Thanh toán quốc tế trong ngoại thương - Chủ đề 12: Thẻ trong thanh toán quốc tế

doc 12 trang nguyendu 6541
Bạn đang xem tài liệu "Thanh toán quốc tế trong ngoại thương - Chủ đề 12: Thẻ trong thanh toán quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docthanh_toan_quoc_te_trong_ngoai_thuong_chu_de_12_the_trong_th.doc
  • pptC11. Thẻ trong TTQT.ppt

Nội dung text: Thanh toán quốc tế trong ngoại thương - Chủ đề 12: Thẻ trong thanh toán quốc tế

  1. Chủ đề 12 Thẻ trong thanh toán quốc tế. Sau khi các cơ quan chức năng xử lý mạnh tay với các hành vi mua bán ngoại tệ bất hợp pháp trên thị trường tự do một số người dân chưa mua được hoặc chưa mua đủ số ngoại tệ cần thiết để đi học tập công tác, chữa bệnh ở nước ngoài tỏ ra lo lắng. thẻ ngân hang là phương tiện thanh toán hết sức tiện lợi ở cả trong và ngoài nước mà chỉ đến bây giờ một số người mới chợt nhận ra I. Khái niệm thẻ thanh toán: Thẻ là hình thức tiền điện tử, là phương tiện thanh toán hiện đại và tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay, thẻ ra đời và gắn liền với sự phát triển cùa ngành Ngân hàng cũng như việc ứng dụng công nghệ tin học trong Ngân hàng. Thẻ phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực thanh toán phi mậu dịch như thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền tại các máy rút tiền tự động trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi Hoá đơn thanh toán thẻ là giấy nhận nợ của chủ thẻ đối với cơ sở chấp nhận thẻ. Đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ là đơn vị cung ứng dịch vụ sẽ nhận lại tiền của chủ thẻ thông qua ngân hàng phát hành và NH thanh toán thẻ Đặc tính của thẻ: Tính tiện lợi: thẻ thay thể tiền mặt trong thanh toán, nó đã cung cấp sự tiện lợi hơn hắn các phương tiện thanh toán khác đặc biệt với người đi du lịch hoặc công vụ (thẻ giúp họ thanh toán bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu mà không cần mang theo tiền mặt hay sec du lịch) Tính linh hoạt: với nhiều loại thẻ đa dạng phong phú, thẻ thích hợp với mọi đối tượng khách hàng (ng có thu nhập thấp đến cao, có nhu cầu rút tiền mặt hay giải trí mua sắm ), thẻ cung cấp cho khách hàng độ thoả mãn tối đa nhu cầu cần sử dụng của mọi đối tượng KH Tính an toàn và nhanh chóng: Ngân hàng bảo vệ tiền của chủ thẻ bằng số pin, ảnh, chữ ký và mã tài khoản thẻ. Ngoài ra các giao dịch thẻ, quy trình thanh toán đều được thực hiện một cách tự động, do đó quá trình thanh toán thẻ diễn ra rất dễ dàng, tiện lợi và nhanh chóng. Cấu tạo và đặc tính kỹ thuật của thẻ 1
  2. Thẻ thanh toán làm bằng chất liệu Plastic có kích thước theo tiêu chuẩn quốc tế là 8,5cm x 5,5cm x 0,07cm Trên thẻ có in đầy đủ các yếu tố theo quy định của các tố chức quốc tể (nhãn hiệu thương mại, số thẻ, tên chủ thẻ, ngày hiệu lực ) Mặt trước của thẻ: + Biểu tượng: mỗi loại thẻ có 1 biểu tượng riêng, mang đặc trưng của tổ chức phát hành thẻ, là thương hiệu, yếu tố chống lại sự giả mạo + Số thẻ: dành riêng cho mỗi chủ thẻ, được dập nổi trên mặt thẻ và in trên hoá đơn khi thanh toán bằng thẻ + Thời gian hiệu lực của thẻ: Là thời gian thẻ được phép lưu hành (dương lịch) + Họ và tên người chủ thẻ: Được in nổi là tên cá nhân nếu là thẻ cá nhân, tên của người được uỷ quyền nếu là thẻ công ty + Ký tự an ninh: là số mật mã của đợt phát hành, in phía sau của ngày hiệu lực Mặt sau của thẻ: + Dải băng từ: lưu trữ các thông tin như: số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thể, Ngân hàng phát hành + Dải băng chữ ký: trên dải băng này có chữ ký của chủ thẻ để cơ sở chấp nhận thẻ có thể đối chiếu chữ ký khi thực hiện thanh toán II. Các thành viên tham gia: Ngân hàng phát hành thẻ (Issuer): Là NHTM được NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ, là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế. Ngân hàng phát hanh thẻ chuẩn bị thẻ, phát hành thẻ cho khách hàng, hướng dẫn chủ thẻ, ban hành các qui định cần thiết khi sử dụng thẻ, thanh toán số tiền trên hóa đơn của khách hàng do ngân hàng đại lý chuyển đến, chấp phép cho các thương vụ vượt hạn mức. Chủ thẻ (Cardholder): Là ngươi có tên trên thẻ, được ngân hàng phát hành thẻ cho phép sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ thay tiền 2
  3. mặt theo hạn mức được cấp trên thẻ. Ngoài ra, chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc các ngân hàng đại lý. Chủ thẻ bao gồm chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ cùng sử dụng chung một tài khoản thẻ với hạn mức tín dụng mà ngân hàng cấp cho chủ thẻ chính. Giao dịch của chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ được thể hiện trên cùng một sao kê và được gửi cho chủ thẻ chính để thanh toán. Chủ thẻ chính la người chịu trách nhiệm thanh toán cuối cùng về các khoản chi tiêu của cả chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Cơ sở chấp nhận thẻ (Merchant): Là thành viên chính thức hoặc thành viên liên tiếp của tổ chức thẻ quốc tế. Hoặc các ngân hàng đại lý được ngân hàng phát hành thẻ ủy quyên thực hiện nghiệp vụ thanh toán thẻ. Ngân hàng đại lý hay Ngân hàng thanh toán (Acquirer): Là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với các cơ sở chấp nhận thẻ, và thanh toán các chứng từ giao dịch do cơ sở chấp nhận thẻ xuất trình. Một ngân hàng vừa có thể đóng vai trò là ngân hàng phát hành thẻ vừa là ngân hàng thanh toán thẻ. Tổ chức thẻ quốc tế: Là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng, tham gia phát hành và thanh toán thẻ quốc tế. Thực hiện tổ chức và làm trung tâm xử lý cấp phép, thông tin giao dịch, thanh toán của các ngân hàngthanhf viên trên toàn thế giới. Mỗi tổ chức thẻ quốc tế đều có tên sản phẩm của mình. Khác với ngân hàng thành viên, tổ chức thẻ quốc tế không có quan hệ trực tiếp với chủ thẻ hay cơ sở chấp nhận thẻ, mà chỉ cung cấp một mạng lưới viễn thông toàn cầu phục vụ cho qui trình thanh toán, cấp thẻ cho ngân hàng thành viên một cách nhanh chóng. Hiện nay các tổ chức thẻ quốc tế như: Tổ chức thẻ VISA, tổ chức thẻ MASTER CARD, Công tư thẻ AMEX EXPRESS, Công ty thẻ JCB. III. Quy trình nghiệp vụ trong thanh toán thẻ Sau khi thẻ được Ngân hàng phát hành thẻ trao cho khách hàng sử dụng, quy trình thanh toán thẻ phát sinh khi chủ thể tiến hành mua hàng hóa, dịch vụ bằng thẻ tại các cơ sở chấp nhận thẻ, và rút tiền tại máy ATM, tiếp đó các nghiệp vụ thanh toán hộ cho khách hàng giữa ngân hàng phát hành và các bên trung gian có liên quan trong thị trường thẻ, nhằm đảm bảo cuối cùng số tiền giao dịch của khách hàng được thanh toán cho cở sở chấp nhận thẻ. Nghiệp vụ thanh toán thẻ có sự tham gia của hầu hết các thành viên của thị trường thẻ. Các bước trong quy trình thanh toán thẻ 3
  4. 1, Chủ thẻ dùng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại các cơ sở chấp nhận thẻ hoặc Ngân hàng đại lý. 2, Cơ sở chấp nhận thẻ hoặc Ngân hàng đại lý khi nhận được thẻ từ khách hàng kiểm tra tính hợp lệ của thẻ, thiết lập hóa đơn thanh toán, trao hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng. 3, Cở sở chấp nhận thẻ giao dịch với Ngân hàng, gửi hóa đơn thẻ cho Ngân hàng thanh toán. 4, Ngân hàng thanh toán thẻ thực hiện thanh toán cho cơ sở chấp nhận thẻ ( Ghi Có vào tài khoản của cơ sở chấp nhận thẻ hoặc Ngân hàng đại lý thanh toán). 5, Thanh toán với tổ chức thẻ quốc tế và các thành viên khác. Cuối mỗi ngày, Ngân hàng tổng hợp toàn bộ các giao dịch phát sinh từ thẻ do Ngân hàng khác phát hành và truyền dữ liệu cho tổ chức thẻ quốc tế. 6, Tổ chức thẻ quốc tế ghi Có cho Ngân hàng thanh toán. Tổ chức thẻ quốc tế sau khi nhận được giữ liệu từ Ngân hàng thanh toán sẽ tiến hành ghi Có cho Ngân hàng. Dữ liệu mà tổ chức thẻ quốc tế truyền về bao gồm những khoản Ngân hàng thanh toán được trả, những khoản phí phải trả cho Tổ chức thẻ quốc tế, những giao dịch bị tra soát. 7, Tổ chức thẻ quốc tế báo nợ cho Ngân hàng phát hành. 8, Thanh toán nợ cho Tổ chức thẻ quốc tế. 9, Gửi sao kê cho chủ thẻ. 10, Thanh toán nợ cho Ngân hàng phát hành. Chủ thẻ sau khi nhận được sao kê sẽ tiến hành trả tiền cho những khoản hàng hóa, dich vụ mà mình đã tiêu dùng. Trong một số trường hợp cơ sở chấp nhận thẻ phải liên hệ với Ngân hàng phát hành hoặc Tổ chức thẻ quốc tế ( thay mặt Ngân hàng phát hành) để cấp phép cho giao dich mua bán hoặc ứng tiền bằng thẻ. Các trường hợp xin cấp giấy phép bao gồm: Các giao dịch ứng tiền mặt bằng thẻ tín dụng. Các giao dịch thanh toán hàng hóa, dịch vụ mà số tiền của giao dịch thanh toán bằng hoặc cao hơn hạn mức thanh toán của cở chấp nhận thẻ do các Tổ chức thẻ quốc tế quy định. Các thẻ mà cơ sở chấp nhận thẻ có nghi nghờ về hiệu lực của thẻ đối với chủ thẻ. Những thẻ thanh toán không có chữ ký mẫu của chủ thẻ trên băng chữ ký ở mặt sau của thẻ. Ngoài những nghiệp vụ cơ bản trên, trong quá trình thanh toán thẻ còn phát sinh nghiệp vụ tra soát bồi hoàn: Tình huống này chỉ phát sinh khi Ngân 4
  5. hàng phát hành hoặc chủ thẻ không chấp nhận thanh toán giao dịch và thực hiện khiếu nại hoặc đòi bồi hoàn. Việc Ngân hàng phát hành thực hiện khiếu nại giao dịch theo yêu cầu của chủ thẻ ( giao dịch chưa được cung ứng, số tiền thanh toán không đúng như giao dịch ) hoặc vì một lý do nào khác ( Cơ sở chấp nhận thẻ không xin giấy phép, thẻ nằm trong danh sách báo động, thẻ hết hạn ) gọi là quá trình tra soát bồi hoàn. Khi đó Ngân hàng phát hành thẻ yêu cầu Tổ chức thẻ quốc tế ghi Nợ cho Ngân hàng thanh toán và gửi các thông tin có liên quan cho Ngân hàng thanh toán. Ngân hàng thanh toán dựa vào các thông tin này để tiến hành tra soát đối với cơ sở chấp nhận thẻ. Trong khi tra soát, nếu lỗi thuộc về cơ sở chấp nhận thẻ thì Ngân hàng thanh toán sẽ đòi tiền từ cơ sở chấp nhận thẻ, hoặc sẽ chấp nhận trả tiền nếu lỗi thuộc về Ngân hàng thanh toán, hoặc sẽ tái suất trình lại giao dịch cho Ngân hàng phát hành, khi có cơ sở chứng minh giao dịch bồi hoàn của Ngân hàng phát hành là không có căn cứ. Người tiêu dùng hiện khá quen thuộc với thẻ ATM, tín dụng , gọi chung là thẻ thanh toán. Thẻ thanh toán (thẻ chi trả) là một phương tiện thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ hoặc có thể được dùng để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý hoặc máy rút tiền tự động. IV. Theo công nghệ sản xuất, thẻ được phân chia thành: Thẻ khắc chữ nổi (EmbossingCard): dựa trên công nghệ khắc chữ nổi, tấm thẻ đầu tiên được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay người ta không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ dễ bị giả mạo. Thẻ băng từ (Magnetic stripe): dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ chứa thông tin đằng sau mặt thẻ. Thẻ này đã được sử dụng phổ biến trong 20 năm qua , nhưng đã bộc lộ một số nhược điểm: do thông tin ghi trên thẻ không tự mã hoá được, thẻ chỉ mang thông tin cố định, không gian chứa dữ liệu ít, không áp dụng được kỹ thuật mã hoá, bảo mật thông tin. Thẻ thông minh (Smart Card): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ có cấu trúc như một máy vi tính. Phân loại theo chủ thể phát hành: Thẻ do Ngân hàng phát hành(Bank Card): là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho khách hàng sử dụng một số tiền do Ngân hàng cấp tín dụng. Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải trí của các tập đoàn kinh doanh lớn hoặc các công ty xăng dầu lớn, các cửa hiệu lớn phát hành như Diner"s Club, Amex. 5
  6. Xét theo tính chất thanh toán, có thể phân chia thẻ thanh toán thành các loại sau: Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất. Chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng không phải trả lãi để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, khách sạn, sân bay chấp nhận loại thẻ này. Nó được gọi là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng từ đặc điểm trên mà người ta còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (delayed debit card) hay chậm trả. Ở Việt Nam có các loại thẻ tín dụng do các tổ chức quốc tế phát hành, phổ biến nhất là Master card và Visa card, và thẻ tín dụng do các ngân hàng trong nước phát hành: thẻ của ngân hàng Đông Á, Navibank, ACB, Agribank, Sacombank. Thẻ ghi nợ (Debit card): là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi được sử dụng để mua hàng hoá hay dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn đồng thời chuyển ngân lập tức vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn. Thẻ ghi nợ còn được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuôc vào số dư hiện hữu trên tài khoản của chủ thẻ. Thẻ rút tiền mặt (Cash card): là loại thẻ rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, yêu cầu đặt ra đối với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký quỹ tiền gởi vào tài khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng được. Thẻ lưu giữ giá trị( Stored Value card): Được phát hành bằng cách nộp một số tiền nhất định( mua thẻ) mỗi lần sử dụng thì số tiền trên thẻ bị trừ dần ( ví dụ: thẻ điện thoại, thẻ thanh toán cầu đường) Xét theo phạm vi lãnh thổ, thẻ được phân chia thành: Thẻ quốc tế: đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử dụng các ngoại tệ mạnh để thanh toán. Các loại thẻ này đều được chấp nhận thanh toán ở các website thương mại điện tử có kết nối với cổng thanh toán OnePAY của Vietcombank. Thẻ trong nước, thẻ nội địa: là thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia, do các ngân hàng, tổ chức trong nước phát hành, đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó. Hiện nay một số thẻ thanh toán nội địa đã có 6
  7. chức năng thanh toán trực tuyến: thẻ đa năng Đông Á, thẻ Connect 24 của Vietcombank. Căn cứ và hạn mức của thẻ Thẻ vàng( gold card): Là loại thẻ hạng ưu, phù hợp với mức sống và nhu cầu tài chính của khách hàng có thu nhập cao. Thẻ được phát hành cho những đối tượng cóuy tín với khản năng tài chính mạnh, có nhi cầu chi tiêu lớn. Điểm khác biệt với thẻ thường là hạn mức tín dụng lớn. Thẻ thường( Standard card): Là loại thẻ tín dụng, hạn mức tín dụng thấp hơn, loại thẻ này mang tính phổ thông, phổ biến, được sử dụng rộng rải trên toàn thế giới. Căn cứ vào phạm vi sử dụng. Thẻ nội địa: là loại thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia vì vậy tiền giao dịch phải là đồng tiền nước đó. Thẻ quốc tế: là loại thẻ sử dụng các loại ngoại tệ mạnh để thanh toán, được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Thẻ ảo (giải pháp thanh toán di động tốt nhất) khách hàng có thể sử dụng điện thoại để thực hiện các giao dịch mua sắm trực tiếp tại các điểm bán hàng có chấp nhận thẻ thanh toán Mastercard trên khắp thế giới. Mới đây, ngân hàng Citi bank, Ấn Độ đã triển khai thí nghiệm dịch vụ Tap and Pay, một hệ thống thanh toán thẻ tín dụng không tiếp xúc thế hệ mới trên điện thoại di động dựa trên công nghệ Near Field Communications (NFC). Công nghệ này cho phép khách hàng nhét điện thoại di động của mình vào một đầu đọc không tiếp xúc tại các điểm bán hàng để trả tiền mua hàng, loại bỏ việc đánh cắp thẻ tín dụng truyền thống. Đi kèm với nhu cầu của khách hàng, dịch vụ này còn cho phép gửi tin nhắn SMS hoặc mất phí dữ liệu để thực hiện các thanh toán. Các khách hàng Citi Tap and Pay sẽ phải sử dụng điện thoại Nokia N 6212 classic có tính năng NFC, mà có thể mua tại các cửa hàng của Nokia, nạp trước ứng dụng Citi Tap and Pay để hỗ trợ công nghệ thanh toán không tiếp xúc PayPassTM của thẻ MasterCard. Sau đó, họ có thể thực hiện tải từ xa thẻ tín dụng Citibank MasterCard của mình vào điện thoại di động một cách an toàn. Sau khi cá nhân hóa, khách hàng có thể sử dụng ngay thẻ tín dụng trên điện thoại. Ngoài những tính năng bảo mật gắn trong, các giao dịch thanh toán này sẽ tự động tính phí vào tài khoản thẻ Citibank MasterCard của khách hàng thông qua 7
  8. cùng một mạng lưới thanh toán an toàn mà xử lý các giao dịch qua thẻ tín dụng truyền thống. Từ cuối năm nay, người dùng sẽ có thể thanh toán các mặt hàng như quần áo, phí taxi, đồ ăn, bằng điện thoại di động hiện có mà không cần tới thẻ tín dụng hay tiền mặt. Hãng Visa đang có kế hoạch triển khai dịch vụ này vào nửa cuối năm nay ở Mỹ. Nhờ đó người dùng có thể biến smartphone hiện nay thành một ví điện tử. Chúng sử dụng công nghệ truyền thông không dây phạm vi gần (NFC) và các cảnh báo chống gian lận thời gian thực, cũng như các tính năng khác để bảo vệ người dùng khỏi bị lừa, Bill Gajda, Giám đốc Visa Mobile toàn cầu cho biết. Cho dù hứa hẹn tiện dụng và dễ sử dụng thì ngành công nghiệp ví điện tử mới chỉ cởi bỏ được sự khởi đầu chậm chạp, khi các nhà chế tạo điện thoại di động kéo lê đôi chân của mình trong việc áp dụng công nghệ NFC và các nhà bán lẻ không nhìn thấy nhu cầu cài đặt các bộ đầu đọc thanh toán di động nếu điện thoại chưa được trang bị chúng. Năm 2008, GSMA - Hiệp hội GSM đã kêu gọi các nhà chế tạo tích hợp chip NFC trên điện thoại di động vào cuối năm 2009 và 3 năm sau chúng mới bắt đầu lộ diện. Thay vì chờ đợi, Visa sẽ cung cấp cách để sử dụng smartphone hiện có bằng cách gắn thẻ nhớ microSD vào khe cắm SD ở mặt sau của điện thoại di động. Thẻ này hoạt động cùng với ứng dụng PayWave (có thể tải về) của Visa. Một số ngân hàng lớn ở Mỹ đang thử nghiệm công nghệ này. Gajda cho biết, mọi người không muốn chờ đến 2 năm để có điện thoại tích hợp công nghệ NFC hay phải đổi điện thoại khác. Hiện người dùng có thể thực hiện phương thức thanh toán này trên điện thoại iPhone 4. Thẻ nhớ microSD vừa vặn với khe cắm đằng sau điện thoại. Các thiết bị đầu đọc đầu cuối dựa trên công nghệ đã được chuẩn hóa nên có thể làm việc với hệ thống PayWave của Visa, cũng như PayPass của MasterCard và Express Pay. Vào thời điểm này, chỉ có Visa cung cấp giải pháp thẻ nhớ ngoài để điện thoại không có chip NFC vẫn có thể thanh toán thay cho thẻ tín dụng hiện nay. Ông dự đoán, công nghệ NFC sẽ phát triển nở rộ trong năm nay, chuyển từ ví da 8
  9. sang ví điện thoại di động sẽ đến trong năm nay. Thanh toán từ điện thoại di động đang được thực hiện trên iPhone 3 và 4, trên nhiều mẫu BlackBerry khác nhau và Samsung Galaxy S II. Chip NFC cũng có thể được áp dụng trên các điện thoại Nokia mới cài hệ điều hành Windows Phone 7. Google đã bổ sung khả năng hoạt động NFC trên phiên bản hệ điều hành Android mới cập nhật đầu năm nay và cho biết đang làm việc trên một ví di động có tên mã là Cream. Ví di động này sẽ có thể được cài đặt Androids hỗ trợ NFC, trong khi đó, điện thoại Nexus S đã tích hợp công nghệ NFC nhưng chưa hỗ trợ cho việc thanh toán. Trong khi đó, Apple được đồn thổi đang xem xét bổ sung chip NFC cho phiên bản iPhone mới. Hệ thống thanh toán di động NFC đã xâm nhập vào một số quốc gia khác, chẳng hạn như Nhật Bản và Hàn Quốc, trong khi Brazil, Ấn Độ và các quốc gia khác sẽ áp dụng công nghệ này trong vài năm tới. Visa Châu Âu đã thử nghiệm giải pháp thẻ SD cho người dùng iPhone ở Thổ Nhĩ Kỳ và mở rộng ra toàn Châu Âu. Thẻ thanh toán quốc tế: Tiện ích và bất cập Thẻ thanh toán quốc tế đang là giải pháp khi không mua được ngoại tệ tại các NHTM hiện nay. Tuy nhiên mức phí chuyển đổi ngoại tệ cao khiến nhiều người vẫn e dè. Thực hiện Nghị định 11 của Chính phủ về việc kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại tệ, tuần đầu tháng 3, thanh tra các Ban ngành đã được đồng loạt triển khai để kiểm tra, bắt giữ các hoạt động mua bán ngoại tệ trái phép. Thị trường ngoại tệ tự do đóng cửa đồng nghĩa với việc các nhu cầu mua bán ngoại tệ của người dân chỉ có thể gõ cửa các tổ chức tín dụng kinh doanh ngoại tệ - các NHTM. Tuy nhiên vấn đề xảy ra khi hàng loạt các ngân hàng đều từ chối bán ngoại tệ cho người dân với lý do không đủ ngoại tệ để bán. Thậm chí, ngay cả khi NHNN có văn bản 2033/NHNN-QLNH ngày 12/3/2011 gửi các tổ chức tín dụng (TCTD) chủ động bán ngoại tệ tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu hợp pháp như công tác, học tập, chữa bệnh của cá nhân theo 9
  10. các quy định của pháp luật thì đến ngày 15/3, có ngân hàng chỉ giới hạn bán ra 100 USD và giới thiệu khách hàng đến ngân hàng lớn hơn vẫn với lý do không có USD để bán, nếu mua bằng ngoại tệ khác được mua với giới hạn tương đương 3.000 USD. Tuy nhiên, trong văn bản chỉ đạo các NHTM tháo gỡ việc bán ngoại tệ cho người dân khi có nhu cầu hợp pháp, Thống đốc có yêu cầu toàn hệ thống tăng cường hoạt động mở thẻ thanh toán quốc tế để tạo điều kiện cho các cá nhân sử dụng thẻ thanh toán quốc tế khi có nhu cầu chi tiêu ở nước ngoài. Và thẻ thanh toán quốc tế đang là cứu cánh cho tình trạng không thể mua được ngoại tệ tại các NHTM hiện nay. Tiện ích Không ai có thể phủ nhận các tiện ích do thẻ thanh toán quốc tế mang lại. Thứ nhất là sự tiện lợi không phải mang theo tiền mặt. Thẻ thanh toán quốc tế có 2 loại: thẻ tín dụng (credit card) là thẻ trả tiền sau, thường được không tính lãi trong vòng 45 ngày tuy nhiên đòi hỏi người sử dụng phải chứng minh thu nhập và số tiền chi tiêu có hạn mức, đồng thời lãi suất đối với việc thanh toán quá hạn thường rất cao (từ 18% - 24%/năm). Thẻ ghi nợ (debit card), là thẻ người sử dụng đã có sẵn tiền trong đó, cũng có thể sử dụng để thanh toán ở bất cứ nơi nào trên thế giới mà không phải đem theo tiền mặt. Thứ hai là tránh được giới hạn số tiền, khi mang ngoại tệ tiền mặt ra nước ngoài, chúng ta bị giới hạn chỉ được cầm tối đa 7.000 USD, nếu nhiều hơn phải khai báo, với việc sử dụng thẻ, điều này sẽ không bị giới hạn. Thứ ba là khả năng quản lý rủi ro: khi bị mất tiền coi như mất hết tài sản, nếu bị mất thẻ, người sử dụng có thể gọi điện cho trung tâm thẻ báo khóa lại thẻ. Thứ tư là sử dụng trên toàn thế giới: Hiện nay, thẻ nội địa của các ngân hàng trong nước như Vietcombank connect 24, Techcombank F@stAcess không được chấp nhận thanh toán quốc tế. Các thẻ thanh toán quốc tế của các ngân hàng đều phải liên kết với các hãng thẻ lớn trên thế giới là Visa, Master card, American Express, JCB và các thẻ này được chấp nhận ở hầu hết các nước trên thế giới, nơi có máy cà thẻ (máy POS) hoặc qua Internet. Khách hàng có thể mua sắm online với nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới mà không cần phải đến tận nơi. Khách hàng có thể rút ngoại tệ bằng tiền mặt ở nước ngoài (máy ATM) tuy nhiên phải chịu phí rút tiền mặt rất cao (vì thế giới không khuyến khích sử dụng tiền mặt) và phí chuyển đổi ngoại tệ. Thứ năm, được sử dụng các tiện ích gia tăng do nhà cung cấp mang lại, ví dụ như thẻ Agribank Visa/MasterCard, khách hàng được miễn phí bảo hiểm tai nạn chủ thẻ trên phạm vi toàn cầu với số tiền bảo hiểm lên tới 15 triệu đồng đối với thẻ hạng Chuẩn/Vàng và lên tới 5000 USD đối với thẻ hạng Bạch kim khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện của Agribank. 10
  11. Đối với Cremium Visa và Master card của Vietinbank khách hàng được tặng Bảo hiểm y tế toàn cầu cho chủ thẻ ngay khi phát hành thẻ với giá trị bảo hiểm 5.000 USD cho thẻ Vàng và 1.000 USD cho thẻ chuẩn. Đối với Visa của Vietcombank cũng được bảo hiểm 5.000 USD cho thẻ Vàng. Bất cập: Quá nhiều loại phí Việc sử dụng thẻ thanh toán quốc tế không tránh khỏi các bất cập. Thứ nhất là việc thu phí chuyển đổi ngoại tệ của các ngân hàng khá cao. Gần như tất cả các ngân hàng đều thu phí chuyển đổi ngoại tệ (Khi dùng thẻ thanh toán hàng hóa/dịch vụ bằng ngoại tệ sẽ bị thu phí chuyển đổi từ VND sang ngoại tệ). Kể từ đầu năm 2011, hầu hết các ngân hàng đều tăng mức phí này, điển hình như Techcombank ngày 25/1/2011 thu phí 2,5%/tổng số tiền thanh toán, đến ngày 18/3/2011 tới đây tăng lên 4,5%/tổng số tiền thanh toán. Còn tại hầu hết các ngân hàng khác, mức phí dao động từ 2% - 4,5%/tổng số tiền thanh toán và tùy thuộc vào loại thẻ (Visa hay Master card ). Cá biệt, đối với ngân hàng Standard Chartered Việt Nam, mỗi giao dịch nước ngoài thu thêm 10% phí trên tổng số tiền giao dịch (giao dịch 1000$ thu 100$ tiền phí), nếu rút tiền mặt ở nước ngoài thì khách hàng phải nộp thêm 75.000 đồng và phí dịch vụ ở các ngân hàng khác. Với HSBC phí giao dịch ngoại tệ là 7%, mới hạ xuống 4,5%/tổng số tiền giao dịch từ ngày 04/03/2011. Việc thu phí này khiến nhiều người sử dụng cảm thấy khá bất tiện bởi tính ra, mức chênh lệch 4,5% hoàn toàn không nhỏ. Nếu lấy tỷ giá bình quân liên ngân hàng ngày 16/3/2011 là 20.658 đồng/USD thì tính ra người sử dụng sẽ phải trả với tỷ giá khoảng 21.587 đồng/USD (chênh lệch 4,5% tiền phí). Thứ hai là việc đảm bảo an toàn về thông tin, nhất là đối với các khách hàng sử dụng thẻ tín dụng. Việc sử dụng thẻ để thanh toán trên internet cũng dễ bị hacker lấy cắp mã PIN và tài khoản nếu người dùng bất cẩn sử dụng tại các máy tính công cộng hoặc bị gài phần mềm gián điệp tại máy tính mình mà không biết. Mỗi năm thế giới mất hàng tỷ đô la từ các thẻ tín dụng bị tin tặc đánh cắp thông tin. Một số thẻ tín dụng mã PIN được ghi ngay trên mặt sau của thẻ tín dụng, do đó khách hàng phải đảm bảo luôn theo dõi quá trình quẹt thẻ của nhân viên thu ngân, hoặc nếu mất thẻ phải báo ngay lại cho ngân hàng để khóa thẻ. Thứ ba, việc chứng minh thu nhập để mở thẻ credit (có sao kê bảng lương, chứng minh thu nhập khác, hóa đơn điện nước, hộ khẩu v v) là một phiền phức giấy tờ thủ tục với nhiều người . Thông thường, hạn mức đối với thẻ tín dụng gấp đôi thu nhập hàng tháng của khách hàng (đối với khách hàng không có thế chấp). Tại Vietcombank, nếu phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở tài sản bảo đảm, khách hàng sẽ phải mở tài khoản deposit với mức thế chấp là 125% (ví dụ tài 11
  12. khoản có 12,5 triệu đồng được tiêu 10 triệu đồng). Tài sản bảo đảm: tiền mặt, sổ tiết kiệm, phong tỏa tài khoản tiền gửi tại Vietcombank, các loại giấy tờ có giá trị do VCB/các ngân hàng/tổ chức tài chính khác phát hành . Đối với phát hành thẻ trên cơ sở tín chấp, chỉ chấp nhận đối với tài khoản trả lương qua Vietcombank, Hợp đồng lao động và/hoặc giấy xác nhận của tổ chức/công ty về thu nhập của các nhân đề nghị phát hành thẻ, cam kết của công ty/ tổ chức (theo mẫu của VCB). Còn trong trường hợp như của VIB, khách hàng thế chấp bằng hình thức phong tỏa tài khoản, sổ tiết kiệm thì tỷ lệ Giá trị tài sản đảm bảo/Hạn mức tín dụng là 110% (có 110 đồng được tiêu 100 đồng); Bất động sản hoặc tài sản cầm cố, thế chấp khác, tỷ lệ giá trị TSĐB/Hạn mức tín dụng là 150%. Tín chấp: Đối với doanh nghiệp: Hạn mức tối đa lên đến 200 triệu; đối với cá nhân: Hạn mức linh hoạt cho từng đối tượng khách hàng khác nhau, theo đó hạn mức tối đa cấp lần đầu là 200 triệu, hạn mức tối đa cấp các lần tiếp theo là 300 triệu. Thứ tư, khách hàng phải trả phí thường niên quản lý thẻ, ví dụ ở HSBC là 300.000 đồng/năm, ở VCB đối với thẻ Visa hạng Vàng là 200.000 đồng/thẻ/năm, hạng chuẩn là 100.000 đồng/năm, tại ACB Maser card/Visa phí thường niên đối với thẻ chuẩn là 300.000 đồng/năm, thẻ vàng là 400.000 đồng/năm Trao đổi với CafeF, Ths.Trần Trọng Quốc Khanh – Giám đốc trung tâm Vàng Á Châu nguyên trưởng phòng ngoại hối ACB cho biết mức phí thẻ thanh toán cao là do số người sử dụng rất ít. Nếu số lượng người sử dụng tăng lên thì chắc chắn mức phí sẽ giảm xuống nhiều. Khi đó người dân sẽ không phải ra ngân hàng mua ngoại tệ mặt để đi công tác. Nó cũng là cách minh bạch hóa chi tiêu nhất là các chi tiêu núp dưới danh nghĩa công tác phí, hay chi phí hợp lý khác. Dù sao, đây là giải pháp tốt nhất đối với các nhu cầu cấp bách đối với người dân hiện nay khi không mua được USD tại các NHTM. 12