Đề cương Phân tích và đầu tư chứng khoán - Tổng quan về đầu tư
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương Phân tích và đầu tư chứng khoán - Tổng quan về đầu tư", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_cuong_phan_tich_va_dau_tu_chung_khoan_tong_quan_ve_dau_tu.docx
Nội dung text: Đề cương Phân tích và đầu tư chứng khoán - Tổng quan về đầu tư
- 1 Contents 1 TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ 2 Câu 1: Phân tích các loại rủi ro hệ thống trong đầu tư chứng khoán. Bình luận của Anh (Chị) về rủi ro hệ thống trên thị trường chứng khoán Việt Nam 2 Câu 2: Phân tích các loại rủi ro phi hệ thống trong đầu tư chứng khoán. Bình luận của Anh (Chị) về rủi ro phi hệ thống trên thị trường chứng khoán Việt Nam 4 Câu 3: Trình bày các phương pháp đo lường rủi ro trong đầu tư chứng khoán. 7 Câu 4: Trình bày các phương thức đầu tư chứng khoán. Nhận xét của anh chị về hoạt động đầu tư chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 9 Câu 5: Trình bày thu nhập và phương pháp xác định thu nhập trong đầu tư chứng khoán theo các phương thức đầu tư hưởng lợi, đầu tư nắm quyền kiểm soát và tạo lập thị trường 11 Câu6: Phân tích mối quan hệ giữa thu nhập và rủi ro trong đầu tư chứng khoán 12 Câu7: Trình bày thu nhập và rủi ro trong đầu tư chứng khoán theo phương thức đầu tư hưởng lợi. 13 Câu 8: Trình bày thu nhập và rủi ro trong đầu tư chứng khoán theo phương thức đầu tư nắm quyền kiểm soát 14 Câu 9: Trình bày thu nhập và rủi ro trong đầu tư chứng khoán theo phương thức tạo lập thị trường 14 Câu 10: Trình bày ý nghĩa và phương pháp xác định đường biên hiệu quả 15 Câu 11: Trình bày phương pháp xác định và ý nghĩa của đường CML 17 Câu 12: Trình bày phương pháp xác định và ý nghĩa đường SML 18 Câu 13: Phân tích các phương pháp xác định rủi ro tài chính 20 Câu 14: Trình bày khái niệm, phương pháp xác định thu nhập của tài sản tài chính 22 1
- 2 1 TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ Câu 1: Phân tích các loại rủi ro hệ thống trong đầu tư chứng khoán. Bình luận của Anh (Chị) về rủi ro hệ thống trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Bài làm: * Phân tích các loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán: Rủi ro được hiểu là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả, là khả năng xảy ra những điều không mong muốn và khi nó xảy ra thì mang lại những tổn thất. Khác với sự không chắc chắn, rủi ro có thể đo lường được. Theo quan điểm truyền thống, rủi ro mang lại các tổn thất xấu. Trong tài chính, rủi ro được định nghĩa là khả năng (hay xác suất) xảy ra những kết quả đầu tư ngoài dự kiến, hay cụ thể hơn là khả năng làm cho mức sinh lời thực tế nhận được trong tương lai khác với mức sinh lời dự kiến ban đầu. Rủi ro hệ thống (systematic risk) là các yếu tố tác động lên tất cả các công ty trên thị trường, nhà đầu tư không thể đa dạng hoá để giảm thiểu rủi ro hệ thống.Rủi ro hệ thống bao gồm: rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro sức mua và rủi ro chính trị. (1) Rủi ro thị trường: là sự biến động giá chứng khoán do tâm lý của các nhà đầu tư. Gía chứng khoán có thể giao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập của DN vẫn không thay đổi. Nguyên nhân của hiện tượng này khác nhau, phụ thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các nhà đầu tư về thị trường nói chung và một nhóm cổ phiếu nói riêng. Sự nhìn nhận khác nhau này sẽ tác động vào giá chứng khoán và làm mức sinh lời của chứng khoán thay đổi. Rủi ro thị trường xuất hiện khi có những phản ứng của các nhà đầu tư trước các sự kiện có thể là hữu hình hoặc vô hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Các sự kiện vô hình nảy sinh do tâm lý của nhà đầu tư trên thị trường. Phản ứng dây chuyền hay tâm lý bầy đàn làm cho thị trường luôn biến động, thiếu ổn định. Sở dĩ có hiện tượng bầy đàn là do trên thị trường có sự tham gia của 3 nhóm đầu tư: nhóm thứ nhất là các nhà đầu tư thận trọng, thứ hai là các nhà đầu tư “free rider” (rủi ro thị trường lớn khi tỷ trọng của nhóm này cao) và thứ ba là các nhà đầu tư “vĩ nhân”. Mức độ rủi ro thị trường ở các nước khác nhau là khác nhau. Ở các thị trường phát triển, thị trường là nơi dành cho các nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư có tổ chức nên rủi ro thị trường sẽ không lớn. Ngược lại ở những thị trường mới nổi và đang phát triển, thị trường chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân với quy mô nhỏ, thiếu kiến thức và bản lính đầu tư, tâm lý ăn theo lớn làm cho rủi ro thị trường rất cao. Để giảm rủi ro thị trường, các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường hoạt động đào tạo ,bồi dưỡng kiến thức cho nhà đầu tư, đồng thời cần minh bạch hóa về thông tin, kiểm soát chặt chẽ nhằm hạn chế các hành vi phi đạo đức như thao túng giá, kinh doanh nội gián, đầu cơ. Cần phát triển hoạt động tư vấn của các công ty chứng khoán cũng như tăng số lượng và chất lượng của các nhà đầu tư có tổ chức nhằm tăng chất lượng đầu tư. 2
- 3 (2) Rủi ro lãi suất: là sự biến động giá chứng khoán do sự thay đổi của lãi suất gây ra. Khi đầu tư vào các chứng khoán có thu nhập cố định, nếu lãi suất thị trường tăng lên, cơ hội đầu tư vào các tài sản có mức lợi tức cao hơn sẽ mất đi. Trong đó sự tăng lên của lãi suất, giá thị trường của tài sản đã đầu tư sẽ bị giảm và nhà đầu tư sẽ bị thiệt về giá khi bán các tái sản đó. Thời hạn của các tài sản đầu tư càng lớn, ảnh hưởng của lãi suất tới giá thị trường của nó sẽ càng lớn, mức độ tổn thất giá trị của chủ đầu tư sẽ càng cao. Điều này ít xảy ra với các chứng khoán có thu nhập biến đổi, chẳng hạn trái phiếu có lãi suất thả nổi. Lãi suất thay đổi làm cho chi phí và doanh thu của doanh nghiệp thay đổi. Sự thay đổi này phụ thuộc vào cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn của DN. Nếu DN sử dụng nhiều nợ, lãi suất tăng lên làm tăng chi phí lãi vay phải trả và làm cho lợi nhuận của DN sụt giảm, giá cổ phiếu giảm và ngược lại. Để hạn chế rủi ro lãi suất, nhà đầu tư cần nghiên cứu đầy đủ các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất bao gồm: chu kỳ kinh tế, lạm phát, sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của CPhủ, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tài chính . Để dự báo được sự thay đổi của lãi suất trong tương lai; sử dụng các công cụ dẫn suất như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn (3) Rủi ro sức mua là sự thay đổi giá trị thực của chứng khoán do sự thay đổi sức mua của đồng tiền. Nếu lạm phát vượt qua tỷ lệ lạm phát dự tính, giá trị thực của đồng tiền sẽ bị giảm và làm cho giá trị thực của khoản đầu tư bị giảm giá trị. Nếu coi khoản đầu tư là một khoản tiêu dùng ngay, một người mua cổ phiếu đã bỏ lỡ cơ hội mua hàng hóa hoặc dịch vụ trong suốt thời gian đầu tư. Trong khoảng thời gian đó, nếu giá cả dịch vụ tăng , nhà đầu tư sẽ mất đi một phần sức mua. Thông thường các nhà đầu tư dự kiến trước mức độ mất giá của đồng tiền qua tỷ lệ lạm phát dự kiến và họ sẽ chỉ chấp nhận đầu tư khi lợi tức thu được bù đắp cho họ tổn thất này. Khi lạm phát thực tế khác với tỷ lệ lạm phát dự kiến, rủi ro sức mua sẽ phát sinh. Nói một cách khác. Cả giảm phát và lạm phát đều tác động tới giá chứng khoán do đó nhà đầu tư sẽ yêu cầu tỷ lệ lợi tức khác đi. (4) Rủi ro chính trị là sự bất ổn giá chứng khoán do sự thay đổi về môi trường chính trị xã hội, chẳng hạn: chiến tranh, bãi công, biểu tình, sự thay đổi về thể chế, chính sách Sự thay đổi này sẽ tác động tới thu nhập và rủi ro của luồng thu nhập của các DN, từ đó thay đổi giá trị của chứng khoán. Sự thay đổi của chính trị cũng tác động đến tâm lý của các nhà đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến hành vi mua bán chứng khoán của họ. * Rủi ro hệ thống trên thị trường VN Năm 2010 nhìn chung là một năm đi lùi của thị trường chứng khoán Việt Nam. Các chỉ số Index chính đều suy giảm, trong đó riêng HNX suy giảm tới xấp xỉ 30%. Việc các công ty chứng khoán lớn đều công bố kết quả kinh doanh năm 2010 chỉ đạt khoảng 50%-75% kế hoạch cũng đủ để nói hết khó khăn của thị trường so với kỳ vọng của lãnh đạo các doanh nghiệp ngay trong ngành tài chính. Tình hình lạm phát diễn biến phức tạp và luôn là điều đáng lo ngại cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Nguyên nhân chính việc các chỉ số chính suy giảm năm 2010 được đánh giá là do kinh tế vĩ mô không thuận lợi. Nhìn lại thị trường chứng khoán giai đoạn 2008 – 2010, có thể khẳng định lạm phát luôn là yếu tố nhạy cảm nhất, gây ra rủi ro sức mua. Thêm vào đó, do lạm phát tăng cao hơn nhiều so với dự 3
- 4 kiến, lãi suất cho vay cả năm liên tục ở mức trung bình 14% - 18%, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và làm giảm hiệu quả của định hướng nới lỏng chính sách tiền tệ đầu năm 2010. Những tác động chính từ cuộc khủng hoảng hiện tại đối với hệ thống tài chính Việt Nam chủ yếu là yếu tố tâm lý. Trong điều kiện bình thường, mối quan hệ giữa Dow Jones và VN- Index khá lỏng lẻo. Tuy nhiên, NĐT chắc hẳn vẫn chưa quên ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu tháng 4-5/2010 tới TTCK trong nước. Trong khoảng gần 10 tuần, VN-Index gần như là bản sao của các chỉ số thế giới. Rủi ro hệ thống đến từ phía các cơ quan quản lý Đây là rủi ro tác động lớn nhất đến thu nhập của nhà đầu tư, bởi nó tác động tới toàn thị trường và hầu như nhà đầu tư không thể chống đỡ được. Nhắc lại vấn đề gây tranh cãi nhất trong thời gian qua là Chỉ thị 03 quy định về dư nợ cho vay chứng khoán và việc gia tăng tỉ lệ dự trữ của các ngân hàng thương mại - một kênh vốn quan trọng cho thị trường chứng khoán. Ngay lập tức chiếc bình thông từ ngân hàng sang chứng khoán bị chặn lại, ngân hàng mất đi một nguồn lợi lớn, nhà đầu tư thì lao đao khi mất đi nguồn hỗ trợ tài chính, chưa kể nhiều nhà đầu tư phải rút vốn khỏi thị trường để trả nợ cho ngân hàng. Cộng với nguồn cung không nhỏ từ các đợt IPO lớn và các đợt phát hành thêm dồn dập vì không có lộ trình cụ thể trong 6 tháng đầu năm. Cán cân cung - cầu mất cân đối, thị trường sụt giảm, thị giá cổ phiếu mất đến 30% vào thời điểm đen tối nhất của thị trường. Đó là chưa kể đến tác động về dự thảo đánh thuế 25% vào thu nhập từ chứng khoán khiến nhiều nhà đầu tư hoang mang. Vẫn biết việc đánh thuế thu nhập cá nhân là hoàn toàn hợp lý, nhưng mức đánh thuế bao nhiêu để thu nhập thực tế mà nhà đầu tư nhận được bù đắp được rủi ro mà họ gặp phải là một vấn đề phải lưu tâm. Sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý vào thị trường chứng khoán sẽ ngăn cản sự phát triển của thị trường, bởi nó làm tăng tính rủi ro hệ thống và nhà đầu tư sẽ "chùn chân" khi cân nhắc việc tham gia vào thị trường. Câu 2: Phân tích các loại rủi ro phi hệ thống trong đầu tư chứng khoán. Bình luận của Anh (Chị) về rủi ro phi hệ thống trên thị trường chứng khoán Việt Nam Bài làm: * Phân tích các loại rủi ro phi hệ thống trong đtư ckhoán: Rủi ro phi hệ thống (unsystematic risk) là những yếu tố tác động gắn liền với từng công ty riêng biệt, như rủi ro kinh doan, rủi ro tài chính của công ty đó, mà không ảnh hưởng đến các công ty khác (trừ các công ty lớn). Để giảm thiểu rủi ro loại này, nhà đầu tư thường đa dạng hoá danh mục của mình. Do vậy, rủi ro phi hệ thống còn được gọi là rủi ro có thể đa dạng hoá (diversifiable risks). Rủi ro phi hệ thống= Rủi ro DN – Rủi ro hệ thống 4
- 5 (1) Rủi ro kinh doanh là sự không chắc chắn về thu nhập của DN do bản chất của hoạt động kinh doanh. Sự không ổn định hay không chắc chắn này bắt nguồn từ những khó khăn trong các khâu khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh như chi mua nguyên vật liệu đầu vào, tiêu thụ sản phấm. Rủi ro kinh doanh được đo bằng các sai lệch của các dòng thu nhập thời gian qua. RRKD= Độ lệch chuẩn của các luồng thu nhập hoạt động/ Thu nhập hoạt động trung bình n 2 ( OE) / n i 1 OEi BR=n / n OEi i 1 Trong đó: OEi là thu nhập từ hoạt động kinh doanh của công ty năm thứ i và n là số năm Bên cạnh việc tính RRKD tổng thể,ta cần phải tính đến 2 nhân tố tác động đến sự biến đổi thu nhập hoạt động là mức biến đổi sản lượng và đòn bẩy hoạt động RRKD có thể xuất hiện do yếu tố nội sinh hoặc ngoại sinh. Yếu tố nội dinh phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động cuat DN như:yếu tố quản lý, cơ cấu và chất lượng tài sản. Yếu tố ngoại sinh nằm ngoài sự kiểm soát của DN phụ thuộc vào môi trường hoạt động của DN như sự thay đổi của chính sách tín dụng, chính sách lãi suất, sự phân bổ dân số, vấn đề tăng trưởng và ổn định kinh tế Những DN có yếu tố nội sinh tốt sẽ dễ chống đỡ trước những thay đổi của môi trường bên ngoài và ngược lại. (2) Rủi ro tài chính là loại rủi ro mà công ty phải đối mặt khi huy động vốn từ các khoản nợ để tài trợ cho các hoạt động của công ty.RRTC liên quan đến việc sử dụng nợ- đòn bẩy tài chính của DN. RR này tiềm ẩn trong cấu trúc vốn của DN. Mức độ rủi ro tài chính có thể chấp nhận được của công ty phụ thuộc rất nhiều vào rủi ro kinh doanh. Với một công ty nào đó có mức độ RRKD thấp(thu nhập từ hoạt động ổn định) các nhà đầu tư sẽ chấp nhận một RRTC cao hơn. Trong phân tích RRTC, ta sử dụng 3 chỉ tiêu Tỷ lệ nợ với VCSH=Tổng nợ dài hạn/ Tổng VCSH Các tỷ lệ so sánh giữa thu nhập với chi phí cố định và chi phí trả lãi. Khả năng thanh toán lãi vay = EBIT/Nợ phải trả Cho biết công ty sử dụng bao nhiêu % trong tổng số thu nhập của mình để trang trải các gánh nặng nợ nần. Khả năng thanh toán nợ=(EBIT+Chi phí trả lãi thuê dự tính)/(Tổng chi phí trả lãi + chi phí trả lãi thuê dự tính) Các tỷ lệ so sánh dòng tiền với chi phí tài chính hoặc so sánh các dòng tiền với giá trị sổ sách của các khoản nợ chưa trả: 5
- 6 Tỷ lệ trang trải chi phí tài chính cố định bằng tiền mặt= (lượng tiền mặt ròng thu về từ các hoạt động+ chi phí trả lãi+ chi phí trả lãi thuê dự tính)/(chi phí trả lãi+ chi phí trả lãi thuê dự tính) Tỷ lệ dòng tiền mặt trên các khoản nợ phải trả lãi = Lượng tiền mặt ròng thu về từ các hoạt động/(Tổng nợ dìa hạn+ Nợ phải trả lãi hiện hành) Việc sử dụng nợ sẽ làm tăng nghĩa vụ tài chính đối với DN do phải trả vốn và lãi, đồng thời do bị ràng buộc về nghĩa vụ thanh toán, DN sẽ phải đối mặt với dòng tiền ra lớn khi phải thanh toán nợ gốc và lãi. Khi DN k thanh toán nợ gốc và lãi đúng hạn, DN sẽ gặp khó khăn về tài chính do uy tín sụt giảm, thậm chí đối mặt với nguy cơ phá sản.DN k sử dụng nợ sẽ k có RRTC. (3) Rủi ro tỷ giá là khả năng biến động giá chứng khoán khi tỷ giá thay đổi. Khi tỷ giá thay đổi sẽ làm cho giá trị của chứng khoán mua bằng ngoại tệ thay đổi, và thu nhập của DN xuất- nhập khẩu thay đổi. Cụ thể: khi tỷ giá thay đổi sẽ làm cho giá vốn của DN nhập khẩu thay đổi và chi phí lãi vay, khả năng trả nợ của DN vay nợ bằng ngoại tệ thay đổi. Để hạn chế và khắc phục rủi ro tỷ giá các nhà đầu tư có thể sử dụng các công cụ phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn (4) Rủi ro thanh khoản là sự bất ổn của giá chứng khoán khi điều kiện giao dịch thay đổi. Các loại chứng khoán khác nhau sẽ có độ thanh khoản khác nhau. Nếu số lượng chứng khoán lớn, lượng chứng khoán khả mại sẽ nhiều. Số lượng cố đông lớn, đặc biệt là cổ đông bên ngoài DN sẽ làm tính thanh khoản cao hơn. Sự thay đổi của tính thanh khoản chứng khoán có thể do tác động của những thay đổi trong cấu trúc cổ đông; do sự thay đổi về tâm lý nhà đầu tư; do sự thay đổi về phương thức giao dịch; sự thay đổi chính sách; hoặc do sự thay đổi của thị trường. Như việc giảm thời gian thanh toán từ T+3 xuống T+1 sẽ làm tăng tính thanh khoản của chứng khoán. * Bình luận về RR phi hệ thống trên TTCK VN Với tình hình của TTCKVN hiện nay, có thể thấy rủi ro phi hệ thống là rất lớn. Báo cáo thường niên chỉ số tín nhiệm Việt Nam 2011 do Văn phòng Chủ tịch nước, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cùng Công ty CP Xếp hạng Tín nhiệm doanh nghiệp (DN - CRV) vừa được công bố ngày 20/8. Dựa trên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2009 và 2010 của khoảng 596 DN niêm yết, báo cáo cho biết có 1,2% DN bị xếp hạng C (hạng yếu kém nhất), trong đó 1,75% DN có thể bị phá sản vì thua lỗ và không có khả năng trả nợ. có 13 doanh nghiệp trên cả 2 sàn giao dịch được xếp hạng từ trung bình yếu trở xuống (mức CCC đến C), mức độ rủi ro rất cao. Trong đó 7 doanh nghiệp được xếp hạng C là doanh nghiệp loại yếu kém là DDM, 6
- 7 MHC, VMG, FBT, VKP, VSG và VTA. Các doanh nghiệp này được đánh giá là năng lực quản lý yếu kém, không có khả năng trả nợ, rủi ro rất cao. Xếp hạng AAA có 130 DN (chiếm 21,81%); 161 DN xếp hạng AA (chiếm 27,01%) và 165 DN xếp hạng A (chiếm 27,68%). Hơn 20% DN xếp hạng tín nhiệm B, những DN này bắt đầu có mức độ rủi ro từ trung bình đến cao, có hoạt động kinh doanh không hiệu quả, dễ bị cạnh tranh, thua lỗ. Bên cạnh đó, làn sóng “tính chuyện bỏ sàn” cũng xảy ra sau hiện tượng Thâu tóm quá nhanh của Masan-VCF. Dù với cách nào đi nữa, một điều có thể nhận thấy đối với các công ty đại chúng nguy cơ bị thâu tóm là rất lớn. Trong khi đó, cùng với xu hướng lao dốc không phanh của TTCK, nhiều cổ phiếu hiện đang niêm yết trên cả 3 sàn HOSE, HNX, UPCOM có giá quá thấp. Trong số 700 doanh nghiệp niêm yết thì có tới hơn 400 doanh nghiệp có thị giá thấp hơn mệnh giá 10.000 đồng (với nhiều mã đứng ở mức 2.000-5.000 đồng/cổ phiếu), trong khi giá trị sổ sách của hơn 90% các doanh nghiệp này cao hơn so với mệnh giá. Điều này cho thấy, có rất nhiều doanh nghiệp mà giá cổ phiếu đang không phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp bởi TTCK chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như chính sách, dòng tiền, niềm tin Tất nhiên nói đến giá cổ phiếu còn phải nói đến hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ và tương lai. Tuy nhiên, có một thực tế là không phải doanh nghiệp nào cũng gặp quá nhiều khó khăn trong bối cảnh kinh tế bi đát. Nhiều doanh nghiệp dù chật vật nhưng vẫn đang làm ăn có lãi và trả cổ tức đều đặn. Dù vậy, khả năng nhiều doanh nghiệp niêm yết đứng trước nguy cơ thua lỗ trong quý 4 hoặc phải giảm mạnh chỉ tiêu sản xuất kinh doanh là khá lớn và rõ ràng, tuy nhiên, việc công bố thông tin khiến họ phải dè dặt. Thêm vào đó, việc huy động vốn bằng cổ phiếu cũng khó khả thi do giá phát hành không được thấp hơn mệnh giá 10.000đ/CP, trong khi giá phần lớn cổ phiếu trên sàn đã và đang ở dưới mức 10.000 đồng. Còn nếu trả cổ phiếu thưởng tăng vốn, tình hình sẽ trở nên tệ hại hơn khi giá tiếp tục giảm sâu. Vì vậy, một số doanh nghiệp đã muốn rút lui khỏi thị trường chứng khoán Việt Nam. Những vấn đề trên tạo ra cho thị trường ck VN hiện nay một rủi ro phi hệ thống rất lớn. Việc các công ty làm ăn thua lỗ cũng như sự giảm sút trầm trọng trong giá chứng khoán khiến thể hiện một phần tình hình làm ăn không khả quan. Trước tình hình như vậy, giải pháp đa dạng hóa danh mục đầu tư là rất khó khăn. Hiện nay, hầu như chỉ còn lại sự tham gia của các nhà đầu tư trung và dài hạn, các nhà đầu tư lướt sóng phần lớn đã rút khỏi thị trường. 7
- 8 Bên cạnh đó là sự phát triển chưa hoàn thiện của các công cụ phái sinh càng gây ra tình trạng khó khăn khi đầu tư. Tóm lại, rủi ro phi hệ thống của TTCKVN là cao. Câu 3: Trình bày các phương pháp đo lường rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Bài làm: Hai phương pháp đo lường rủi ro trong đầu tư chứng khoán cơ bản là: độ dao động và sử dụng beta. * Phương pháp 1: Độ dao động Sử dụng chỉ tiêu phương sai và độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn: σ= với (i=1Ri đếnE(R n)) 2 * Pi Trong đó Pi: Xác suất của từng trạng thái Ri: Doanh lợi kỳ vọng ứng với từng trạng thái Phương sai của danh mục đầu tư 2 2 [(E(Rs E(Rp)) * Ps s=1 tới n Trong đó : E(Rs): Doanh lợi kỳ vọng của danh mục ứng với các trạng thái E(Rp): Doanh lợi kỳ vọng của danh mục Ps: Xác suất xảy ra của các tình huống Theo mô hình Markowit (+) Danh mục có N tài sản với tỷ trọng w=(; ; ; ) w1 w2 wn Vecto lợi suất kỳ vọng của các tài sản R= (; ; ; ) r1 r 2 r n Lợi suất danh mục Rp = * wk r k Phương sai của danh mục: 2 * * wi wj ij (+) Danh mục gồm 2 chứng khoán: * * r p w1 r1 w2 r 2 2 2 2 2 2 * * 2* * *Cov( ) w1 1 w2 2 w1 w2 r1 r 2 (r r ) *( ) i i j j Cov(; )= r r ri r j N COV ij Hệ số tương quan rij * i j Hệ số tương quan càng nhỏ thì khả năng giảm thiểu rủi ro càng lớn. Nếu r = +1 thì không giảm được rủi ro. 8
- 9 * Phương pháp 2: Hệ số beta Đo lường sự biến động tỷ suất lợi nhuận của từng cổ phiếu so với sự biến động tỷ suất lợi nhuận của toàn bộ thị trường 3.Xác định chuỗi return của giá chứng khoán để có được giá chứng khoán trong quá khứ. Rt= Pt P(t 1) Pt Pt= Pđóng cửa * hệ số tách tích lũy + DPS* hệ số tách tích lũy 4.Xác định beta của chứng khoán đã niêm yết B1: Xác định chuỗi lợi suất Ri và Rm (Ri Ri) *(Rm Rm) B2: Xác định hiệp phương sai Cov(Ri,Rm)= N 1 (Rm Rm) 2 . Var (Rm) = N 1 Cov(Ri, Rm) B3: Xác định β = Var(Rm) 5.ƯL beta của chứng khoán chưa niêm yết B1: Xác định tỷ trọng đầu tư theo ngành tại DN B2: Tính beta của các ngàh hoặc DN điển hình B3: Tính theo công thức : * i wj j Điều chỉnh hệ số beta khi tính đến tác động của đòn bẩy và thuếTNDN L UL D 1 (1 T ) * E (1 (1 T ) * D / E) (1 T )D / E L u debt Ta nhận thấy beta so sánh sự đồng biến động của chứng khoán và thị trường với sự biến động riêng biệt của thị trường. Hệ số này càng lớn chứng tỏ sự biến động của chứng khoán càng lớn so với sự biến động của thị trường. Beta được xác định với đầu vào là các tỷ suất lợi nhuận, mà tỷ suất này được tính toán dựa trên các mức giá của cổ phiếu theo thời gian. Xét về mặt toán học, beta chỉ là một công cụ đo lường khả năng biến động giá của các cổ phiếu so với sự biến động của chỉ số thị trường, nhưng nó là một đại diện cho rủi ro của doanh nghiệp. Ta có thể giải thích vấn đề 9
- 10 này bằng EMH (Efficient Market Hyppothesis - giả thuyết thị trường hiệu quả). Theo thuyết này, giá cả chứng khoán sẽ phản ánh tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp. Và như vậy, beta đo lường rủi ro trong sự thay đổi mức giá của cổ phiếu, cũng chính là đo lường rủi ro của doanh nghiệp. Câu 4: Trình bày các phương thức đầu tư chứng khoán. Nhận xét của anh chị về hoạt động đầu tư chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Bài làm: Đầu tư chứng khoán là một loại hình đầu tư tài chính. Trong hoạt động này nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua các chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh. Gía tri của các chứng khoản phụ thuộc vào năng lực tài chính của nhà phát hành và quan hệ cung cầu của chứng khoán trên thị trường. Hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động phức tạp, đòi hỏi các nhà đầu tư phải có trinh độ chuyên môn cao, am hiểu về thị trường, đồng thời phải có thị trường chứng khoán phát triển, tạo ra sự sẵn có của các công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao. * Các phương thức đầu tư chứng khoán: (1) Theo hình thức đầu tư: Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Như vậy, đầu tư trực tiếp bỏ vốn vào các tài sản thực, do vậy làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế còn đầu tư gián tiếp thi không. (2) Theo thời hạn đầu tư: Đầu tư ngắn hạn: thương có kỳ hạn từ 1 năm trở xuống, chủ yếu là hoạt động đâut tư ngân quỹ, hoạt động đầu tư hưởng lợi và hoạt động đầu tư phòng vệ. Đầu tư dài hạn: có kỳ hạn trên 1 năm thường tập trung ở hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát, đầu tư góp vốn kinh doanh và hoạt động góp vốn của các nhà đầu tư chiến lược. (3) Theo mục đích đầu tư: Đầu tư ngân quỹ: thường được thực hiện bới các tổ chức kinh tế và các nhà đầu tư lớn. Xuất phát từ nhu cầu thanh toán chi trả, nhu cầu dự phòng và dự trữ, thay vì phải nắm giữ một lượng tiền khá lớn, các tổ chức kinh tế và các nhà đầu tư lớn thường đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao như: tín phiếu kho bạc, CDs, kỳ phiếu ngân hàng, thương phiếu 10
- 11 Đầu tư hưởng lợi: lợi nhuận từ hoạt động đầu tư có thể có từ lợi tức từ tài sản đầu tư như cổ tức được phân phối hàng năm, hay lợi tức từ trái phiếu;chênh lệch giá chứng khoán và các quyền lợi khác nếu có. Hoạt động đầu tư hưởng lợi có thể bao gồm: Kinh doanh chênh lệch giá: là hoạt động mua bán chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn từ chênh lệch giá chứng khoán. Hoạt động đầu cơ: là hoạt động đầu tư chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức và chênh lệch giá trong dài hạn. Hoạt động đầu cơ làm cho chứng khoán trở nên khan hiếm, giá chứng khoán tăng và nhà đầu tư có thể tìm kiếm đc lợi lớn từ tăng giá chứng khoán. Kinh doanh giảm giá: là hoạt động đầu tư hưởng lợi khi có hiện tượng giảm giá chứng khoán. Khi dự báo giá chứng khoán giảm, nhà đầu tư sẽ bán chứng khoán để chờ hạ giá và mua lại. Phần chênh lệch giá sau khi trừ đi chi phí giao dịch sẽ là thu nhập của nhà bán kinh doanh giảm giá. Tạo lập thị trường: Là trường hợp nhà đầu tư, thường là các công ty chứng khoán, các NHTM đảm nhận thị trường cho các loại chứng khoán trên thị trường OTC. Họ có thể thu đc lợi tức đầu tư từ cổ tức, trái tức, chênh lệch tăng giá chứng khoán, tiền hoa hồng khi thực hiện môi giới cho các nhà đầu tư, được miễn giảm thuế,miễn giảm chi phí giao dịch, được miễn phí thông tin.Hoạt động tạo lập thị trường có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán. Đầu tư phòng vệ: các công cụ phòng vệ nhằm giúp các nhà đầu tư phòng tránh rủi ro như hợp đồng giao sau, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền mua Đấu tư nắm quyền kiểm soát: Cổ phiếu cho phép CSH có quyền kiểm soát công ty phát hành thông qua quyền được nhận thông tin, quyền tham dự và biểu quyết tại đại hội cổ đông. Số lượng cổ phiếu nắm giữ sẽ quyết định khả năng biểu quyết, kiểm soát của các nhà đàu tư. Thông qua hoạt động đầu tư vốn, nhà đầu tư có thể tham gia hội đồng quản trị nhằm thực hiện hoạt động quản lý. * Hoạt động đầu tư chứng khoán ở VN hiện nay: Đã mấy tuần nay, tuần mới luôn được mở màn bằng sắc đỏ khiến không khí trên các diễn đàn chứng khoán như chết lặng. Khác hẳn với tư thế hùng dũng vào đầu tháng 9/2011, các nhà đầu tư đang ủ rũ và chẳng buồn ngó đến sàn. Khối lượng và giá trị giao dịch cầm chừng, cổ phiếu có giá dưới mệnh giá ngày càng tăng; nhiều cổ phiếu đã bị tạm ngưng giao dịch vì thua lỗ liên tiếp Hiện tượng bán khống Một bức tranh xám đang bao trùm thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường chứng khoán sụt giảm vừa qua cũng như nỗ lực đi lên gần đây yếu đi, một trong những “tội đồ” được tìm thấy là “bán khống”. Phải khẳng định ngay, quy định hiện tại không cho phép nhà đầu tư thực hiện bán khống theo khái niệm chuẩn. Việc cho phép mở tài khoản “margin” gần đây chỉ là chính thức hóa việc hỗ trợ tiền theo tỉ lệ của công ty chứng khoán. Quy định này chỉ thực hiện “một nửa” thông lệ quốc tế: Nhà đầu tư được vay tiền nhưng không được vay chứng khoán để bán và công ty cũng không được lấy chứng khoán của nhà đầu tư để cho mượn. 11
- 12 Nhưng nếu thực hiện bán khống đúng nghĩa chuẩn thì nhà đầu tư và công ty chứng khoán đang vi phạm luật. Một điểm nữa là với công nghệ mới của Trung tâm lưu ký, nhà đầu tư không thể nào đặt một lệnh bán mà trong tài khoản không có chứng khoán. Do đó trên thị trường Việt Nam không có hoạt động bán khống đúng nghĩa. Điều đang diễn ra hiện nay trên thị trường Việt Nam không thể gọi là bán khống, mà đúng hơn là “bán nhờ trên tài khoản người khác”. Các cơ quan quản lý đang nỗ lực cấm hoạt động bán khống là theo nghĩa bán khống chuẩn. Còn các thỏa thuận dân sự hoặc thỏa thuận dựa trên niềm tin giữa hai bên thì không có cách nào ngăn cấm được. Nhà đầu tư có toàn quyền quyết định với tài sản của mình, có thể bán để kiếm lời hoặc bán hộ cho người khác để hưởng phí. Các vi phạm bán khống cần ngăn cấm như vậy đã từng xảy ra, chẳng hạn khi công ty chứng khoán “lấy trộm” chứng khoán của khách hàng để bán đi, sau đó mua lại. Rất nhiều nhà đầu tư không sao kê tài khoản thường xuyên, hoặc nhà đầu tư không giao dịch nhiều có thể bị lợi dụng. Hoạt động “bán khống” kiểu Việt Nam ảnh hưởng thế nào đến thị trường? Trước hết, việc quy kết sự sụt giảm sâu của thị trường vừa qua là do “bán khống” là vội vã. Không một ai có thể xác định chính xác quy mô của giao dịch “bán khống” nói trên vì các thỏa thuận đều là dân sự. Để “dìm” thị trường xuống, thì phải cần một khối lượng chứng khoán rất lớn. Tuy nhiên, việc vay mượn tự phát cũng có mức rủi ro tùy thuộc vào độ tin cậy của mỗi bên cũng như quy mô của thương vụ. Gần đây, một số công ty chứng khoán tự đứng ra làm trung gian ghép nối giữa người có chứng khoán không cần bán với người cần vay mượn chứng khoán để “trading”. Hiện tượng này không phạm luật và cũng không rủi ro vì công ty chỉ như một cơ sở dữ liệu khách hàng. Tuy nhiên nếu công ty đứng ra đảm bảo tín nhiệm cho các hoạt động vay mượn thì lại có rủi ro vì những hợp đồng dạng này chủ yếu là thỏa thuận dân sự. Nhiều trường hợp thỏa thuận thuần túy dựa trên sự tin cậy, tài sản đảm bảo thấp hoặc không có. Nếu vay mượn khối lượng lớn và người đi vay không trả được, các rắc rối sẽ phát sinh và rất khó giải quyết. Gánh nặng của thành viên tham gia thị trường Hiện tại, thị trường chứng khoán đã trở thành gánh nặng cho hầu hết những ai tham gia thị trường (từ công ty chứng khoán, DN niêm yết cho đến nhà đầu tư). Nhưng bối cảnh thị trường hiện nay lại có cái gì đó còn trầm trọng hơn toàn bộ thời gian trước đó của năm 2011. Kết thúc quý II trong năm, khoảng một nửa số công ty chứng khoán báo lỗ. Còn đến quý III, tỷ lệ lỗ đã lên đến khoảng 80%. Có thể tin rằng đó là sự lỗ thực chứ chẳng phải là chuyển giá hay lời thật lỗ giá như một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hàng loạt, và ngày càng nhiều hơn công ty chứng khoán phải đóng cửa văn phòng giao dịch và cho nghỉ việc nhân viên đã phản ánh bóng tối lỗ lã và tình thế khó bề cầm cự. Vào giữa năm, việc một công ty chứng khoán giảm đến phân nửa số nhân viên đã được coi là sự kiện ấn tượng. Còn giờ đây, chuyện nghỉ việc 2/3 nhân viên là bình thường. Và đến khi ngay cả công ty chứng khoán ACB và Sacombank cũng phải đóng cửa một số văn phòng giao dịch của họ thì có thể hiểu là tình hình đã không còn nằm trong tầm kiểm soát của các công ty chứng khoán đầu đàn nữa. Lãi suất cao ảnh hưởng xấu đến chứng khoán 12
- 13 Theo giới chuyên môn, giá cổ phiếu giảm không phanh có nhiều nguyên nhân. Đối với nhà đầu tư dạng đầu cơ (chủ yếu dựa vào tin đồn, thao túng, làm giá hay giao dịch nội gián), trong điều kiện thị trường “chợ ế” như hiện nay những hoạt động này sẽ không có cửa. Còn với trường phái đầu tư có phân tích thực sự thì hiện tại, dù nhiều cổ phiếu có giá “bèo” nhưng họ vẫn thận trọng vì cơ hội sinh lời không cao, trong khi nguy cơ mất tiền vì rủi ro do DN niêm yết đang gặp nhiều bất lợi. Bên cạnh đó, tiền mặt đang thiếu hụt, lãi suất tiền gửi cao (thường khoảng 17%) mà chỉ số ROE (lợi nhuận/giá trị sổ sách) của DN dưới 20% thì chắc chắn nhà đầu tư sẽ không còn hứng thú đem tiền mua cổ phiếu. Các thế lực làm giá và thao túng thị trường Từ lâu lắm rồi, nhà đầu tư nhỏ lẻ bị đặt vào tình thế hoàn toàn bị động. Sóng của thị trường hoàn toàn phụ thuộc vào các thế lực làm giá và thao túng. Không có lực đẩy từ các thế lực ấy, cầm chắc là đường biểu diễn của chỉ số chỉ có kéo ngang và đi xuống chứ không thể đi được. Còn với sự giúp đỡ tận tình của nhà tạo lập thị trường, chỉ số sẽ có được những phiên lao dốc, nhưng bù lại nhà đầu tư lướt sóng cũng có được cảm xúc chiến thắng dù chỉ một lần, dù chỉ là chiến thắng thị trường trong khoảnh khắc. Thời gian trong năm đã gần hết. Những hy vọng từ đầu năm tích lũy và kéo đến giữa năm, rồi vụt chớm vào quý III vừa qua, nay lại lặng lẽ chìm vào tĩnh lặng. Tĩnh lặng một cách câm lặng và chịu đựng. Vẫn không có gì mới cả, vẫn là cái trò làm giá những cổ phiếu có vốn hóa siêu lớn và tha hồ đánh lên đánh xuống. Có khác chăng chỉ là dòng tiền đầu cơ đã đủ sốt ruột để bắt đầu tham gia thị trường, tạo cho nhà đầu tư có cảm giác như thị trường đang tạo đáy dài hạn. Thị trường chưa lập đáy, chưa có đáy, hoặc sẽ không thể có đáy cho đến khi các thế lực lũng đoạn thị trường thỏa mãn những yêu cầu hết sức riêng tư của họ. Nhà đầu tư nhỏ lẻ vẫn đang hẫng hụt trong cái khoảng trống vô cùng tận. Chẳng lẽ họ cam tâm chấp nhận đánh mất lý trí của mình để góp sức cho sự tồn tại đầy lý trí của thế lực lũng đoạn? Câu 5: Trình bày thu nhập và phương pháp xác định thu nhập trong đầu tư chứng khoán theo các phương thức đầu tư hưởng lợi, đầu tư nắm quyền kiểm soát và tạo lập thị trường. Bài làm: Thu nhập của một khoản đầu tư chứng khoán là phần chênh lệch giữa kết quả thu được sau một khoảng thời gian đầu tư và vốn gốc mà nhà đầu tư phải bỏ ra ban đầu. Khi đầu tư vào cổ phiếu, các nhà đầu tư thường kỳ vọng vào hai loại thu nhập, đó là thu nhập từ cổ tức và từ mức tăng thị giá cổ phiếu. Thu nhập từ cổ tức tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của công ty và quyết định của Hội đồng quản trị. Thu nhập từ mức tăng thị giá cổ phiếu là biểu hiện của mối quan hệ trực tiếp giữa triển vọng kinh doanh của công ty với nhu cầu mua cổ phiếu trên thị trường. 13
- 14 Theo phương thức đầu tư hưởng lợi: Nhà đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận bao gồm cả lợi tức và chênh lệch giá. Thu nhập từ hoạt dộng này bao gồm: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh chênh lệch giá: mua bán trong ngắn hạn để tìm kiếm LN từ chênh lệch giá Thu nhập từ hđ đầu cơ: tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức và chênh lệch giá trong dài hạn. Khi CK khan hiếm, NĐT bán và thu lợi nhuận. TN từ hđ kinh doanh giảm giá: Khi CK có dấu hiệu giảm giá NĐT bán CK rồi chờ giá hạ và mua lại, khoản chênh lệch trừ đi cphis giao dịch sẽ la TN của NĐT. TH đặc biệt là bán khống: vay CK của 1 cty để bán đi, đợi giá hạ sẽ mua trả để hưởng chênh lệch. Theo hình thức đtư nắm quyền kiểm soát: Cho phép CSH có quyền kiểm soát công ty PH thông qua quyền dc nhận t.tin, q` tham dự và biểu quyết tại ĐH cổ đông. Số lượng cp nắm giữ qđ khả năng kiểm soát, biểu quyết của NĐT. Thông qua nắm q` kiểm soát các NĐT lớn sẽ t/hiện tái cấu trúc qlis cty,thay đổi công nghệ, từ đó năng cao hiệu quả hđ và cải thiện h/a cty trong mắt công chúng từ đó thực hiện bán CP trên TT tập trung or OTC khi cp tăng giá,đó chính là thu nhập của họ. Tạo lập thị trường: Là các NĐT,thường là các cty CK,NHTM đảm nhận tạo thị trường trên tt OTC thực hiện mua bán theo y/cầu tạo tính thanh khoản cho CK. Thu nhập của họ dc tạo ra từ cổ tức,trái tức,chênh lệch giá Ck,tiền hoa hồng khi thực hiện môi giới cho các NĐT. Câu 6: Phân tích mối quan hệ giữa thu nhập và rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Bài làm: Khi đầu tư vào cổ phiếu, các nhà đầu tư thường kỳ vọng vào hai loại thu nhập, đó là thu nhập từ cổ tức và từ mức tăng thị giá cổ phiếu. Thu nhập của một khoản đầu tư là phần chênh lệch giữa kết quả thu được sau một khoảng thời gian đầu tư và vốn gốc mà nhà đầu tư phải bỏ ra ban đầu. Rủi ro được định nghĩa như là một sự khác biệt giữa giá trị thực tế và giá trị kỳ vọng. Theo các lý thuyết cũ, rủi ro là những yếu tố làm cho mức sinh lời giảm. hiện nay người ta cho rằng cả mọi yếu tố làm cho thu nhập thay đổi so với dự tính dù là tăng hay giảm đều coi là rủi ro. Đầu tư vào cổ phiếu chứa đựng nhiều loại rủi ro bao gồm cả rủi ro hệ thống và phi hệ thống: Rủi ro hệ thống bao gồm: rủi ro tỷ giá rủi ro thị trường 14
- 15 rủi ro lãi suất rủi ro sức mua Rủi ro phi hệ thống bao gồm: rui ro kinh doanh,rủi ro tài chính, rủi ro quản lý. Cũng như các lĩnh vực đầu tư khác, trong đầu tư chứng khoán tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức thu nhập với mức rủi ro. Thu nhập càng cao thì mức độ rủi ro tiềm ẩn càng lớn. Nếu sử dụng mô hình CAPM để phân tích thi ta cũng có CT: Ks = Rf+ β* (Rm – Rf) Trong đó: Ks là lãi suất kỳ vọng trên cổ phiếu. β là chỉ số phản ánh rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Beta có thể được dự đoán dựa trên các số liệu quá khứ Rflà tỷ lệ phi rủi ro, và thường là lãi suất trái phiếu chính phủ vì loại lãi suất này được coi là không có rủi ro thanh toán Rm là thu nhập thị trường kỳ vọng qua thời gian Qua công thức trên ta cũng thấy rằng Beta càng cao tức rủi ro càng cao thì ks tức thu nhập kì vọng càng lớn. Câu 7: Trình bày thu nhập và rủi ro trong đầu tư chứng khoán theo phương thức đầu tư hưởng lợi. Bài làm: Thu nhập: Theo phương thức đầu tư hưởng lợi: nhà đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận bao gồm cả lợi tức và chênh lệch giá. Thu nhập từ hoạt dộng này bao gồm: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh chênh lệch giá: mua bán trong ngắn hạn để tìm kiếm LN từ chênh lệch giá Thu nhập từ hđ đầu cơ: tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức và chênh lệch giá trong dài hạn. Khi CK khan hiếm, NĐT bán và thu lợi nhuận. TN từ hđ kinh doanh giảm giá: Khi CK có dấu hiệu giảm giá NĐT bán CK rồi chờ giá hạ và mua lại, khoản chênh lệch trừ đi cphis giao dịch sẽ la TN của NĐT. TH đặc biệt là bán khống: vay CK của 1 cty để bán đi, đợi giá hạ sẽ mua trả để hưởng chênh lệch. Rủi ro: Do đặc điểm của thu nhập của phương thức đtư hưởng lợi là ntren nên nó sẽ bao hàm 15
- 16 những rủi ro nsau: Đtư theo pp hưởng lợi thì nhà đtư sẽ phải gánh chịu cả rủi ro hệ thống và phi hệ thống: RR hệ thống: Vì các NĐT thực hiện đtư theo pp này chủ yếu tìm kiếm LN từ chênh lệch giá nên họ phải chịu rủi ro rất lớn bởi những biến động của thị trường, khi thi trường diễn biến ngược lại so với dự đoán của NĐT thì họ sẽ phải chịu tổn thất rất nặng nề: NĐT dự đoán CP tăng giá nhưng sau đó lại giảm giá hay khi NĐT thực hiện bán CK ra nhug sức mua của thị trường lại thấp RR phi hệ thống: RR kinh doanh,rủi ro tài chính,RR quản lí. Khi 1 NĐT vay vốn để thực hiện hđ đtư của mình thì nghĩa cụ tài chính đvới họ sẽ tăng lên do họ phải trả gốc và lãi cho khoản vay đó. Khi hđ đầu tư của họ thua lỗ nếu họ ko thể trả nợ thì rất dễ dẫn đến tình trạng phá sản Câu 8: Trình bày thu nhập và rủi ro trong đầu tư chứng khoán theo phương thức đầu tư nắm quyền kiểm soát. Bài làm: Phương thức đầu tư nắm quyền kiểm soát: là việc đầu tư vào loai chứng khoán cho phép NĐT có quyền kiểm soát công ty phát hành thông qua quyền nhận thông tin, quyền tham dự và biểu quyết tại ĐHCĐ. Số lượng cổ phiếu nắm giữ thường quyết định khả năng biểu quyết, kiểm soát của NĐT. Một số NĐT lớn thường là NĐT tổ chức như DN hoặc ngân hàng lớn thường thực hiện phương thức đầu tư nắm quyền kiểm soát. Thu nhập: NĐT ngoài cổ tức và chênh lệch giá còn có quyền chủ động trong việc tạo lập thu nhập cho mình thông qua việc nắm giữ quyền kiểm soát DN phát hành chứng khoán, tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Trong một số trg hợp, NĐT lựa chọn phương thức đầu tư nắm quyền kiểm soát vào các công ty chưa phát triển, đặc biệt yếu kém về công nghệ quản lý. Thông qua nắm quyền kiểm soát, họ thực hiện tái cấu trúc công ty, thay đổi quản lý, công nghệ từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động vả cải thiện hình ảnh trong công chúng đầu tư và sẽ thực hiện bán cổ phiếu trên thị trường tập trung hoặc thị trường OTC khi cổ phiếu tăng giá. Phương thức này có thể đem lại khoản lợi nhuân kỳ vọng trong tương lai khổng lồ cho NĐT. Rủi ro: Giá CK trong hình thức đầu tư này thường cao, chi phí lớn NĐT chịu tác động lớn trước những thay đổi trong hoạt động kinh doanh của DN phát hành CK hơn các phương thức đầu tư thông thường khác. 16
- 17 Câu 9: Trình bày thu nhập và rủi ro trong đầu tư chứng khoán theo phương thức tạo lập thị trường. Đầu tư theo phương thức tạo lập thị trường thường do các nhà tạo lập thị trường – trung gian tài chính mua bán các công cụ tài chính hoạt động theo phương thức khớp giá, thực hiện chức năng đặt các lệnh chào mua, chào bán, đảm bảo giao dịch của thị trường liên tục. Thu nhập NĐT tạo lập thị trường với hai mục tiêu chủ yếu: Đảm bảo tính thanh khoản của thị trường và kiếm lợi nhuận. Các nhà tạo lập thị trường tìm kiếm lợi nhuận thông qua hai hình thức sau Thứ nhất, đóng vai trò đối tác trong giao dịch, nếu lệnh đặt đến là lệnh mua NĐT sẽ bán CK tương ứng nắm giữ. Nếu lệnh đặt đến là lệnh bán, thì ngược lại. Thứ hai, trong trường hợp lệnh đặt mua đến nhưng nhà tạo lập thị trường ko có đủ số CK đặt mua hoặc lệnh đặt bán nhưng ko đủ khả năng mua toàn bộ CK của KH thì sẽ tìm một lệnh đối ứng khác thỏa mãn và sẽ nhận được mộtkhoảnphí Rủi ro Tham gia đầu tư tạo lập thị trường, NĐT thường phải đối mặt với rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản Đối với rủi ro lãi suất: nếu lãi suất thị trường tăng lên, cơ hội đầu tư vào các tài sản có mức lợi tức cao hơn sẽ mất đi. Đối với rủi ro thanh khoản: do đầu tư tạo lập thị trường thường phải nắm giữ một lượng CK lớn nên việc phải đối mặt với rủi ro thanh khoản, nắm giữ CK trong tay nhưng khả năng thanh khoản ngày càng thu hẹp. Để phòng ngừa rủi ro các nhà đầu tư tạo lập thị trường thưởng sử dụng các công cụ phái sinh hoặc các công cụ bảo hiểm khác, như Repo. Câu 10: Trình bày ý nghĩa và phương pháp xác định đường biên hiệu quả Bài làm: * Danh mục đầu tư gồm một tài sản rủi ro và một tài sản phi rủi ro Tập hợp của tất cả các phương án đầu tư khả thi, trong trường hợp này tương ứng với đường biên hiệu quả, chính là đường thẳng nối hai điểm thể hiện hai dạng tài sản đầu tư đang được xem xét (1 tài sản phi rủi ro và 1 tài sản rủi ro). Đường này chính là đường phân bổ vốn (CAL) 17
- 18 Đường phân bổ vốn (CAL) Đường phân bổ vốn CAL gồm có 4 đoạn: (1) F là điểm ở đó nhà đầu tư chỉ nắm giữ tài sản phi rủi ro (x 1=0), do vậy, độ lệch chuẩn = 0. (2) Đoạn từ F tới R1 là tập hợp của tất cả các danh mục đầu tư vào cả tài sản rủi ro và phi rủi ro (0 ≤x1 ≤1). (3) Tại điểm R1 tất cả danh mục đều đầu tư vào tài sản rủi ro (x1=1). (4) Từ R1 trở lên, phần tài sản rủi ro vượt quá 100% vốn đầu tư của danh mục (có nghĩa là x1 > 1, x2 < 0). Điều này có nghĩa các nhà đầu tư vay mượn với lãi suất phi rủi ro để mua tài sản rủi ro. Độ dốc của đường CAL, như nhìn trên hình vẽ, thể hiện mức gia tăng lợi nhuận kỳ vọng ứng với mỗi đơn vị rủi ro tăng thêm của danh mục đầu tư, hay nói cách khác, là thước đo mức lợi nhuận vượt trội bù đắp cho mỗi đơn vị rủi ro tăng thêm. Chính vì vậy độ dốc của CAL còn được gọi là hệ số lợi nhuận bù đắp rủi ro (reward to variability ratio). Công thức tính hệ số này như sau: S= (E(Rp) – RF)/ бP * Danh mục đầu tư gồm N tài sản rủi ro + một tài sản phi rủi ro Trong trường hợp này nhà đầu tư có cơ hội đầu tư một phần của cải của anh ta vào một tài sản phi rủi ro và số còn lại đầu tư vào một tập hợp các tài sản rủi ro. Nếu chúng ta nhớ lại phương thức xây dựng danh mục đầu tư gồm nhiều tài sản rủi ro ở phần trước, nhà đầu tư có thể lựa chọn một danh mục đầu tư kết hợp tuyến tính giữa một tài sản rủi ro và một danh mục nhiều tài sản rủi ro nằm trên đường biên hiệu quả. Trong trường hợp tổng quát này, 18
- 19 đường hiệu quả chính là đường tiếp tuyến từ RF tiếp xúc với phần bao ngoài hình chiếc ô (đường biên hiệu quả của danh mục gồm toàn các tài sản rủi ro). Để lựa chọn danh mục đầu tư tối ưu của mình, nhà đầu tư sẽ chọn một danh mục đầu tư nằm trên đường hiệu quả tuỳ theo tâm lý ngại rủi ro của anh ta. Một nhà đầu tư hoàn toàn ngại rủi ro sẽ đầu tư 100% vốn vào RF. Lưu ý rằng không giống như trường hợp với N tài sản rủi ro, ở đâu chỉ có một danh mục tiếp điểm, do vậy hệ số lợi nhuận bù đắp rủi ro (S) đối với tất cả các nhà đầu tư là như nhau Đường hiệu quả của danh mục đầu tư gồm N tài sản rủi ro + một tài sản phi rủi ro Ở đoạn giữa RF và T, nhà đầu tư dành một phần vốn đầu tư vào tài sản phi rủi ro và một phần vào danh mục rủi ro tại tiếp điểm. Trường hợp này tương đối phổ biến đối với các nhà đầu tư thông thường: chỉ có một phần của danh mục là đầu tư vào trái phiếu và cổ phiếu rủi ro. Tại T, chúng ta đầu tư tất cả của cải vào danh mục tiếp điểm. Vậy các danh mục đầu tư nằm về phía bên phải điểm T, tương ứng tỷ trọng đầu tư vào danh mục rủi ro > 100% có nghĩa gì? Trong trường hợp này, nhà đầu tư bắt đầu sử dụng đòn bẩy vốn, có nghĩa là anh ta đi vay với mức lãi suất phi rủi ro để mua nhiều hơn nữa tài sản rủi ro. Lưu ý rằng, cần phải có điều kiện không có hạn chế giao dịch bán khống để các danh mục đầu tư nằm về phía bên phải điểm T là khả thi (ví dụ như điểm Q), vì tại T nhà đầu tư đã đầu tư toàn bộ vốn vào N tài sản rủi ro. Tuy nhiên, trên thực tế hầu như không có khả năng một nhà đầu tư có thể mua và bán các tín phiếu kho bạc (T-bill) tại cùng một mức giá. Những vấn đề này được coi là một trong số những đặc điểm không hoàn hảo của thị trường. Câu 11: Trình bày phương pháp xác định và ý nghĩa của đường CML Bài làm: Đường thị trường vốn (CML) Trên đường CML tập trung tất cả các danh mục đầu tư khả thi kết hợp giữa danh mục thị trường và ài sản phi rủi ro. Độ dốc của CML, được thể hiện theo công thức sau: 19
- 20 (E(RM) – RF)/ бM Ta có thể thấy độ dốc của đường CML thể hiện mức chênh lệch giữa lợi nhuận thị trường kỳ vọng so với mức lợi nhuận phi rủi ro và chia cho rủi ro của thị trường, vì vậy nó được coi là giá của một đơn vị rủi ro .Phương trình của đường CML được thể hiện như sau : E(RP)= RF +(E(RM) – RF)* бP / бM Đường thị trường vốn (CML) có nghĩa là phần bù rủi ro đối với bất kỳ danh mục đầu tư hiệu quả P nào đều là tích của giá thị trường của rủi ro nhân với (một lượng) rủi ro của danh mục đầu tư đó ( đo bằng độ lệch chuẩn). Độ dốc của đường CML được xác định bằng mức lợi nhuận bù đắp cho một đơn vị rủi ro mà nhà đầu tư yêu cầu, vì vậy độ dốc của đường CML sẽ thay đổi phụ thuộc vào mức ngại rủi ro của nhà đầu tư, người ngại rủi ro cao sẽ đòi mức bù rủi ro cao hơn và ngược lại. Việc này sẽ khiến cho hình dạng của tập hợp hiệu quả gồm N tài sản rủi ro cũng thay đổi. Ví dụ, giả sử rằng các nhà đầu tư ngại rủi ro cao và yêu cầu mức lợi nhuận cao hơn để bù lại việc chịu một mức rủi ro nhất định. Điều này sẽ đẩy toàn bộ đường hiệu quả cao lên phía trên. Điểm tiếp xúc, hay chính là danh mục thị trường, sẽ có hệ số lợi nhuận bù đắp rủi ro cao hơn và cơ cấu danh mục cũng sẽ bị thay đổi. Khi đó đường CML sẽ có độ dốc lớn hơn (khi mức lãi suất phi rủi ro thay đổi, độ dốc này có thể sẽ giảm xuống) Câu 12: Trình bày phương pháp xác định và ý nghĩa đường SML Bài làm: Đường thị trường chứng khoán (SML) Đường CML mô tả mối quan hệ rủi ro - lợi nhuận áp dụng cho các danh mục đầu tư hiệu quả. Nó không áp dụng được đối với các tài sản riêng lẻ hay danh mục đầu tư không hiệu 20
- 21 quả. Do danh mục đầu tư mạo hiểm mà mọi nhà đầu tư nắm giữ là danh mục đầu tư thị trường, rủi ro và mối tương quan của một tài sản riêng lẻ hoặc của một danh mục đầu tư không hiệu quả phải được đánh giá dưới góc độ“phần đóng góp của chúng vào rủi ro của danh mục đầu tư thị trường”. Nhà đầu tư có thể mong muốn một tài sản nào đó (và do vậy tài sản này có mức giá cao hơn hoặc mức lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn) không phải vì rủi ro tổng thể của nó thấp mà có thể vì nó giúp làm giảm rủi ro của danh mục đầu tư thị trường. Ngược lại, các chứng khoán có xu hướng làm tăng rủi ro của danh mục đầu tư thị trường sẽ phải chịu mức giá thấp hơn hoặc yêu cầu một mức lợi nhuận kỳ vọng cao hơn RM. Để đánh giá các rủi ro của tài sản riêng lẻ và tác động của chúng tới rủi ro tổng của danh mục đầu tư thị trường, chúng ta phải phân tích độ lệch chuẩn ∑∑ X iM X jM σ ij của DMĐT: бM = trong đó xiM và xjM là tỷ trọng của σ X σ iM = ∑ jM i danh mục đầu tư thị trường được đầu tư trong tài sản i và j. Bây giờ, hệ số tích sai của chứng khoán i với danh mục thị trường được thể hiện qua công thức dưới đây: Hoặc có thể được thể hiện lại như sau: бM= [X1Mб1M + .+ XNMбNM]^0.5 thước đo hợp lý rủi ro của một tài sản riêng lẻ đóng góp vào danh mục đầu tư thị trường là hệ số tích sai của tài sản đó với danh mục thị trường, và được thể hiện qua công thức dưới đây: 2 бiM/ б M Như vậy, kết hợp các công thức trên, ta có công thức căn bản của CAPM thể hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán riêng lẻ hoặc của một danh mục không hiệu quả và rủi ro tương ứng của chúng như sau: E(RP)= RF +[(E(RM) – RF) / бM] * бiM/ бM (*) Theo đó, giá của một đơn vị rủi ro được thể hiện bằng: (E(RM) – RF) / бM Công thức (*) được viết lại như sau, đây chính là công thức của đường thị trường chứng khoán (SML): E(RP)= RF +[(E(RM) – RF) / бM]*βi Theo đó, beta được xác định theo công thức: βi = бiM/ бM = COV(Ri, RM)/VAR( RM) Đường SML được thể hiện trên hình vẽ như sau: 21
- 22 Đường thị trường chứng khoán (SML) Độ dốc của đường SML thể hiện mức độ ngại rủi ro trong nền kinh tế: mức ngại rủi ro trung bình của nhà đầu tư càng lớn, đường SML càng có độ dốc lớn, mức bù rủi ro đối với bất kỳ chứng khoán nào càng lớn và mức lợi nhuận kỳ vọng đối với các chứng khoán càng cao. Chúng ta đều biết mức lãi suất phi rủi ro danh nghĩa bao gồm một mức lãi suất thực cộng với một mức bù lạm phát dự kiến, vì vậy nếu lạm phát dự kiến tăng, thì đường SML sẽ tịnh tiến thẳng lên phía trên. Việc so sánh giữa đường thị trường chứng khoán SML và đường thị trường vốn CML là điều cần thiết. Đường CML mô tả lợi nhuận kỳ vọng của các danh mục đầu tư hiệu quả là một hàm của mức độ dao động của danh mục (được tính bằng độ lệch chuẩn của các mức lợi nhuận). Điều này là hợp lý vì độ lệch chuẩn là thước đo rủi ro phù hợp đối với những danh mục đầu tư được đa dạng hóa hiệu quả. Ngược lại, đường SML mô tả lợi nhuận kỳ vọng của một tài sản riêng lẻ như là một hàm rủi ro của tài sản (được đo bằng độ nhạy cảm của chứng khoán đó trước những biến động của thị trường). Thước đo rủi ro phù hợp đối với tài sản riêng lẻ nằm trong một danh mục được đa dạng hóa tốt không phải là độ lệch chuẩn hoặc phương sai của tài sản đó, mà là phần rủi ro của tài sản riêng lẻ đóng góp vào rủi ro tổng thể của danh mục (được đo bằng hệ số beta của tài sản riêng lẻ). Sự hữu dụng của SML nằm ở khả năng định giá tài sản riêng lẻ: một tài sản được định giá chính xác sẽ nằm đúng trên đường SML. Lưu ý rằng, tất cả các danh mục vốn đầu tư hiệu quả của đường CML cũng nằm trên đường SML, nhưng điều ngược lại thì không đúng. Điều này xuất phát từ thực tế là một danh mục đầu tư gồm các tài sản rủi ro sẽ có mức khoản lợi nhuận kỳ vọng tỷ lệ với beta của danh mục (xác định thông qua đường SML). Tuy nhiên, trừ phi danh mục này giống hệt danh mục đầu tư thị trường, nếu không bất kỳ danh mục đầu tư nằm trên đường SML không nhất thiết phải là hiệu quả và do đó không nhất thiết nằm trên đường CML. Đường SML tạo ra một mức chuẩn để đánh giá hiệu quả hoạt động của một loại chứng khoán. Với mức rủi ro xác định của một tài sản đầu tư (được đo 22
- 23 bằng beta của tài sản đó), đường SML đưa ra mức lợi nhuận kỳ vọng yêu cầu đối với tài sản đó để bù đắp cho mức rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận cũng như cho giá trị của tiền đầu tư theo thời gian. Trong điều kiện cân bằng giá cả trên thị trường, tất cả các chứng khoán đều phải nằm trên đường SML. Khi đó, để phân tích xem một chứng khoán nào đó có phải là một khoản đầu tư tốt (bị định giá quá thấp) hay không, ta phải xác định được chứng khoán đó đem lại một mức lợi nhuận kỳ vọng cao hơn mức lợi nhuận kỳ vọng cân bằng xác định theo mô hình CAPM. Như vậy, các chứng khoán bị định giá quá thấp sẽ nằm phía trên đường SML. Ngược lại các chứng khoán bị định giá quá cao sẽ nằm phía dưới đường SML. Khoản chênh lệch giữa mức giá cân bằng hợp lý theo CAPM và mức lợi nhuận thực của chứng khoán được gọi là hệ số alpha của chứng khoán, ký hiệu là α . Đối với bất kỳ hệ số alpha nào khác 0, nhà đầu tư sẽ coi là chứng khoán đó đang chưa được định giá đúng. Anh ta sẽ mua những chứng khoán nào có alpha >0 và bán những chứng khoán nào có alpha<0. Ví dụ, nếu một cổ phiếu có beta là 1,2, mức lợi nhuận thị trường dự kiến là 14% và lãi suất phi rủi ro là 6%, khi đó theo CAPM lợi nhuận dự kiến của cổ phiếu sẽ là 6+ 1,2(14-6) =15,6%. Nếu một nhà đầu tư tin rằng cổ phiếu này đang đem lại mức lợi nhuận là 17%, giá trị Trình bày khái niệm và các chiến lược quản lý danh mục đầu tư trái phiếu. Nhận xét của Anh (Chị) về hoạt động quản lý DMĐT trái phiếu ở Việt Nam hiện nay Câu 13: Phân tích các phương pháp xác định rủi ro tài chính Bài làm: * Rủi ro RR là khả năng xẩy ra những những điều không theo mong muốn và khi nó xẩy ra thì mang lại những tổn thất. nó là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả. Trong tài chính thì RR là khả năng xảy ra những kết quả đầu tư ngoài dự kiến, hay là làm mức sinh lời thực tế nhận được trong tương lai khác với msl dự kiến Trong đầu tư ck RR được phân thành hai loại là RR hệ thống và RR phi hệ thống RR hệ thống ( RR thị trường ) : Là loại RR tác động tới toàn bộ thị trường hoặc hầu hết các loại CK. Chúng chịu tác động của điều kiện kinh tế nói chung như lạm phát, lãi suất đây là các yếu tố nằm ngoài công ty không thể kiểm soát được và loại rr này không thể loại trừ bằng phương pháp đa dạng hoá danh mục đầu tư RR lãi suất Là sự biến động của mức sinh lời do những thay đổi lãi suất trên thị trường + Các nhà đầu tư coi tín phiếu kho bạc là ck không có rủi ro do đó lãi suất của chúng dùng làm chuẩn mực cho các lãi suất trái phiếu của các cty + Quan hệ lãi suất với giá trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi là quan hệ tỷ lệ nghịch + Quan hệ lãi suất với giá cổ phiếu thường là gián tiếp và luôn thay đối do luồng tiền thu nhập từ cổ phiếu thường thay đổi theo lãi suất nhưng khó có thể xác định đc là thay đổi cùng chiều hay ngược chiều RR thị trường Là sự thay đổi mức sinh lời do sự đánh giá và ra quyết định của các nhà đầu tư trên thị trường 23
- 24 + Khi phản ứng của các nhà đầu tư khác nhau về từng loại hoặc từng nhóm cổ phiếu có thể làm gía ck dao động mạnh dù thu nhập công ty không thay đổi + Các nhà đtư thường mua ck dựa vào 2 nhóm sự kiệ là: Sự kiện hữu hình như kinh tế, chính trị, xã hội và Sự kiện vô hình do nhóm yếu tố tâm lý của thị trường Rủi ro sức mua Là do tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư. Lạm phát thay đổi làm thay đổi lãi suất danh nghĩa từ đó dẫn tới giá ck thay đổi Rủi ro tỷ giá Là do tác động của tỷ giá hối đoái đối với khoản đầu tư. Khi nhà đầu tư tin rằng đồng nội tệ bị giảm trong tương lai thì nhà đầu tư sẽ không đầu tư vào ck hoặc đầu tư vào một tsản ngoại tệ dẫn tới giá ck giảm RR phi hệ thống là rr chỉ tác động tới 1 ck hoặc một nhóm ck nhỏ trong các ck.nguyên nhân là do yếu tố nội tạng của công ty và chúng có thể kiểm soát được. RR kinh doanh là rr do sự thay đổi bất lợi tình hình cung hàng hoá, dịch vụ của dn hay môi trường kinh doanh rr tài chính là rr về khả năng thanh toán cổ tức, trái tức và hoàn vốn của người sở hữu ck. Rr này liên quan tới mất cân đối doanh thu, chi phí và các khoản nợ của dn RR về quản lý là rr do tác động quyết định của nhà đầu tư * Phương pháp xác định rủi ro Phương pháp 1: Độ dao dông Công thức tính phương sai là: n Phương sai 2 = (Xác xuất)(Biến thu nhập – Thu nhập kì vọng)2 i 1 n 2 = (Pi)[Ri – E(Ri)] i 1 Phương sai Phương sai của tỷ lệ thu nhập kì vọng càng lớn thì sự phân tán của thu nhập kì vọng càng lớn và rủi ro của khoản đầu tư cũng lớn. Phương sai của ví dụ đầu tiên là: n 2 2 = (Pi)[Ri – E(Ri)] i 1 Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phương sai: n 2 = Pi [Ri E(Ri )] i 1 Đo lường rủi ro tương đối 24
- 25 Trong vài trường hợp, phương sai và độ lệch chuẩn không thích hợp có thể dẫn tới sai lầm. Nếu những điều kiện là không giống nhau - ví dụ có vài điểm khác biệt lớn về tỷ lệ thu nhập kì vọng - thì chúng ta cần phải sử dụng công cụ biến thiên tương đối (relative variability) để biểu thị rủi ro trên từng đơn vị của thu nhập kì vọng. Một hệ số được sử dụng rộng rãi là hệ số biến thiên (coefficient of Variation): Độ lệch chuẩn của biến thu nhập i CV = = Tỷ lệ thu nhập kì vọng E(R) Phương pháp 2: sử dụng beta Mô hình CAPM E(RJ)=RF + BETA(E(RM) – RF) Beta = Cov(Ri,Rm)/Var(Rm) Câu 14: Trình bày khái niệm, phương pháp xác định thu nhập của tài sản tài chính Bài làm: Mức sinh lời tuyệt đối hay lợi nhuận dự kiến trong đầu tư ck là chênh lệch giữa kết quả thu được sau một khoảng thời gian đầu tư vào ck với phần gốc mà nhà đầu tư bỏ ra Tổng mức sinh lời = thu nhập từ ck ( cổ tức or trái tức ) + lãi ( lỗ) về vốn Mức sinh lời tương đối nó phản ánh nhà đầu tư sẽ nhận được bao nhiêu lãi từ một đơn vị vốn đầu tư ban đầu MSLtương đối = ( mức thay đổi giá CP + lãi cổ phần )/ giá CP Rt = { ( Pt –Pt-1 ) +Dt}/Pt-1 Mức sinh lời trong một khoảng thời gian Giả định năm 1 MSL đầu tư và 1 ck là R 1 , năm thứ 2 là R2 và giả định toàn bộ thu nhập được tái đầu tư và cũng thu được MSL tương đương khoản vốn gốc thì trong khoảng thời gian năm t tổng MSL là Rt= ( 1 + R1)(1 + R2) (1 + Rn) -1 MSL bình quân luỹ kế hàng năm sẽ là : Rbq = MSL năm Để so sanh msl giữa các tsản khác nhau về thời gian đáo hạn người ta thường sử dụng msl năm. Tài sản có msl là Rm trong m tháng thì msl năm (Rn) là : 12/m Rn=(1 + Rm) -1 25
- 26 MSL thực tế và MSL danh nghĩa R = r + h Trong đó: R là MSL danh nghĩa, r là MSL thực tế, h là lạm phát MSL bình quân: cho biết trong một khoảng thời gian nhất định nhà đầu tư thu được msl một năm là bao nhiêu từ đó sẽ quyết định các khoản đầu tư tương lai R1, R2 , . Là MSL trong từng năm trong thời gian t ta có MSL bq ( R) (R) = ( R1 + R2 + .+ Rt )/t 26