Quản trị ngân hàng - Phân tích tổng quan thị trường chứng khoán năm 2010 và những dự báo tình hình biến động của thị trường chứng khoán năm 2011

doc 30 trang nguyendu 7540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Quản trị ngân hàng - Phân tích tổng quan thị trường chứng khoán năm 2010 và những dự báo tình hình biến động của thị trường chứng khoán năm 2011", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docquan_tri_ngan_hang_phan_tich_tong_quan_thi_truong_chung_khoa.doc

Nội dung text: Quản trị ngân hàng - Phân tích tổng quan thị trường chứng khoán năm 2010 và những dự báo tình hình biến động của thị trường chứng khoán năm 2011

  1. Đề tài nhóm: Phân tích tổng quan thị trường chứng khoán năm 2010 và những dự báo tình hình biến động của thị trường chứng khoán năm 2011. Danh sách nhóm chứng khoán chuyên ngành tài chính doanh nghiệp làm thảo luận môn chứng khoán: 1. Nguyễn thị mai Tcc-11 0942684037(n.trưởng) 2. Hồ khánh hòa Tcb-cd26 01673226758 3. Lê thị tuyết Cka-12 01649611146 4. Chu thị huyền Tca-11 01689956638 5. Nguyễn thị thu Tca-11 0979132475 6. Nguyễn thị năm Tca-11 0973396815 7. Lê thị hà linh Tca 0948674224 8. Hoàng trung dũng Tcd 01689921924 9. Đào thùy linh Tca-11 01689959040 10.Ngô thanh liêm Tca-11 0983240409 11.Nguyễn thị hương Tcb-11 0979079295 1
  2. Lời mở đầu Năm 2010 đã khép lại với từng bước phục hồi của nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, VIỆT NAM năm 2010 đã đạt được một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 ước tính tăng 6,78% so với năm 2009, trong đó quý I tăng 5,84%; quý II tăng 6,44%; quý III tăng 7,18% và quý IV tăng 7,34%. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 6,31% của năm 2008 và cao hơn hẳn mức 5,32% của năm 2009, vượt mục tiêu đề ra 6,5%. Bên cạnh đó thì tỷ lệ lạm phát của Việt nam 2010 chạm tới 2 con số:11.75%. Đó là những con số biết nói tới các nhà điều hành chính sách kinh tế năm 2011 làm sao cho cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng và ổn định để tạo ra một môi trường kinh tế lành mạnh, phát triển. Bên cạnh nhiều biến động của nền kinh tế thế giới và nền kinh tế VIỆT NAM nói riêng đã có những tác động đáng kể đến thị trường chứng khoán năm 2010 và 2011. Dựa trên những hiểu biết và mất nhiều công sức nghiên cứu, nhóm sinh viên chuyên ngành TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP chúng tôi xin đưa ra đây chủ đề nghiên cứu: Phân tích tổng quan thị trường chứng khoán năm 2010 và những dự báo tình hình biến động ttck năm 2011. Dù đã cố gắng rất nhiều, song không thể tránh được những thiếu sót. Chúng tôi xin được sự cộng tác, góp ý kiến của thầy cô và các bạn. Chúng tôi xin chân thành cám ơn! NHÓM SINH VIÊN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP A. TỔNG QUAN VỀ NẾN KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2010: 2
  3. Kinh tế toàn cầu năm 2010 có sự phục hồi sau khủng hoảng với mức tăng trưởng ước đạt 3,9%, trong đó các nước đang phát triển tiếp tục là nhóm có mức tăng trưởng cao nhất trong năm 2010 (7%) gấp hơn 2 lần so với khối các nước phát triển (2,8%). Trong bức tranh kinh tế thế giới năm 2010, Đông Á vẫn là điểm sáng khi tiếp nối năm 2009 với mức tăng trưởng cao nhất (tới 9,3%); tiếp theo sau là khu vực Nam Á và Mỹ Latinh và Caribe với mức tăng trưởng lần lượt là 8,7% và 5,7%. Khu vực cận Sahara châu Phi, Đông Âu và Trung Á cũng có sự phục hồi ở mức tăng trưởng là 4,7%. Như vậy, các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi tiếp tục dẫn dắt sự phục hồi kinh tế toàn cầu trong năm 2010. Tuy nhiên theo dự báo của ngân hàng thế giới thì tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế thế giới vào năm 2011 sẽ là 3.3%, giảm 0.6% so với 3.9% năm 2010. Năm qua nền kinh tế thế giới đã có những bước hồi phục, tuy nhiên vẫn còn tiềm ẩn trong đó những nguy cơ như: cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực EU có thể chưa chấm dứt (TÂY BAN NHA, BỒ ĐÀO NHA, Ý), chiến tranh tiền tệ giữa MỸ và TRUNG QUỐC, tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao ở một số nền kinh tế chủ chốt: MỸ (9.4%), CHÂU ÂU (9.6%), B. TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2010: 3
  4. Năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Hình trên cho thấy có cải thiện tốc độ tăng GDP theo các quý trong năm 2010. Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi chậm chạp và trong nước gặp phải nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như trên là một thành công ước tính tăng 6,78% so với năm 2009, trong đó quý I tăng 5,84%; quý II tăng 6,44%; quý III tăng 7,18% và quý IV tăng 7,34%. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 6,31% của năm 2008 và cao hơn hẳn mức 5,32% của năm 2009, vượt mục tiêu đề ra 6,5%. Với kết quả này tốc độ tăng trưởng GDP cả giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân 7%/năm và thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 1.160 USD. Bên cạnh đó tình hình diễn biến lạm phát năm 2010 cũng rất căng thẳng: 4
  5. CPI không ngừng tăng cao do nhiều nguyên nhân: sự phục hồi của nền kinh tế dẫn đến nhu cầu lương thực tăng cao, thiên tai, bão lũ ở miền trung kéo dài khiến cho nguồn cung giảm, giá hàng hóa nhập khẩu ở các nước bạn hàng tăng lên, đồng nội tệ mất giá Bên cạnh đó thì đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa có nhiều chuyển biến tích cực, VND mất giá so với USD, hoạt động xuất khẩu năm 2010 khởi sắc hơn nhiều so với năm 2009, Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2011 phụ thuộc vào ba yếu tố chính: tình hình kinh tế thế giới, sức mạnh nội tại và ổn định kinh tế vĩ mô trong nước và sự điều hành của Chính phủ. Tuy nhiên bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho cả ba yếu tố trên. Trong ngắn hạn, năm 2011 sẽ tiếp tục chứng kiến sự phục hồi ở những nền kinh tế trên thế giới. Hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế sẽ được hồi phục nhanh hơn sau khi có sự phục hồi chậm trong năm 2010. Hơn nữa, Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong những thị trường đầu tư hấp dẫn và nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh trong những năm tới, đồng thời với sự thành công của đại hội XI tạo ra nhưng ảnh hưởng tích cực trực tiếp lên nền kinh tế Việt Nam để có thể duy trì tăng trưởng khả quan hơn trong năm 2011 để đạt được những mục tiêu quốc hội đề ra: tăng trưởng ở mức 7-7.5%,lạm phát:7%. C. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NĂM 2010: 1. Tình hình niêm yết chứng khoán năm 2010 tại Việt Nam a. Trái phiếu (1) Trái phiếu chính phủ: Khái niệm: Trái phiếu chính phủ là một loại chứng khoán nợ do chính phủ phát hành, nó là công cụ huy động vốn, công cụ quản lý quản lý kinh tế của chính phủ và làm chuẩn mực cho các công cụ nợ khác. Trái phiếu chính phủ là công cụ được nhà nước sử dụng để vay vốn từ công chúng nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước. Ngoài ra, trái phiếu chính phủ còn là một công cụ góp phần điều tiết thị trường tiền tệ trong những trường hợp cần thiết và kiềm chế lạm phát. Tính đến ngày 24/09/2010, tổng khối lượng trái phiếu đã niêm yết trên thị trường trái phiếu chuyên biệt là 2,227 tỷ trái phiếu, trong đó trái phiếu chính phủ có 1,67 tỷ trái phiếu, với giá trị niêm yết trái phiếu chính phủ là 167.495 tỷ đồng. Tuy nhiên, hầu hết lượng trái phiếu phát hành này đều chủ yếu diễn ra trong 3 quý đầu của năm, riêng quý IV, tổng khối lượng trái phiếu phát 5
  6. hành khá thấp chỉ đạt 11 400 tỷ đồng, bằng 10% tổng khối lượng phát hành cả năm. (2) Trái phiếu doanh nghiệp: Khái niệm: Trái phiếu doanh nghiệp phát hành để huy động vốn trung và dài hạn trên thị trường nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. Năm 2010, thị trường cổ phiếu có nhiều biến động, ngân hàng nhà nước siết chặt tín dụng, các ngân hàng thương mại đua nhau tăng lãi suất cao kỷ lục, thêm vào đó là tình hình lạm phát tăng cao, khiến việc huy động vốn của doanh nghiệp qua hình thức phát hành cổ phiếu và vay ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, hình thức huy động qua kênh phát hành trái phiếu là thích hợp nhất hiện nay. (-) Phát hành nhiều Theo số liệu từ ủy ban chứng khoán nhà nước, năm 2010, các doanh nghiệp đã phát hành 116.000 tỷ đồng qua thị trường chứng khoán, trong đó 86.000 tỷ đồng từ phát hành cổ phiếu, số còn lại là từ phát hành trái phiếu và trái phiếu chuyển đổi. Các trường hợp phát hành thường tập trung vào ngành bất động sản và ngân hàng. Một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu với số lượng lớn như ngân hàng VCB, BIDV, ACB; Tập đoàn Hòa Phát; Công ty cổ phần Sông Đà Thăng Long Đối với doanh nghiệp, phát hành trái phiếu được lựa chọn nhiều do là một hình thức vay vốn nhưng doanh nghiệp chủ động sử dụng nguồn vốn huy động được mà không phải chịu sự giám sát chặt chẽ cho từng mục đích sử dụng như đối với nguồn vốn vay ngân hàng. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu không phải chịu sức ép về cổ tức từ cổ đông mới như phát hành cổ phiếu. Ngoài ra, do lãi trả trái chủ được tính là chi phí trước thuế thu nhập nên doanh nghiệp giảm được phần thuế thu nhập phải nộp tương ứng. Tình hình phát hành trái phiếu doanh nghiệp năm 2010 cho thấy thị trường trái phiếu ở Việt Nam đã khởi sắc, niềm tin nhà đầu tư vào doanh nghiệp tăng lên. Các doanh nghiệp có thêm nguồn vốn trung - dài hạn với lãi suất ổn định và cơ cấu nhà đầu tư đa dạng hơn. Ngân hàng giảm một phần sức ép cung cấp vốn trung và dài hạn Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến thành công của việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp là lãi suất cao. Lãi suất trái phiếu trong năm đầu tối thiểu từ 14%-15%/năm và thả nổi từ năm thứ 2, nhưng bao giờ cũng bằng 6
  7. lãi suất tiết kiệm 12 tháng của ngân hàng thương mại cộng với biên độ từ 4%-5,5%/năm. Một nguyên nhân nữa là bối cảnh của thị trường tài chính với những diễn biến như: thị trường chứng khoán bất ổn; lãi suất ngân hàng và lãi suất trái phiếu chính phủ giảm; thị trường bất động sản ở nhiều vùng khởi sắc, nên việc phát hành trái phiếu để thực hiện các dự án trở nên khá dễ dàng Để mở rộng hơn khả năng tiếp cận vốn, một số doanh nghiệp đẩy mạnh phát hành trái phiếu chuyển đổi. Bằng cách này, doanh nghiệp vừa có vốn, vừa tránh được lãi suất ngân hàng cao, không phải tìm ngân hàng đánh giá định mức tín nhiệm và bảo lãnh, không phải chịu áp lực trả nợ. Không chỉ phát hành trái phiếu trong nước, doanh nghiệp Việt Nam đang có tham vọng huy động vốn từ phát hành trái phiếu ra nước ngoài. Vừa qua có thông tin Chính phủ đã có văn bản đồng ý về nguyên tắc bảo lãnh cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, với tổng trị giá phát hành khoảng 1 tỉ USD. Một số tập đoàn doanh nghiệp nhà nước lớn cũng đang thăm dò khả năng phát hành qua kênh này trong thời gian tới. (-) Niêm yết ít Mặc dù phát hành nhiều nhưng số mã trái phiếu doanh nghiệp niêm yết trên Sở gioa dịch chứng khoán Hà Nội chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là thủ tục rườm rà, thời gian đợi được niêm yết lâu, trong khi thời hạn niêm yết trái phiếu lại ngắn. b. Cổ phiếu -Khái niệm: Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi. - Tình hình niêm yết cổ phiếu năm 2010: Năm 2010, thị trường chứng khoán Việt Nam ghi nhận làn sóng doanh nghiệp ồ ạt lên sàn với tổng cộng 195 mã cổ phiếu mới, tương ứng với hơn 40.038 tỷ đồng mệnh giá, trong đó, 82 cổ phiếu trên sàn TPHCM và 113 cổ phiếu trên sàn Hà Nội đạt 93.666 tỷ đồng, chiếm 13% toàn thị trường. Đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam có tổng số 646 mã chứng khoán đang niêm yết trên cả 2 sàn, trong đó, 366 mã niêm yết trên sàn Hà Nội và 280 mã niêm yết trên sàn TPHCM. Trong bối cảnh thị trường ảm đạm, hầu hết các cổ phiếu mới niêm yết 7
  8. đều rơi vào tình trạng lên sàn giảm giá, trái ngược so với một vài năm trước đây. Kết thúc năm, có khoảng 90% số mã niêm yết mới có giá thấp so với phiên chào sàn, chỉ có 22 mã giữ được mức giá tương đương hoặc nhỉnh hơn. Sàn HNX năm vừa qua đón nhận 113 doanh nghiệp lên sàn nhưng có đến 101 mã niêm yết mới giảm giá. Tính đến 31/12/2010, HOSE còn 18 doanh nghiệp đang chờ được niêm yết, và sàn HNX vẫn còn hơn 69 doanh nghiệp. Theo một thông báo gần đây, HNX dự kiến đón thêm 100 doanh nghiệp nữa lên sàn. Tuy nhiên, để hạn chế tình trạng doanh nghiệp đua nhau lên sàn và tăng chất lượng niêm yết, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có dự thảo về quy định niêm yết mới trong đó doanh nghiệp muốn lên sàn HOSE phải có mức vốn điều lệ tối thiểu từ 120 tỷ đồng trở lên và hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi với tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của năm liền trước năm đăng ký niêm yết tối thiểu là 5% và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết. c. Chứng chỉ quỹ đầu tư (-) Khái niệm: Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. Loại chứng khoán này gắn với hoạt động huy động vốn của quỹ đầu tư chứng khoán. (-) Tình hình niêm yết chứng chỉ quỹ năm 2010 2010 là năm thất bát của quỹ đầu tư kể cả quỹ đầu tư nước ngoài và cả 5 quỹ đầu tư nội địa đang niêm yết trên sàn TP.HCM. 5 quỹ niêm yết nói trên đều là quỹ đại chúng và quỹ đóng. Theo Điều 92 Luật Chứng khoán, công ty quản lý không được sử dụng vốn và tài sản của QĐT chứng khoán để đầu tư vào chứng chỉ quỹ của chính quỹ đại chúng hoặc của một quỹ khác. Việc mua lại chứng chỉ quỹ của chính mình có thể thực hiện đối với quỹ mở, nhưng quỹ mở lại chưa được phép hoạt động tại Việt Nam. Điều này khiến cho các quỹ đầu tư Việt Nam đang gặp khó khăn lớn. DANH SÁCH CÁC CHỨNG CHỈ QUỸ ĐANG NIÊM YẾT TẠI SÀN TP.HCM Tên công ty KL niêm Ngày Mã quỹ Tên quỹ đầu tư quản lý quỹ yết niêm yết 8
  9. Công ty TNHH QUỸ ĐẦU TƯ Quản lý Quỹ 20/12/200 MAFPF1 TĂNG TRƯỞNG Đầu tư Manulife 21.409.530 7 MANULIFE chứng khoán Việt Nam Công ty TNHH Quản lý QUỸ ĐẦU TƯ Quỹ Đầu tư 22/11/200 PRUBF1 CÂN BẰNG 50.000.000 Chứng khoán 6 PRUDENTIAL Prudential Việt Nam Công ty QUỸ ĐẦU TƯ Liên doanh Quản VFMVF 100.000.00 22/09/200 CHỨNG KHOÁN lý Quỹ Đầu tư 1 0 4 VIỆT NAM - VF1 Chứng khoán Việt Nam Công ty QUỸ ĐẦU TƯ Liên doanh VFMVF DOANH NGHIỆP Quản lý 03/06/200 80.646.000 4 HÀNG ĐẦU Quỹ Đầu tư 8 VIỆT NAM Chứng khoán Việt Nam Quỹ đầu tư Công ty cổ phần VFMVF 09/07/201 năng động Việt quản lý quỹ đầu 24.043.760 A 0 Nam tư Việt Nam. 2. Tình hình giao dịch chứng khoán a. Thị trường trái phiếu 9
  10. Nguồn từ. Thị trường sơ cấp Trong năm 2010, đã khoảng 65.000 tỷ trái phiếu và tín phiếu Kho Bạc Nhà Nước được phát hành trên thị trường sơ cấp. Khối lượng trái phiếu doanh nghiệp vào khoảng 47.000 tỷ đồng. Tổng giá trị giao dịch trên thị trường thứ cấp là 80.000 tỷ đồng trong đó giá trị mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài chỉ là 28 tỷ . Tín phiếu kho bạc và ngân hàng Tổng giá trị phát hành gần 110 tỷ đồng và được phát hành chủ yếu vào 3 quý đầu năm còn lạIi quý IV chỉ phát hành chỉ có 11.4 tỷ đồng .các cuộc đấu thầu hay bảo lãnh tr.ph với tỷ lệ thành công rất thấp .Nguyên nhân là do : 1. thâm hụt ngân sách giảm từ 6.2% xuống 5.8% GDP nên nhu cầu phát hành trái phiếu vào cuối năm không còn cấp thiết . 2. mức lãi suất trái phiếu giảm so với quý trước và so với thị trường thứ cấp nên trên thị trường sơ cấp trái phiếu trở nên kém hấp dẫn 3. lạm phat tăng mạnh vào những tháng cuối năm dẫn đến tỷ lệ lạm phát cả năm là 11,75%và cuộc chạy đua lãi suất huy động vốn của các ngân hàng lãi suất lên đến 17%.làm cho kỳ vọng tỷ suất lợi tức của trái phiếu tăng tuy nhiên trên thực tế lai ko như vậy khiến các nhà đầu tư vào trái phiêú giảm mạnh . 4. nguy cơ rủi ro tỷ giá đã ảnh hưởng đến tâm lý các nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài gần như đã không hứng thú với đầu tư trái phiếu. 10
  11. Nguồn HSC Vì vậy trong năm 2011 thị trường trái phiếu sơ cấp sẽ còn tiêp tục có những khó khăn và tương đối trầm lắng. Ngay trong quý đầu của năm nay do sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô lạm phát tăng hơn 3% trong 2 tháng , chính phủ và ngân hàng nhà nước đã ra quyết định chính sách tài khoá chặt và cs tiền tệ chặt . làm cho hoạt động trên thị trường trầm lắng lại. Theo kế hoặch sẽ phát hành 45000 tỷ đồng .trong đó tập trung vào ngành sản suất như giao thông là 23000 tỷ đ , thuỷ lợi là 12000 tỷ đ va một số ngành như giáo dục là 4500 tỷ , y tế ( xây dựng bệnh viện ) 4000 tỷ đ VND được kì vọng phá giá thêm từ 5-7% trong năm 2011. Thắt chặt tiền tệ có thể kéo dài hết quý 1/2011, và bắt đầu nới lỏng từ quý 2. Lạm phát trong năm 2011 dự đoán khoảng 8,6%. Kế hoạch phát hành 45.000 tỷ trái phiếu Chính Phủ cả năm 2011 theo chúng tôi hoàn toàn có thể đạt được. Thanh khoản của thị trường thứ cấp có thể cải thiện nhờ vào việc thực hiện tái cơ cấu lại thị trường trái phiếu, nhưng sẽ vẫn thiếu vắng nhà đầu tư nước ngoài. Lợi suất trái phiếu được kì vọng ổn định trong quý 1/2011 rồi giảm dần từ quý 2/2011. Trái phiếu doanh nghiệp Do lãi suất cho vay của các ngân hàng cao việc đi vay này trở nên khó khăn . vì vậy việc huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu là một giải pháp cho các doanh nghiệp . các đợt phát hành đều khá thành công với con số 47000 tỷ trái phiếu đã được phát hành . Theo thông tư số 13 NHNN đã tăng hệ số rủi ro cho vay lên 250% đối với các đối tượng vay là nhà đầu tư chứng khoán , bất động sản.dẫn đến khả 11
  12. năng mở rộng thị trường này trong năm 2011 sẽ tăng lên . và đặc biệt với nghị định số 84/NĐ-CP của chính phủ yêu cầu đối với tất cả các doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu hay trái phiếu trong thời gian trái phiếu chuyển đổi sẽ phải trình bày tất cả các rủi ro cho các nhà đầu tư tiềm năng biết và đưa ra kế hoặch phòng ngừa rủi ro nhằm bảo vệ lợi ích các nhà đầu tư hiện hữu .làm tăng tính minh bạch trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên việc phát hành trái phiếu ra quốc tế sẽ bị hạn chế do thực trang của tập đoàn vinasin trong năm 2010 .với tổng số tiền nợ là hơn 80.000 tỷ đ. Trong đó chính phủ bảo lãnh 1tỷ USD. Dẫn đến sự mất lòng tin vào trái phiếu VN Thị trường thứ cấp Trong năm 2010 tổng khối lượng trái phiếu giao dịch là 842,11 triệu trong đó giá trị đạt 88.57 nghìn tỷ đồng., quý IV với khối lượng giao dịch lớn nhất gấp đôi quý I . trong cả năm khối lượng giao dịch tháng là thấp nhất ( khoảng 29 triệu tr.ph và 2,8 nghìn tỷ đồng ) và tháng 11 với khối lương giao dịch là cao nhất ( khoảng 113,54 triệu tr.ph và 12,733 nghìn tỷ đồng ).Các ngân hàng đẩy mạnh vay mượn trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Nguồn HSC Nhìn chung thị trường năm qua khá ảm đạm khi giao dịch nhà đầu tư nước ngoài khoảng 17 nghìn tỷ đồng trong đó giá trị mua ròng chỉ đạt 28 tỷ do lo ngại sự mất giá của VND. 12
  13. Trái phiếu phát hành quốc tế. Trong năm 2010, Việt Nam đã phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế. Vấn để của Vinashin và việc hạ định mức tín nhiệm của các tổ chức tín nhiệm quốc tế đối với nợ quốc gia đã làm suy giảm mạnh niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài đối với trái phiếu Việt Nam cũng như gây khó khăn cho việc phát hành trái phiếu quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Tổng công ty than và khoáng sản đã phải hoãn lại kế hoạch phát hành 1 tỷ USD và 0,5 tỷ USD ra thị trường quốc tế do những điều kiện không thuận lợi này. CDS của Việt Nam liên tục tăng trong năm và nằm ở mức rất cao so với Indonesia và Philippines. Tình hình kinh tế viet nam cũng như trên thế giới vẫn còn những khó khăn rất đáng lo ngại như khủng hoảng nợ châu Âu , sự bất ổn, mất giá của VND vì vậy năm 2011 vẫn còn đầy thách thức với thị trường trái phiếu này Tuy nhiên do NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nên các NHTM sẽ đẩy mạnh vay mượn trên thị trường thứ cấp hơn . đây cũng là một yếu tố giúp thị trường khả quan hơn . b. Thị trường cổ phiếu Thị trường sơ cấp Năm 2010 là năm nguồn cung cổ phiếu tăng đột biến với khối lượng phát hành thêm mới 8698 triệu cổ phiếu tăng 52% so với năm trước . Hoạt động phat hành nở rộ vào đầu năm 2010 do chịu tác động của thông tư 13 đây cũng là nguyên nhân khiến cho thị trường trở nên ảm đạm. 13
  14. Với các ngân hàng quy mô vốn còn dưới 1.000 tỷ đồng thì việc xây dựng kế hoạch tăng vốn lên 3.000 tỷ đồng càng áp lực hơn. Đơn cử như WesternBank đưa ra chỉ tiêu tăng vốn từ 1.000 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng sau khi niêm yết cổ phiếu trên sàn HOSE (dự kiến trong tháng 4/2010) và sau đó tiếp tục tăng lên mức 3.000 tỷ đồng. DaiA Bank cũng không ngoại lệ với kế hoạch tăng lên 3.000 tỷ đồng so với mức vốn điều lệ hiện tại là 1.000 tỷ đồng Ngoài ra, các ngân hàng cổ phần quy mô cũng vào cuộc đua tăng vốn trong năm 2010. Cụ thể, ACB xây dựng kế hoạch tăng vốn từ 7.800 tỷ đồng hiện nay lên 9.400 tỷ đồng; Sacombank tăng từ 6.700 tỷ đồng lên 9.179 tỷ đồng; Eximbank dự kiến tăng vốn lên trên mức 8.800 tỷ đồng hiện tại và Vietcombank cũng có kế hoạch nâng vốn thêm 10% so với mức hơn 12.000 tỷ đồng hiện nay. Quy mô nguồn cung cổ phiếu dồi Đặc điểm chung của các đợt phát hành cổ phiếu không thành công là doanh nghiệp làm ăn không nổi bật, thậm chí có doanh nghiệp trong số kể trên lỗ khá lớn. Năm 2010 là năm đỉnh cao của hoạt động với khoảng 110 ngàn tỷ đồng được cấp phép, chỉ đứng sau mức 127 ngàn tỷ đồng năm 2007, vượt xa mức 29 ngàn tỷ đồng năm 2008 và 39 ngàn tỷ đồng năm 2009. Thị trường cổ phiếu niêm yết . Trái với những nhận định dự báo khá lạc quan cuối năm trước, thị trường chứng khoán năm 2010 đã gặp nhiều khó khăn và khiến giới đầu tư thất vọng khi sụt giảm so với năm 2009. Mặc dù thị trường có đợt hồi phục mạnh gây bất ngờ từ cuối tháng 11/2010, VNI vẫn đóng cửa giảm 2% so với cuối năm trước khi chốt phiên 31/12/2010 tại 484.66 điểm, HNX – index gây thất vọng nhiều hơn khi đóng cửa năm tại 114.24 giảm tới 32% so với cuối 2009. Kết quả chênh lệch giữa hai sàn giao dịch chính thức này phần nào cho thầy nhiều vấn đề ẩn chứa đằng sau các chỉ số Ấn tượng của một thị trường lạc quan năm 2009 chỉ xuất hiện trong 6 tháng đầu năm 2010 và đây cũng là giai đoạn thị trường đạt mức cao nhất trong năm ( VNI tại 549 điểm và HNX – index tại 187.22 điểm ). Nửa cuối năm 2010 là thời kỳ khó khăn nhất của thị trường khi niềm tin sụp đổ bởi tác động của bất ổn kinh tế bộc lộ, chính sách tiền tệ thiếu nhất quán đồng thời thị trường chịu tác động bởi nguồn cung lớn từ các cổ phiếu niêm yết mới và phát hành thêm trong thời điểm trước bắt đầu được giao dịch, làn sóng đầu cơ phát triển mạnh trong các quý trước tan rã và khó khăn thanh khoản chung của toàn hệ thống ngân hàng khiến các khoản đầu tư vào chứng khoán bị siết lại 14
  15. VNI hai lần giảm về mức đáy 420 trong khi HNX – index giảm thấp nhất trong vòng 18 tháng xuống 97.44 điểm vào tháng 11/2010. Cuối năm 2010 đối mặt với những khó khăn ,bất lợi (lạm phát cao, tỷ giá cao, lãi suất tăng mạnh trái phiếu chính phủ bị hạn bậc định mức tín nhiệm ) triển vọng doanh nghiệp dự báo khó khăn vẫn chưa có những lý giải hợp lý để tạo dựng niềm tin.thì thị trường chứng khoán lại đi trái chiều khi có nhiều phiên tăng điểm trở lại . Tuy nhiên kết thúc năm 2010 thị trường chứng khoán Việt Nam là một số ít trong những thị trường không tăng trưởng của châu Á. Thị trường chứng khoán với nhiêù “nghi án” như : Năm 2010, những từ “làm giá”, “đội lái” trở nên quá quen thuộc đối với mọi thành phần tham gia thị trường. Nhiều cổ phiếu có những giai đoạn tăng nóng bất thường như AAA, DHT, MKV, HTV, VTV, LTC đều thuộc diện nghi án bị "làm giá". Một trong những sự kiện thu hút nhiều sự quan tâm là việc cổ phiếu AAA đã tăng từ 4x lên 9x rồi rơi một mạch về 3x. Trong quá trình giá AAA rơi không phanh, đã nổi lên nghi vấn về việc một số người dùng tiền đòn bẩy mua cổ phiếu AAA với giá cao ngất ngưởng rồi khi giá giảm đã “bỏ của chạy lấy người”. Đáng chú ý là trong ngày 28/9, gần 50% lượng cổ phiếu đang lưu hành của AAA, tương đương 5 triệu cổ phiếu được đem bán trong 1 phiên. Hay Dòng vốn nước ngoài 15
  16. Năm 2010 khép lại với kỷ lục mới của dòng vốn nước ngoài mua vào cổ phiếu trên thị trưởng niêm yết, đạt mức trên 16,1 nghìn tỷ đồng Đây là quy mô vốn vào tăng rất đáng chú ý so với mức 3.372,83 tỷ đồng của năm 2009. Mức mua ròng năm nay chỉ đứng sau kỷ lục hơn 23 nghìn tỷ đồng của năm 2007 Trong bối cảnh các quỹ thâm niêm “kẹt” cửa huy động vốn mới, đây là bằng chứng rõ ràng về dòng vốn từ bên ngoài đang chảy vào. Tuy nhiên nguyên nhân làm cho dong vốn nóng này chảy vào tăng đột biến có thể là sự hấp dẫn của giá trị cổ phiếu hay vì quy mô thị trường có khả năng điều tiết dễ dàng? Trong 2 tháng đầu quý I năm 2011 thị trưòng chứng khoán bị giảm điểm mạnh Chỉ số Vn-Index chung cuộc để mất tới 20,24 điểm tương đương 4,02%, đóng cửa ở 483,68 điểm. đây là mức mất điểm (theo %) lớn nhất kể từ ngày 15/1/2010, khi thị trường để mất 6,48% về 479,13 điểm. Các nhà đầu tư trên sàn Hà Nội cũng nằm trong tâm lý chung của thị trường khi để chỉ số HNX-Index mất 5,73 điểm hay 5,6% về 96,58 điểm. Đây cũng là mức mất điểm (theo %) lớn nhất của chỉ số HNX-Index kể từ hơn 1 năm nay khi theo dữ liệu lịch sử, lần mất điểm trên 5,5% gần nhất của thị trường là ngày 26/11/2009, thị trường giảm 5,87% xuống 155,19 điểm. Sự bất cân xứng cung cầu vẫn sẽ là vấn đề lớn của năm 2011 do nguồn cung cổ phiếu vẫn sẽ cao và nguồn tiền sẽ vẫn bị hạn hẹp. Trước nhất phải kể tới, áp lực hoàn thành tăng vốn điều lệ của ngân hàng thương mại và hạn chót cho các tập đoàn Nhà nước thoái bớt vốn. 16
  17. Về phía cầu, kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2011 là 23% thấp hơn năm 2010 và định hướng vào sản xuất sẽ tạo bất lợi cho thị trường chứng khoán trong ngắn hạn. Ngoài ra,chỉ tiêu tín dụng có thể thay đổi tùy thuộc vào các biến số kinh tế như lạm phát, tỷ giá khi mà các yếu tố trên đều đang tiềm ẩn nguy cơ tăng Yếu tố tâm lý khi mà nhiệm kỳ chinh phủ mới sẽ có những chính sách mới được mở ra sẽ thu hút được sự quan tâm đông đảo của công chúng đầu tư trong và ngoài nước Đứng trước tình hinh bất ổn của nền kinh tế vĩ mô ( lãi suất cao, lạm phát cao , tỷ giá tăng mạnh trên 9% cùng các yếu tố đầu vào như xăng dầu, giá điện tăng 15,3% ) cùng với các chính sách đi kèm như cs tài khoá và tiền tệ chặt sẽ là những khó khăn , thách thức cho thị trường chứng khoán Việt Nam . c. Tình hình giao dịch chứng chỉ quỹ năm 2010. Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp trong quỹ đại chúng. Những năm gần đây chứng chỉ quỹ được các nhà đầu tư rất chú ý khi nó là công cụ ít rủi ro hơn so với cổ phiếu và trái phiếu . Tuy vậy So với ngày đầu niêm yết trên TTCK, giá giao dịch của các chứng chỉ quỹ đầu tư (CCQ) đã giảm đáng kể (từ 30 - 50%), tốc độ giảm giá của các CCQ cao hơn khá nhiều so với mức giảm chung của TTCK. Cùng với thời gian, CCQ đang dần trở nên đuối sức. Tính đến ngày 6/7/2010, CCQ Đầu tư cân bằng Prudential (BF1) đóng cửa ở mức 5.100 đồng/CCQ, trong khi giá trị Tình hình giao dịch của chứng chỉ quỹ năm 2010. Tài sản ròng trên một chứng chỉ quỹ (NAV) là 8.871 đồng tại kỳ báo cáo gần nhất là ngày 24/6/2010. Quỹ Manulife (MAFPF1) cũng có mức giảm tương tự, xuống còn 5.100 đồng/CCQ, trong khi báo cáo NAV của MAFPF1 được xác định 6.943 đồng tại kỳ báo cáo ngày 01/07/2010. Trong khi đó, 17
  18. hai quỹ đầu tư khác do Công ty Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) quản lý là Quỹ Đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1) và Quỹ Đầu tư các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam (VF4) cũng đều chịu mức giảm điểm không kém. Quỹ VF1 đã rớt từ đỉnh cao 14.000 đồng/CCQ (quý III/2009) hiện xuống còn 11.800 đồng/CCQ, còn quỹ VF4 cũng giảm từ đỉnh 10.000 đồng xuống còn 6.900 đồng/CCQ. Có thể nhìn thấy tốc độ rớt giá của nhóm CCQ tỷ lệ thuận với thời gian CCQ niêm yết trên thị trường và điều đó khiến nhiều nhà đầu tư đã phải đặt câu hỏi, liệu nhóm chứng chỉ quỹ có đang bị thị trường định giá thấp và bao giờ thì giá của CCQ mới quay lại mức ban đầu? Đối với những nhà đầu tư xác định là đầu tư dài hạn thì không biết đến khi nào mới "hoàn vốn", chứ chưa nói đến hưởng lãi. Sự ngoảnh mặt của nhà đầu tư Đã từ nhiều tháng nay giới đầu tư dường như quên mất sự hiện diện của các chứng chỉ quỹ trên sàn. Khối lượng giao dịch hằng ngày của các CCQ thấp. Thanh khoản nhất trong số các CCQ là VF1 nhưng khối lượng khớp lệnh bình quân 10 phiên cũng chưa đến 100.000 đơn vị/ngày. Mối quan tâm của nhà đầu tư (NĐT) giảm, cho nên ngay cả thời điểm thị trường có “sóng”, CCQ vẫn lặng như tờ. Kết quả là mức độ chiết khấu giá CCQ rất cao. VF1 cũng như các quỹ VF4, VFA, PRUBF1 và MAFPF1 đã áp dụng một chiến lược đầu tư thận trọng, tập trung vào các cổ phiếu (CP) niêm yết có chỉ số tài chính cơ bản tốt. Tuy nhiên, sự thận trọng ấy không giúp cho sự tăng trưởng NAV cao hơn mức tăng trưởng của VN-Index. Theo báo cáo tài chính tháng 12.2010, tổng lợi nhuận ròng trong năm của VF1 âm 203,6 tỉ đồng. Trong bối cảnh TTCK ảm đạm, giá đa số CP đang ở mức thấp, VN-Index tăng trưởng chỉ nhờ vào động thái mua ròng của khối ngoại đối với một số CP có vốn hóa lớn, thì kết quả kinh doanh của các quỹ không khả quan cũng không đáng nhận được quá nhiều chỉ trích. Vấn đề là để thu hút sự quan tâm của NĐT, mức chiết khấu của giá CCQ phải được kéo xuống. Song điều này bây giờ lại không phụ thuộc vào QĐT. Nó phụ thuộc vào các quy định pháp lý và cơ quan điều hành thị trường. Những “cuộc lật đổ” chưa thành Đằng sau thông điệp “hoạt động lâu dài” của quỹ là gì? Cú thoát hiểm của Dragon Capital Năm 2010, khi các quỹ đóng nước ngoài do Dragon Capital quản lý bị ép thoái vốn, họ đã phải áp dụng giải pháp mua lại CCQ của chính mình, sau đó giảm vốn các quỹ. Nhờ đó giá giao dịch CCQ tăng lên, mức chiết khấu giảm xuống, ý định thoái vốn trước thời hạn của cổ đông cũng vì thế mà bớt đi. 18
  19. Các quỹ của Dragon Capital đã thoát hiểm trong gang tấc. Hãy hình dung trong trường hợp giải pháp mua lại CCQ không được thực hiện, cả ba quỹ của Dragon Capital đều phải thoái vốn, TTCK VN hẳn đã có một “cơn bão” lớn. Lúc đó Dragon Capital đang nắm lượng CP gần bằng 20% giá trị vốn hóa thị trường. Chẳng phải ngẫu nhiên ngày 3.12.2010, Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam chào mua công khai 15,85 triệu CCQ PRUBF1, tương đương 31,7% số lượng lưu hành. Mục đích chào mua được giải thích là “nhằm đảm bảo tình hình hoạt động lâu dài của quỹ trên thị trường và thể hiện cam kết của Prudential gắn bó lâu dài với Việt Nam”. Khi giá CCQ PRUBF1 xuống đến mức thấp 4.200 đồng/đơn vị vào cuối tháng 8.2010, một số tổ chức quản lý quỹ bắt đầu mua gom CCQ này. Nếu nắm trong tay một lượng chứng chỉ lớn, thí dụ trên 30% số lượng lưu hành, một tổ chức có thể yêu cầu triệu tập đại hội cổ đông bất thường. Tại đó có khả năng họ yêu cầu chuyển đổi quỹ cho một công ty quản lý quỹ khác quản lý hoặc giải tán quỹ trước thời hạn. Do mức chiết khấu của giá CCQ cao, việc thoái quỹ sẽ giúp họ và những cổ đông hiện hành có khoản lợi nhuận không nhỏ. Còn với việc chuyển đổi công ty quản lý quỹ, công ty quản lý mới sẽ không tốn chi phí lập quỹ, gọi vốn, lại được hưởng phí quản lý ngay. Thật là một công đôi việc. Cho đến cuối tháng 11.2010, khi nhận thấy nguy cơ bị thâu tóm đã định hình rõ, Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam chẳng còn cách nào khác là phải đứng ra mua lại CCQ PRUBF1. Giá chào mua tất nhiên cao hơn hẳn giá giao dịch trên sàn (vì nếu bằng hoặc thấp hơn thì ai bán?), tới 6.300 đồng/CCQ, sau đó nâng lên 6.700 đồng/CCQ. Bây giờ công ty là cổ đông lớn của quỹ và nguy cơ bị thâu tóm hoặc thoái vốn sớm cũng không còn. VF1 cũng từng bị âm thầm mua gom, nhưng do khối lượng CCQ lưu hành của VF1 lớn, nên việc thu gom không thể diễn ra nhanh. Dragon Capital, công ty mẹ của VFM, sớm nhận ra cục diện cuộc chơi và họ vào cuộc. Hiện Dragon Capital đang sở hữu 25% CCQ VF1, đủ đảm bảo việc thâu tóm hoặc thoái vốn khó xảy ra.Công bằng mà nói thì chứng chỉ quỹ do mới xuất hiện ở Việt Nam và hơn nữa nó chưa được hấp dẫn các nhà đầu tư .Bởi nó thường mất tính thanh khoản ,mức lợi tức phụ thuộc vào giá của các chứng khoán trong danh mục đầu tư.Mặt khác các công ty quản lý quỹ ở Việt Nam còn khá ít chưa đủ điều kiện để cho các nhà đầu tư hoàn toàn tin tưởng. Quỹ đầu tư Tăng trưởng Manulife - MAFPF1 báo cáo kết quả giao dịch chứng chỉ quỹ của tổ chức có liên quan như sau: 19
  20. Tên tổ chức thực hiện giao dịch: Công ty cổ phần Đầu tư Hà Việt (đại diện bởi ông Tống Văn Dũng – Tổng giám đốc) Chức vụ hiện nay tại quỹ đầu tư Tăng trưởng Manulife – MAFPF1: thành viên Ban đại diện quỹ Mã chứng khoán giao dịch : MAFPF1 Số lượng, tỷ lệ chứng chỉ quỹ nắm giữ trước khi thực hiện giao dịch: 3.607.560 CCQ, chiếm 16,85% tổng số CCQ đang lưu hành Số lượng CCQ đã đăng ký mua: 100.000 CCQ Số lượng CCQ đã mua: 23.000 CCQ (lý do không thực hiện hết số lượng đã đăng ký: do không đạt được mục tiêu đề ra) Số lượng, tỷ lệ CCQ nắm giữ sau khi thực hiện giao dịch : 3.630.560 CCQ, chiếm 16,96% tổng số CCQ đang lưu hành Mục đích thực hiện giao dịch: tăng tỷ lệ sở hữu vốn Phương thức thực hiện giao dịch: khớp lệnh Thời gian thực hiện giao dịch: 05/11/2010 – 30/11/2010( (nguồn Tóm lại năm 2010 là một năm khá ảm đạm với thị trường giao dịch chứng chỉ quỹ khi mà giá chứng chỉ quỹ liên tục giảm điểm và số lượng giao dịch rất thấp. Năm 2011,một năm cũng khó khăn cho nền kinh tế khi mà chính phủ đặt mục tiêu giảm lạm phát,thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt làm khó khăn cho các nhà đầu tư.Do đó có thể năm 2011 vẫn sẽ là một năm chứng chỉ quỹ chưa được sôi động.Nhưng những năm sau đó khi mà nền kinh tế vĩ mô ổn định và tăng trưởng thì hy vọng thị trường giao dịch chứng chỉ quỹ sẽ phát triển hơn nữa. d. Tình hình Đầu tư cổ phiếu ngoài OTC Trên sàn HOSE, mặc dù KLGD tăng hơn 7% so với năm trước nhưng GTGD lại giảm hơn 11% thể hiện rõ một năm không mấy sôi động khi thị trường phải đối mặt với áp lực cung hàng lớn trong khi dòng tiền suy yếu. Những cổ phiếu tăng mạnh nhất trên sàn HOSE là BVH, MSN, VIC có thể coi là 3 trụ đỡ giúp VNIndex không giảm quá sâu. Đây là những cổ phiếu có thanh khoản thấp nhưng tỷ trọng vốn hóa lớn ảnh hưởng mạnh đến chỉ số toàn thị trường đặc biệt khi giá cổ phiếu càng tăng cao. Có thời điểm, chỉ riêng 3 cổ phiếu này tăng trần đã kéo thị trường tăng hơn 5 điểm. Theo tính toán của VNDIRECT, chỉ số VN-Index nếu loại trừ ảnh hưởng của BVH, MSN, VIC trong năm 2010 đã giảm 18,6%, tức là chỉ còn 402,5 điểm. Việc ngược dòng của 3 cổ phiếu này càng làm tăng vốn hóa của chính công ty đồng thời ngày càng tác động mạnh hơn đến chỉ số thị trường. Bằng chứng nhìn vào những diễn biến đầu năm 2011 thị trường tăng mạnh nhưng đa 20
  21. phần các cổ phiếu đều giảm giá khiến khoảng cách giữa VN-Index và Index điều chỉnh càng được nới rộng (94,4 điểm ngày 11/2). Lúc này vốn hóa của BVH, MSN, VIC đã chiếm hơn 20% vốn hóa toàn thị trường. Có một số nghi ngờ xung quanh việc các quỹ ETF tại nước ngoài đang điều khiển chỉ số dựa trên các cổ phiếu có vốn hóa lớn nhất thị trường, điều này là có cơ sở bởi10 cổ phiếu trên nếu tăng trần đã giúp VN-Index tăng hơn 13 điểm.Chính vì vậy trong nhiều giai đoạn của năm 2010,chỉ số VN-INDEX đã không phản ánh đúng tình hình thị trường HOUSE.Tình trạng thiếu cổ phiếu đầu tầu cũng diễn ra những blue-chips một thời trước kia thì nay với mức vốn quá lớn (ACB, STB, SAM, REE, HAG,SSI ) dường như thiếu động lực và cơ hội phát triển. -Giảm mạnh nhất thuộc về những cổ phiếu có KQKD yếu kém, lỗ liên tiếp nhiều quý và kém thanh khoản. Bên sàn HNX, tăng và giảm mạnh nhất đều là những cổ phiếu đầu cơ điển hình lên nhanh, xuống nhanh tạo một hiệu ứng đặc biệt trong nửa đầu năm 2010 là các cổ phiếu bluechips với vốn hóa lớn không được ưa chuộng, làn sóng đầu cơ vào các cổ phiêu vừa và nhỏ đã lên ngôi trong suôt 5 tháng đầu năm 2010,nhưng từ tháng 5 cùng với sự tụt dốc của thị trường những cổ phiếu này cũng tụt dốc không phanh,gây ra sự mất niềm tin và chán nản của nhà đầu tư. -Năm 2010, nhu cầu vốn thông qua TTCKtăng mạnh mẽ đặc biệt trong bối cảnh mặt bằng lãi suất cao. Các công ty niêm yết đã huy động được một lượng vốn khổng lồ hơn 37,4 ngàn tỷ thông qua phát hành cho cổ đông hiện hữu. Khối ngân hàng, tài chính, bất động sản cónhu cầu tăng vốn mạnh mẽ nhất để đảm bảo cân đối tài chính theo quy định mới. Tuy nhiên việc tăng vốn ồ ạt này cũng tạo nên áp lực cung khá lớn với hơn 2,8 tỷ cổ phiếu niêm yết bổ sung trên 2 sàn Mặc dù thị trường không sôi động như năm 2009 nhưng số lượng công ty niêm yết mới có mức tăng trưởng ấn tượng hơn40%. 190 công ty lên sàn trong năm 2010 niêm yết hơn 4,8 tỷ cổ phiếu với giá trị vốn hóa hơn 93 ngàn tỷ đồng trong đó ấn tượng thuộc về các cuộc đổ bộ của dòng chứng khoán, dầu khí, và các ngân hàng vừa và nhỏ -Trong năm 2010, đã có 40 doanh nghiệp tham gia IPO. tổng số lượng cổ phần bán được là 224,2 triệu cổ, chỉ chiếm53% số cổ phần đem đấu giá, tương đương với giá trị huy động được là 3.976,5 tỷ đồng so với năm 2009, tổng số vốn huy động được tuy có tăng gấp đôi nhưng tỷ lệ thành công trong năm nay rõ ràng giảm đi đáng kể.Điều này có thể được lý giải bởi thị trường thứ cấp, nơi sẽ niêm yết các cổ phiếu đấu giá diễn biến không tích cực khiến nhà đầu tư tỏ ra khá thờ ơ với hoạt động IPO trong khi nhiều doanh nghiệp vẫn phải đẩy mạnh huy động vốn từ thị trường sơ cấp do chi phí vốn vay ở mức cao và không còn được hỗ trợ lãi suất như năm trước. 21
  22. -NĐT nước ngoài có một năm mua ròng kỷ lục hơn 16 ngàn tỷ gấp 4,6 lần so với năm 2009 và chỉ sau mức kỷ lục 22,9 ngàn tỷ năm 2007. Nhà đầu tư nước ngoài có một năm mua ròng trọn vẹn cả 12 tháng với 209/245 phiên giao dịch, tổng khối lượng mua ròng đạt hơn 15 ngàn tỷ đồng trên HOSE tạo ra một lực đỡ rất lớn cho VN-Index đặc biệt trong những giai đoạn thị trường thiếu hụt dòng tiền nội. Có những thời điểm họ mua ròng 32 phiên liên tiếp (từ đầu tháng 4 đến giữa tháng 5) hay mua ròng hơn 1,6 ngàn tỷ đồng trong phiên(bán thỏa thuận VIC cho đối tác nước ngoài) giữa tháng 12 tạo nên những nét tích cực hiếm hoi trên thị trường. Khối ngoại mua ròng nhiều nhất các bluechips quen thuộc như HAG, BVH, KBC, VNM tổng giá trị của 10 cổ phiếu này chiếm gần 63% giá trị mua ròng toàn thị trường trong năm Ngoại trừ VNM đã gần như hết room, các bluechips khác còn trống khá nhiều để họ có thể giải ngân. Giá mua ròng của khối ngoại đối với 2 cổ phiếu này của các cổ phiếu này hầu hết biến động khá tích cực so với thị trường, đặc biệt là BVH và VIC khi giá trị thường chiếm trên 56% tổng GTGD Ở chiều ngược lại, những cổ phiếu bán ròng nhiều nhất là những cổ phiếu đã tăng vốn mạnh trong năm2010 như ITC, ITA, ASM, hay 2 cổ phiếu đầu ngành điện PPC, VSH khi những kỳ vọng về thị trường điện cạnh tranh khó trở thành hiện thực trong một sớm một chiều hay những cổ phiếu đã tăng khá mạnh như Tóm lại tình hÌnh hoạt động các SGDCK diễn biến khó khăn và cổ phiếu hầu hết các nhóm ngành giảm điểm. Kết thúc năm, VN-Index đóng cửa 484,66 điểm, giảm 2%; HNX-Index đóng cửa 114,24 điểm, giảm 32,3% so với đầu năm. 3. Hạn chế và nguyên nhân, thành tựu: Lãi suất “đè” chứng khoán Sự việc “bùng nổ” lãi suất ngân hàng cuối năm có thể coi như “giọt nước tràn ly”, thể hiện một đợt sóng ngầm dữ dội kéo dài suốt cả năm trời. Vì nhiều lý do, các ngân hàng thương mại ngấm ngầm thực hiện một cuộc đua lãi suất huy động khá quyết liệt, dù ai cũng hiểu, cuộc đua này tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường cho từng ngân hàng cũng như toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh tế nói chung. Cuộc chạy đua lãi suất, bất chấp các nỗ lực của cơ quan quản lý nhà nước, đã kéo dòng tiền chạy về phía ngân hàng. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán ảm đạm, tính thanh khoản thấp, không đảm bảo khả năng sinh lời, sự hấp dẫn từ phía ngân hàng đã khiến cho nhà đầu tư càng thêm quay lưng với thị trường chứng khoán. Thanh khoản giảm 22
  23. Suốt năm 2010, thị trường chứng khoán hầu như trong trạng thái ảm đạm như chợ chiều. Nhiều phiên hầu như không có giao dịch. Các sàn vắng bóng nhà đầu tư. Chỉ lác đác có vài cổ phiếu có giao dịch, giá thấp, số lượng ít ỏi. Niềm tin của nhà đầu tư với thị trường chứng khoán đã giảm sút, nhiều nhà đầu tư đã chuyển sang lĩnh vực đầu tư khác. Thị trường chứng khoán năm 2010 khiến cho nhiều người liên tưởng tới thị trường hồi năm 2008. Tính thanh khoản của thị trường giảm là do thông tin bưng bít. Những khoản lỗ sau kiểm toán (KDC, PDC ) hay những khoản lãi bị giấu (QCG), rồi vụ làm giá bị phanh phui ở DVD khiến nhà đầu tư “không biết tin vào đâu”. Về tác động của Thông tư 13/2010 của NHNN đối với TTCK VN,: TS Võ Trí Thành - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho rằng, kể cả không thực hiện Thông tư 13, tăng trưởng tín dụng cũng không vượt quá 30% trong năm 2010. Trong khi đó, “nếu lòng tin của người dân vào thị trường tốt, dòng tiền sẽ tự động chảy vào TTCK. Dòng tiền vào chứng khoán không liên quan quá nhiều đến nguồn tín dụng” - ông Thành nhấn mạnh. Một yếu tố khác cản trở lực hút tiền vào TTCK là rủi ro về chính sách. Nhiều chuyên gia có chung nhận định rằng, các thông điệp chính sách phát ra đôi khi lẫn lộn và thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Vấn đề trước mắt đối với kinh tế VN trong giai đoạn hiện nay là tình trạng lạm phát cao trước áp lực tăng trưởng quá lớn. Thông tư này đã là một trong những nguyên nhân chính khiến VN-Index “rơi tự do” nhiều phiên, phá tan mọi ngưỡng hỗ trợ kỹ thuật, đưa chỉ số về mức thấp nhất kể từ đầu năm 2010. Giới đầu tư vội vã tháo chạy khỏi thị trường. Sau “cú đòn” này, dù được “bồi dưỡng” bằng nhiều thông tin tích cực, nhưng thị trường vẫn không thể cải thiện được xu hướng giảm như “bóng ma” ám ảnh đè nặng thị trường Kết thúc năm 2010, chỉ số VN-Index và HNX-Index giảm lần lượt 2.0% và 32.1% so với cuối năm 2009. Tuy nhiên, mức sụt giảm của nhiều cổ phiếu ở mức cao gấp nhiều lần so với hai chỉ số, từ 50 – 60%. 23
  24. Mặc dù vậy, chứng khoán Việt Nam đang đứng trước cơ hội khá lớn do đang được định giá khá thấp. Theo tính toán của chúng tôi, P/E và P/B của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang ở mức 11 lần và 1.8 lần. Thành tựu: Cùng sự hồi phục của nền kinh tế sau khủng hoảng, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng giữ được điểm sáng hiếm hoi là sự quan tâm của các nhà đầu tư ngoại. Theo Trung tâm Lưu ký, hiện Việt Nam đã có 14.731 tài khoản của nhà đầu tư ngoại, trong đó 1.426 nhà đầu tư tổ chức, 13.315 nhà đầu tư cá nhân. Tính đến cuối tháng 11/2010, các nhà đầu tư ngoại đã nắm giữa số cổ phiếu trị giá tới 17.500 tỷ đồng. Trong khi báo cáo kinh tế của các tổ chức nước ngoài luôn lo ngại về vấn đề lạm phát, sự thiếu bền vững của kinh tế vĩ mô thì vẫn có những nhận xét rất ưu ái về triển vọng của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sự tham gia ngày càng nhiều của các nhà đầu tư ngoại cho thấy sự kỳ vọng của họ vào sự phát triển của thị trường Trong bầu trời u ám của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2010, vẫn có những ngày rạng nắng. Một số đợt sóng, dù nhỏ, dù ngắn, phát sinh hồi đầu năm và những ngày trung tuần tháng 12 cho thấy, nhà đầu tư vẫn hy vọng vào sự khởi sắc của thị trường. Đặc biệt, những cơn sóng nhỏ cuối năm 2010 như “ánh sáng cuối đường hầm”, cho thấy hy vọng của nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam 2011. Thị trường nhận được sự hỗ trợ mạnh từ nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài hầu như giữ trạng thái mua ròng các cổ phiếu niêm yết 24
  25. chủ chốt. Đặc biệt các mã bluechips như HAG, BVH, MSN, được khối ngoại tập trung mua ròng là lực đỡ quan trọng cho thị trường. Tổng giá trị mua ròng trên cả HoSE và HNX tính tới 29/12/2010 đạt hơn 16,039 tỷ đồng. Trong đó bao gồm giá trị mua ròng tại HoSE là 15,251 tỷ và tại HNX là 788 tỷ đồng. Mặc dù khối ngoại mua ròng mạnh thể hiện dòng vốn gián tiếp tiếp tục chảy vào Việt Nam, nhưng so với các nước trong khu vực thì Việt Nam vẫn chưa tận dụng được nguồn vốn này. C. DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NĂM 2011 1.Thuận lợi của thị trường chứng khoán Việt Nam Năm 2010 cũng là năm đánh dấu bước phát triển mới của thị trường chứng khoán, nhất là đối với thị trường UPCoM. Trung tâm Lưu ký đã đưa ra những biện pháp giám sát trong việc quản lý chặt chẽ hơn tài khoản của nhà đầu tư, làm nền tảng cho sự phát triển sản phẩm mới ở những năm tiếp theo. Năm 2010 cũng đã đánh dấu việc giao thoa nhiều thông tin giữa Việt Nam và thế giới, qua đó, những gì thế giới bị ảnh hưởng Việt Nam cũng bị ảnh hưởng theo, điều đó thể hiện nền kinh tế chúng ta ngày càng mở với nền kinh tế thế giới. Cổ phiếu dầu khí sẽ là nhóm ngành có mức tăng tốt; vì theo dự kiến, dòng tiền nước ngoài vào Việt Nam dồi dào hơn, đặc biệt là thị trường chứng khoán. Và thường dòng tiền này sẽ đổ nhiều hơn vào những ngành có yếu tố cơ bản cao, ổn định, trong đó dầu khí là ngành có tiềm năng tốt cho sự tăng trưởng trong năm nay. Bên cạnh đó, khi các kênh đầu tư thông thường khác như vàng đã có mức tăng quá mạnh trong mấy năm qua thì cơ hội đầu tư vào chứng khoán trở nên hấp dẫn hơn. Ví dụ như với giá vàng 35 triệu đồng/lượng, để được lợi nhuận gấp đôi giá vàng phải đạt được 70 triệu đồng, trong khi rất nhiều mã chứng khoán giá còn thấp hơn cả mệnh giá và việc chứng khoán tăng gấp đôi giá hiện tại rõ ràng là dễ dàng hơn rất nhiều (tương tự như vậy đối với một số kênh đầu tư khác như ngoại hối hay bất động sản ). Chưa kể chứng khoán còn được cổ tức, thưởng còn vàng ngoài việc tăng giá chỉ có thể gửi ngân hàng mà lãi suất gửi vàng hiện đang rất thấp. Do việc đi lùi so với các thị trường khác trong khu vực khiến thị trường Việt Nam có đượcc sự hấp dẫn nhất định với nhà đfâu tư nước ngoài. Do vậy, nếu các mục tiêu kinh tế được thực hiện một cách hài hòa, bất ổn tiền tệ được kiểm soát thì khả năng thu hút dòng tiền ngoại vào thị trường chứng khoán Việt Nam là không nhỏ. Việc nhà đầu tư nước ngoài đã mua ròng mạnh trong năm 2010 và hiện tại vẫn tiếp tục 25
  26. gia tăng mua ròng cho thấy niềm tin khá cao cưa khối nước ngoài vào sự tăng trưởng cưa thị trường trong thời gian tới. Một yếu tố tâm lý không thể không nhắc tới trong năm tới là sự ra mắt của Chính phủ nhiệm kỳ mới. Chính phủ nhiệm kỳ mới với chính sách kinh tế mới sẽ thu hút được sự quan tâm đông đảo của công chúng đầu tư trong và ngoài nước. Quá khứ năm 2001 và 2006 cho thấy đã có những phản ứng tích cực diễn ra trên thị trường chứng khoán sau các kỳ đại hội Đảng và chính phủ nhiệm kỳ mới ra mắt và có thể lần này cũng không ngoại lệ. Sự minh bạch của thị trường. Thị trường năm 2010 đã bị ảnh hưởng khá nặng nề của các dợt thao túng giá chủ yếu là các cổ phiêu nhỏ. Các dợt “ làm giá” kéo theo sau đó là những dợt suy giảm nhanh chóng và nặng nề dã làm thiệt hại không ít nhà đầu tư thiệt hại và suy yếu niềm tin vào thị trường cũng như làm thay đổi hành vi đầu tư của giới đầu tư. Để thị trường 2011 hoạt động hiệu quả hơn, tạo đựng lại niềm tin với giới đầu tư, UBCK nhà nước đã và đang có những động thái quyết liệt trong việc xử lý các hành vi thao túng giá, giao dịch nội gián như sửa các chế tài xử phạt theo hướng chặt chẽ hơn, và phối hợp với Bộ Công an trong việc điều tra, truy tố những hành vi nghiêm trọng. Điều này được kỳ vọng sẽ giúp thị trường hoạt động một cách minh bạch và lành mạnh hơn. 2. Những thách thức trong thị trường chứng khoán 2011: Thị trường chứng khoán ảm đạm trong thời gian quá dài, tỷ suất lợi nhuận ngày càng kém xa các kênh đầu tư khác lại chịu những sức ép từ kinh tế vĩ mô với những thông tin tiêu cực là những thách thức cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. Lạm phát tiếp tục tăng cao, VND mất giá so với USD, giá cả các mặt hàng trên thế giới tăng cao tạo áp lực tăng giá hàng hàng hoá trong nước khiến cho nhu cầu chi tiêu dùng tăng cao dẫn đến nhu cầu về đầu tư giảm. NHNN công bố chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất, thắt chặt tín dụng vào thị trường chứng khoán và bất động sản sẽ tạo nên hiệu ứng thực và hiệu ứng tâm lý đối với dòng tiền đầu cơ vào thị trường chứng khoán, cho thấy dòng vốn tín dụng cho thị trường năm 2011 là rất khó khăn. Kinh tế trong nước và thế giới có nhiều bất ổn như hiện nay thì xu thế chung là đầu tư vào các tài sản vật chất như bất động sản và vàng. Cùng với đó thì hiện tượng USD hóa và tâm lý găm giữ USD là nguyên nhân khiến các thị trường này hút vốn đầu tư. Ngoài ra trong ngắn hạn, vàng và ngoại tệ đem lại mức sinh lời cao hơn cho giới đầu tư. Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô hiện tại, khả năng sinh lợi kỳ vọng khi đầu tư vào thị trường chứng khoán vẫn ở mức thấp, hoạt động của các doanh nghiệp – yếu tố cơ bản của thị trường dự báo gặp nhiều khó khăn trong năm 2011, do vậy khó có thể thu hút nhu cầu 26
  27. của giới đầu tư.Thị trường thứ cấp trong năm 2010 khá ảm đảm. Tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt khoảng 80.000 tỷ đồng, trong đó giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài chỉ đạt gần 17.000 tỷ đồng với giá trị mua ròng là 28 tỷ. Nếu so với vàng và USD, tính thanh khoản của chứng khoán có phần thua thiệt. Đó là bởi lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán là rất lớn và không phải mọi cổ phiếu đều có tính thanh khoản cao. Trong khi đó, với đặc tính đơn nhất – mua bán một loại hàng hóa là vàng hay USD, lại có sự phát triển của thị trường phi chính thức (hay thị trường chợ đen), tính thanh khoản của vàng và USD hiện đang khá vượt trội. Những khó khăn trên đã khiến cho cầu trên thị trường chứng khoán giảm đi mặt khác nguồn cung tiếp tục cao khiến cho thị trường vẫn bị bất cân xứng cung cầu 3. Dự báo thị trường chứng khoán năm 2011 2011: Khó bứt phá- xu hướng thị trường đi ngang Liệu năm nay, tình hình có lạc quan hơn? Câu trả lời tùy thuộc vào diễn biến kinh tế vĩ mô, yếu tố dòng tiền và tâm lý nhà đầu tư. Nếu triển vọng vĩ mô không sáng sủa hơn, chính sách tiền tệ không sớm ổn định và nới lỏng hơn, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ khó thoát ra khỏi tình trạng xập xình hiện nay. Tương lai năm 2011 được nhà đầu tư vẽ ra khá thận trọng. Họ dự đoán chính sách tiền tệ sẽ tiếp tục thắt chặt cho đến ít nhất giữa năm 2011, tỉ giá gia tăng và lãi suất khó hạ nhiệt trong ngắn hạn. Vấn đề lạm phát không dễ xử lý ngay và sẽ tiếp tục là rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam. Có thể thấy, cuối tuần qua, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định tăng tỉ giá liên ngân hàng thêm 9,3%, đồng thời giảm biên độ giao dịch từ +/-3% xuống +/-1%. Điều này đã khiến không ít nhà đầu tư lo ngại cho sự phục hồi của thị trường chứng khoán. Không riêng gì nhà đầu tư mà ngay các công ty chứng khoán cũng thận trọng khi đưa ra nhiều kịch bản và cùng chung nhận định, xu hướng thị trường năm 2011 sẽ đi ngang và nếu có tăng trưởng thì cũng không có sự đột phá. Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) dự đoán, VN-Index sẽ kết thúc năm 2011 ở mốc 500-520 điểm. Đây cũng là mức chỉ số mà FPTS dự báo, dù biên độ có rộng hơn. Xét về yếu tố dòng tiền, 2011 sẽ là năm quan trọng của tiến trình hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nhiều mặt hàng tiếp tục lộ trình giảm 27
  28. thuế nhập khẩu và nhiều ngành nghề như ngân hàng, chứng khoán, bán lẻ phải mở rộng cửa hơn. Điều này sẽ khiến nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn đến môi trường đầu tư, giúp thúc đẩy dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo SMES, dòng tiền vào thị trường chứng khoán năm 2011 sẽ còn phụ thuộc vào sự hấp dẫn của các kênh đầu tư khác, vào khả năng thu hút dòng vốn của các quỹ đầu tư như Dragon Capital, Vina Capital, Mekong Capital. Và nếu niềm tin của nhà đầu tư vào chính sách vĩ mô không cải thiện, dòng tiền trên thị trường khó mong chờ một sự bứt phá. Trong khi đó, nguồn cung cổ phiếu đổ vào thị trường dự báo sẽ còn tăng mạnh trong năm nay, do một số ngân hàng vẫn chưa tăng đủ vốn theo quy định và nhiều công ty bất động sản vẫn đang khát vốn. Ngoài ra, nguồn cung còn đến từ tiến trình cổ phần hóa. Đặc biệt, các doanh nghiệp đang tìm cách đẩy nhanh tiến độ niêm yết trước khi Luật Chứng khoán mới, với điều kiện niêm yết khắt khe hơn, có hiệu lực kể từ ngày 1.7.2011. Với bối cảnh cung cổ phiếu tăng, sự trở lại của dòng tiền chưa có gì đảm bảo trong khi tín hiệu lạc quan về vĩ mô chưa rõ ràng, sẽ khó để có một tiêu chí cụ thể nào trong quyết định của nhà đầu tư. Ông Trần Ngọc Anh, Chủ tịch Anh International Investment Group, cho rằng, nhà đầu tư có thể sẽ tiếp tục xu hướng đầu tư theo tin đồn, theo “đội lái” nhưng mức độ sẽ khác do họ đã rút được nhiều bài học trong năm qua. Và cũng như năm 2010, nhà đầu tư sẽ tiếp tục chịu nhiều rủi ro. Mặc dù vậy, trên cơ sở phân tích các yếu tố cơ bản như dựa vào tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận và EPS (thu nhập mỗi cổ phiếu), cổ phiếu thuộc những ngành như tiêu dùng cơ bản (sữa, đường, thực phẩm), dịch vụ tiêu dùng, cao su tự nhiên vẫn được đánh giá cao. Ngoài ra, báo cáo phân tích của Công ty Chứng khoán Thăng Long (TLS) cũng khuyến khích tăng phân bổ đầu tư vào các nhóm ngành khoáng sản cơ bản, cảng biển. Tuy nhiên, ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng Giám đốc Công ty Truyền thông Tài chính StoxPlus, lưu ý, một cổ phiếu được lựa chọn nhiều không hẳn là vì doanh nghiệp hoạt động tốt. Đó là lý do vì sao trong báo cáo của mình, SMES đã phân loại nhóm ngành có chỉ số tốt và nhóm ngành mang tính đầu cơ. Năm 2011, nhà đầu tư sẽ tiếp tục chờ đợi những chuyển biến rõ ràng từ điều hành vĩ mô lẫn cách thức tổ chức lại thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, sự nghi ngờ vẫn hiện diện. Bởi năm ngoái, đã có sự thiếu nhất quán trong điều hành vĩ mô. Riêng những chính sách có tác dụng thúc đẩy thị trường như 28
  29. cho phép mở nhiều tài khoản, giao dịch T+2, cho phép quỹ mở hoạt động, tuy được hứa hẹn sớm triển khai, nhưng cuối cùng vẫn không được hiện thực hóa. Năm 2010 có thể coi là năm khá ảm đạm với thị trường chứng khoán Việt Nam. Những yếu tố vĩ mô còn nhiều bất ổn như lạm phát, tỷ giá tăng cao, sự thiếu thống nhất giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ đã gây ra không ít khó khăn cho thị trường. Thị trường chứng khoán 2010 bộc lộ nhiều vấn đề như sự mất cân bằng cung cầu, cổ phiếu hầu hết các nhóm ngành giảm điểm, vấn đề thao túng làm giá cổ phiếu nổi cộm Do đó, năm 2010 không phải là một năm thành công với các nhà đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán năm 2010 cũng có những điểm sáng đó là đợt phục hồi cuối năm nay với sự tăng điểm mạnh ở cả hai sàn mang lại kỳ vọng mới cho các nhà đầu tư, đặt nền móng cho xu hướng mới năm 2011. Trong năm 2011, vấn đề của năm 2010 sẽ đặt ra yêu cầu về sự thay đổi chính sách và có ảnh hưởng tới tình hình thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán 2011, trong ngắn hạn tuy khó có thể phục hồi ngay lập tức nhưng trung và dài hạn hi vọng với chích sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ khiến cho thị trường chuyển biến tích cực. Xét về tổng thể, thị trường chứng khoán có nhiều cơ hội phục hồi và tăng trưởng bền vững trong năm 2011, bên cạnh đó những rủi ro mang tính cơ cấu của nền kinh tế và sự thiếu minh bạch của thị trường vẫn còn hiện hữu. Việc cập nhật những diễn biến chính sách và phân tích tác động với thị trường một cách kịp thời sẽ là chìa khoá thành công cho các nhà đầu tư chứng khoán trong năm 2011. 4. Kết luận: Năm 2010 có thể coi là năm khá ảm đạm với thị trường chứng khoán Việt Nam. Những yếu tố vĩ mô còn nhiều bất ổn như lạm phát, tỷ giá tăng cao, sự thiếu thống nhất giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ đã gây ra không ít khó khăn cho thị trường. Thị trường chứng khoán 2010 bộc lộ nhiều vấn đề như sự mất cân bằng cung cầu, cổ phiếu hầu hết các nhóm ngành giảm điểm, vấn đề thao túng làm giá cổ phiếu nổi cộm Do đó, năm 2010 không phải là một năm thành công với các nhà đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán năm 2010 cũng có những điểm sáng đó là đợt phục hồi cuối năm nay với sự tăng điểm mạnh ở cả hai sàn mang lại kỳ vọng mới cho các nhà đầu tư, đặt nền móng cho xu hướng mới năm 2011. Trong năm 2011, vấn đề của năm 2010 sẽ đặt ra yêu cầu về sự thay đổi chính sách và có ảnh hưởng tới tình hình thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán 2011, trong ngắn hạn tuy khó có thể phục hồi ngay lập tức nhưng trung và dài hạn hi vọng với chích sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ 29
  30. khiến cho thị trường chuyển biến tích cực. Xét về tổng thể, thị trường chứng khoán có nhiều cơ hội phục hồi và tăng trưởng bền vững trong năm 2011, bên cạnh đó những rủi ro mang tính cơ cấu của nền kinh tế và sự thiếu minh bạch của thị trường vẫn còn hiện hữu. Việc cập nhật những diễn biến chính sách và phân tích tác động với thị trường một cách kịp thời sẽ là chìa khoá thành công cho các nhà đầu tư chứng khoán trong năm 2011. THE END DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO: - - - - - - - - - 30