Một vài suy nghĩ về cơ chế giám sát rủi ro của cơ quan quản lý đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta trong bối cảnh hội nhập
Bạn đang xem tài liệu "Một vài suy nghĩ về cơ chế giám sát rủi ro của cơ quan quản lý đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta trong bối cảnh hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- mot_vai_suy_nghi_ve_co_che_giam_sat_rui_ro_cua_co_quan_quan.pdf
Nội dung text: Một vài suy nghĩ về cơ chế giám sát rủi ro của cơ quan quản lý đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta trong bối cảnh hội nhập
- MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT RỦI RO CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG NƯỚC TA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Ths. Nguyễn Thị Kim Thanh Phó Vụ trưởng Vụ CSTT-NHNN Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và sự gia tăng hoạt động của các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế tạo ra xu hướng tất yếu của thời đại. Quá trình này đã và đang có ảnh hưởng lớn tới tất cả các khía cạnh của hoạt động kinh tế của các nước, nhất là các nước đang phát triển và hoạt động ngân hàng là một hoạt động dịch vụ có hàm lượng chất xám cao sẽ đặc biệt chịu tác động. Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá mang lại cho hệ thống ngân hàng nhiều lợi ích1, nhưng cũng không ít những thách thức. Thách thức rõ nhất là cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn, đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Đồng thời, rủi ro của thị trường đối với các hoạt động ngân hàng ngày càng tăng, bởi mối quan hệ nhạy cảm của thị trường trong nước với những cú sốc ngoài ý muốn của thị trường quốc tế ngày càng tăng. Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO - đỉnh cao của hội nhập kinh tế quốc tế, những thách thức nêu trên là không tránh khỏi đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng. Trong tình hình này, vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý là “làm thế nào để cho các NHTM Việt Nam với qui mô, mức độ phát triển còn nhiều hạn chế và còn khoảng cách xa với các NH trong khu vực đừng vững và phát triển trong bối hội nhập”? Các cơ quan quản lý, ngoài việc phải xây dựng một môi trường pháp lý hiệu quả, có hiệu lực, đảm bảo cho các NHTM cạnh tranh bình đẳng và thực hiện tái cơ cấu các NHTM Nhà Nước và NHTMCP, thì NHNN với tư cách là một cơ quan quản lý các hoạt động tiền tệ, tín dụng cần đảm bảo quản lý khu vực ngân hàng tránh không để các ngân hàng chấp nhận nhiều rủi ro đến mức thành rủi ro hệ thống. Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng sẽ ngày càng gia tăng khi khả năng tạo cạnh trạnh được cải thiện, khi các luồng vốn qua biên giới gia tăng và các ngân hàng có thêm vốn mới để hỗ trợ tăng hoạt động cho vay. Điều này đang diễn ra rất rõ nét đối với các NH Việt Nam hiện nay. Vì vậy, phải có những cải cách mạnh mẽ công tác giám sát hoạt động của các TCTD, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, cơ cấu của hệ thống tài chính của Việt Nam và mức độ 1 Hội nhập sẽ tạo điều kiện nâng cao năng lực phân bổ các nguồn lực; tạo điều kiện thuận lợi cho các NH trong nước thâm nhập vào thị trường quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ ngân hàng mới, kinh nghiệm quản lý cuả NH các nước trên thế giới và đào tạo đội ngũ cán bộ; tạo khả năng cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam; thúc đẩy thị trường vốn, thị trường tiền tệ phát triển; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư được tiếp cận các dịch vụ ngân hàng tốt nhất với chi phù hợp lý nhất 1
- vận dụng các qui luật thị trường để hỗ trợ cho hoạt động quản lý rủi ro trong các Ngân hàng. Trong thời gian qua cơ chế giám sát rủi ro của NHNN đối với hoạt động của các NH đã có nhiều đổi mới, như đưa ra các qui định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, phương pháp giám sát dựa trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu giám sát CAMELS được xây dựng để bước đầu thiết lập hệ thống thông tin báo cáo phục vụ giám sát từ xa Tuy nhiên, cơ chế giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN còn nhiều hạn chế về tính giám sát toàn diện các rủi ro trong hoạt động ngân hàng, về tính độc lập tương đối, về phương pháp tổ chức thanh tra giám sát và năng lực của thanh tra viên. Do vậy mà việc giám sát toàn bộ thị trường tiền tệ, phát hiện cảnh báo sớm, ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng của NHNN còn yếu. Vì vậy, vấn đề cải cách cơ chế giám sát hoạt động của các NHTM trong bối cảnh hội nhập là rất cần thiết. Cải cách quan trọng nhất về công tác giám sát hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hội nhập là chuyển sang một cơ chế giám sát hiệu quả đối với các định chế tài chính, nhất là đối với các NHTM Nhà nước - là các ngân hàng có vị trí chi phối trong hệ thống ngân hàng, theo đó : - Mục tiêu hoạt động giám sát ngân hàng cần phải được nêu rõ, khả thi và công khai minh bạch. Cụ thể, mục tiêu của giám sát ngân hàng là nhằm: Đảm bảo thị trường tài chính hiệu quả, ổn định và có khả năng cạnh tranh; tạo ra hệ thống quản trị rủi ro hiệu quả đối với các rủi ro như: Rủi ro hoạt động, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro pháp lý, rủi ro thị trường, rủi ro uy tín và rủi ro chiến lược. - Quyền lực của cơ quan giám sát ngân hàng (Thanh tra NHNN) cần phải được qui định rõ trong luật, đủ để cho phép cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng thực hiện các chức năng của họ có hiêu quả. Đồng thời, cơ quan giám sát ngân hàng cần phải có đủ nguồn lực và vị trí tương đối độc lập về mặt chính trị để đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Mặt khác, cơ quan giám sát ngân hàng phải có cơ chế công khai minh bạch và chịu trách nhiệm rõ ràng, để các cơ quan giám sát có thể đề ra được các quyết định công bằng hiệu quả và chất lượng cao. - Các thanh tra viên cần phải có kiến thức đầy đủ về các rủi ro trong hoạt động ngân hàng và các công cụ quản lý rủi ro, hiểu rõ môi trường hoạt động ngân hàng và các kênh chuyển tải các rủi ro. Do vậy, NHNN cần đổi mới phương pháp đào tạo thanh tra viên. Kiến thức về hoạt động NH của thanh tra viên phải toàn diện, ví dụ, đối với NHTW Thái Lan, để trở thành thanh tra viên, các cán bộ thanh tra điều phải qua chương trình đào tạo thanh tra viên 6 năm. - Hoạt động giám sát của NHNN đối với các định chế tài chính phải chuyển từ cơ chế giám sát việc chấp hành như hiện nay sang cơ chế giám sát rủi ro dựa vào cơ chế thị 2
- trường gián tiếp. Cơ chế này sẽ giúp nâng cao các kỹ năng và công cụ quản lý rủi ro. Phương pháp quản lý theo rủi ro là yêu cầu không thể thiếu đối với hoạt động kinh doanh hàng ngày của các TCTD, nó đòi hỏi việc phân tích tín dụng một cách chặt chẽ hơn, yêu cầu việc thu thập và xử lý thông tin một cách có hệ thống hơn. - Việc thực hiện các chuẩn mực của Basel I phải trở thành một sự bắt buộc đối với tất cả các ngân hàng trong nước cũng như nước ngoài. Điều này, trước mắt sẽ tạo ra những thách thức cho các NHTM, nhưng lại là bước quan trọng để có thể cạnh tranh hiệu quả trong trung hạn và sẽ tạo ra sự bình đẳng trên sân chơi đầy cạnh tranh. Đồng thời tạo những nền tảng cơ bản để tiến tới áp dụng Basel II trong tương lai. - Cần nâng cao cơ sở hạ tầng tài chính như phát triển thị trường trái phiếu, các công cụ phòng ngừa rủi ro và cải thiện tính kịp thời và chính xác của báo cáo số liệu thông qua hệ thống báo cáo thống kê của NHNN để nâng cao chất lượng hoạt động giám sát từ xa. - Tăng cường và nâng cao hiệu quả của thanh tra tại chỗ, để kịp thời ngăn chặn những hành động mạo hiểm chấp nhận rủi ro của các NHTM nhằm cạnh tranh để tăng thị phần. - Ngoài việc qui định các tỷ lệ an toàn cho hoạt động của các TCTD như tỷ lệ đủ vồn, tỷ lệ thanh khoản NHNN cần có các chính sách giám sát đối với các rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, chính sách về duy trì trạng thái ngoại hối, duy trì các tài sản có tính thanh khoản, chính sách quản lý về dịch vụ ngân hàng điện tử. Trong các chính sách này phải qui định rõ quyền hạn và tránh nhiệm của ban điều hành, qui định qui trình quản lý rủi ro, hướng dẫn đánh giá, kiểm soát và giám sát rủi ro. Bên cạnh đó, NHNN phải có các qui định về các công cụ tài chính phái sinh, như giao dịch phái sinh ngoại hối, lãi suất, hàng hoá, hoán đổi cổ phiếu và trái phiếu - Hội nhập kinh tế, tất yếu sẽ hình thành các tập đoàn tài chính tại Việt Nam, vì vậy NHNN cần sớm xây dựng chính sách giám sát tổng hợp, tức là giám sát toàn bộ các đơn vị phụ thuộc, nhằm đảm bảo an toàn về năng lực, sự ổn định cả về số lượng và chất lượng của tập đoàn tài chính. Giám sát tổng hợp tập trung vào các rủi ro trong nội bộ tập đoàn tài chính và bản thân mỗi đơn vị phụ thuộc. - Trong bối cảnh hội nhập, để hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, bền vững, ngoài việc phải đổi mới cơ chế giám sát từ các cơ quan quản lý, cũng đòi hỏi phải có sự đổi mới trong cơ chế giám sát của từng các tổ chức tín dụng, phải có yêu cầu các TCTD công khai hoá thông tin tài chính ở cấp độ cao và có hệ thống kiểm toán độc lập. Việc yêu cầu báo cáo công khai phải được hỗ trợ bằng một hệ thống chuẩn mực kế toán phù hợp với thông lệ quốc tế, được quốc tế công nhận. 3
- - Đồng thời, cần phát triển hệ thống Bảo hiểm tiền gửi hiện tại theo hướng góp phần giải quyết được các yếu kém của cơ chế giám sát và những yếu kém về thể chế khác. Do vậy, điểm mấu chốt của Bảo hiểm tiền gửi là phải xác định được những yếu kém của ngân hàng và có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Hiện nay Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sau hơn 7 năm hoạt động đã có những đóng góp nhất định vào việc bảo đảm an toàn hệ thống, song với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều rủi ro tiềm ẩn mà hệ thống ngân hàng phải đối mặt. Điều đó cũng đòi hỏi Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phải có những đổi mới mạnh theo hướng hình thành một tổ chức BHTG đa năng, với các chức năng nhiệm vụ đa dạng, gắn với mức độ rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm, nhằm thực hiện tốt chức năng giám sát, kiểm tra, thực hiện cảnh báo sớm để giảm thiểu rủi ro, hỗ trợ tài chính, chi trả Để có thể làm được điều này, trước hết BHTGVN phải có một khung pháp lý đủ tầm để thực hiện nhiệm vụ này, theo đó cần sớm nâng tầm Nghị định thành Luật cho hoạt động của BHTG. Đồng thời, NHNN cần sớm có ý kiến và trình Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển BHTGVN theo hướng một tổ chức BHTG đa năng. Bên cạnh đó, việc tăng cường nguồn lực về tài chính và con người là vấn đề mang tính rất cấp thiết: năng lực về tài chính phải đủ mạnh, nguồn nhân lực phải có chất lượng cao, được đào đạo bài bản, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của việc chuyển đổi mô hình BHTG đa năng và yêu cầu hội nhập của nền kinh tế. Nói tóm lại, hội nhập kinh tế sẽ mang lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng nhiều lợi ích nhưng cũng không ít rủi ro, nhất là trong bối cảnh hệ thống ngân hàng Việt Nam đang ở mức độ thấp về công nghệ, trình độ tổ chức và chuyên môn nghiệp vụ, sức cạnh tranh còn yếu, cơ chế quản lý chưa hoàn thiện, nhất là về thanh tra, giám sát và tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng chưa được xử lý triệt để. Bên cạnh đó, các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật, môi trường vĩ mô, cơ cấu định chế luật pháp và thị trường để chống đỡ với các cú sốc bên trong (như sự thay đổi không mong muốn về cầu tiền, đầu tư và tiết kiệm trong dân chúng, sự đổ vỡ hệ thống ngân hàng), cũng như những cú sốc bên ngoài (khủng hoảng kinh tế, chiến tranh ), khi mở cửa, thị trường tài chính còn hạn chế sẽ là nguy cơ cho sự an toàn bền vững của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hội nhập kinh tế sẽ khuyến khích hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển, tạo cơ hội để hệ thống ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh, nhưng hệ thống NH Việt Nam cũng phải đối phó nhiều với những rủi ro mà cạnh tranh thị trường, tự do hoá thương mại và luồng vốn đầu tư mang lại. Điều này đòi hỏi cơ quan giám sát phải được cập nhật tốt thông tin về rủi ro và có khả năng để hành động nhanh để giải quyết các sự kiện đe dọa đến sự ổn định của hệ thống. Vì mục tiêu tăng cường ổn định tài chính trong dài hạn, việc đổi mới cơ chế giám sát hoạt động ngân hàng thương mại của NHNN, của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng như của các TCTD theo hướng một cơ chế giám sát hiệu quả là thiết thực và cần phải được thực hiện khẩn trương./. 4