Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hóa dịch vụ tài chính: Trường hợp ngành ngân hàng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hóa dịch vụ tài chính: Trường hợp ngành ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nghien_cuu_kha_nang_canh_tranh_va_tac_dong_cua_tu_do_hoa_dic.pdf
Nội dung text: Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hóa dịch vụ tài chính: Trường hợp ngành ngân hàng
- Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hóa dịch vụ tài chính: Trường hợp ngành ngân hàng Công ty Tư vấn Quản lý MCG Hà Nội, tháng 5 năm 2006
- MỤC LỤC Từ viết tắt iii Các bảng trong báo cáo v Các hình trong báo cáo vi Lời cảm ơn 1 1 Giới thiệu chung 3 1.1 Cơ sở Nghiên cứu 3 1.2 Mục tiêu và Quy mô của Nghiên cứu 3 1.3 Hạn chế của Nghiên cứu 4 1.4 Cấu trúc Báo cáo 5 2 Bối cảnh Quốc tế 6 2.1 Bản chất Hội nhập Quốc tế về Dịch vụ Tài chính 6 2.2 Các Xu hướng Quốc tế hóa Các Dịch vụ Tài chính 8 2.2.1 Xu hướng quốc tế hóa trong hoạt động ngân hàng trên thế giới 8 2.2.2 Các xu hướng quốc tế hóa trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam 11 3 Ngành Ngân hàng Việt Nam 13 3.1 Nhóm Ngân hàng Việt Nam 14 3.2 Nhóm Ngân hàng Nước ngoài 16 4 Rà soát Môi trường Pháp lý và Chính sách Ngành Ngân hàng 18 4.1 Khung Pháp lý Trong nước 18 4.1.1 Điều hành chính sách tiền tệ 19 4.1.2 Hoạt động thanh tra - giám sát ngân hàng và các TCTD 20 4.1.3 Phát triển thị trường tiền tệ 21 4.2 Những Nghĩa vụ và Cam kết Quốc tế về Tự do hóa Dịch vụ Ngân hàng 21 4.2.1 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) 21 4.2.2 Hiệp định Thương mại tự do các nước ASEAN (AFTA) 23 4.2.3 Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) và Tổ chức thương mại thế giới (WTO) 24 4.3 Tiến trình Đàm phán Gia nhập WTO của Việt Nam và Dự báo trong Tương lai 26 4.4 Tham khảo thực tiễn Trung Quốc và Campuchia 28 4.4.1 Trung Quốc 28 4.4.2 Campuchia 30 5 Phân tích Năng lực Cạnh tranh của Ngành Ngân hàng Việt Nam 31 5.1 Phân tích Khả năng Cạnh tranh theo Mô hình Kim cương 31 5.1.1 Môi trường cho chiến lược ngân hàng và cạnh tranh 31 5.1.2 Điều kiện cầu về dịch vụ ngân hàng 34 5.1.3 Các ngành phụ trợ và liên quan tới ngành ngân hàng 34 5.1.4 Điều kiện và nhân tố đầu vào cho ngành ngân hàng 36 5.2 Phân tích SWOT 37 5.2.1 Điểm mạnh 38 5.2.2 Điểm yếu 39 5.2.3 Cơ hội 42 5.2.4 Thách thức 43 5.3 Phân tích các Rủi ro của Ngân hàng 46 5.4 Kết luận 47 6 Phân tích tác động tự do hóa 50 6.1 Tác động đối với ngành ngân hàng – phân tích dựa trên phản ứng của khách hàng50 6.2 Tác động đối với nền kinh tế – dựa trên phân tích năng lực cạnh tranh ngành ngân hàng 55 i
- 6.2.1 Về phía cung 56 6.2.2 Về phía cầu 56 6.2.3 Các cơ quan quản lý ngân hàng 56 6.2.4 Tác động xã hội 57 6.3 Kết luận 58 7 Đề xuất của Tư vấn 59 7.1 Đề xuất liên quan đến Môi trường Pháp lý và Chính sách 60 7.2 Các Đề xuất liên quan đến Chiến lược Phát triển 61 7.3 Các Đề xuất liên quan đến Quản trị và Vận hành 62 7.4 Các Đề xuất khác 64 7.5 Ma trận đề xuất 65 Tài liệu tham khảo 113 ii
- TỪ VIẾT TẮT ATM Thẻ/máy rút tiền tự động ATM ACB Ngân hàng Thương mại Châu Á AFTA Hiệp định chung về thương mại tự do ASEAN BKHĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tư BTA Hiệp định Thương mại Việt Mỹ BTC Trung tâm đào tạo ngân hàng CAMEL An toàn Vốn, Chất lượng Tài sản, Quản trị, Lợi tức và Tính Thanh khoản CAR Hệ số An toàn Vốn CCF Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương DAF Quỹ Hỗ trợ Phát triển DNNN Doanh nghiệp Nhà nước DNNVV Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa FDI Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài FIEs Doanh nghiệp có Vốn Đầu tư Nước ngoài GATS Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ HTX Hợp tác xã IAS Tiêu chuẩn kế toán quốc tế IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế LDCs Những nước kém phát triển nhất MA Tiếp cận thị trường MFN Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc MNC Công ty đa Quốc gia MOF Bộ Tài chính MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần NHTMQD Ngân hàng Thương mại Quốc doanh No&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn NPL Nợ Quá Hạn OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế PBOC Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc PMU Ban Quản lý Dự án SBV Ngân hàng Nhà nước Việt Nam SPB Ngân hàng Chính sách SWOT Điểm mạnh-điểm yếu-cơ hội-thách thức TCTD Tổ chức Tín dụng TCTD Tài chính tín dụng iii
- TMQD Thương mại Quốc doanh UNDP Tổ chức Phát triển Liên hợp quốc USD Đô la Mỹ VAS Chuẩn mực kế toán Việt Nam VND Đồng Việt Nam VPSC Công ty Dịch vụ tiết kiệm Bưu điện WB Ngân hàng Thế giới WTO Tổ chức Thương mại Thế giới iv
- Các bảng trong báo cáo Bảng 1: Lộ trình chính sách 6 Bảng 2: Ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng tại Việt Nam 13 Bảng 3: Thị phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam 14 Bảng 4: Thị phần của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam 17 Bảng 5: So sánh tỷ lệ M2/GDP (%) của hệ thống ngân hàng Việt nam 32 Bảng 6: So sánh tiền mặt/GDP của hệ thống ngân hàng Việt nam 33 Bảng 7: So sánh tín dụng nội địa/GDP của hệ thống ngân hàng Việt nam 33 Bảng 8: Tỷ trọng tổng tài sản của các trung gian tài chính trong hệ thống 35 Bảng 9: Xếp hạng mức độ phát triển của thị trường tài chính 36 Bảng 10: Quy mô hệ thống ngân hàng Việt Nam 37 Bảng 11: Năng lực cạnh tranh của khu vực tài chính ngân hàng Việt nam 47 Bảng 12: Những thay đổi trong bảng cân đối của ngân hàng do hành vi của khách hàng 51 v
- Các hình trong báo cáo Hình 1: Khách hàng doanh nghiệp – Lý do chuyển sang vay tiền VND từ ngân hàng 61 nước ngoài Hình 2: Khách hàng cá nhân – Lý do chuyển sang vay tiền VND từ ngân hàng 61 nước ngoài Hình 3: Khách hàng doanh nghiệp – Lý do chuyển sang vay ngoại tệ từ ngân hàng 62 nước ngoài Hình 4: Khách hàng cá nhân – Lý do chuyển sang vay ngoại tệ từ ngân hàng nước 62 ngoài Hình 5: Khách hàng doanh nghiệp – Lý do chuyển sang gửi tiền VND trong ngân 63 hàng nước ngoài Hình 6: Khách hàng cá nhân – Lý do chuyển sang gửi tiền VND trong ngân hàng 63 nước ngoài Hình 7: Khách hàng doanh nghiệp – Lý do chuyển sang gửi ngoại tệ trong ngân 64 hàng nước ngoài Hình 8: Khách hàng cá nhân – Lý do chuyển sang gửi ngoại tệ trong ngân hàng 64 nước ngoài vi
- Lêi nãi ®Çu §Ò tµi nghiªn cøu "N¨ng lùc c¹nh tranh vµ t¸c ®éng cña Tù do ho¸ Th−¬ng m¹i DÞch vô ë ViÖt Nam: Ngµnh dÞch vô ng©n hµng", lµ mét trong nh÷ng nghiªn cøu ®−îc thùc hiÖn trong khu«n khæ Dù ¸n “T¨ng c−êng n¨ng lùc Qu¶n lÝ vµ Xóc tiÕn ho¹t ®éng Th−¬ng m¹i DÞch vô ë ViÖt Nam trong Bèi c¶nh Héi nhËp - VIE/02/009", do Ch−¬ng tr×nh Ph¸t triÓn cña Liªn Hîp Quèc (UNDP) tµi trî, Vô Th−¬ng m¹i vµ DÞch vô, Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu t− (MPI) lµ c¬ quan thùc hiÖn. B¸o c¸o nghiªn cøu ®−a ra bøc tranh tæng thÓ vÒ dÞch vô ng©n hµng cña ViÖt Nam, bao gåm c¶ qu¸ tr×nh ®æi míi tõ n¨m 1990; M«i tr−êng chÝnh s¸ch, ph¸p luËt hiÖn hµnh vµ nh÷ng cam kÕt tù do ho¸ dÞch vô ng©n hµng gÇn ®©y. B¸o c¸o cßn ph©n tÝch n¨ng lùc c¹nh tranh cña dÞch vô ng©n hµng ViÖt Nam trong bèi c¶nh cña nh÷ng thay ®æi gÇn ®©y trªn thÕ giíi vµ ¶nh h−ëng cña tù do ho¸ ®èi víi c¸c dÞch vô ng©n hµng trªn hai gãc ®é: ¶nh h−ëng ®èi víi chÝnh b¶n th©n ngµnh vµ ®èi víi nÒn kinh tÕ nãi chung, kÓ c¶ nh÷ng ¶nh h−ëng mang tÝnh x· héi. §ång thêi b¸o c¸o còng ®−a ra nh÷ng khuyÕn nghÞ, nh»m c¶i thiÖn khung khæ ph¸p lÝ, chÝnh s¸ch ®iÒu tiÕt vµ vËn hµnh; chiÕn l−îc ph¸t triÓn ngµnh dÞch vô ng©n hµng. §Ò tµi do nhãm nghiªn cøu cña C«ng ty Management Consulting Ltd (MCG) gåm TiÕn sÜ Lª Xu©n NghÜa, Vô tr−ëng Vô ChiÕn l−îc ng©n hµng, Ng©n hµng Nhµ n−íc ViÖt Nam lµm tr−ëng nhãm, ¤ng Vò Quang ThÞnh, Bµ §Æng Nh− V©n vµ Bµ Ph¹m Ngäc Linh thùc hiÖn. Trong qu¸ tr×nh nghiªn cøu, nhãm nghiªn cøu ®· nhËn ®−îc nh÷ng ®ãng gãp hÕt søc bæ Ých cña TiÕn sÜ Nick Freeman vµ TiÕn sÜ Andreas Hauskretch. Xin ch©n thµnh c¸m ¬n ¤ng Tr−¬ng V¨n §oan, Thø tr−ëng Bé KÕ Ho¹ch vµ §Çu t−, ¤ng Hå Quang Minh, Vô tr−ëng Vô Kinh tÕ ®èi ngo¹i, Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu t− ; ¤ng Th¸i Do·n Töu, Phã Vô tr−ëng Vô Th−¬ng m¹i vµ DÞch vô, Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu t−, Phã Gi¸m ®èc Dù ¸n. TiÕn sÜ Maria Cristina Hernandez, Cè vÊn kÜ thuËt cao cÊp cña Dù ¸n ®· tham gia gãp ý x©y dùng ®Ò c−¬ng vµ hç trî hoµn thiÖn B¸o c¸o. Xin c¶m ¬n nh÷ng b×nh luËn vµ gãp ý bæ Ých cña ¤ng Thomas Rose, chuyªn gia Ng©n hµng ThÕ giíi t¹i Washington. §ång thêi còng xin c¸m ¬n ¤ng Richard Jones, t− vÊn ®éc lËp, vÒ nh÷ng ®ãng gãp cña «ng, ®Æc biÖt lµ ®èi víi c«ng viÖc hiÖu ®Ýnh b¶n b¸o c¸o cuèi cïng; Bµ §ç ThÞ NguyÖt Nga, C¸n bé Ch−¬ng tr×nh, Ban Qu¶n trÞ Nhµ n−íc, UNDP, ®· hç trî cho viÖc xuÊt b¶n b¸o c¸o. Xin ch©n thµnh c¶m ¬n ®¹i diÖn cña c¸c c¬ quan chÝnh phñ, ng©n hµng vµ tæ chøc tµi chÝnh ®· cung cÊp nh÷ng th«ng tin, d÷ liÖu vµ ®ãng gãp ý kiÕn cho nghiªn cøu nµy. NguyÔn ChÝ Dòng Vô tr−ëng Vô Th−¬ng m¹i vµ DÞch vô Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu t− Gi¸m ®èc dù ¸n VIE/02/009 2 Báo cáo của IMF WP/03/158: Hợp nhất, quốc tế hoá và sáp nhập ngân hàng: Các xu hướng và ý nghĩa đối với các rủi ro tài chính 2
- 1 GIỚI THIỆU CHUNG 1.1 Cơ sở Nghiên cứu Việt Nam đang dần tiến đến mục tiêu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Một trong những thách thức chính của Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập WTO là hành lang pháp lý và cơ chế thủ tục áp dụng trong lĩnh vực dịch vụ (bao gồm cả các dịch vụ ngân hàng và tài chính) vẫn chưa được hoàn thiện. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam trong thời gian này là rà soát lại những chính sách về thương mại dịch vụ cho phù hợp với yêu cầu của tổ chức WTO, đồng thời thực hiện các hiệp định song phương và đa phương đã ký, bao gồm Hiệp định chung về thương mại tự do ASEAN (AFTA) và Hiệp định Thương mại Việt Mỹ (BTA). Theo dự đoán, các vòng đàm phán thương mại đa phương đối với các ngành dịch vụ kinh doanh, du lịch, viễn thông, giao thông, phân phối và tài chính sẽ kết thúc vào năm 2005, hoặc sau đó một thời gian ngắn. Kể từ sau Hội nghị thượng đỉnh Doha tháng 11/2001, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong các vòng đàm phán thương mại dịch vụ. Tự do hóa thương mại dịch vụ đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều thách thức và cạnh tranh hơn đối với các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam, bao gồm cả các ngân hàng trong nước. Hiệu quả cao hơn của các ngành dịch vụ sẽ dẫn đến tăng đầu tư trực tiếp của nước ngoài, điều này sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Vì tính chất cần thiết của vấn đề liên quan, Việt Nam cần phải tăng cường năng lực trong lĩnh vực thương mại dịch vụ để đối đầu với các thử thách phía trước. Dự án VIE/02/009 được thiết kế nhằm trợ giúp Chính phủ Việt Nam đẩy mạnh hơn nữa quá trình gia nhập vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Mục đích của dự án là nhằm tăng cường năng lực của Việt Nam trong việc hoạch định, điều phối và thực thi các chính sách hỗ trợ sự phát triển của các ngành dịch vụ trong nước, quản lý và thúc đẩy thương mại dịch vụ trong bối cảnh tăng cường hội nhập kinh tế. Để có được một chiến lược phát triển ngành phù hợp, Việt Nam phải nhận thức được thực trạng của các ngành kinh tế cũng như tiềm năng phát triển ngành trong tương lai. Như vậy, việc nghiên cứu về tác động và sức cạnh tranh để xác định đầy đủ lợi ích và giá phải trả của việc tự do hoá thương mại trong các ngành dịch vụ chính là hết sức cần thiết. Từ việc hiểu rõ được các tác động, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Dự án VIE/02/009 hy vọng sẽ hỗ trợ Chính phủ trong việc nắm bắt những cơ hội đang đến, đồng thời xác định rõ những hiểm họa tiềm ẩn, xây dựng những chiến lược đối phó để giảm thiểu những tác động tiêu cực, và hình thành những chính sách thích hợp để hỗ trợ những chủ thể phải chịu các tác động tiêu cực từ quá trình tự do hoá này. Với quan điểm coi dịch vụ ngân hàng như xương sống của nền kinh tế hiện đại, nghiên cứu về khả năng cạnh tranh và các tác động của tự do hoá các dịch vụ tài chính: trường hợp ngành ngân hàng đã được xây dựng với mục đích là cơ sở cho các kiến nghị về chính sách ngành. 1.2 Mục tiêu và Quy mô của Nghiên cứu Mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu này là nhằm i) góp phần đảm bảo rằng quá trình tự do hóa ngành ngân hàng sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân và cho mọi người dân, đồng thời có các biện pháp nhằm hạn chế các tác động tiêu cực có thể có của tự do hóa, ví dụ như sự chênh lệch giữa thành thị với nông thôn; và ii) đảm bảo rằng quá trình tự do hóa phù hợp và nhất quán với các chiến lược phát triển kinh tế xã hội và con người của Việt Nam. Để đạt được mục tiêu tổng thể đó, các mục tiêu của từng phần nghiên cứu được xác định như sau: Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành ngân hàng ở thời điểm hiện tại. Việc này không chỉ giới hạn nhận biết các điểm yếu và điểm mạnh, mà còn bao gồm cả việc xác định các cản trở hạn chế năng lực 3
- cạnh tranh của các dịch vụ ngân hàng. Những lợi ích và chi phí tiềm năng của việc cải cách kinh tế, mở cửa thị trường và tự do hóa kinh doanh sẽ được làm rõ. Bên cạnh đó, sự chuẩn bị của ngành này cũng được xác định trong bối cảnh cạnh cạnh tranh từ nước ngoài tăng lên (bao gồm các vấn đề luật pháp và cơ chế thực thi, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, giám sát độc lập, và các biện pháp quản lý cẩn trọng, v.v.); Đánh giá tác động cải cách thị trường Việt Nam và các cam kết tự do hóa thương mại: (i) trong ngành ngân hàng, (ii) đối với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam; và (iii) đối với người tiêu dùng (khách hàng doanh nghiệp và cá nhân sử dụng các dịch vụ ngân hàng), đặc biệt quan tâm tới người nghèo và các nhóm đối tượng khó khăn; Hiểu rõ được mức độ sẵn sàng của dịch vụ ngân hàng đối với tự do hóa, thông tin cho giới doanh nghiệp và công chúng biết được những cơ hội và thách thức nảy sinh từ quá trình tự do hóa ngành ngân hàng, và nâng cao nhận thức về các tác động tiêu cực có thể có của tự do hóa đối với nhóm người nghèo và khó khăn; Hiểu rõ được các ảnh hưởng trung và ngắn hạn của chính sách liên quan đến thương mại trong một số dịch vụ ngân hàng, có tính đến các cam kết của Việt Nam trong việc đẩy mạnh tự do hóa, và yêu cầu đảm bảo phát triển kinh tế xã hội và xóa đói giảm nghèo; và Hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách và các nhà đàm phán của Việt Nam trong việc xây dựng chính sách trong nước phù hợp và vị thế đàm phán thích hợp đối với ngành này, theo như các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, hỗ trợ cho tiến trình đàm phán gia nhập WTO cũng các quá trình đàm phán song phương và đàm phán trong khu vực khác. Trên cơ sở những mục tiêu trên, nghiên cứu này đã được thực hiện dựa vào việc rà soát những tài liệu có liên quan tới ngành ngân hàng Việt Nam, tới tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam cũng như các chính sách kinh tế, các qui định của chính phủ dành riêng cho ngành ngân hàng Việt Nam. Những thông tin thu thập được từ quá trình rà soát và nghiên cứu tài liệu đã được sử dụng làm nền tảng cho công tác khảo sát thực địa được thực hiện ngay sau khi hoàn tất phần nghiên cứu tài liệu. Việc khảo sát được chia làm hai phần, tiến hành trong hai tháng. Phần I - phỏng vấn khách hàng trực tiếp được thực hiện đối với 18 ngân hàng và tổ chức tín dụng, 5 khách hàng doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. Phần II - điều tra khách hàng được thực hiện với hơn 200 doanh nghiệp và hơn 300 cá nhân hiện đang và sẽ sử dụng dịch vụ ngân hàng. Những thông tin thu thập được từ quá trình nghiên cứu tài liệu và khảo sát thực địa đã được xử lý và phân tích nhằm đưa ra những phát hiện và kiến nghị của nhóm Tư vấn và sẽ được trình bày trong những phần sau. 1.3 Hạn chế của Nghiên cứu Khi bản báo cáo cuối cùng này được soạn thảo, đoàn đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam vẫn đang tiếp tục nỗ lực kết thúc một số cuộc đàm phán song và đa phương chưa hoàn thành. Theo dự đoán, nhiều cuộc đàm phán sẽ tiến triển nhanh trong các tháng tới Theo Điều khoản giao việc cho Tư vấn, nghiên cứu này được tiến hành dựa trên những thông tin và dữ liệu cập nhật tính đến cuối năm 2005. Chính phạm vi công việc theo yêu cầu này, ở một khía cạnh nào đó, đã trở thành một hạn chế của nghiên cứu này. Do phân tích của chúng tôi sẽ chỉ dựa trên những thông tin tính đến thời điểm diễn ra Hội nghị bộ trưởng về WTO tại Hồng Kông vào tháng 12 năm 2005, những cập nhật về tiến trình đàm phán WTO của Việt Nam sẽ không được đưa vào báo cáo này. Ngoài ra, Dự án kỳ vọng Tư vấn sẽ ghi nhận những quan điểm của không chỉ từ các cơ quan quản lý nhà nước và các ngân hàng cung cấp dịch vụ mà còn từ người sử dụng dịch vụ ngân hàng. Theo đó, Tư vấn đã tiến hành một điều tra khảo sát cả bên cung cấp và bên sử dụng dịch vụ ngân hàng. Nếu nguồn lực và 4
- thời gian cho phép, một cuộc điều tra với quy mô rộng hơn và số mẫu điều tra lớn hơn đã có thể được tiến hành, mà qua đó kết quả điều tra của Tư vấn sẽ có mang lại nhiều nhận định xác đáng hơn. Những phân tích và kết luận của Tư vấn trong báo cáo này đã được phân tích sau khi xem xét tới những hạn chế nêu trên. 1.4 Cấu trúc Báo cáo Báo cáo của Tư vấn được chia làm bảy phần như sau: Phần I: Cơ sở của Nghiên cứu Phần II: Bối cảnh Quốc tế Phần III: Hiện trạng Ngành Ngân hàng Việt Nam Phần IV: Rà soát Môi trường Pháp lý và Chính sách đối với Ngành Ngân hàng Phần V: Phân tích Năng lực Cạnh tranh của Ngành Ngân hàng Việt Nam Phần VI: Tác động của Tự do hóa đối với Ngành Ngân hàng Phần VII: Đề xuất của Tư vấn 5
- 2 BỐI CẢNH QUỐC TẾ Theo các hiệp định song phương, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam có nghĩa vụ phải dỡ bỏ các rào cản đối với việc gia nhập và hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường trong nước. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam (bao gồm cả các ngân hàng) trong thời gian tới sẽ gặp phải những khó khăn xuất phát từ sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn khi đất nước mở cửa thị trường. Để đạt được mục đích của nghiên cứu này, việc xem xét những yếu tố quyết định và xu hướng thúc đẩy sự phát triển của ngành ngân hàng trên thế giới sẽ góp phần xác định các yếu tố chủ chốt quyết định các xu hướng và sự thành công trong tương lai của ngành ngân hàng trong nước Một trong những xu hướng nổi bật của ngành ngân hàng thế giới chính là việc hợp nhất, quốc tế hoá và sáp nhập của các ngân hàng giữa các nước phát triển và đang phát triển. Một báo cáo của IMF năm 20032 ghi nhận rằng trong khi xu hướng hợp nhất ngày càng tăng trên toàn cầu, thì quá trình hợp nhất và quốc tế hoá lại diễn ra chậm hơn trên nhiều khu vực. Một xu thế nữa là việc các tổ chức ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài chính ngày càng đa dạng để có thể tận dụng một cách tối đa các nguồn lực của mình. Bài học mà Việt Nam phải học một cách nhanh chóng là, với tư cách là một thành viên của WTO, ngành ngân hàng Việt Nam sẽ tự do hoá và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những thách thức và xu hướng này của thị trường ngân hàng toàn cầu. 2.1 Bản chất Hội nhập Quốc tế về Dịch vụ Tài chính Ngành tài chính phải được tự do hoá để hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tự do hoá tài chính cụ thể là dỡ bỏ các hạn chế và giới hạn trong việc phân bổ nguồn lực tín dụng. Quản lý việc phân bổ này nên dựa trên cơ chế giá, mà theo đó các tổ chức tài chính được phép quyết định lãi suất tiền gửi và cho vay. Tự do hoá cũng dẫn đến việc xoá bỏ các mức lãi suất trần cũng như các ràng buộc khác trong việc sử dụng nguồn vốn. Tự do hoá tài chính sẽ thúc đẩy cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính, đánh dấu qua việc chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa những loại hình tổ chức khác nhau. Tự do hóa tài chính cũng sẽ giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ và các giao dịch tài chính, do đó hệ thống tài chính được tự do hoạt động theo các tín hiệu thị trường. Tự do hóa tài chính thông thường bao gồm xóa bỏ kiểm soát về lãi suất và các hoạt động tài chính, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xóa bỏ bao cấp về vốn qua chỉ định tín dụng, tự do hóa hoạt động giao dịch ngoại tệ, và nới lỏng kiểm soát đối với hoạt động của các tổ chức tài chính. Vì không có một cách tiếp cận thống nhất nào đối với việc tự do hoá tài chính, ,mỗi quốc gia phải tự chọn cho mình một lộ trình tự do hoá tài chính tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế - chính trị của mình. Việt Nam đang từng bước thực hiện cách thức của riêng mình trong việc tự do hoá tài chính và các chính sách quan trọng của cách tiếp cận này được trình bày trong bảng dưới đây: Bảng 1: Lộ trình chính sách Năm Lộ trình Chính sách 1991 Giảm thâm hụt ngân sách xuống dưới 5%; Giảm dự trữ bắt buộc xuống dưới 10% 1997 Áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt 2002 Thành lập Ngân hàng Chính sách Xã hội 2002 Áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận 6
- 2004 Cho phép thành lập công ty tài chính 100% vốn nước ngoài 2007 Xoá bỏ hạn chế hoạt động cho công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài 2011 Xoá bỏ hạn chế hoạt động cho ngân hàng 100% vốn nước ngoài Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2005 Bản chất của quá trình hội nhập quốc tế về dịch vụ tài chính có thể được hiểu theo nhiều khía cạnh. Đó là một quá trình mà các nước, các khu vực thực hiện mở cửa cho sự tham gia của các yếu tố bên ngoài vào trong lĩnh vực tài chính, bao gồm: vốn (đầu tư trực tiếp và gián tiếp), công nghệ, tín dụng và lao động có trình độ chuyên môn cao. Hội nhập quốc tế và tài chính cũng là quá trình các yếu tố trong nước đi thâm nhập vào các nước khác. Nói theo một cách khác, hội nhập quốc tế là quá trình diễn ra song song và đồng thời. Đó là, toàn bộ hoặc từng dịch vụ tài chính được thực hiện qua biên giới, tiêu thụ ở nước ngoài, qua sự hiện diện thương mại hoặc sự hiện diện của một thể nhân3. Quá trình hội nhập tài chính quốc tế có thể do các nước chủ động thực hiện nhưng cũng có thể là bị động do sự thúc ép của bên ngoài. Ví dụ như các tổ chức hoặc liên minh kinh tế (APEC, WTO, ASEAN) gây sức ép cho các nước thành viên, hoặc các thành viên tự thấy có nghĩa vụ phải tuân theo các quyết định của các tổ chức và liên minh này trong việc mở cửa các thị trường. Do hội nhập quốc tế về tài chính là một quá trình điều chỉnh về các hoạt động kinh doanh, pháp luật, các chính sách tài chính và quy định về tài chính, các quá trình phải hướng tới cân đối và thống nhất các yếu tố bên ngoài và bên trong. Hội nhập quốc tế về tài chính là quá trình thống nhất các thể chế, qui định, chính sách, tiêu chuẩn, chuẩn mực và kể cả luật pháp về tài chính. Thực chất của quá trình này là các nước thống nhất với nhau các đối xử về mặt tài chính (thuế, bảo hiểm, ngân hàng, v.v) vì lợi ích hoạt động kinh tế của nhau. Quá trình này cũng đồng thời là hệ quả của việc các quốc gia và doanh nghiệp cùng thực hiện việc điều chỉnh. Khi mức độ hội nhập ngày càng cao và càng rộng thì sẽ xuất hiện nhiều thông lệ hoặc qui định chung hơn để tạo sự thống nhất và hài hoà các chính sách tài chính giữa các nước với nhau. Hội nhập quốc tế về tài chính là một quá trình liên tục được thúc đẩy từ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ và kinh tế của một quốc gia. Do đó, khi các yếu tố này được nâng cao, hội nhập tài chính nhanh chóng được tiến hành và phản ánh thông qua nhiều lĩnh vực như việc trao đổi vốn và lao động. Các thông lệ quốc tế mới cũng được hình thành để điều chỉnh quan hệ tài chính giữa các tổ chức và thể chế. Cuối cùng, hội nhập quốc tế về tài chính là một quá trình hợp tác. Sự hợp tác giữa các quốc gia phát triển phù hợp với nhu cầu phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, vẫn có sự không chắc chắn về việc các nước sẽ phối hợp với nhau như thế nào; một vấn đề mà các tổ chức kinh tế và thể chế quốc tế phải giải quyết hơn là mong đợi từng quốc gia riêng biệt sẽ tự xử lý. Như vậy, hội nhập quốc tế về tài chính và tiền tệ là quá trình từng bước gắn kết ngành tài chính quốc gia (Việt Nam) với thị trường tài chính thế giới. Quá trình này được sự hỗ trợ bởi sự hợp tác quốc tế và mở cửa thị trường ngày càng cao; cũng như bởi việc thực hiện và điều chỉnh các tiêu chuẩn quốc tế và định chế của từng quốc gia. 3 Theo GATS, “Hình thức cung cấp” các dich vụ tài chính được thực hiện theo i) Hình thức 1 – Cung “xuyên biên giới” diễn ra khi một nhà cung cấp dich vụ tại một quốc gia cung cấp các dịch vụ cho khách hàng ở một quốc gia khác; ii) Hình thức 2 – “Tiêu dùng tại nước ngoài” là khi công dân của một nước đi du lịch nước ngoài và được cung cấp các dịch vụ tại đó; iii) Hình thức 3 - Một nhà cung cấp dịch vụ được goi là “Hiện diện thương mại” khi nhà cung cấp này thiết lập một chi nhánh tại nước ngoài và cung cấp các dịch vụ tại đây; và iv) Hình thức 4 – “Hiện diện thể nhân” là một người đi du lịch từ quốc gia này sang quốc gia khác và tại đó cung cấp dich vụ cho khách hàng của nước sở tại. 7
- 2.2 Các Xu hướng Quốc tế hóa Các Dịch vụ Tài chính 2.2.1 Xu hướng quốc tế hóa trong hoạt động ngân hàng trên thế giới Hai thập kỷ qua chứng kiến sự chuyển dịch từ xu hướng ngân hàng quốc tế sang ngân hàng toàn cầu hóa. Hoạt động ngân hàng quốc tế là hoạt động ngân hàng xuyên biên giới với việc huy động vốn trong nước để cho vay ở nước ngoài. Ngày nay, các ngân hàng toàn cầu thâm nhập vào thị trường nước ngoài thông qua việc thiết lập các chi nhánh và ngân hàng “con” để thu hút vốn và cung cấp các khoản vay ngay tại nước đó (Hình thức 3). Các ngân hàng này cung cấp các dịch vụ như cho vay tiêu dùng, nhận thế chấp, cho vay doanh nghiệp,quản lý tài sản và tham gia thị trường vốn. Sự tăng trưởng nhanh của các NHTM và quá trình tự động hoá trong bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ đòi hỏi các ngân hàng phải duy trì ở quy mô lớn nhằm giảm thiểu chi phí. Xu hướng mở rộng mạng lưới hoạt động thể hiện ở việc thiết lập mới ngày càng nhiều các chi nhánh, sở giao dịch, điểm giao dịch của các ngân hàng. Các ngân hàng lớn đang tìm cách mua lại cổ phần của các ngân hàng nhỏ hơn để biến các ngân hàng nhỏ này thành một phần của mạng lưới của họ. Nhiều vụ đại hợp nhất đã diễn ra như Chemical Bank và Chase Mahattan hay Bank of America và Nations Bank, và gần đây như Tokyo Bank và Mitsumitsi Bank. Sự bành trướng mở rộng mạng lưới hoạt động về địa lý và sự sáp nhập, hợp nhất giữa các ngân hàng đã vượt khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia và mở rộng ra toàn cầu. Ngày nay, có nhiều NHTM lớn có mặt trên tất cả các lục địa và cạnh tranh gay gắt với nhau như một số ngân hàng của Mỹ, Đức, Nhật, Pháp và Anh. Sự phát triển của ngành ngân hàng thực sự là một động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế toàn cầu ghi nhận rằng trong số 500 tập đoàn tài chính quốc tế lớn nhất toàn cầu tính đến cuối năm 2000 có 362 tập đoàn do ngân hàng sở hữu và điều hành, chiếm 74% tổng tài sản của 500 tập đoàn này. Quốc tế hoá các dịch vụ ngân hàng đang khuyến khích sự hợp nhất, quốc tế hoá và sáp nhập hơn nữa giữa các ngân hàng4. Các xu hướng này sẽ được phân tích kỹ hơn trong phần sau đây Hợp nhất (Consolidation) De Nicolo (2003) đã tổng hợp rằng trong những năm 1990, có rất nhiều trường hợp sáp nhập và mua lại trong các tập đoàn tài chính với số thương vụ mua bán phần lớn diễn ra trong ba năm, 1997 đến 1999. Ở Mỹ, số thương vụ sáp nhập và mua lại trong ngành ngân hàng đạt kỷ lục vào những năm 1998 đến 2000. Rất nhiều trong số những thương vụ hợp nhất này là giữa những chi nhánh hoạt động hiệu quả của những ngân hàng khác nhau nhằm tăng cường sức mạnh tài chính cho ngân hàng mới. Theo một điều tra về ngành ngân hàng ở những nước G10, số lượng ngân hàng giảm xảy ra đồng thời với sự tập trung của ngành này, thể hiện bằng phần trăm tiền gửi của một quốc gia kiểm soát bởi các ngân hàng lớn nhất của quốc gia này. Điều tra này cũng kết luận rằng những động cơ khuyến khích việc hợp nhất các ngân hàng chính là sự phát triển của công nghệ thông tin, giảm qui định của chính phủ, xu hướng toàn cầu hoá (cả ngành tài chính và các ngành khác), và áp lực của các cổ đông tăng lợi nhuận đầu tư. Trong một nghiên cứu khác của BIS (2001) & IMF (2001), hai nguyên nhân khác góp phần vào xu hướng hợp nhất là khủng hoảng ngành ngân hàng và tư nhân hoá các ngân hàng quốc doanh. Nghiên cứu của Lindgren et al (1999) cho thấy nhiều ngân hàng của một số quốc gia đã gặp phải tình trạng khó khăn, thậm chí có ngân hàng phá sản. Các chính phủ thường trợ cấp cho các ngân hàng này và sắp xếp để các ngân hàng gặp khó khăn này hợp vào các tổ chức khác. Một trong những phương pháp chuẩn đánh giá sáp nhập ngân hàng là tỷ lệ tập trung tư bản. Tài sản và tiền gửi của những tổ chức tín dụng lớn nhất được sử dụng để xây dựng tỷ lệ tập trung tư bản. Mọi sự tăng lên của tỷ lệ tập trung tư bản là dấu hiệu của xu hướng hợp nhất tăng và ngược lại, tỷ lệ tập trung tư bản giảm có thể là kết quả của việc có thêm những ngân hàng mới hoặc sáp nhập xảy ra với các ngân hàng nhỏ hơn hoặc cả hai. 4 Báo cáo IMF WP/03/158: Sáp nhập, quốc tế hoá, hợp nhất ngân hàng: Xu hướng và dự báo về những rủi ro tài chính 8
- De Nicolo (2003) đã sử dụng số liệu của IFS, OECD & FITCH – IBCA để xây dựng tỷ lệ tập trung tư bản của ba ngân hàng lớn nhất ở 115 quốc gia và của năm ngân hàng lớn nhất ở 95 quốc gia. Kết quả phân tích số liệu cho thấy rằng tỷ lệ nắm giữ thị phần ngân hàng ngày càng cao đối với Mỹ, các nước Tây Âu, một vài nước Đông Âu và châu Mỹ La tinh, song tỷ lệ này lại giảm ở châu Phi, Trung Á và một vài quốc gia ở các khu vực khác. Mức tăng không đồng đều này do mức độ phát triển khác nhau của các quốc gia, song phần nào chứng minh rằng xu hướng hợp nhất ngân hàng chỉ xảy ra ở một số khu vực và quốc gia chứ không phải mang tính toàn cầu. Quốc tế hoá (Internationalisation) Quá trình sáp nhập ngân hàng không chỉ diễn ra trong biên giới một quốc gia, mà còn diễn ra giữa nhiều nước. Smith & Water (1998) ghi nhận sự tăng trưởng trong các giao dịch mua bán giữa các quốc gia trong những năm 1985 – 1995, trong đó 15% các giao dịch là những thương vụ ngân hàng các quốc gia phát triển mua lại các tổ chức tài chính ở các quốc gia mới nổi. BIS (2001) cũng cho thấy xu hướng quốc tế hoá diễn ra ở những thị trường mới nổi, thể hiện ở sự gia tăng về số lượng các ngân hàng nước ngoài tại một số quốc gia đang phát triển. Những động cơ khuyến khích các tập đoàn tài chính mở rộng trên phạm vi quốc tế gồm có cơ hội sinh lợi ở các quốc gia chủ thể, và môi trường pháp lý ở nước nhận đầu tư. Những thương vụ mua bán quốc tế cho thấy ngân hàng nước ngoài, thường là những ngân hàng lớn có lợi nhuận cao và có trụ sở ở những nước phát triển, mua lại cổ phần của những ngân hàng tại nước có tiềm năng phát triển, mặc dù tỷ lệ tập trung tư bản của ngành ngân hàng trong nước này còn thấp và khung pháp lý ngân hàng còn chưa đầy đủ. De Nicolo (2003) đánh giá xu hướng quốc tế hoá toàn cầu bằng việc phân tích số liệu về ngân hàng sở hữu nước ngoài ở 105 nước. Về cơ bản, xu hướng quốc tế hoá tăng đáng kể trên tất cả các quốc gia tư bản từ 15-20% cho đến năm 2000. Nhìn vào từng khu vực, cũng giống như xu hướng hợp nhất, xu hướng quốc tế hoá cũng phát triển không đồng đều. Các nước Tây Âu ghi nhận mức tăng lớn nhất, 67% tổng giá trị tài sản do ngân hàng sở hữu toàn cầu nắm giữ, và tiếp đó là Mỹ, mức tăng 22% phần lớn do sự bành trướng của các ngân hàng châu Âu. Nghiên cứu cũng ghi nhận rằng, hiện tượng quốc tế hoá đang xảy ra ở những nước có thu nhập từ trung bình đến cao được quyết định bởi cơ hội đầu tư hấp dẫn. Quốc tế hoá ngân hàng thực chất ngày càng tăng ở các nước giàu và có chiều hướng giảm ở những quốc gia nghèo. Số liệu cũng ghi nhận rằng xu hướng quốc tế hoá mang tính chất tập trung ở khu vực, chứ không mang tính chất toàn cầu. Con-sort-ium (Consortium) Công nghệ thông tin và việc giảm các qui định quản lý đang thúc đẩy sự phát triển của các Con-sort-ium trong các quốc gia công nghiệp hoá. Mặc dù các yếu tố hỗ trợ đang tăng lên ở những nước đang phát triển, song vẫn chưa có đủ sức mạnh để thúc đẩy sự thành lập các côngxoocxiom ở những quốc gia này. De Nicolo (2003) sử dụng số liệu tài chính của 500 tập đoàn tài chính lớn nhất thế giới về tài sản từ năm 1995 đến năm 2000 (từ ngân hàng số liệu Worldscope) để đánh giá xu hướng consortium trên thế giới, cũng như ở các nền kinh tế mới nổi. Như dự đoán, tỷ lệ tập hợp các tập đoàn tài chính tăng theo qui mô (theo tổng tài sản) của các tổ chức tín dụng. Năm 2000, trong số 50 tổ chức lớn nhất, 92% tổ chức là consortium (chiếm giữ 94% tổng tài sản) trong khi đó trong 500 tổ chức tài chính lớn nhất chỉ có 60% tổ chức là consortium, và tỉ lệ cũng như vậy đối với nhóm 100 và 250 tập đoàn tài chính lớn nhất. Ngoài ra, xu hướng các Chính phủ huỷ bỏ những qui định đối với hoạt động của các ngân hàng đa quốc gia cũng đã khuyến khích các ngân hàng này cung cấp các dịch vụ ngân hàng mới. Các hoạt động dịch vụ ngân hàng toàn cầu đòi hỏi các ngân hàng phải được hoạt động trên một phạm vi quốc tế, ví dụ như ngân hàng điện tử hoặc ngân hàng internet. Quá trình tự do hoá trong thương mại ngày càng lớn đã kéo theo sự lưu chuyển vốn quốc tế mạnh mẽ và như vậy sự tự do hoá trong dịch vụ tài chính là không tránh khỏi. Sự tự do hoá trong các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng đã có những tác động mạnh tới thu nhập và tăng trưởng, chất lượng và hiệu quả đầu tư; cũng như sự phân bổ các nguồn lực theo ngành, theo thời gian và khu vực. 9
- Nghiên cứu của Levine (1996 và 1997) và King và Levine (1993) cho thấy cả các nước đã và đang phát triển có khu vực tài chính, ngân hàng mở cửa đã phát triển nhanh hơn các nước có khu vực này đóng cửa. Jayaratne và Stranhan (1996) nhận thấy rằng việc xoá bỏ các quy định5 đối với chi nhánh giữa các bang tại Mỹ đã kích thích tăng trưởng ở mức 0,3-0,9% GDP trong giai đoạn 10 năm liên tiếp sau khi dỡ bỏ quy định này và ở mức 0,2-0,3% sau đó. Bên cạnh xu hướng trở thành những ngân hàng sở hữu hỗn hợp (xuyên quốc gia và đa quốc gia) và vai trò giảm dần của Nhà nước trong hoạt động ngân hàng, xu hướng tích tụ và tập trung tư bản đáng kể cũng được ghi nhận trong ngành ngân hàng. Việc hợp nhất, sáp nhập và mua lại để hình thành các ngân hàng lớn, những consortium những ngân hàng xuyên quốc gia, đa quốc gia đã chứng minh sự hiệu quả của nó đối với các ngân hàng trên toàn thế giới. Những ngân hàng lớn mạnh không chỉ có ảnh hưởng đối với nền kinh tế của quốc gia sở tại ngân hàng đó mà còn có ảnh hưởng đối với nền kinh tế của các quốc gia khác. Quá trình quốc tế hoá trong hoạt động ngân hàng là kết quả của: Sự thay đổi về môi trường cạnh tranh và môi trường pháp lý làm cho thị trường tài chính có những đặc điểm mới, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức tài chính, thậm chí đòi hỏi các ngân hàng phải tái cơ cấu lại cho phù hợp; Các ngân hàng đối mặt với sự cạnh tranh mãnh liệt cả trong thị trường nội địa và quốc tế, nhất là khi công nghệ ngân hàng tiên tiến được sử dụng rộng rãi; và Việc tồn tại quá nhiều ngân hàng trong một quốc gia (chẳng hạn, ở Mỹ có khoảng 6.000 ngân hàng với hàng vạn chi nhánh khắp đất nước, còn ở Đức có 3.500 ngân hàng với 6.500 chi nhánh) đã dẫn đến chênh lệch cung và cầu. Các ngân hàng phải đối mặt với sự suy giảm tỷ suất lợi nhuận ở thị trường trong nước và phải tăng cường sự hiện diện ở thị trường mới. Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt và trong bối cảnh quốc tế như vậy, các ngân hàng phải hoạt động có hiệu quả hơn nữa để có được những vị trí cao nhất trong xếp hạng ngân hàng. Kết quả đánh giá xếp hạng ngân hàng phản ánh năng lực cạnh tranh của từng ngân hàng cũng như của hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia. Những chỉ số sau được áp dụng chung trên toàn thế giới dùng để xếp loại các ngân hàng: Nhóm chỉ số phản ánh năng lực cạnh tranh của các TCTD như chỉ số về năng lực và chất lượng nguồn nhân lực, chỉ số về năng lực công nghệ ngân hàng, chỉ số về năng lực tài chính, chỉ số về năng lực quản trị điều hành, và chỉ số về uy tín và giá trị thương hiệu; Nhóm chỉ số về chính sách xây dựng, phát triển và sử dụng các lợi thế cạnh tranh như: chỉ số về hiệu quả của các chính sách phát triển và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, công nghệ ngân hàng, năng lực tài chính, tổ chức, và giá trị thương hiệu; và Nhóm chỉ số về kết quả thực hiện chiến lược và chiến lược cạnh tranh: các thay đổi của thị phần, hoặc tỉ lệ tăng trưởng của thị phần trong các thị trường chính, tăng tỷ trọng thu nhập từ các dịch vụ sử dụng công nghệ cao, hoặc từ các sản phẩm dịch vụ mới trên các thị trường mới, và thu nhập tăng thêm của ngân hàng từ các giải pháp tăng cường cạnh tranh. Hiện nay có nhiều hệ thống chỉ số được dùng để xếp hạng các TCTD. Hệ thống chỉ số được sử dụng nhiều nhất là CAMELS. Theo hệ thống này, các TCTD được xếp hạng theo các chỉ số về vốn, tổng tài sản, quản lý, lợi nhuận, khả năng thanh khoản, và khả năng phản ứng với thị trường. Thông thường các 5 Đạo luật Hiệu lực Chi nhánh và Ngân hàng Liên bang Riegel-Neal năm 1994 bãi bỏ các hạn chế về lập chi nhánh giữa các bang 10
- TCTD được xếp hạng thứ tự từ “AAA” đến “CCC” hoặc xếp theo số thứ tự, theo từng tiêu chí của các tổ chức xếp hạng có uy tín trên thế giới như Moody’s và Standards & Poor6. Toàn cầu hoá các dịch vụ ngân hàng đã và đang phát triển nhanh chóng, và đây là đe doạ thực sự đối với thị phần của các ngân hàng Việt Nam. Thừa nhận tầm quan trọng của xu thế quốc tế hoá trong ngành ngân hàng, các ngân hàng Việt Nam đã nhận ra rằng họ phải đủ mạnh và đủ sức cạnh tranh để đứng vững trong quá trình hội nhập. Điều này sẽ giúp các ngân hàng Việt Nam có được vị trí cao hơn so với các ngân hàng khu vực và quốc tế về vốn, tổng tài sản, quản lý, lợi nhuân, khả năng thanh khoản, và phản ứng với thị trường. 2.2.2 Các xu hướng quốc tế hóa trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam Trong bối cảnh cải cách kinh tế và chính sách hội nhập quốc tế,,thời gian qua, ngành ngân hàng đã có nhiều thay đổi tích cực. Một hệ thống ngân hàng độc quyền đã được thay thế bởi một hệ thống hai cấp với nhiều loại hình tổ chức tín dụng được phép hoạt động. Với sự thay đổi trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia (từ công cụ đến cơ chế điều hành), ngân hàng Việt Nam đã có điều kiện phát triển theo xu hướng quốc tế hoá. Hiện nay, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã thừa nhận những thay đổi trong ngành ngân hàng Việt Nam và đã có những bước đi thích hợp. Việc hai ngân hàng nước ngoài mua lại cổ phần của hai ngân hàng TMCP lớn của VN trong những tháng đầu năm 2005 (Ngân hàng ANZ mua cổ phần của ngân hàng Sacombank và ngân hàng Standard Chartered Bank mua cổ phần của ngân hàng ACB) được ghi nhận như một sự khẳng định xu hướng phát triển của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Vấn đề về quyền tự chủ của các tổ chức tín dụng cũng dần được giải quyết. Các TCTD được quyền quyết định về việc cho vay, về các yêu cầu thế chấp và về lãi suất tiền gửi và cho vay. Sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trong lĩnh vực tài chính cũng được giảm dần. Các loại hình TCTD được đối xử bình đẳng trong kinh doanh theo các luật áp dụng, đặc biệt là Luật các TCTD. Các chức năng xã hội đã được tách bạch khỏi chức năng kinh doanh thương mại trong các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Ngân hàng Chính sách xã hội đã được thành lập với các chức năng gắn liền với chính sách xã hội. Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, bao gồm cả vốn của Nhà nước trong các ngân hàng quốc doanh cũng đã thay đổi. Các NHTMQD sẽ thực hiện kế hoạch cổ phần hoá theo các nguyên tắc thị trường. Vị trí của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được cải thiện7. Các chức năng của Ngân hàng Nhà nước đã được dần cải thiện thông qua việc giảm thiểu quản lý hành chính trong hoạt động của các TCTD. Ngân hàng Nhà nước cũng đã cố găng loại bỏ “các loại giấy phép con” và cải thiện các thủ tục quản lý nội bộ cho thích hợp với các cuộc cải cách hành chính trên toàn quốc. Tính chuyển đổi của tài khoản vãng lai đã và đang được cải thiện. Với việc Đồng Việt Nam ngày càng được ổn định và tiến dần tới đồng tiền có khả năng chuyển đổi, các giao dịch thanh toán vãng lai có thể được tự do hoá theo quy định tại Điều VIII Điều lệ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Các chính sách và quy định bảo đảm hoạt động an toàn của các TCTD được xây dựng trên cơ sở và tuân thủ theo các tiêu chuẩn quốc tế. Các công cụ trực tiếp sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ được thay thế bằng các công cụ gián tiếp phù hợp với cơ chế thị trường. 6 Việc đảm bảo lợi ích xã hội và ổn định kinh tế ở mỗi quốc gia, khu vực, và toàn cầu phát sinh nhu cầu đánh giá thứ hạng các TCTD. Thứ hạng được đánh giá này giúp nền kinh tế toàn cầu tránh khỏi đột biến ở những ngân hàng hay nhóm ngân hàng lớn mà có khả năng tạo ra những cú sốc kinh tế. Sự sụp đổ của một ngân hàng có thể gây ra khủng hoảng kinh tế, và trầm trọng hơn nữa là sự sụp đổ của hệ thống tài chính trên toàn thế giới. Ngoài ra, giá trị và cổ phiếu của mỗi ngân hàng cũng được phản ánh trong thứ hạng này. 7 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thể hiện sự độc lập trong việc xây dựng, thực hiện và quản lý chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý các khoản nợ và trả nợ từ các tổ chức nước ngoài, các giao dịch ngoại tệ, bảo đảm sự ổn định của đồng nội tệ và quản lý việc in tiền. 11
- Các ngân hàng và TCTD đang thực hiện chương trình hiện đại hoá bằng cách sử dụng các công nghệ mới và cập nhật các dịch vụ và sản phẩm, do đó nối mạng toàn hệ thống để đạt được việc thực hiện giao dịch một cửa. Kết quả là các dịch vụ của các ngân hàng Việt Nam trở nên đa dạng hơn, phù hợp với các hiệp định song phương, như Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ, Hiệp định Việt - Nhật về tự do, xúc tiến và bảo vệ đầu tư; và các cam kết khác ký kết trong nội bộ các tổ chức đa phương như ASEAN, ASEAN+3, APEC, và sắp tới là WTO. 12
- 3 NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM Mục đích của phần này là nhằm giới thiệu tình hình hiện tại của ngành ngân hàng với tâm điểm là các nhóm ngân hàng khác nhau (ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài). Tổng thể chi tiết hơn về ngành ngân hàng Việt Nam (bao gồm sự phát triển và cải cách ngành ngân hàng và các doanh nghiệp nhà nước) sẽ được trình bày trong Phụ lục 1 Ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua một quá trình tái cơ cấu và đổi mới sâu sắc. Những thành tựu và thay đổi quan trọng đạt được trong những năm qua đã phần nào phản ánh điều này. Tuy vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn đối mặt với những thách thức và khó khăn đáng kể. Đã có những tranh luận cho rằng những thành công khiêm tốn và công cuộc cái cách đạt được là do quyết định của Nhà nước duy trì sở hữu và giám sát toàn phần những ngân hàng này. Bên cạnh tái cơ cấu ngân hàng, hiện đại hoá cơ cấu thể chế, giám sát và quy định đều đã được thực thi. Chức năng giám sát của một ngân hàng trung ương, ví dụ như Ngân hàng Nhà nước, đã bị cản trở phần nào chỉ vì lý do NHNN là đại diện cho sở hữu Nhà nước tại các ngân hàng thương mại quốc doanh. Từ một hệ thống ngân hàng độc quyền, ngành ngân hàng của Việt Nam đã chuyển mình và thay đổi theo hệ thống hai cấp, mà bước thay đổi đầu tiên được ghi nhận từ những năm 1990 là việc tách các chức năng kinh doanh thương mại khỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Một số lớn những ngân hàng thương mại cổ phần đã được thành lập và sự hiện diện của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh đã trở nên rõ ràng hơn trong thập kỷ qua. Sự hiện diện của các HTX tín dụng/ Quỹ tín dụng, các tổ chức tài chính vi mô, các công ty tài chính và cho thuê tài chính đã làm cho thị trường tài chính trong nước đa dạng hơn (xem bảng 2). Từ đó có thể thấy rằng ngành ngân hàng Việt Nam đang chuyển dần tới một hệ thống tương tự như hệ thống ngân hàng của các nền kinh tế đang nổi và mới phát triển. Bảng 2: Ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng tại Việt Nam # Các tổ chức tín dụng tại Việt Nam Số lượng 1 Ngân hàng Thương mại Quốc doanh 5 2 Ngân hàng Chính sách 1 3 Ngân hàng Thương mại Cổ phần 34 4 Ngân hàng liên doanh 4 5 Chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài 28 6 Công ty Tài chính 5 7 Công ty Cho thuê Tài chính 8 8 Quỹ Tín dụng Nhân dân 901 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tháng Tư, 2005 Như mô tả ở bảng trên, thị trường ngân hàng Việt Nam bị phân đoạn ở mức độ cao. Trong phần dưới đây, Tư vấn sẽ so sánh hai nhóm liên quan, các tổ chức tín dụng Việt nam và tổ chức tín dụng nước ngoài trên ba yếu tố: thị phần, sức mạnh tài chính, và trình độ khoa học công nghệ và quản trị công ty. 13
- 3.1 Nhóm Ngân hàng Việt Nam Nhóm ngân hàng Việt Nam bao gồm năm ngân hàng thương mại quốc doanh, một ngân hàng chính sách và 34 ngân hàng thương mại cổ phần. Các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện thống trị thị trường tiền gửi và cho vay với thị phần tương đối lớn (xem Bảng 3). Điều này có được nhờ những lợi thế sẵn có với vai trò là ngân hàng trong nước bởi nhóm ngân hàng này không phải chịu những hạn chế về quy mô hoạt động hay số lượng các chi nhánh trong một khu vực. Trong khi những ngân hàng nước ngoài lại gặp phải một số hạn chế khi nhận tiền gửi tại thị trường trong nước. Ngoài ra, một số lượng lớn các khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp Nhà nước đã tạo thêm sức mạnh cho nhóm ngân hàng này. Bảng 3: Thị phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam Đơn vị : % 2000 2001 2002 2003 2004 Thị phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc huy động vốn Ngân hàng thương mại 77 80,1 79,3 78,1 75,2 Quốc doanh Ngân hàng cổ phần 11,3 9,2 10,1 11,2 13,2 Tổng cộng 88,3 89,3 89,4 89,3 88,4 Thị phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc cho vay Ngân hàng thương mại 76,7 79 79,9 78,6 76,9 Quốc doanh Ngân hàng cổ phần 9,2 9,3 9,5 10,8 11,6 Tổng cộng 85,9 88,3 88,4 89 88,5 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tháng Tư, 2005 Trong khi các ngân hàng TMQD vẫn tập trung phục vụ các DNNN lớn, các ngân hàng cổ phần đã tìm ra những thị trường ngách là phục vụ những doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các cá nhân. Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và ngân hàng chính sách xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc cấp vốn cho khu vực nông thôn và những người nghèo. Có thể tin tưởng rằng, trong một tương lai gần, thị phần của các tổ chức tín dụng Việt Nam trong lĩnh vực tín dụng và cho vay sẽ không thay đổi nhanh chóng; mặc dù có thể xuất hiện một số thay đổi về cấu trúc, ví dụ như thị phần của các ngân hàng TMCP sẽ tăng lên. Về sức mạnh tài chính, mặc dù gần đây đã có những cải thiện đáng kể về lượng vốn của các tổ chức tín dụng Việt Nam, nhóm này vẫn bị coi là yếu về tài chính. Trong giai đoạn 4 năm vừa qua, tổng vốn điều lệ của nhóm này đã tăng lên 3,5 lần từ 6.000 tỉ đồng vào năm 2001 lên tới 21.000 tỉ đồng vào năm 2004. Tuy nhiên, mức vốn điều lệ trung bình của cả ngân hàng TMQD và ngân hàng TMCP vẫn thấp, từ khoảng 20 cho đến vài trăm triệu USD. Những con số này không chỉ khiêm tốn khi so với các ngân hàng nước ngoài mà còn làm hạn chế khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam bởi vì mức quy định trần 15% của Luật các Tổ chức Tín dụng (các tổ chức tín dụng không được phép cho vay quá 15% vốn điều lệ cho một khách hàng). Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng thương mại vẫn thấp hơn mức tiêu chuẩn 8% của thế giới. Điều này đã hạn chế các ngân hàng nâng cấp công nghệ và giới thiệu những dịch vụ mới như ngân hàng điện tử, ATM, vốn là những dịch vụ đòi hỏi phải đầu tư đáng kể. 14
- Về ứng dụng công nghệ và công nghệ thông tin, dự án “Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán” được thực hiện tại một số ngân hàng TMQD và những đầu tư đáng kể của các ngân hàng cổ phần vào công nghệ đã cho thấy những nỗ lực đầu tư vào công nghệ mới từ phía các ngân hàng trong nước. Những dịch vụ ngân hàng hiện đại như ngân hàng internet, ngân hàng điện thoại đã được giới thiệu tại một số ngân hàng thương mại. Thị trường ngân hàng hiện nay chứng kiến cuộc cạnh tranh về thẻ ATM, khi có tới 3 ngân hàng phát hành thẻ tín dụng quốc tế và 15 ngân hàng phát hành thẻ tín dụng trong nước. Có ít nhất 700 máy rút tiền tự động (máy ATM) đã được lắp đặt tại những khu vực đông dân cư ở hầu hết những tỉnh thành phố tại Việt Nam. Tuy nhiên, cần xem xét đưa hệ thống những máy rút tiền vốn đang trong sự quản lý của từng ngân hàng riêng lẻ vào trong một hệ thống chung thống nhất để phục vụ khách hàng tốt hơn và tạo hiệu quả cao hơn cho các ngân hàng. Về quản trị doanh nghiệp, bao hàm nhiều khía cạnh như quản trị nguồn nhân lực, quản trị tín dụng - nợ, quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ và quản trị mạng lưới. Đây là những vấn đề thiết yếu cho các ngân hàng thương mại Việt nam do hầu hết những nhà quản lý ngân hàng chưa được đào tạo bài bản về kĩ năng quản trị ngân hàng. Mặc dù đã có một số nhà quản lý trung cấp là các chuyên gia được đào tạo, nhưng đội ngũ lãnh đạo của các ngân hàng trong nước cần thêm kinh nghiệm và kỹ năng trong việc quản trị ngân hàng, phân tích và quản trị rủi ro. Điều này cùng với những hạn chế hiện thời trong quản trị nguồn nhân lực nói chung, đặc biệt tại các ngân hàng TMQD, đã cản trở các ngân hàng thực hiện trách nhiệm giải trình một cách tích cực. Ngân hàng Chính sách Xã hội, Quỹ tín dụng Nhân dân, và Tiết kiệm Bưu điện Ngân hàng Chính sách Xã hội (VBSP) được thành lập để đảm nhận các chương trình cho vay chính sách quy mô nhỏ và cho vay chỉ định, vốn do các NHTMQD và các cơ quan chính phủ khác đảm nhiệm, trong đó có Ngân hàng vì Người nghèo (VBP). Việc thành lập ngân hàng này được thực hiện trên sự cần thiết phải chuyển tất cả các chương trình cho vay chính sách khỏi hệ thống NHTMQD và tổng hợp tất cả các chương trình cho vay chính sách khác nhau vào một tổ chức tài chính duy nhất. Ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động ngày 11/03/2003 và thể chế hoạt động dựa trên cơ sở mô hình ngân hàng phi lợi nhuận cung cấp một loạt các dịch vụ và sản phẩm tài chính với giá bao cấp. Ngân hàng này được miễn trừ khỏi tất cả các quy định pháp chế áp dụng cho các NHTMQD và cũng không chịu sự điều tiết của khung pháp lý được đề xuất cho các tổ chức tài chính vi mô8. Quỹ tín dụng Nhân dân (theo mô hình nghiệp đoàn tín dụng Caisses Populaires, đã được thành lập cách đây một thế kỷ ở Quebec, Canada) là một loại hình tổ chức hợp tác xã tín dụng hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về các kết quả hoạt động của mình. Được thành lập từ năm 1993, mạng lưới Quỹ tín dung Nhân dân ở Việt Nam bao gồm 905 quỹ tín dụng nhân dân cấp cơ sở và một Quỹ tín dụng Nhân dân TW với 24 chi nhánh hoạt động ở 53 trong số 64 tỉnh và thành phố khắp Việt Nam. Mạng lưới Quỹ tín dụng Nhân dân đã phục vụ cho 4,8 triệu thành viên. Khoảng 84% tổng tài sản của các quỹ tín dụng nhân dân dựa trên các nguồn tiết kiệm và vốn của các thành viên, do vậy đã tạo điều kiện cho quỹ hoạt động một cách tự chủ. Các quỹ tín dụng nhân dân có hoạt động chỉ giới hạn ở các vùng nghèo, như là các khu vực miền núi phía Bắc Theo số liệu 11/2004, Quỹ tín dụng Nhân dân đã hỗ trợ 955.657 hộ gia đình và đối tượng khách hàng chính là nông dân và các hộ kinh doanh nhỏ. Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện (VPSC) được thành lập năm 1999 với vai trò là một chi nhánh về tài chính của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông (VNPT). Một trong những nhiệm vụ chính của công ty được Chính phủ giao là cung cấp vốn cho Quỹ Hỗ trợ Phát triển cũng như đầu tư vào những dự án viễn thông của VNPT. Công ty tập trung thu hút những nguồn vốn nhỏ lẻ từ trong dân thông qua mạng lưới các bưu cục trên toàn quốc. Ban đầu VPSC mới triển khai hai dịch vụ cơ bản là Tiết kiệm có kỳ hạn lãi cuối kỳ rút một lần và Tiết kiệm gửi góp ở tổng số 39 điểm bưu cục. Sau đó, VPSC đã nhanh chóng phát triển các dịch vụ của mình tại 4.800 bưu cục trong cả nước. Đồng thời, để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của 8 Ngân hàng Thế giới (2004), Nghiên cứu chính sách tài chính: Ngân hàng Chính sách Xã hội 15
- khách hàng, nhiều dịch vụ mới đã được triển khai, bao gồm tài khoản tiết kiệm cá nhân, chuyển tiền trong nước và nước ngoài. Ngân hàng Chính sách Xã hội và Quỹ Tín dụng Nhân dân cùng với những chương trình mục tiêu khác của Chính phủ chỉ phục vụ một nhóm trong số dân cư nghèo ở Việt Nam. Các NHTMQD và các chương trình mục tiêu của Chính phủ dường như phục vụ các hộ gia đình nghèo có thu nhập khá hơn, ví dụ như Ngân hàng NNo&PTNT phục vụ hộ gia đình nghèo với thu nhập bình quân 1,8 triệu đồng/năm, Ngân hàng vì Người nghèo phục vụ các hộ gia đình có thu nhập bình quân 1,3 triệu đồng/năm và Quỹ tín dụng Nhân dân phục vụ các hộ có thu nhập 300.000 đồng/năm. Các hoạt động của Ngân hàng vì Người nghèo hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn tài trợ, các khoản vay có đảm bảo và các khoản hỗ trợ lãi suất của Chính phủ. Ngân hàng cho khách hàng vay dưới mức lãi suất của thị trường, không phải trả lãi suất cho một phần lớn các khoản vốn hoạt động, và nhận được sự đảm bảo hoàn toàn của Chính phủ và được tài trợ lãi suất cho nhiều khoản vốn hoạt động. Trong khi Ngân hàng vì Người nghèo đã xây dựng một thể chế cơ cấu và quy trình toàn diện, thì các hoạt động của ngân hàng không bền vững về mặt thể chế và tài chính nếu không có hỗ trợ của Chính phủ. Bên cạnh đó, Quỹ Tín dụng Nhân dân là một loại hình ngân hàng có vốn góp của các thành viên và không trực tiếp nhắm tới người nghèo. Quỹ tín dụng cung cấp một hệ thống tín dụng nông thôn ổn định cho nông dân và các hộ kinh doanh nhỏ mà qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương và gián tiếp góp phần xóa đói giảm nghèo. Với một mạng lưới các bưu cục rộng khắp trên toàn quốc và một loạt các sản phẩm đa dạng, VPSC đã dần dần chiếm được một thị phần đáng kể trong thị trường tài chính trong nước. Kể từ khi thành lập, VPSC đã cung cấp cho Quỹ Hỗ trợ Phát triển 8.500 tỷ VNĐ, chiếm 14,6% tổng số vốn huy động trong nước của Quỹ. Hiện tại, trong khi chờ một khung pháp lý hoàn chỉnh cho các hoạt động của dịch vụ tiết kiệm bưu điện, VPSC có kế hoạch đưa ra thị trường những sản phẩm cũng đã được các ngân hàng thương mại giới thiệu. Như vậy, mặc dù là được Chính phủ giao cho những nhiệm vụ chính trị, nhưng một khi VPSC trở thành một nhà cung cấp dịch vụ tài chính và ngân hàng bán lẻ thực thụ, công ty này chắc chắn sẽ trở thành một đối thủ lớn trên thị trường trong nước mà các ngân hàng thương mại cần phải chú ý tới. 3.2 Nhóm Ngân hàng Nước ngoài Theo Luật Các Tổ chức Tín dụng, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập tại Việt Nam, tuy nhiên vẫn chưa có ngân hàng nào được thành lập tính đến thời điểm này. Hiện nay có 3 loại hình các tổ chức tín dụng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam gồm: chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài (gồm có công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài). Đã có nhiều tranh cãi cho rằng ngân hàng nước ngoài mong muốn hoạt động độc lập tại Việt Nam mà không thành lập là pháp nhân Việt Nam. Có một vài lý do giải thích cho điều này. Thứ nhất, với địa vị nước ngoài (chi nhánh hoặc văn phòng đại diện), các hoạt động của họ không chịu sự chi phối của nhiều chính sách pháp lý như pháp nhân Việt nam. Thứ hai, khi bắt đầu hoạt động, ngân hàng nước ngoài cần tìm hiểu về thị trường nội địa và xác định các khách hàng tiềm năng. Điều này sẽ được thực hiện hiệu quả hơn nếu các ngân hàng bắt đầu phát triển từ quy mô nhỏ - văn phòng đại diện hoặc chi nhánh. Một số đặc điểm của nhóm này sẽ được mô tả trong phần dưới đây: Nhóm các ngân hàng nước ngoài chiếm một thị phần khiêm tốn, chưa đến 10%, trong cả lĩnh vực tín dụng và cho vay (xem Bảng 4). Nguyên nhân lý giải hiện trạng này chính là những hạn chế về đối tượng khách hàng các ngân hàng này phục vụ cũng như số lượng và loại hình tiền tệ được phép huy động và mạng lưới hoạt động. Mức độ của những hạn chế sẽ khác nhau theo từng loại hình chi nhánh ngân hàng nước ngoài (những ngân hàng Mỹ và châu Âu ít bị hạn chế hơn), ngân hàng liên doanh và công ty (cho thuê) tài chính. Tuy vậy, các tổ chức tín dụng nước ngoài có một số lợi thế nhất định để vượt qua tình hình này. 16
- Mức quy định trần với các khoản cho vay, 15% vốn điều lệ, áp dụng cho một khách hàng trên thực tế không phải là một hạn chế đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài vì tỷ lệ này sẽ áp dụng cho vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ tại nước ngoài. Các chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam có thể nhờ vào năng lực tài chính dồi dào của ngân hàng mẹ mà không bị giới hạn như các ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra, họ có kinh nghiệm phong phú về đánh giá dự án, xếp hạng rủi ro và quản lý nợ, từ đó tỷ lệ nợ quá hạn sẽ thấp. Một điều quan trọng khác là nhóm ngân hàng nước ngoài không phải tuân thủ các chính sách cho vay chặt chẽ theo quy định Chính phủ Việt Nam như các ngân hàng Việt Nam. Bảng 4: Thị phần của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam Đơn vị : % 2000 2001 2002 2003 2004 Thị phần của các ngân hàng nước ngoài trong lĩnh vực tín dụng Chi nhánh ngân hàng nước 9,2 8,8 8,1 7,8 8,2 ngoài Ngân hàng liên doanh 1,1 1,2 1,3 1,5 1,5 Tổng cộng 10,3 10 9,4 9,3 9,7 Thị phần của các ngân hàng nước ngoài trong lĩnh vực cho vay Chi nhánh ngân hàng nước 11,3 9,5 7,7 7,7 8,3 ngoài Ngân hàng liên doanh 1 1 1,1 1,2 1,2 Tổng cộng 12,3 10,5 8,8 8,9 9,5 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tháng Năm, 2005 Qua những cuộc trao đổi với nhóm ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, họ cho rằng những con số trên chỉ hợp lý đối với quy mô của thị trường cho vay. Nếu loại trừ các khoản vay ưu đãi từ các ngân hàng TMQD cho các dự án Chính phủ, thị phần của các ngân hàng nước ngoài trong thị trường cạnh tranh lành mạnh hơn sẽ tăng lên tới 15-17%. Ngân hàng nước ngoài vốn được xem là có những ưu thế kế thừa như ngân hàng của một quốc gia sẽ được lựa chọn là ngân hàng giao dịch của các công ty có nguồn gốc từ quốc gia đó. Việc áp dụng nghiêm khắc các chuẩn mực quốc tế trong quản lý tài chính như CAMEL(s) đã giúp đảm bảo tính giải trình và sự lành mạnh về tình hình tài chính của những ngân hàng trong nhóm này. Công nghệ và quản trị doanh nghiệp chính là những lợi thế cạnh tranh của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Nhóm ngân hàng này thường đi trước các ngân hàng Việt Nam trong việc giới thiệu những dịch vụ ngân hàng hiện đại như ngân hàng điện tử, và các công cụ phái sinh. Hiện tại, nhu cầu thị trường cho các dịch vụ này còn thấp dù sẽ gia tăng trong tương lai và chiếm một phần lớn trong doanh thu của ngân hàng. 17
- 4 RÀ SOÁT MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH NGÂN HÀNG Từ góc nhìn đánh giá về ảnh hưởng của tự do hóa thương mại trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là đối với hiệu quả hoạt động, tính cạnh tranh và các lợi ích kinh tế tổng thể của ngành hay nhóm đối tượng có khả năng chịu thiệt hại, một trong các bước cần thiết là rà soát những khác biệt giữa các quy định pháp lý hiện tại về ngân hàng và các cam kết với quốc tế mà Việt Nam đã đưa ra và/hoặc sẽ thực hiện trong quá trình tự do hóa ngành ngân hàng. Việc rà soát này được thực hiện dựa trên giả định rằng sau khi tham gia WTO, ít nhất Việt Nam sẽ thực hiện các cam kết ban đầu về lịch trình tự do hóa trong các bản chào dịch vụ WTO, nếu không phải là nhiều hơn những cam kết đó (phụ thuộc vào kết quả các cuộc đàm phán đang tiến hành). So sánh này giúp nhận biết những thay đổi về môi trường pháp lý, và sau đó là những ảnh hưởng đến khu vực ngân hàng và các tổ chức ngân hàng trong nước. Do Hiệp định Thương mại Việt Mỹ (BTA), được xây dựng dựa theo các nguyên tắc của WTO, có hiệu lực từ năm 2001 và đã thực sự tác động tới các ngân hàng trong nước, việc đưa cả những cam kết của Việt Nam trong BTA vào nghiên cứu này sẽ giúp dự báo những ảnh hưởng của cam kết WTO trong tương lai. Một lý do khác để đưa BTA vào so sánh là các thành viên WTO khác đã yêu cầu Việt Nam đưa ra những cam kết tương tự trên cơ sở Quy chế Tối huệ quốc (nói một cách khác là đa phương hóa Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ). Bởi vậy, những nghĩa vụ trong tương lai khi là thành viên của WTO cũng sẽ giống như nghĩa vụ thực hiện BTA hoặc là hơn thế nữa Việc rà soát này sẽ nhằm mục tiêu tìm ra những lỗ hổng về mặt pháp lý mà chúng ta cần khắc phục thông qua cải cách pháp luật (ví dụ như không phải mọi qui định pháp lý hiện tại đều bao hàm bốn phương thức cung cấp dịch vụ một cách cụ thể). Trong so sánh này, việc liên hệ tới những cam kết của Trung Quốc và Campuchia trong tự do hoá thương mại và những ảnh hưởng tới các vấn đề về triển khai hậu WTO cũng sẽ được đề cập đến. Những thông tin này sẽ cung cấp nhiều bài học hữu ích cho Việt Nam trong việc phân tích khả năng cạnh tranh và những điểm yếu của ngân hàng Việt Nam và trong việc thực hiện những cam kết đối với WTO trong tương lai. 4.1 Khung Pháp lý Trong nước Trong những năm qua, khung pháp lý cho ngành ngân hàng đã từng bước được cải thiện. Mốc quan trọng đầu tiên là năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Vào năm 1997, hai pháp lệnh trên đã được cải tiến để trở thành Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng, có hiệu lực thi hành từ tháng 10/1998. Hai luật này đã tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn cho các tổ chức tín dụng, góp phần duy trì ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu cải cách hành chính, sự nghiệp hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước, nâng cao hiệu quả hoạt động tiền tệ - ngân hàng, trong năm 2003 và 2004 Luật NHNN và Luật Các TCTD đã được bổ sung, sửa đổi. Những sửa đổi này được thực hiện nhằm giải quyết sự thiếu hụt về các dịch vụ ngân hàng, nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực quản lý, bên cạnh đó khuyến khích sự độc lập của các tổ chức tín dụng. Cụ thể, việc sửa đổi bổ sung hệ thống pháp luật ngân hàng là nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng hiện đại phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, loại bỏ các thủ tục hành chính, giảm thiểu sự can thiệp không cần thiết của các cơ quan quản lý Nhà nước vào hoạt động của TCTD, mở rộng và quy định lại loại hình TCTD, củng cố hệ thống pháp lý, nhằm đáp ứng các yêu cầu của việc hội nhập kinh tế khu vực và 18
- quốc tế, và chuẩn bị cho việc gia nhập WTO trong thời gian tới9. Trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 4 điều khoản (9, 17, 21 và 32) đã được sửa đổi tương ứng với nhu cầu thay đổi trong chính sách quản lý tiền tệ, như là các điều khoản minh bạch hoá hoạt động của ngân hàng, các quy định về hoạt động thị trường mở. Trong Luật về Các Tổ chức Tín dụng, 20 điều khoản đã được sửa đổi có liên quan đến những điểm khác biệt giữa tín dụng ưu đãi và tín dụng thương mại, việc sắp xếp và các hoạt động của các tổ chức tín dụng. Luật sửa đổi đã làm rõ hơn khái niệm các thuật ngữ trong ngành Ngân hàng, việc thiết lập các chi nhánh, hội đồng quản trị, tổng giám đốc và giám sát nội bộ10. 4.1.1 Điều hành chính sách tiền tệ Từ những năm 1990 đến nay, NHNN Việt Nam đã thành công trong việc điều hành chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự ổn định và phát triển hệ thống các TCTD. NHNN đã có nhiều nỗ lực trong việc hình thành và không ngừng đổi mới điều hành các công cụ chính sách tiền tệ theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trong giai đoạn đầu, để phù hợp với điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển, NHNN đã lựa chọn sử dụng nhiều hơn các công cụ trực tiếp như hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, từ năm 1998, NHNN đã chuyển sang sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp như: Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ này được thực hiện từ năm 2000 và đến nay vẫn còn là một công cụ thường được NHNN sử dụng. Công cụ tái cấp vốn: Đến nay tái cấp vốn của NHNN Việt Nam cho các NHTM chủ yếu được thực hiện dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng giấy tờ có giá. Các hình thức cho vay theo chỉ định của Chính phủ trước đây có tỷ trọng lớn trong cho vay tái cấp vốn nhưng đã dần dần giảm xuống trong những năm gần đây. Các thủ tục cho việc tái cấp vốn đã được đơn giản hoá và đang được áp dụng khá bình đẳng cho tất cả các ngân hàng, không phân biệt loại hình sở hữu. Công cụ dự trữ bắt buộc: NHNN đã từng bước đổi mới theo hướng nâng cao khả năng điều tiết của các công cụ dự trữ, phù hợp thông lệ quốc tế và tạo điều kiện cho TCTD sử dụng vốn linh hoạt. Trên thực tế, NHNN đã quy định dự trữ bắt buộc duy trì trên các khoản tiền gửi kỳ hạn từ năm 1995, được áp dụng cho cả các khoản tiền gửi có kỳ hạn và không có kỳ hạn tăng từ dưới 12 tháng tới dưới 24 tháng. Từ tháng 8 năm 2003, các tổ chức tín dụng được phép tính cả tiền gửi tại các chi nhánh NHNN là tiền duy trì dự trữ bắt buộc. NHNN cũng áp dụng các điều kiện dự trữ bắt buộc cho cả tiền đồng và tiền đô la Mỹ. Ngoài các công cụ chính sách tiền tệ nêu trên, từ tháng 7/2001, NHNN bắt đầu thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ như một công cụ chính sách tiền tệ. Thông qua nghiệp vụ này, Ngân hàng Nhà nước đã bơm nhiều tiền đồng hơn nữa vào các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các tổ chức trước đây đã gặp khó khăn về vốn khả dụng bằng tiền đồng. Cơ chế điều hành lãi suất Từ năm 2002, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động cho vay thương mại bằng tiền đồng của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Các mức lãi suất này được dựa trên các mức lãi suất cơ bản được quyết định và ban hành bởi NHNN Việt Nam. Đây là bước đột phá quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ theo các nguyên tắc thị trường, khuyến khích các tổ chức tín 9 Ví dụ, Quyết định 42-2003-QD-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra ngày 13 tháng 01 năm 2003 phác thảo kế hoạch đổi mới ngành ngân hàng Việt Nam. Quyết định số 109-QD-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra ngày 30 tháng 01 năm 2004 liệt kê các ấn phẩm pháp lý của Ngân hàng Nhà nước năm 2004. 10 Dự án VIE/02/009 - “Chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” trình bày sự so sánh chi tiết Luật mới điều chỉnh với phiên bản cũ. Phiên bản cập nhật nhất về cải cách ngân hàng pháp lý của hãng luật Phillip Fox có thể tham khảo tại 19
- dụng mở rộng mạng lưới hoạt động để thực hiện việc huy động và cho vay với mức lãi suất phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường. Điều này nâng cao tính tự chủ trong kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng. Cơ chế điều hành tỷ giá Từ 1999, Ngân hàng Nhà nước thực hiện một bước đổi mới cơ bản trong điều hành tỷ giá chuyển từ quản lý có tính chất hành chính sang điều hành theo các nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Theo đó, thay cho việc công bố tỷ giá chính thức, Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng của ngày làm việc gần nhất và các ngân hàng thương mại được phép giao dịch với tỷ giá không vượt quá tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố cộng biên độ 0,1%. Đến tháng 7 năm 2002, biên độ tỷ giá được mở rộng theo 2 chiều lên +/-0,25%. Cơ chế quản lý ngoại hối NHNN đã từng bước đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa, ngày càng thông thoáng hơn, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, NHNN đã liên tục giảm tỷ lệ kết hối từ mức 80-100% năm 1998 xuống 0% năm 2003. Các quy định về mở tài khoản ngoại tệ, quy định về mang ngoại tệ qua biên giới được từng bước nới lỏng. Chính sách quản lý vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp cũng như các chính sách liên quan khác ngày càng linh hoạt, thông thoáng hơn, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng. Cơ chế tín dụng Cơ chế tín dụng này nhằm tạo điều kiện thuận lợi về mặt luật pháp đối với các TCTD. Cơ chế chính sách tín dụng thông thoáng đã tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng các hoạt động tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế tín dụng sửa đổi cho phép các TCTD có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay (điều kiện vay vốn, lãi suất, mức vay, thời hạn vay, phương thức cho vay), lựa chọn khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay trên các nguyên tắc thương mại. Cơ chế chính sách về hoạt động thanh toán Trong thời gian qua, Chính phủ và NHNN đã từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Một loạt các văn bản pháp lý về hoạt động thanh toán đã được xây dựng và không ngừng hoàn thiện như: Nghị định về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, Nghị định về phát hành và sử dụng séc, Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, Quy chế thanh toán điện tử liên ngân hàng. Điều này đã tạo điều kiện cho các cả ngân hàng và khách hàng sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. 4.1.2 Hoạt động thanh tra - giám sát ngân hàng và các TCTD Trong tiến trình đổi mới ngân hàng bên cạnh công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng, hoạt động thanh tra - giám sát ngân hàng cũng được từng bước đổi mới. Các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng bước đầu đã được đổi mới phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Các ngân hàng đã xem xét việc sử dụng kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập như một công cụ nhằm khẳng định và đánh giá tính minh bạch, khách quan của các thông tin cung cấp bởi các tổ chức tín dụng. Hệ thống mạng máy tính của Thanh tra ngân hàng đã được kết nối trong toàn quốc, cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho việc quản lý, giám sát từng TCTD và hệ thống TCTD. 20
- Đặc biệt, NHNN đã sử dụng phương pháp giám sát dựa trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu giám sát (CAMELS), thiết lập hệ thống thông tin, báo cáo phục vụ giám sát từ xa. Vai trò của hoạt động kiểm toán ngày càng được quan tâm, tăng cường hơn. Ban Kiểm soát thuộc NHNN được giao nhiệm vụ kiểm toán hoạt động, kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ đối với các đơn vị thuộc NHNN trung ương và NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, nhất là đối với các dự án đầu tư, quản lý, sử dụng tài sản công trong hệ thống. Trong hệ thống các TCTD, vai trò và nhiệm vụ của Bộ phận kiểm toán nội bộ/Ban kiểm soát nội bộ đã được các TCTD xác định rõ và tách biệt với Hội đồng Quản trị và Ban Điều hành. Các phương pháp kiểm toán đã dần được cải thiện trên cơ sở áp dụng thông lệ chung và phù hợp với điều kiện thực tiễn. Mặc dù vậy, những mục tiêu nêu trên vẫn chưa được hoàn thành triệt để. Ví dụ, việc trì hoãn áp dụng Chuẩn mực Kế toán quốc tế (hoặc Chuẩn mực kế toán Việt nam có điều chỉnh) vẫn là một vấn đề quan trọng bảo hộ các ngân hàng trong nước trước sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài. Trên thực tế, việc thiếu những thông tin liên quan đến Chuẩn mực Kế toán quốc tế xuất phát từ việc chưa có một kế hoạch chi tiết thực hiện Chuẩn mực cũng như một cơ chế hiệu quả để giám sát việc thực hiện. Cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa để có được một hệ thống giám sát các ngân hàng ở mọi cấp có hiệu quả hơn. 4.1.3 Phát triển thị trường tiền tệ NHNN đã từng bước xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ đáp ứng yêu cầu thực tế và phù hợp thông lệ quốc tế. Từ năm 2001, NHNN đã ban hành quy định về hoạt động của thị trường liên ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế. Để tạo điều kiện phát triển thị trường tiền tệ, NHNN đã ban hành quy định về môi giới tiền tệ, về các công cụ thị trường tiền tệ, nhất là các công cụ phòng ngừa rủi ro. NHNN sắp ban hành quy định về các nghiệp vụ thị trường tiền tệ giữa NHNN và các TCTD như nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá; các quy định về đấu thầu tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ qua NHNN, quy định về lưu ký giấy tờ có giá. Từ năm 2001 đến nay, doanh số hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng liên tục tăng với nhiều phương thức giao dịch được phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN đã hoạt động ngày càng sôi động hơn với doanh số tăng dần qua các năm. Cần ghi nhận là khối lượng tín phiếu kho bạc theo giá thị trường đã tăng lên đáng kể trong những năm qua. 4.2 Những Nghĩa vụ và Cam kết Quốc tế về Tự do hóa Dịch vụ Ngân hàng 4.2.1 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (hay còn gọi là BTA) có hiệu lực từ ngày 11/12/2001. Nội dung chính của BTA bao gồm các quy định và nguyên tắc giám sát hoạt động thương mại giữa hai quốc gia. Chương 3 của Hiệp định phác thảo những nguyên tắc và quy định áp dụng cho lĩnh vực thương mại dịch vụ. Các Phụ lục của BTA liệt kê những cam kết về tự do hoá thương mại (đối với hàng hoá và dịch vụ), trong đó, Phụ lục G có trình bày lộ trình của Việt Nam thực hiện các cam kết cụ thể về dịch vụ. Trong số tám ngành dịch vụ được đề cập tới trong danh sách11, các dịch vụ tài chính, cụ thể hơn là “các dịch vụ tài chính và ngân hàng”, được quy định khá cụ thể (gồm có điều kiện, hạn chế và thời gian thực hiện) về việc mở cửa thị trường theo bốn hình thức cung cấp dịch vụ (gồm cung cấp xuyên biên giới, tiêu thụ tại nước ngoài, hiện diện thương mại hay hiện diện thể nhân). Thực tế này cho thấy những cam kết và quyết tâm của Chính phủ trong việc theo đuổi tiến trình tự do hoá trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng và tài chính. 11 Bảy ngành dịch vụ khác là: dịch vụ kinh doanh, dịch vụ thông tin liên lạc, dịch vụ kỹ thuật xây dựng, dịch vụ phân phối, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, y tế và dịch vụ du lịch. 21
- Cụ thể hơn, trong hiệp định BTA, Chính phủ Việt Nam đã thoả thuận việc tuân theo những nguyên tắc và quy định áp dụng chung đã được đề cập trong Chương 3, đồng thời thực hiện các cam kết về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia, nghĩa là các ngân hàng và tổ chức tín dụng của Mỹ sẽ được hưởng những cơ hội thị trường tốt hơn trong ngành tài chính Việt Nam. Những điểm đáng lưu ý nhất trong các quy định và cam kết này được trình bày dưới đây: Đối xử tối huệ quốc: Theo nguyên tắc này, thực chất được qui định theo hệ thống thương mại đa phương WTO, Việt Nam sẽ, một cách vô điều kiện, dành cho hàng hoá và dịch vụ từ Mỹ những đối xử không kém ưu đãi hơn hàng hoá dịch vụ xuất xứ từ bất kỳ quốc gia nào khác. Chỉ xảy ra ngoại lệ trong trường hợp Việt Nam quyết định dành ưu đãi cho các quốc gia láng giềng nhằm đáp ứng sự trao đổi trong phạm vi các khu vực dịch vụ cận biên, nơi mà sản xuất và tiêu dùng diễn ra tại chỗ; và những ưu đãi mà Việt Nam dành cho các thành viên theo như hiệp định tự do hoá thương mại dịch vụ mà Việt Nam đã ký kết hay tham gia. (ví dụ như thông qua hội nhập khu vực12). Đối xử quốc gia và tiếp cận thị trường: Đây không phải là những nguyên tắc áp dụng chung. Giống như trong hiệp định GATS, hiệp định khung BTA về dịch vụ (có trong chương 3) phác thảo những nghĩa vụ “có điều kiện” thứ hai chỉ dành cho các ngành đã cam kết, ví dụ với các hoạt động và khu vực đề cập đến trong lộ trình thực hiện. Trong đó, mỗi một thành viên đều đưa ra những hạn chế cụ thể về việc họ muốn duy trì nguyên tắc tiếp cận thị trường cũng như những điều kiện mà theo đó họ sẵn sàng cho phép hưởng chế độ đối xử quốc gia13. Trong khi thực hiện những cam kết tiếp cận thị trường theo BTA, Việt Nam cũng cam kết sẽ “đối xử không kém ưu đãi hơn những điều khoản, hạn chế và quy định đã thoả thuận và chi tiết trong lộ trình” cho những dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ từ Mỹ. Những điều kiện và biện pháp hạn chế trên có thể phân biệt (ví dụ như áp dụng cho đối tượng nước ngoài) hay không phân biệt (ví dụ áp dụng cho đối tượng trong nước nhưng có ảnh hưởng bởi mức quy định “trần” đối với dịch vụ). Sáu biện pháp hạn chế này là: Hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ; Hạn chế về tổng giá trị giao dịch; Hạn chế về tổng số các giao dịch hoặc tổng số lượng đầu ra của dịch vụ; Hạn chế về tổng số thể nhân được thuê; Hạn chế về sự tham gia góp vốn nước ngoài; và Hạn chế hay đòi hỏi phải tuân theo hình thức thực thể pháp lý nhất định để cung cấp dịch vụ. Một số cam kết cụ thể trong hiệp định BTA của Chính phủ Việt Nam đối với tổ chức ngân hàng và tài chính của Hoa Kỳ được trình bày chi tiết trong Phụ lục 2. Dưới đây là phần tóm tắt: Các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa kỳ được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua các hình thức pháp lý: (i) Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ; (ii) Ngân hàng liên doanh Việt Nam-Hoa Kỳ; (iii) Công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ và (iv) Công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ; Trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp lý duy nhất thông qua đó các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ khác (ngoài ngân hàng và công ty thuê- mua tài chính) có thể cung cấp các dịch vụ tài chính tại Việt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó, hạn chế này sẽ được bãi bỏ; Sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam (từ tháng 12 năm 2010, các ngân hàng con 100% vốn của Mỹ được phép hoạt động ở Việt Nam); Việt Nam sẽ cho phép các ngân hàng của Mỹ được nắm vốn sở hữu trong các ngân hàng Việt Nam được cổ phần hóa, tương đương với mức cho phép đối với các nhà đầu tư Việt Nam14. Theo thời 12 Những điều kiện cho trường hợp ngoại lệ được trình bày trong Điều 3, Chương 3 của Hiệp định 13 Theo điều 7, Chương 3 của BTA, các hoạt động dịch vụ mô tả trong Phụ lục G và theo các điều kiện cũng như tiêu chuẩn quy định, mỗi bên sẽ chấp nhận những dich vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bên khác, tôn trọng tất cá những biện pháp có ảnh hưởng đến việc cung ứng dịch vụ, với chế độ đãi ngộ không kém ưu đãi hơn so với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bên đó. 14 Hiện nay các ngân hàng nước ngoài được phép nắm tối đa 10% cổ phần của các ngân hàng trong nước, tuy nhiên mỗi giao dịch cần phải có sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 22
- gian, từng bước cho phép các liên doanh tăng dần mức nắm giữ vốn từ 30% lên 49%, thực hiện trước năm 2010; Từ tháng 12 năm 2004, các chi nhánh ngân hàng của Mỹ được phép: i) nhận đảm bảo cho khoản vay bằng giá trị quyền sử dụng đất do các DN có vốn đầu tư nước ngoài nắm giữ; (ii) tiếp nhận và sử dụng giá trị quyền sử dụng đất đảm bảo cho khoản vay trong trường hợp không thanh toán nợ; iii) được tiếp cận các dịch vụ tái chiết khấu, hoán đổi và hợp đồng kỳ hạn của Ngân hàng Nhà nước; và quan trọng hơn là, iv) được hưởng đầy đủ quyền như ngân hàng trong nước; Xuất phát từ những cam kết trong khuôn khổ BTA, Việt Nam cũng phải tuân thủ các điều khoản trong Phụ lục của Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ Tài chính (GATS), và thực hiện các cam kết cụ thể sau: Thành lập một công ty con của một công ty cho thuê tài chính Mỹ hoặc một công ty cho thuê tài chính liên doanh cần phải sau ba năm. Từ tháng 1 năm 2003, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoạt động ở Việt Nam được phép đặt các chi nhánh và văn phòng đại diện ở bất kỳ đâu tại Việt Nam với điều kiện các tổ chức đó đã hoạt động được từ hai năm trở lên và có tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn 5%; và Việt Nam sẽ cho phép các ngân hàng Mỹ được cung cấp các dịch vụ như nhận tiền gửi bằng đồng nội tệ, thẻ tín dụng, máy trả tiền tự động và các dịch vụ/sản phẩm khác. 4.2.2 Hiệp định Thương mại tự do các nước ASEAN (AFTA) Hiệp định Thương mại tự do các nước ASEAN yêu cầu Việt Nam cam kết vào một lộ trình cắt giảm thuế cho đến năm 2006. Việc cắt giảm thuế dự kiến sẽ tăng cường các hoạt động thương mại quốc tế, các dòng đầu tư nước ngoài bên trong khu vực, và các dịch vụ hỗ trợ tài chính như trao đổi ngoại hối và thanh toán quốc tế. Trong khi tác động của AFTA tới ngành ngân hàng là gián tiếp, các nước ASEAN đã thông qua một hiệp định khung về thương mại (AFAS) vào tháng 12 năm 1995. AFAS đưa ra những qui định cho các quốc gia thành viên ASEAN nhằm cải thiện liên tục Tiếp cận thị trường và đảm bảo chế độ Đối xử Quốc gia công bằng đối với các nhà cung cấp dịch vụ trong cộng đồng ASEAN ở cả bốn hình thức cung cấp dịch vụ. Tất cả các nguyên tắc của AFAS đều nhất quán với các quy định quốc tế về thương mại dịch vụ như trong Hiệp định chung về thương mại dich vụ (GATS) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trên thực tế, việc tự do hoá thương mại dịch vụ trong khuôn khổ AFAS là trực tiếp hướng tới những cam kết cao hơn cả những cam kết mà các nước thành viên đã cam kết theo GATS, hay còn được biết đến như nguyên tắc GATS +. Theo hiệp định này, các nước ASEAN sẽ thương lượng về tự do hoá dịch vụ liên vùng trong một số ngành, bao gồm viễn thông, du lịch, dịch vụ tài chính, xây dựng và vận tải biển. Thêm vào đó, tất cả các nước đều thống nhất về: Xoá bỏ đáng kể các biện pháp phân biệt đối xử hiện tại và các hạn chế về gia nhập thị trường trong số các nước thành viên; và Cấm ban hành thêm hoặc ban hành mới các biện pháp phân biệt đối xử và các hạn chế về gia nhập thị trường trong một khung thời gian hợp lý (Điều III: Tự do hoá) Các nước ASEAN đã đi đến kết luận về bốn nhóm cam kết thực hiện trong hiệp định khung. Liên quan đến dịch vụ tài chính, các cam kết của Việt Nam nằm trong nhóm thứ hai, được ký vào tháng 4 năm 2002. Những cam kết cụ thể từ phía Chính phủ Việt Nam trong khu vực tài chính được trình bày trong Phụ lục 2. 23
- 4.2.3 Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) và Tổ chức thương mại thế giới (WTO) Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) đàm phán lần đầu tiên tại Vòng đàm phán thương mại đa phương Urugoay và trở thanh một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống pháp lý của WTO. Mô tả về Hiệp định này có thể tóm tắt như sau 15: GATS có 4 mục tiêu chính: mở rộng thương mại dịch vụ; thúc đẩy tự do hoá thông qua các vòng đàm phán liên tục nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế; minh bạch hoá các quy tắc và quy định; và tăng cường sự tham gia của các quốc gia đang phát triển. Hiệp định này được cơ cấu thành 2 phần: hiệp định khung tóm tắt, ở nhiều phương diện tương tự như GATT, và lộ trình thực hiện những cam kết cụ thể của mỗi quốc gia, trong đó các thành viên chủ động thực hiện theo như danh sách các trường hợp ngoại lệ “đối xử tối huệ quốc.” Một trong những đặc điểm của GATS (đã được trình bày trong phần BTA) là các chính phủ được tự do lựa chọn ngành dịch vụ để đưa vào trong lộ trình cam kết, và cả những ngành đã cam kết, để duy trì những biện pháp hạn chế đối với mức độ tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia. Chính phủ cũng được chuẩn bị để đảm bảo thực hiện được những cam kết này; và cũng có thể không thực hiện chế độ tối huệ quốc (khi tất cả quốc gia nước ngoài được đối xử như nhau) nếu đưa ra được một trường hợp ngoại lệ như phần giải thích dưới đây. Những nghĩa vụ vô điều kiện Khung này bao gồm 5 nghĩa vụ chung áp dụng rộng rãi cho tất cả dịch vụ không kể đến trên thực tế đã cam kết hay chưa (“những nghĩa vụ vô điều kiện”): chế độ tối huệ quốc, sự minh bạch, rà soát hành chính, chế tài đối với các nhà cung cấp độc quyền và tham vấn liên Chính phủ về thông lệ kinh doanh bị ràng buộc. Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc(MFN): Theo điều II của GATS, các thành viên buộc phải thực hiện ngay lập tức và vô điều kiện “đối xử không kém ưu đãi hơn dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của những quốc gia khác.” cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của các thành viên khác. Điều này, theo nguyên tắc, tương ứng với việc hạn chế những ưu đãi mang tính sắp đặt giữa các nhóm thành viên hay việc hai quốc gia dành cho nhau những đặc quyền, hay hạn chế về các điều khoản có đi có lại giới hạn các lợi ích từ việc dành cho những đối tác thương mại những đối xử tương tự nhau. Bất kỳ sự vi phạm nào cũng có thể được điều tiết theo Điều II – Các trường hợp bãi miễn. Các thành viên được phép tìm kiếm sự bãi miễn trước khi Hiệp định có hiệu lực. Những trường hợp miễn trừ mới cũng có thể được xem xét đối với những thành viên mới tại thời điểm gia nhập hay, trong trường hợp thành viên hiện tại, bằng cách khước từ bãi miễn theo Điều IX:3 của Thoả thuận WTO. Tất cả các trường hợp miễn trừ đều phải được rà soát lại, theo nguyên tắc, không kéo dài quá 10 năm. Ngoài ra, GATS cho phép các nhóm thành viên tham gia vào các hiệp định hội nhập kinh tế hoặc ghi nhận những chuẩn mực, chứng nhận hoặc những biện pháp tương tự khi đáp ứng được những điều kiện cụ thể; Tính minh bạch: Các thành viên GATS được yêu cầu công khai tất cả những bằng chứng về việc áp dụng chung và thiết lập những điểm giải trình quốc gia nhằm đáp ứng những yêu cầu thông tin của các thành viên khác; và Những nghĩa vụ áp dung chung khác: Bao gồm việc thiết lập quy trình rà soát hành chính, nghĩa vụ đối với các thành viên nhằm đảm bảo rằng các nhà cung cấp độc quyền có hành động nhất quán với chế độ tối huệ quốc và những quy trình tham vấn liên chính phủ về những tập quán kinh doanh bị hạn chế của những nhà cung cấp dịch vụ tổ chức. 15 Mô tả Hiệp định chung về thương mại dich vụ GATS được sử dụng trong khuôn khổ nghiên cứu của Dự án “ Thương mại trong dịch vụ” (VIE/02/009), và được xem xét duới sự tư vấn của Mr. Pierre Latrille, thư ký Tổ chức thương mại thế giới 24
- Những nghĩa vụ có điều kiện Như trong trường hợp BTA, Hiệp định khung GATS bao gồm một lớp thứ hai những nghĩa vụ nhằm vào những khu vực đã có cam kết, ví dụ như những khu vực trong lộ trình cam kết quốc gia16, bao gồm tiếp cận thị trường, đãi ngộ quốc gia, tự do thanh toán và chuyển tiền quốc tế cũng như những quy định phụ về tính minh bạch (gửi thông báo một lần trong một năm tới WTO về bất kỳ sự thay đổi nào so với những quy định hiện hành mà ảnh hưởng lớn tới hoạt động thương mại ở những khu vực đã có cam kết) và về hành vi độc quyền và các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền (không được hành động thiếu nhất quán với những cam kết hay khi cạnh tranh trên khu vực ngoài phạm vi độc quyền và những cam kết lạm dụng vị trí độc quyền của họ). Tiếp cận thị trường – Trong lộ trình thực hiện những cam kết cụ thể, mỗi thành viên đều xác định những hạn chế mà một thành viên mong muốn duy trì theo nguyên tắc tiếp cận thị trường. Bằng cách thực hiện cam kết tiếp cận thị trường, một thành viên của WTO được hưởng “đãi ngộ không kém ưu đãi hơn so với quy định trong các điều khoản, hạn chế hay những điều kiện đã thoả thuận trong lộ trình của nước đó” đối với dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên WTO nào khác. Các điều kiện và hạn chế trên có thể phân biệt (ví dụ như chỉ áp dụng đối với đối tượng nước ngoài) hay không phân biệt (ví dụ như chỉ áp dụng cho đối tượng trong nước nhưng có ảnh hưởng đến mức quy định “trần”đối với dịch vụ). Sáu loại điều kiện và hạn chế đó là: - Hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ: ví dụ như một số lượng giới hạn các giấy phép được cấp cho các ngân hàng bao gồm cả ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, thể hiện dưới dạng số tuyệt đối, dưới dạng phần trăm hay thông qua “kiểm tra nhu cầu kinh tế” - có nghĩa là những trường hợp được cấp phép và phê duyệt theo một số các tiêu chuẩn cụ thể; - Hạn chế về tổng giá trị tài sản hay giao dich dịch vụ: ví dụ như thị phần về giá trị hay số lượng giới hạn các ngân hàng; - Hạn chế về tổng số giao dịch hay tổng sản lượng dịch vụ đầu ra: ví dụ như thị phần quy đổi ra số vốn ký quỹ; - Hạn chế về tổng số thể nhân được thuê: ví dụ như số lượng nhân viên làm việc tại các ngân hàng nước ngoài; - Hạn chế về loại hình thực thể pháp lý: ví dụ như việc cấm hay áp đặt những loại hình pháp lý như công ty con, chi nhánh, văn phòng đại diện hay công ty liên doanh; - Hạn chế về phần vốn góp nước ngoài: ví dụ như sự tham gia của nước ngoài vào các ngân hàng giới hạn tối đa là 49%. Đối xử quốc gia – Trong khuôn khổ GATS, chế độ đãi ngộ quốc gia nghĩa là đối với bất kỳ ngành nào trong lộ trình thực hiện cam kết quốc gia, mỗi thành viên buộc phải đối xử với các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài không kém ưu đãi hơn so với các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ trong nước. Yêu cầu chính là bỏ qua những biện pháp đang được điều chỉnh, theo luật pháp hay trên thực tế, những điều kiện cạnh tranh ưu đãi ngành dịch vụ riêng của một nước thành viên. Các thành viên bắt buộc phải mở rộng chế độ đối xử quốc gia ở bất kỳ ngành dịch vụ cụ thể thoả mãn những điều kiện và tiêu chuẩn trên. Khác với Tiếp cận thị trường, “đối xử quốc gia” không có một danh sách rút gọn những biện pháp hạn chế. Mỗi biện pháp đều phải trải qua thử nghiệm để xem xét ảnh hưởng đến điều kiện cạnh tranh ưu đãi đối với doanh nghiệp trong nước. Nếu một biện pháp đáp ứng được thử nghiệm, trở thành là biện pháp ràng buộc “đối xử quốc gia”, sẽ được đưa vào lộ trình nếu thành viên muốn tiếp tục duy trì nó. Thực tế cho phép xác định những biện pháp ràng buộc đối xử quốc gia mang 16 Trong khuôn khổ GATS, các dịch vụ được chia thành 12 ngành, và 155 ngành phụ với 4 hình thức cung cấp đã được cụ thể trong phần này. 25
- tính điển hình, những yêu cầu về quốc gia, yêu cầu thường trú có hiệu lực, những biện pháp ràng buộc về quyền sở hữu đất đai hay những ưu đãi với người bản địa. Trong khuôn khổ GATS (cũng tương tự như BTA va AFAS), đối với cả biện pháp Tiếp cận thị trường và chế độ Đối xử quốc gia, những cam kết và biện pháp hạn chế trong mỗi trường hợp đều được cân nhắc tới 4 hình thức cung cấp, như sau: Cung cấp xuyên biên giới (hình thức 1): khả năng của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cung cấp các dịch vụ xuyên biên giới tại các địa phận các nước thành viên; Tiêu thụ ở nước ngoài (hình thức 2): các cư dân các nước thành viên được quyền tự do mua dịch vụ trong địa phận các nước thành viên khác; Hiện diện thương mại (hình thức 3): cơ hội cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thiết lập, hoạt động hay mở rộng một hiện diện thương mại trên địa phận nước thành viên, dưới hình thức chi nhánh, đại lý, hay công ty con sở hữu toàn phần; và Hiện diện thể nhân (hình thức 4): khả năng gia nhập hay tạm thời cư trú trên địa phận nước thành viên của một thể nhân nước ngoài để cung cấp một dịch vụ. Ở cả hai hình thức Tiếp cận thị trường hay Đối xử quốc gia, có năm lựa chọn cam kết cho mỗi hình thức cung cấp là: 1. Không cam kết: nghĩa là tự do hoá hoàn toàn hay Tiếp cận thị trường ở mức đầy đủ nhất; 2. Không hạn chế: nghĩa là không có cam kết. Thành viên duy trì tự do hoàn toàn về quy định; 3. Liệt kê ràng buộc hiện tại như 49% giới hạn mức sở hữu vốn nước ngoài; 4. Tận dụng cơ hội đàm phán GATS để tự do hoá từng phần đồng thời duy trì ràng buộc (ví dụ như 51% giới hạn mức sở hữu nước ngoài sẽ đẩy mức sở hữu của nước ngoài thêm 2%, về mặt pháp lý sẽ là cổ đông đa số); và 5. Duy trì một biên độ nhất định theo kế hoạch hành động và đàm phán trong tương lai (ví dụ như để giới hạn 30% trong khi thực tế đề ra mức 49% sẽ dẫn đến khả năng quốc gia phải thắt chặt qui định pháp lý lên tới mức trần 30% và tạo một biên độ 20% cũng thông qua qui định pháp lý cho các vòng đàm phán GATS trước khi phải tự do hoá thực sự. Nhờ đó, quốc gia đó có thêm thời gian). Các trường hợp bãi miễn tối huệ quốc Chế độ tối huệ quốc là nghĩa vụ chung áp dụng cho tất cả các biện pháp ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, có sự thống nhất rằng các biện pháp cụ thể theo những nghĩa vụ tối huệ quốc có thể tiếp tục duy trì – về mặt nguyên tắc không quá 10 năm và phải rà soát lại trong vòng 5 năm. Những biện pháp này được cụ thể hóa trong danh sách các trường hợp bãi miễn tối huệ quốc. Các đề nghị của Chính phủ Việt Nam liên quan đến các cam kết trong khuôn khổ BTA được trình bày trong Phụ lục 2. 4.3 Tiến trình Đàm phán Gia nhập WTO của Việt Nam và Dự báo trong Tương lai Trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO ngay từ những ngày đầu tổ chức này được thành lập. Trong 10 năm qua, Việt Nam đã tham gia 9 phiên họp của 26
- Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, tiến hành các phiên đàm phán song phương và đa phương, trả lời hơn 1.500 câu hỏi của các nước thành viên WTO nhằm làm rõ các chính sách kinh tế, thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ. Tại Phiên họp 4 (Tháng 12/2000), Việt Nam đã hoàn tất quá trình minh bạch hoá chính sách. Tại Phiên họp 5 (tháng 4/2002), Việt Nam đã chính thức bắt đầu giai đoạn đàm phán song phương và đa phương về các điều kiện gia nhập WTO, trong đó có lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, trên cơ sở các Bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ mà Việt Nam đã đệ trình lên Ban Thư ký WTO. Phiên họp 8 (Tháng 6/2003) đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Các thành viên WTO nhất trí chuyển từ thảo luận "Các yếu tố của Dự thảo Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO" (EDR) sang thảo luận “Dự thảo Báo cáo (DR) của Ban Công tác về việc Việt nam gia nhập WTO” từ Phiên họp 9 (Tháng 12/2004). Đây là tài liệu quan trọng để cam kết gia nhập WTO. Phiên họp này chủ yếu tập trung vào các dịch vụ ngân hàng, kết quả là Bản chào thứ tư với các cam kết về dịch vụ trong đó bao gồm hàng loạt các dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác. Bước tiến này thể hiện khối lượng và chất lượng những nỗ lực mà Việt đã và đang tiến hành nhằm đáp ứng các yêu cầu để trở thành thành viên chính thức của WTO. Khi Phiên họp thứ 6 của Hội nghị cấp Bộ trưởng của WTO diễn ra tại Hong Kong tháng 12 năm 2005, Việt Nam kỳ vọng sẽ kết thúc đàm phán và trở thành thành viên mới của WTO. Nhưng Việt Nam đã “lỡ mất chuyến tàu” tới WTO tại thời điểm đó. Tham gia Hội nghị tại Hong Kong với tư cách như một quan sát viên, Việt Nam đã bày tỏ một cam kết mạnh mẽ để sớm gia nhập thành viên của WTO. Sau hơn 10 năm tham gia đàm phán, Việt Nam đã kết thúc đàm phán với 22 trên tổng số 27 thành viên yêu cầu đàm phán. Tiến trình gia nhập sẽ tiếp tục với những đối tác đàm phán còn lại (Úc, Cộng hòa Dominica và Honduras, Trung Quốc, Mexico, New Zealand và Mỹ) và các vòng đàm phán cũng đang tiến dần đến giai đoạn cuối. Dự báo khả năng cam kết trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng của Việt nam Trong quá trình đàm phán, các đối tác đàm phán WTO đã thể hiện sự quan tâm và đòi hỏi Việt Nam mở cửa dịch vụ ngân hàng hơn nữa. Tuy nhiên, yêu cầu của các đối tác đàm phán trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng hiện nay là quá cao và chưa phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện vẫn còn ở mức thấp hơn so với nhiều nước thành viên của WTO. Ngân hàng Việt Nam cần một giai đoạn chuyển đổi thích hợp tự tăng cường và cải tiến trong môi trường hoạt động cạnh tranh ngày càng gay gắt. Quá trình mở cửa, tự do hoá dịch vụ ngân hàng cần được tiến hành phù hợp với kế hoạch cải cách và chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Quá trình triển khai thực hiện Hiệp định BTA là giai đoạn quan trọng giúp Việt Nam làm quen và bắt tay xây dựng nền móng chuẩn bị tham gia vào "sân chơi chung" trong thương mại hàng hoá và dịch vụ của WTO. Tuy nhiên, Việt Nam đã can đảm đưa ra những cam kết đối với những khu vực dịch vụ mà thậm chí vẫn chưa có văn bản pháp lý trong nước điều chỉnh. Một ví dụ trong các dịch vụ đó là thuật ngữ ATM ở Việt Nam mới chỉ được hiểu với nghĩa hẹp là "máy rút tiền tự động" hơn là các dịch vụ ngân hàng tự động tiềm năng. Tuy nhiên, những điều kiện đặt ra cho các quốc gia muốn gia nhập WTO dường như ngày càng cao. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, việc gia nhập WTO đối với các nước đang xin gia nhập là khó khăn hơn so với thời điểm năm 1995. Trên thực tế, gần 20 quốc gia gia nhập WTO kể từ khi 1995 đã và đang phải chấp nhận những điều kiện khó khăn để trở thành thành viên của “câu lạc bộ” 150 hội viên này17. Trong bối cảnh này, các đối tác đàm phán đang đòi hỏi Việt Nam phải đưa ra những cam kết không chỉ ở mức cam kết trong Hiệp định BTA mà thậm chí cao hơn cả cam kết trong Hiệp định này. 17 Mức thuế suất trung bình mà các nước cam kết là khoảng 10%. Trung Quốc và các quốc gia khác đã cam kết mức thuế suất 0% đối với nhiều mặt hàng công và nông nghiệp. Trang web VietnamNet trích dẫn lời của cựu đại diện thương mại Mỹ, bà Charlene Barshefsky, rằng “khó cho Việt Nam yêu cầu một giá thấp hơn nếu gia nhập sân chơi thương mại toàn cầu lớn nhất này. Cái giá mà Việt Nam phải trả không thể thấp hơn giá của Trung Quốc” 27
- 4.4 Tham khảo thực tiễn Trung Quốc và Campuchia Việc đánh giá kinh nghiệm thực tiễn của Trung Quốc và Campuchia khi gia nhập sẽ giúp Việt Nam trong việc xem xét lại thực trạng của mình để có được những bước đi phù hợp nhất. Hai quốc gia này đều là thành viên mới của WTO và có nền kinh tế có nhiều điểm tương đồng với nền kinh tế Việt Nam. 4.4.1 Trung Quốc Ngày 11/12/2001, Trung Quốc đã chính thức trở thành thành viên của WTO sau 14 năm đàm phán và thương lượng. Nhìn chung, mức độ về cam kết mở cửa và tự do hoá dịch vụ ngân hàng của Trung Quốc là cao. Trung Quốc đưa ra lộ trình tự do hoá đầy đủ trong vòng 5 năm. Từ năm 2006 trở đi không có sự phân biệt đối xử nào giữa các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài. Các cam kết chung trong WTO của Trung Quốc sẽ có những tác động quan trọng tới lĩnh vực dịch vụ tài chính bao gồm: Thực hiện đồng bộ, công bằng và hợp lý luật pháp, quy định và các biện pháp quản lý khác của chính phủ – có thể áp dụng ở cấp địa phương và dưới cấp quốc gia cũng như đối với chính quyền trung ương18; Xuất bản một công báo chính thức về tất cả các luật, quy định và các biện pháp quản lý khác của Chính phủ có tác động đến thương mại dịch vụ19; Báo cáo hàng năm với Ban thư ký WTO về tất cả các luật, quy định và các hướng dẫn hành chính và các biện pháp quản lý khác của Chính phủ liên quan đến thương mại dịch vụ20; Thành lập một cơ quan cung cấp thông tin và trả lời các câu hỏi liên quan đến WTO21; Có sự xem xét của toà án đối với tất cả các hoạt động quản lý liên quan đến việc thực hiện tất cả các luật, quy định và các biện pháp quản lý khác của Chính phủ liên quan đến WTO22; và Những người ra quy định tách biệt và không chịu trách nhiệm về các đối tượng bị quy định23. Về những cam kết cụ thể trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, Trung Quốc không có cam kết gì về việc cung cấp qua biên giới (Hình thức 1), trừ vấn đề cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, xử lý số liệu và phần mềm liên quan, tư vấn, trung gian và các dịch vụ tài chính phụ trợ. Các cam kết về lĩnh vực dịch vụ ngân hàng của Trung Quốc về cơ bản liên quan đến Hình thức 3 bao gồm: Trung Quốc đã bãi bỏ các hạn chế theo địa lý đối với kinh doanh bằng ngoại tệ từ ngày gia nhập WTO. Các hạn chế về kinh doanh bằng đồng nội tệ được giảm dần từng bước trong vòng 5 năm, và tất cả các hạn chế về mặt địa lý được dỡ bỏ trước 11/12/2006; Các hạn chế đối với khách hàng trong các giao dịch bằng ngoại tệ được xoá bỏ từ ngày gia nhập. Trung Quốc đã cam kết cho phép các tổ chức nước ngoài kinh doanh bằng đồng nội tệ với các doanh nghiệp của Trung Quốc từ ngày 11/12/2003 và với cá nhân người Trung Quốc từ ngày 11/12/2006. Các tổ chức nước ngoài được cấp phép kinh doanh bằng đồng nội tệ trong một khu vực có thể phục 18 Nghị định thư về gia nhập của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, đoạn 2(A)2 và 3, Tài liệu WTO WT/L/432 (23 tháng 11 năm 2001). 19 Ibid, đoạn 2(C)2 20 Ibid, Phụ lục 1A, Phần V 21 Ibid, đoạn 2(C)3 22 Ibid, đoạn 2(C)1 23 Báo cáo Kỳ họp về gia nhập của Trung Quốc, đoạn 309. Tài liệu WTO WT/MIN(01)/3 (10 tháng 11 năm 2001). 28
- vụ khách hàng ở bất kỳ khu vực nào khác không theo các hạn chế về mặt địa lý. Tuy nhiên, để được cấp phép kinh doanh bằng nội tệ, các tổ chức nước ngoài phải có thời gian hoạt động ở Trung Quốc ít nhất là 3 năm và phải kinh doanh có lãi trong hai năm liên tiếp trước khi nộp đơn xin cấp phép; và Đảm bảo rằng các tiêu chí cấp giấy phép cung cấp dịch vụ ngân hàng sẽ hoàn toàn thận trọng. Không áp dụng những qui định kiểm tra nhu cầu kinh tế24 và không có hạn chế về mặt số lượng đối với các giấy phép. Các biện pháp hiện hành hạn chế quyền sở hữu, hoạt động và hình thức pháp nhân (bao gồm cả vấn đề mở chi nhánh nội bộ và giấy phép) sẽ được xoá bỏ trước 11/12/2006 (ảnh hưởng chính sẽ là xoá bỏ hạn chế về kinh doanh bằng nội tệ hơn mức 50% của kinh doanh bằng ngoại tệ). Tuy nhiên, trên thực tế, sau khi gia nhập WTO, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) đã ban hành các quy định quản lý ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài có hiệu lực từ 1/2/2002 và các biện pháp thận trọng khác. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã có những quyết định hết sức chín chắn trong quá trình mở cửa lĩnh vực ngân hàng mà vẫn đảm bảo các biện pháp phù hợp với các cam kết mà Trung Quốc đã đưa ra trong WTO. Điều quan trọng là Trung Quốc đã vận dụng một cách linh hoạt và triệt để quy định về "biện pháp thận trọng" trong dịch vụ tài chính trong WTO. PBOC đã đưa ra các yêu cầu đối với trụ sở chính và chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài về vốn hoạt động và các quy định thận trọng khác vượt xa các tiêu chuẩn quốc tế, làm cho các ngân hàng nước ngoài khó khăn hơn trong việc thiết lập và mở rộng sự hiện diện trên thị trường Trung Quốc. Chẳng hạn như PBOC quy định các ngân hàng nước ngoài được phép mở thêm một chi nhánh sau thời gian 12 tháng. Mặc dù mức cam kết của Trung Quốc trong ngành ngân hàng là cao nhưng sau năm 2006 Trung Quốc vẫn tạo ra được những rào cản đối với việc gia nhập thị trường và hoạt động của các ngân hàng nước ngoài. Những rào cản này khiến cho việc gia nhập thị trường bằng việc góp vốn vào các ngân hàng trong nước trở nên hấp dẫn hơn. Những rào cản đó chủ yếu mà Việt Nam cần phải cân nhắc là: Yêu cầu phải giữ tỷ lệ vốn lưu động cao (100 triệu nhân dân tệ, cao gấp vài lần so với tiêu chuẩn quốc tế, do đó khiến chi nhánh phải được cấp số vốn nhiều như ngân hàng con); Áp dụng các yêu cầu an toàn vốn cao (chẳng hạn như vẫn áp dụng yêu cầu 8% vốn trên tổng tài sản đối với các khoản vay bằng nhân dân tệ phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng tổng số vốn này phải được tính riêng ở cấp chi nhánh, làm hạn chế đáng kể khả năng cho vay bằng đồng bản tệ của các ngân hàng nước ngoài); và Lãi suất đối với các khoản tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ bị hạn chế (các ngân hàng nước ngoài không được tùy ý ấn định lãi suất đối với các khoản tiền gửi ngoại tệ dưới 3 triệu USD). Do các ngân hàng Trung Quốc nắm phần lớn các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ trên các tài khoản cá nhân nên các ngân hàng nước ngoài không thể đưa ra mức lãi suất cao hơn để thu hút các khách hàng mới. Trung Quốc đã tìm cách sử dụng các cam kết của nước này đối với WTO để có được sự chấp thuận bằng cách thực hiện các biện pháp cải cách cần thiết. Mặc dù lộ trình cam kết quy định các bước cải cách cụ thể nhưng trên thực tế, Trung Quốc đã thực hiện chương trình cải cách trong nước nhanh hơn lộ trình đã cam kết. Nhìn chung, mức cam kết của Trung Quốc trong ngành ngân hàng là cao, khá rộng và tự do hơn so với các nước thành viên cũ của WTO trong khu vực (Thái lan, Malaysia, và Philippin). So với các nước mới gia nhập WTO gần đây (Kyrgyst, Latvia và Estonia), cam kết của Trung Quốc cũng chặt chẽ hơn về thời gian, lộ trình quá độ sang tự do hoá hoàn toàn cũng dài hơn. Cách tiếp cận của Trung quốc với những quy định chặt chẽ đối với các ngân hàng nước ngoài đã chứng minh tính đúng đắn trong quyết sách của Trung Quốc bởi không đem lại sự xáo trộn nào trong thị trường tài chính trong nước. Cùng lúc đó, các ngân hàng trong nước có thêm nhiều thời gian để đổi mới khi các ngân hàng nước ngoài phải tuân thủ những qui định và đòi hòi cao để hội nhập vào thị trường tài chính của Trung Quốc. Những bài học này cần phải được Việt Nam xem xét cẩn thận, để tiến trình tự do hoá được thực hiện đúng kế hoạch và thành công. 24 Có nghĩa là xây dựng tiêu chí, thủ tục để áp dụng, hướng dẫn quản lý, cung cấp thông tin, thiết lập thời hạn và mức độ rà soát 29