Sau khi trao đổi và nhận được điện trả lời của Ngân hàng BHF phủ nhận những lỗi này, ngày 10.10.2000, trong khi con tàu DEWAN-1 còn buông neo tại cảng TPHCM, SGD 18
  19. No-1 còn đề nghị Công ty Centrimex chấp nhận bộ chứng từ đòi tiền do Ngân hàng BHF chuyển tới và mời công ty đến làm thủ tục đi nhận hàng. Ngày 17.10.2000, sau khi nhận được ý kiến của Ngân hàng BHF cho biết họ yêu cầu phải nhận được thanh toán chậm nhất vào ngày 19.10.2000, cùng ngày 17.10.2000, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - đơn vị chủ quản của SGD No-1 - đã có ý kiến bác bỏ những lỗi nói trên, chỉ thị SGD No-1 phải thanh toán ngay cho Ngân hàng BHF, đồng thời yêu cầu bên mua là Công ty Centrimex nhận nợ. Tuy nhiên, Công ty Centrimex-HN đã không thay đổi ý kiến, vẫn từ chối nhận hàng. Theo Interpol Việt Nam, hiện nay toàn bộ lô hàng trị giá 20 tỉ đồng này đã bị toà án Pakistan hoá giá để thanh toán chi phí vận chuyển cho con tàu DEWAN-1. VD3: Một trường hợp khác xảy ra cách đây không lâu tại VIB Bank hợp tác với một DN có rất nhiều kinh nghiệm. DN này khi phát hành L/C mua hàng và xuất trình chứng từ rất hoàn hảo. Khi NH yêu cầu DN thực hiện nghĩa vụ thanh toán và đến hãng tàu vận tải để nhận hàng thì bị từ chối với lý do rất đơn giản là tên người ghi trên bill nhận hàng không phải là người của hãng tàu đó mà chỉ là người của đại lý hãng tàu. Có trường hợp DN còn bị từ chối thanh toán hoặc nhận hàng vì tàu vận chuyển không thuộc loại tàu được phép đi biển 19