Tiểu luận Thực trạng điều hành công cụ dự trữ bắt buộc và đề ra những giải pháp cho thời gian sắp tới

doc 24 trang nguyendu 6010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Thực trạng điều hành công cụ dự trữ bắt buộc và đề ra những giải pháp cho thời gian sắp tới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctieu_luan_thuc_trang_dieu_hanh_cong_cu_du_tru_bat_buoc_va_de.doc

Nội dung text: Tiểu luận Thực trạng điều hành công cụ dự trữ bắt buộc và đề ra những giải pháp cho thời gian sắp tới

  1. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU I - Tổng quan về công cụ dự trữ bắt buộc 1. Khái niệm và cơ chế tác động của DTBB 1.1. Khái niệm tỷ lệ DTBB 1.2. Cơ chế tác động 1.2.1. Tác động đến vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng 1.2.2. Tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ 1.3. Mục tiêu 1.4. Phương pháp quản lý DTBB 1.4.1. Đối tượng thực hiện DTBB và loại tài khoản tính DTBB 1.4.2. Căn cứ xác định DTBB 1.4.2.1. Nguyên tắc tính toán 1.4.2.2. Phương pháp tính 1.4.2.3. Tính số DTBB thực hiện thực tế của các TCTD 1.4.3. Xử lý vi phạm DTBB 1.5. Ưu, nhược điểm của công cụ DTBB 1.5.1. Ưu điểm 1.5.2. Nhược điểm II – Thực trạng sử dụng công cụ DTBB ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007 1. Năm 2001 2. Năm 2002 3. Năm 2003 4. 2004 – 2006 5. Từ tháng 6/07 đến nay 5.1. Tình hình tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 6/07 đến 1/08 5.1.1. Diễn biến 5.1.2. Nguyên nhân 5.1.2.1. Lạm phát gia tăng 5.1.2.2. Tăng trưởng tín dụng nóng, lo ngại những rủi ro về chất lượng của các khoản vay và tình trạng đô la hóa tài sản nợ của các NHTM. 5.1.3. Hệ quả của việc tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc 5.1.3.1. Tác động tới lượng tiền cung ứng 5.1.3.2. Tác động tới lãi suất thị trường 5.1.4. Kết quả đạt được 5.1.5. Tồn tại của việc thay đổi tỷ lệ DTBB trong giai đoạn này
  2. 5.2. Tình hình tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11/2008 đến nay 5.2.1. Nguyên nhân 5.2.2. Hệ quả của việc giảm liên tục tỷ lệ dự trữ bắt buộc giai đoạn này 5.2.2.1. Tác động tới lượng tiền cung ứng 5.2.2.2. Lãi suất thị trường 5.2.2.3. Kết quả đạt được: Tăng trưởng kinh tế 5.2.2.4. Những tồn tại trong việc điều hành DTBB giai đoạn này III – GIẢI PHÁP: 1. Đối với Ngân hàng trung ương 2. Đối với chính phủ 3. Đối với các NHTM KẾT LUẬN LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang từng bước chuyển đổi theo hướng là một nền kinh tế thị trường. Chính điều đó đã tạo ra những thuận lợi lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước tuy nhiên bên cạnh đó nó tạo ra những biến động không ngừng và đầy phức tạp ảnh hưởng xấu đến sự lành mạnh cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Để giảm thiểu những ảnh hưởng đó, NHTW phải điều hành thật tốt chính sách tiền tệ của mình. Tùy vào những hoàn cảnh cụ thể, trong những giai đoạn cụ thể, NHTW có thể sử dụng những công cụ thích hợp. Đó có thể là những công cụ trực tiếp hay gián tiếp. Ngày nay, công cụ được sử dụng phổ biến là các công cụ gián tiếp như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu tác động vào lượng cung tiền, lãi suất đã ngày càng phát huy tác dụng Tuy nhiên với điều kiện thị trường phát triển ở mức độ thấp, trình độ công nghệ chưa cao, nghiệp vụ thị trường mở chưa phát huy hết hiệu quả trong điều tiết vốn khả dụng, thì công cụ DTBB vẫn đóng vai trò chủ chốt trong việc hút vốn khả dụng bằng cách tăng tỷ lệ DTBB mỗi khi cung tiền có dấu hiệu tăng cao và lạm phát tiền tệ xuất hiện bởi dự trữ bắt buộc là một công cụ có hiệu lực tác động rất mạnh mẽ. Chính vì vậy công cụ DTBB đã và đang được NHTW sử dụng rất linh hoạt để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, đặc biệt là trong những giai đoạn cần thúc đẩy tăng trưởng, hay kìm chế lạm phát và ngăn chặn suy thoái trong thời gian từ năm 2001 đến nay. Việc vận dụng công cụ dự trữ bắt buộc một cách linh hoạt trong giai đoạn này đã mang lại nhiều kết quả tích cực cho nền kinh tế, tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại cần khắc phục. Nhìn nhận lại về thực trạng điều hành công cụ dự trữ bắt buộc và đề ra những giải pháp cho thời gian sắp tới- đó sẽ là những vấn đề chính sẽ được đề cập đến trong bài tiểu luận.
  3. I - Tổng quan về công cụ dự trữ bắt buộc: 1 - Khái niệm và cơ chế tác động của DTBB: 1.1. Khái niệm tỷ lệ DTBB: tỷ lệ DTBB là tỷ lệ giữa số tiền bị vô hiệu hóa không được dụng trên tổng số tiền gửi huy động thuộc diện phải duy trì DTBB của TCTD trong 1 khoảng thời gian nhất định được gửi tại NHTW 1.2 Cơ chế tác động: DTBB tác động đến vốn khả dụng và lãi suất thị trường tiền tệ và qua đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng 1.2.1 Tác động đến vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng: Khi tỷ lệ DTBB tăng lên trong điều kiện các yếu tố khác không đổi có tác động làm tăng nhu cầu về vốn khả dụng của các ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu này, các ngân hàng có thể phải thu hẹp món tiền cho vay hoặc phải bán chứng khoán đang nắm giữ. Những người vay nợ NH hoặc mua CK của ngân hàng sẽ dùng tiền mặt hoặc TGNH để thanh toán cho NH. Kết quả là lượng tiền gửi giảm, tiền cung ứng cũng giảm theo. Cơ chế tác động sẽ diễn ra ngược lại khi NHTW giảm tỷ lệ DTBB 1.2.2 Tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ Sự tăng lên của tỷ lệ DTBB (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi) có tác động làm tăng lượng tiền phải dự trữ bắt buộc. Hành vi thu hẹp các món cho vay hoặc bán CK của các NH hoặc vay các NH trên thị trường liên NH để đáp ứng sự thiếu hụt DTBB sẽ hướng LS thị trường tiền tệ tăng lên. LS tăng sẽ khiến cho cầu về tín dụng của các chủ thể phi NH giảm, khả năng mở rông cho vay cũng như mở rộng tiền gửi của hệ thống NH theo đó sẽ giảm đi và dẫn đến tốc độ tăng trưởng tiền tệ bị chậm lại và ngược lại. Như vậy, bất kì 1 sự tăng lên nào trong tỷ lê DTBB sẽ làm giảm bớt việc tạo ra những khoản tiền ký gửi của các NH, làm giảm số nhân tiền và giảm lượng tiền cung ứng đối với các cơ số tiền nhất định. Tương tự, 1 sự giảm xuống của tỷ lệ DTBB sẽ dẫn đến 1 sự tăng lên của cung ứng tiền tệ. 1.3 Mục tiêu Kiểm soát và điều tiết tăng trưởng tiền tệ: sự đòi hỏi có DTBB đã làm tăng nhu cầu vốn khả dụng của các NH, tử đó đã hình thành chức năng điều tiết vốn khả dụng. trong điều kiện các công cụ gián tiếp và trực tiếp khác không hiệu quả, NHTW có thể kiểm soát được khối lượng tiền gửi có thể phát hành sec (tiền gửi không kỳ hạn) bằng cách áp dụng những Tạo mối quan hệ phụ thuộc giữ NHTG và NHTW: để tối đa hóa hiệu quả của DTBB trong mục tiêu này, NHTW điều chỉnh DTBB vào khoảng thời gian của kỳ duy trì sao cho hệ thống NH luôn trong tình trạng thiếu hụt dự trữ ròng, do đó phụ thuộc vào vốn của NHTW. Khi đó, những tác động của NHTW mới thành công Đảm bảo an toàn thanh toán 1.4. Phương pháp quản lý DTBB
  4. 1.4.1 Đối tượng thực hiện DTBB và loại tài khoản tính DTBB Đối tượng: tất cả các TCTD mà hoạt động của nó có ảnh hưởng đến sự gia tăng (hay giảm) lượng tiền cung ứng Xác định loại tiền gửi duy trì DTBB: Tiền gửi không kỳ hạn: DTBB cao (do khả năng tạo tiền cao). Tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm: DTBB thấp hoặc không cần duy trì DTBB. Tài khoản tiền gửi bằng nội tệ hoặc ngoại tệ. Tại Việt Nam, tiền dự trữ bắt buộc được tính toán trên cơ sở các loại tiền gửi sau: 1 - Đối với tiền gửi bằng đồng VN, bao gồm (cả hoạt động ở trụ sở chính và các Chi nhánh ): - Tiền gửi của khách hàng: + Tiền gửi không kỳ hạn; + Tiền gửi có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc. - Tiền gửi vốn chuyên dùng; - Tiền gửi của các tổ chức và người nước ngoài: + Tiền gửi không kỳ hạn; + Tiền gửi có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc. - Tiền gửi tiết kiệm: + Tiền gửi không kỳ hạn; + Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc. - Tiền gửi tiết kiệm khác; - Tiền thu được từ việc phát hành các giấy tờ có giá có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc; - Tiền giữ hộ và đợi thanh toán; - Tiền gửi Kho bạc Nhà nước. 2 - Đối với tiền gửi bằng ngoại tệ, bao gồm ( cả hoạt động ở trụ sở chính và các chi nhánh ): - Tiền gửi bằng ngoại tệ của khách hàng: + Tiền gửi không kỳ hạn; + Tiền gửi có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc. - Tiền gửi vốn chuyên dùng bằng ngoại tệ; - Tiền gửi của các tổ chức và người nước ngoài bằng ngoại tệ: + Tiền gửi không kỳ hạn; + Tiền gửi có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc. - Tiền gửi tiết kiệm : + Tiền gửi không kỳ hạn bằng ngoại tệ; + Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc. - Tiền thu được từ việc phát hành các giấy tờ có giá có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc; - Tiền gửi Kho bạc Nhà nước. Tiền gửi bằng ngoại tệ làm cơ sở tính dự trữ bắt buộc là các ngoại tệ tự do chuyển đổi, được quy đổi thành USD để thực hiện dự trữ bắt buộc bằng USD và gửi tại Sở Giao
  5. dịch Ngân hàng Nhà nước. Tỷ giá quy đổi ra loại ngoại tệ để tính dự trữ bắt buộc là tỷ giá mua vào, bán ra thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố vào ngày tính dự trữ bắt buộc. Trường hợp vào ngày tính dự trữ bắt buộc thị trường ngoại tệ liên ngân hàng không hoạt động, các tổ chức tín dụng được áp dụng tỷ giá mua vào, bán ra thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố ngày hôm trước. Đối với một số loại ngoại tệ khác bao gồm DEM, JPY, GBP, FRF và EURO nếu có tỷ lệ tiền gửi chiếm trên 50% tổng nguồn huy động bằng ngoại tệ thì dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đó, và gửi tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước. 1.4.2 Căn cứ xác định DTBB:  Mục tiêu CSTT.  Chi phí phải trả của các NH trung gian.  Tính ổn định của các loại tiền gửi. 1.4.2.1 Nguyên tắc tính toán: Số dư bình quân ngày của tiền gửi Số tiền DTBB = huy động thuộc diện tính DTBB x Tỷ lệ DTBB trrong kỳ xác định Tổng số dư tiền(X) gửi huy động cuối các ngày của kỳ xác định X = Số ngày kỳ xác định Kỳ xác định là kỳ dùng để tính số tiền TCTD phải duy trì DTBB Kỳ duy trì là kỳ TCTD phải thực hiện DTBB theo quy định của NHTW 1.4.2.2 Phương pháp tính: 3 phương pháp a) Phương pháp nối tiếp: Thời hạn kỳ xác định và kỳ duy trì là đúng 1 kỳ ( dùng số liệu kỳ liền kề trước làm căn cứ tính số tiền DTBB cho kỳ này. Với cách xác định này, đối tượng phải DTBB chủ động hoàn toàn trong việc sử dụng dự trữ vì vào đầu kỳ duy trì, họ đã biết được mức DTBB phải thực hiện trong kỳ, tuy nhiên dưới góc độ là 1 công cụ của CSTT, số dư tiền gửi sẽ biến động không ngừng, do đó kiểm soát khả năng cho vay ít có tác dụng. bên cạnh đó, còn có sự biến động lớn về lãi suất ngắn hạn b) Phương pháp trùng hoàn toàn: Kỳ xác định cũng là kỳ duy trì DTBB. Phương pháp này tính toán được chính xác số tiền DTBB tuy nhiên khâu tính toán DTBB phức tạp do phải xác định đầy đủ thông tin về những khoản phải tính DTBB trong ngày làm việc. Phương pháp này phát huy hiệu quả của công cụ dự trữ bắt buộc cao nhất. c) Phương pháp trùng 1 phần: 1 phần kỳ xác định và kỳ duy trì là nối tiếp, phần còn lại của kỳ xác định và kỳ duy trì là trùng nhau. Đối tượng thực hiện DTBB phải luôn quan tâm đến DTBB, không sử dụng quá mức dự trữ có được nên số dư tiền gửi để tính DTBB cũng như lãi suất thị trường ít biến động hơn, vì thế tỷ lệ DTBB sẽ phát huy hiệu quả với tư cách là 1 công cụ của CSTT. Đây là phương pháp được phần lớn các nước sử dụng 1.4.2.3 Tính số DTBB thực hiện thực tế của các TCTD
  6. Số tiền gửi bình Tổng số tiền gửi cuối ngày trong kỳ duy trì quân ngày tại = NHNN kỳ duy trì Số ngày kỳ duy trì Kiểm tra việc thực hiện DTBB của TCTD trong kỳ duy trì được thực hiện trên cơ sở so sánh giữa số dư tiền gửi bình quân ngày của TCTD tại NHNN trong kỳ duy trì (A) với số tiền phải DTBB trong kỳ duy trì (B) Nếu A>B: TCTD gửi vượt DTBB Nếu A<B: TCTD thiếu DTBB 1.4.3. Xử lý vi phạm DTBB: (qui chế DTBB hiện hành của NHNN) Xử lý vi phạm qui định về DTBB nhằm nâng cao hiệu quả điều tiết của công cụ DTBB Tùy từng quốc gia, NHTW có thể qui định mức phạt đối với trường hợp vi phạm qui định về DTBB. Xử lý thừa, thiếu tiền dự trữ bắt buộc: 1- Đối với trường hợp thiếu tiền dự trữ bắt buộc được xử lý như sau: - Trường hợp các tổ chức tín dụng thiếu tiền dự trữ bắt buộc lần đầu của "kỳ duy trì dự trữ bắt buộc" trong năm sẽ chịu hình thức xử phạt cảnh cáo. - Trường hợp tổ chức tín dụng thiếu tiền dự trữ bắt buộc lần thứ 2 trở đi của "kỳ duy trì dự trữ bắt buộc" trong năm, Ngân hàng Nhà nước xử phạt bằng tiền phần thiếu theo mức quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. 2- Đối với trường hợp tổ chức tín dụng thừa tiền dự trữ bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước sẽ trả lãi cho phần vượt dự trữ bắt buộc gửi tại Ngân hàng Nhà nước theo mức lãi suất quy định trong từng thời kỳ. 1.5. Ưu, nhược điểm của công cụ DTBB 1.5.1. Ưu điểm: DTBB tôn trọng sự cạnh tranh giữa các NH vì nó được áp dụng không phân biệt với mọi NH có điều kiện kinh doanh như nhau. DTBB được đánh giá là 1 công cụ chủ động và đầy quyền lực của NHTW vì NHTW có thể thay đổi tỷ lệ DTBB bất cứ lúc nào khi cần thiết và cơ chế tác động nhanh, mạnh đến lượng tiền cung ứng vì chỉ cần 1 sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ DTBB sẽ dẫn đến thay đổi theo cấp số nhân của khối lượng tiền cung ứng. 1.5.2. Nhược điểm: Một sự thay đổi nhỏ về tỷ lệ DTBB cũng gây nên sự bất ổn của cho hoạt động của các NH, đặc biệt là những NH có dự trữ thừa quá thấp, có thể đẩy 1 số NH đến tình trạng phá sản và sau đó sẽ ảnh hưởng dây chuyền. DTBB là 1 hình thức thuế thu nhập vô hình đối với các NHTM, sự tăng lên trong tỷ lệ DTBB sẽ làm giảm thu nhập sau thuế của các ngân hàng. Chi phí điều chỉnh bản CĐTS phù hợp với tỷ lệ DTBB mới tăng thêm rất tốn kém.
  7. II – Thực trạng sử dụng công cụ DTBB ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007 1. Năm 2001 Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, chính phủ đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005, với mục tiêu tổng quát: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xóa đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Trên cơ sở đó, mục tiêu CSTT năm 2001-2005 là thực hiện một chính sách tiền tệ nới lỏng thận trọng để vừa đảm bảo mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát , góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , đồng thời thực hiện các chủ trương kích cầu của chính phủ, tiếp tục ổn định hệ thống ngân hàng. Trong quá trình điều hành, NHNN bám sát chỉ đạo của Chính phủ và diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế, kịp thời đưa ra các giải pháp về tiền tệ - tín dụng, lãi suất, tỷ giá phù hợp với mục tiêu CSTT, kết hợp đồng bộ các công cụ CSTT Diễn biến cụ thể  Giai đoạn đầu năm 2001, Nền kinh tế thế giới có xu hướng giảm, lãi suất trên thị trường quốc tế giảm làm cho các NHTM cũng giảm lãi suất huy động theo. Bên cạnh đó, ở Việt Nam giai đoạn này đang đương đầu với các khó khăn: Tốc độ tăng nguồn vốn VND của các TCTD đã giảm dần sau một năm lãi suất ngoại tệ tăng liên tục, trong khi nhu cầu mở rộng tín dụng bằng VND vẫn liên tục tăng đã làm cho hệ thống ngân hàng gặp khó khăn trong thanh toán do thiếu vốn khả dụng bằng VND. Lãi suất huy động bằng ngoại tệ luôn hấp dẫn hơn lãi suất huy động bằng VND đã làm suy giảm giá trị nội tệ của VND, càng gây khó khăn cho việc điều hành tỷ giá để đạt mục đích ổn định tỷ giá. Tình trạng đô la hóa trong những năm qua mà ngành ngân hàng đang tìm cách hạn chế, khắc phục lại có nguy cơ phát triển. Trước tình hình đó, tháng 5/2001 NHNN đã có động thái tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ từ 12% lên 15%, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với VND từ 5% xuống đối với hệ thống NHTM. Điều này đã làm tăng chi phí huy động vốn bằng ngoại tệ và buộc các NHTM phải giảm lãi suất huy động ngoại tệ. Kết quả là:
  8. Những người gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ gặp khó khăn. Trong khi đó, các NHTM sẽ không giảm lãi suất nếu NHNN không chịu hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống dưới 12% trên tổng huy động ngoại tệ kỳ hạn dưới 12 tháng như đang áp dụng. "Suy cho cùng, chúng tôi cũng chỉ như một người mua đi, bán lại hàng hóa. Dự trữ bắt buộc càng cao thì chi phí chúng tôi phải chịu càng lớn. Và nếu giá bán cứ ngày một giảm thì buộc lòng chúng tôi phải hạ giá mua vào"- giám đốc một ngân hàng nói. (www.vnexpress.net - “Tiền đồng Việt Nam hấp dẫn hơn” - 6/5/2001) Tuy vậy, việc lãi suất huy động USD giảm cũng mang đến những tín hiệu tích cực. Việc điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng VND và tăng dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đã tác động làm cân bằng dần lãi suất nội tệ và ngoại tệ và đến thời điểm cuối năm lãi suất VND đã tương đương, thậm chí còn cao hơn lãi suất ngoại tệ. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng huy động vốn bằng VND được cải thiện, ngược lại, xu hướng tăng trưởng huy động vốn bằng ngoại tệ giảm dần, từng bước cân bằng nguồn vốn ngoại tệ và nội tệ vì trong khi lãi suất ngoại tệ giảm, lãi suất đồng Việt Nam không thay đổi, tỷ giá ngoại tệ ổn định, sẽ kéo theo đồng Việt Nam ổn định và nâng giá trong giai đoạn tới. Kết quả là lãi suất tiết kiệm của đồng đôla kỳ hạn một năm chỉ còn khoảng 4,2%/năm, trong khi đồng Việt Nam là 8,4%/năm. Người dân bắt đầu không còn thích gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ nữa trong khi doanh nghiệp thì tranh thủ giá rẻ của đồng ngoại tệ và sự ổn định của tỷ giá để vay tiền này đưa vào kinh doanh.  Tuy nhiên, đến thời điểm tháng 11/2001, do lãi suất trên thị trường quốc tế tiếp tục giảm mạnh (FED đã cắt giảm lãi suất đến 11 lần), lãi suất ngoại tệ trên thị trường Việt Nam có xu hướng giảm mạnh, ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của các NHTM. Do đó, NHNN đã thực hiện việc điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi bằng ngoại tệ từ 15% xuống còn 10%. Nhìn chung, năm 2001 NHNN đã sử dụng công dự trữ bắt buộc một cách linh hoạt để hạn chế những diễn biến tiền tệ bất lợi, góp phần tạo lợi thế so sánh cho VND, hạn chế dòng chuyển đổi VND sang USD, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. 2. Năm 2002: Kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Sự phục hồi chậm của kinh tế Mỹ và một số nền kinh tế lớn khác, sự bất ổn của chính trị do tác động của khủng bố, nguy cơ chiến tranh ở Iraq làm lãi suất đồng USD ngày càng giảm mạnh (ngày 6/11/2002 Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định hạ lãi suất cho vay từ 1,75% xuống còn 1,25%), sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài tiếp tục gây bất lợi cho xuất khẩu và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Trên thị trường tài chính thế giới, lãi suất đồng USD giảm mạnh cũng tác động đến huy động tiền gửi ngoại tệ của hệ thống ngân hàng 4/2002: trước tình hình đó, NHNN lại phải tiếp tục giảm dự trữ bắt buộc với đồng ngoại tệ từ 10% xuống 8%
  9. 12/2002: tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm còn 5 %. Sự điều chỉnh này nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong giai đoạn khó khăn, sau khi Cục dữ trữ liên bang Mỹ quyết định giảm lãi suất xuống mức 1,25%/năm.  Các công cụ chính sách tiền tệ như thị trường mở, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, hoán đổi ngoại tệ đã được điều hành phối kết hợp tương đối đồng bộ, linh hoạt để đảm bảo sự ổn định của thị trường tiền tệ. Trong năm 2002, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu của NHNN, cũng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng VND được giữ nguyên ở mức thấp, phù hợp với diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Trong khi đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đã được điều chỉnh giảm 2 lần xuống 8% vào tháng 4/02 và xuống 5% vào tháng 12/2002. Việc sử dụng công cụ DTBB linh hoạt trong năm 2002 của Chính phủ đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung . ''Một năm thành công của ngành ngân hàng'', nhiều nhận định như vậy. Tuy nhiên, Thống đốc Lê Đức Thuý cũng thừa nhận, '' khả năng huy động vốn trung, dài hạn vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đầu tư tín dụng trung dài hạn của nền kinh tế; thị trường tiền tệ còn kém phát triển; năng lực quản lý tài sản - nguồn vốn của nhiều ngân hàng thương mải còn những hạn chế; năng lực thanh tra, giám sát còn hạn chế; vốn điều lệ của các ngân hàng vẫn thấp so với nước khác; nợ tồn đọng của nhiều ngân hàng còn cao '' 3. Năm 2003: do lãi suất trên thị trường quốc tế tiếp tục giảm mạnh, NHNN đã quyết định hạ tỷ lệ DTBB đối với ngoại tệ còn 3 %( của mình là 4%- xem lại) , giảm tỷ lệ DTBB bằng VND còn 2% để giảm bớt khó khăn cho các tổ chức tín dụng . Đồng thời , NHNN cũng mở rộng diện kiểm soát tiền gửi huy động từ dưới 12 tháng lên 24 tháng và tính dự trữ bắt buộc bao gồm cả tiền gửi tại các chi nhánh NHNN, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng sử dụng sử dụng linh hoạt vốn khả dụng của mình. 4. 2004 – 2006  Năm 2004-2005 là những năm cuối của kế hoạch 5 năm, đạt ra một sức ép tăng trưởng cao của nền kinh tế từ 8-8.5% nhằm đạt được mức tăng trưởng bình quân 7.5% trong 5 năm mà Đại hội Đảng IX đã đề ra. Thêm vào đó, tốc độ lạm phát tăng cao trong những năm này ( năm 2004: 9.4%, năm 2005: 8.5%) do: Dịch cúm gà, giá dầu tăng, biến động giá của một số mặt hàng theo mùa vụ Bắt đầu từ năm 2003 và kéo dài cả năm 2004, nhiều mặt hàng quan trọng trong nền kinh tế đã tăng giá. Sự tăng giá này vừa bắt nguồn từ giá của thế giới tăng hoặc từ cơ cấu của chính bên trong nền kinh tế. Bằng cách mổ xẻ cơ cấu các nhóm hàng hoá bên trong hợp thành chỉ số CPI sẽ thấy rằng việc lạm phát tăng cao chủ yếu bắt nguồn từ ba nhóm cơ bản. Nhóm thứ nhất là hàng lương thực thực phẩm có trọng số trong CPI là 47%. Nhóm hàng này có giá cả tăng vọt được lý giải rằng do dịch cúm gia cầm, giá gạo tăng đột biến do sốc mùa vụ. Nhóm thứhai chiếm tỷ trọng 8,2% trong CPI là nhà cửa và vật liệu xây dựng. Nhóm này có giá cả tăng vì bị tác động giá thép trên thị trường thế giới tăng. Nhóm cuối cùng cũng chiếm tỷ trọng cao là vận tải, bưu điện, viễn thông. Nhóm này chiếm khoản 10% trong rổ
  10. hàng hoá tính CPI và tăng giá do ảnh hưởng của giá dầu thế giới. Sự tăng lên của các nhóm hàng hoá này là một cú sốc về phía cung làm giá tăng vọt. Bên cạnh những yếu tố khách quan, chính phủ với chính sách kích cầu và đòi hỏi mở rộng tín dụng trong các năm qua đã đưa lạm phát lên đến mức báo động (từ 3% 2002, đến 9.5% 2004) do sự gia tăng cung tiền một cách quá lố. Trước tình hình đó , CSTT đã phải đối mặt với những thử thách lớn là vừa phải thực hiện kiềm chế lạm phát , vừa phải hỗ trợ tăng trưởng kinh tế , NHNN đã đề ra mục tiêu điều hành chính sách TT năm 2004, 2005 là thực hiện một CSTT chặt chẽ thận trọng để kiểm soát lạm phát , nhưng không làm ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế . Với sức ép tăng giá , NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB và ngày 20/7/2004, NHNN đã có quyết định thay đổi phương thức trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buột đối với dự trữ bắt buột bằng VND , theo đó trả lãi cho tiền gửi DTBB và không trả lãi cho tiền gửi dự trữ vượt nhằm khuyến khích các TCTD sử dụng tối đa nguồn vốn của mình .Từ kỳ thực hiện dự trữ bắt buộc tháng 7/2004, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi Đồng Việt Nam của các NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Công ty tài chính tăng từ 2% lên 5%; riêng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tăng từ 1,5% lên 4% trên tổng số tiền gửi phải dự trữ bắt buộc của loại không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng; tăng từ 1% lên 2% đối với tiền gửi từ 12 tháng đến 24 tháng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng trung ương, ngân hàng hợp tác tăng từ 1% lên 2%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 4% tăng lên 8%, từ 12 tháng đến 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng Đồng Việt Nam trong phạm vi mức dự trữ bắt buộc là 1,2%/năm, tiền gửi ngoại tệ là 0%; tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc VND là 0% và ngoại tệ là 1,0%. Quy định này đảm bảo phù hợp với thông lệ
  11. quốc tế, tính tới yêu cầu hội nhập. Nhờ vậy, trong năm 2005 mức dự trữ vượt của các TCTD tại NHNN đã giảm mạnh, trung bình tỷ lệ dự trữ vượt trên tổng số tiền phải dự trữ bắt buộc đã giảm từ mức 47% năm 2004 xuống còn 24% năm 2005. Đây là động thái chính thức đầu tiên của Ngân hàng Trung uơng trong việc đối phó với nguy cơ lạm phát và giải thoát sức ép lên lãi suất.  Theo phân tích của các chuyên gia, quyết định này của Ngân hàng Nhà nước sẽ giúp các ngân hàng thương mại giảm được phần nào chi phí vốn. Tỷ lệ dự trữ cao nói trên được duy trì trong suốt cả năm 2005. Không có được con số thống kê chính xác tổng số tiền dự trữ bắt buộc tăng thêm phải nộp về NHNN trong năm 2005 so với các năm trước, nhưng ước tính cũng phải tới 6000-7000 tỷ đồng.Điều đó có nghĩa là, để góp phần thực hiện mục tiêu lạm phát, hàng nghìn tỷ đồng đó được thu về “giam” trong kho, không được đầu tư cho nền kinh tế. Công cụ dự trữ bắt buộc được điều hành theo hướng tính bình quân theo tháng nhằm tạp điều kiện cho các TCTD sử dụng linh hoạt nguồn vốn. Đồng thời, nhẳm tăng cường khả năng sử dụng vốn hiệu quả, NHNN thực hiện trả lãi tiền gửi trong mức dự trữ bắt buộc bằng VND và không trả lãi tiền gửi vượt mức DTBB nhằm hạn chế việc các TCTD để vốn dư thừa tại NHNN. Trong năm 2005, mức DTBB đã giảm mạnh, từ mức 47% năm 2004 xuống còn 24% Năm 2006, lạm phát bình quân năm 2006 giảm xuống còn 7.4% so với 8.3% của năm 2005, chính phủ đã thực hiện được những chính sách bình ổn giá trong năm 2006 cùng với việc giảm thuế nhập khẩu 1 số mặt hàng tư liệu sản xuất nên đã giảm đi việc
  12. đầu cơ tăng giá. Bên cạnh đó, dịch cúm gia cầm và lở mồm long móng được kiểm soát đã giảm sức ép tăng giá thực phẩm. Chính vì thế, mức tăng CPI của năm 2006 vẫn thấp hơn năm 2005 Bám sát chỉ đạo, điều hành của chính phủ, và trên cơ sở dự đoán, đánh giá sát tình hình, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạp thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Các công cụ CSTT tiếp tục được điều hành linh hoạt nhằm giảm áp lực tăng phương tiện thanh toán, ổn định lãi suất thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng Công cụ DTBB được điều hành theo hướng linh hoạt, thận trọng nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế. Để giảm áp lực tăng lãi suất huy động trên thị trường, duy trì ổn định tiền tệ và góp phần tăng trưởng kinh tế, NHNN đã giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng bằng ngoại tệ là 8%, bằng VND áp dụng đối với NHTM nhà nước, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng lien doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 5%, riêng NHNo & PTNT là 4%, áp dụng đối với NHTM cổ phần nông thôn, ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân trung ương là 2% . Tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng đến dưới 24 tháng là 2%, áp dụng đối với cả VND vả ngoại tệ. Ngoài ra công cụ DTBB tiếp tục được điều hành theo hướng bình quân theo tháng nhằm tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng linh hoạt nguồn vốn Nhìn chung, giai đoạn 2004 – 2006, nền kinh tế đã tăng trưởng nhanh dân đến tỷ lệ lạm phát cao năm 2004, xấp xỉ 2 con số 9.4%. NHTW đã thực hiện những biện pháp để ngăn chặn đà tăng trưởng nóng này bằng các công cụ của CSTT, NHTW đã tăng mức DTBB lên cao, từ 2% năm 2003 lên 5% năm 2004 và tiếp tục giữ nguyên cho đến năm 2006. Những biện pháp trên cũng phần nào làm giảm đi tỷ lệ lạm phát tăng cao trong năm 2004 nhưng không thật sự hiệu quả (năm 2005 là 8.5%, năm 2006 là 6.6%). Bên cạnh đó, cùng với mục tiêu kiềm chế lạm phát, chính phủ cũng vẫn tiếp tục thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bằng cách tiếp tục cung tiền ra nền kinh tế thông qua các công cụ của chính sách tài khoá, tăng cường thu chi chính phủ. Chính sự mâu thuẫn trong việc điều hành các công cụ đã làm cho việc thực hiện kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua không hiệu quả và là mầm mống cho cuộc khủng hoảng trầm trọng hơn sau này. 5. Tình hình từ tháng 6/07 đến nay. 5.1 Tình hình tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 6/07 đến 1/08: 5.1.1 Diễn biến: Để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong giai đoạn cuối năm 2007 đầu năm 2008 Ngân hàng nhà nước (NHNN)đã thực hiện việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cụ thể như sau: Tháng 6/07(QĐ 1141/QĐ-NHNN ngày 28/5/2007 ) TỔ CHỨC TÍN DỤNG <12 tháng <12tháng 12<24 12<24 tháng tháng VND Ngoại tệ VND Ngoại tệ
  13. Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước, 10 10 4 4 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và công ty tài chính Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông 8 10 4 4 thôn VN Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, 4 10 4 4 Ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân trung ương Tháng 1/2008(QDD187/QĐ-NHNN ban hành ngày 16/1/2008 áp dụng từ tháng 2/2008) TỔ CHỨC TÍN DỤNG <12 tháng <12tháng 12<24 12<24 tháng tháng VND Ngoại tệ VND Ngoại tệ Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước, 11 11 5 5 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và công ty tài chính Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông 8 10 4 4 thôn VN Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, 4 10 4 4 Ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân trung ương 5.1.2 Nguyên nhân 5.1.2.1 Lạm phát gia tăng Theo tổng cục thống kê lạm phát 6 tháng đầu năm năm 2007 đã tăng 5,2%, gần chạm tới mức kiềm chế được mong đợi là 6%. Do đó mức dưới 6% năm 2007 là khó đảm bảo; nhiệm vụ kiềm chế lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng cũng khó khăn. Thêm vào đó khoảng thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008 tình trạng lạm phát ở Việt Nam lại có xu hướng gia tăng ở mức đáng báo động (riêng 2 tháng đầu năm 2008 lạm phát đã lên tới 6,02%. Việc tăng tỷ lệ DTBB và mở rộng diện đối tượng tiền gửi tại NHTM phải trích DTBB tuy sẽ gây khó khăn cho tiềm lực mở rộng tín dụng của các NHTM, nhưng là rất cần thiết (để chống lạm phát, NHTW Trung Quốc đã phải nâng tỷ lệ DTBB lên tới 14,5% hồi cuối năm 2007) và kịp thời để góp phần quyết định trong các nỗ lực của chính phủ về chủ trương kiềm chế lạm phát ngay từ đầu năm 2008.
  14. Biểu đồ lạm phát từ 1995 -2007 Biểu đồ lạm phát Việt Nam từ 9/2007-3/2008 Trong bối cảnh này, NHNN đã sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt. Tình hình lạm phát gia tăng do các nguyên nhân sau đây: - Để thúc đẩy kinh tế hồi phục sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã thực hiện chính sách kích cầu bằng việc thúc đẩy hoạt động đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế trong giai đoạn 2001-2007.Tăng trưởng đầu tư trong giai đoạn này đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng GDP liên tục trong khoảng 7.0-8.5%/ năm trong giai đoạn 2001-2007 tuy nhiên điều đó cũng góp phần làm cho lạm phát gia tăng.
  15. Năm 2007 là năm đầu tiên nước ta trở thành viên của WTO mở ra nhiều thời cơ và cơ hội mới do đó dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh.Trong 5 tháng đầu năm 2007 NHNN đã tung ra một lượng lớn tiền đồng để mua vào 7 tỷ USD tạo áp lực gia tăng lạm phát. Bên cạnh đó giá lương thực, thực phẩm, giá xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu tăng mạnh cộng với cơn sốt giá nhà đất, giá vật liệu xây dựng tăng mạnh thúc đẩy chỉ số tiêu dùng tăng cao. 5.1.2.2 Tăng trưởng tín dụng nóng, lo ngại những rủi ro về chất lượng của các khoản vay và tình trạng đô la hóa tài sản nợ của các NHTM. Nửa đầu năm 2007, tăng trưởng tín dụng trong toàn hệ thống ngân hàng tăng cao so với cùng kì năm 2006. Thông tin từ WB cho thấy mức tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được kiềm chế trong những năm 2000 và đột biến trong năm 2004, năm 2004 tăng trưởng tín dụng lên đến 41,5%, kéo theo lạm phát nóng bỏng tới 9,5%. Mức tăng trưởng tín dụng qua các năm như sau : Năm 2000: tăng trưởng tín dụng 38,1%. Năm 2001: tăng trưởng tín dụng 21,4%. Năm 2002: tăng trưởng tín dụng 22,2%. Năm 2003: tăng trưởng tín dụng 28,4%. Năm 2004: tăng trưởng tín dụng 41,5% (năm có lạm phát đột biến). Năm 2005: tăng trưởng tín dụng 19,2%. Năm 2006: tăng trưởng tín dụng 21,4%. Như vậy trong khoảng thời gian từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6/2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, nhưng mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong khi đó, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. So với những năm gần đây, mức tăng của năm 2007 càng đáng lo ngại vì có dấu hiệu bất thường dẫn đến nhiều hệ lụy. Hệ lụy đó là: một khi tăng trưởng tín dụng quá cao sẽ dẫn đến chất lượng cho vay có thể bị ảnh hưởng. Năm 2007 là năm các NH huy động vốn dễ dàng, có nhiều kênh để cho vay và đầu tư kiếm lời, nên một số NH đã tranh thủ huy động và cho vay thật nhiều, trong đó có việc đổ vốn vào lĩnh vực BĐS, cho vay KDCK, mở rộng cho vay tiêu dùng để kiếm lời nhanh mà không chú ý đúng mức đến cơ cấu danh mục đầu tư và cân đối nguồn-sử dụng vốn một cách bền vững. Quý II, III năm 2007, toàn hệ thống NH có tình trạng tạm thời thừa vốn khả dụng VND. Lúc đó, trên TTLNH, cung lớn hơn cầu rất nhiều. Vì vậy, một số NH đã chủ quan cho rằng khi nào cần vốn thì có thể vay dễ dàng trên TTLNH nên đã đẩy mạnh cho vay với tỉ lệ sử dụng vốn/vốn huy động rất cao, thậm chí có một số NHTMCP cho vay vượt trên 100% vốn huy động VND (trừ phần DTBB). Hơn thế nữa nhiều NH đã sử dụng tỉ lệ vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn khá lớn. Từ tháng 8.2007, nhiều NH đã đua nhau đưa ra các chương trình cho vay tiêu
  16. dùng, cho vay lĩnh vực BĐS với kỳ hạn ít nhất từ 1 năm đến dài nhất là 20 năm nên rất dễ lâm vào tình trạng căng thẳng tiền đồng. Đối với ngoại tệ trong thời gian trước tháng 5/ 2007, lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tăng khá và lên mức cao, nên NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ để kiềm chế các NHTM tăng cường huy động vốn ngoại tệ, vì lo ngại tình trạng đô la hóa, tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng. Trước thời điểm này NHNN vẫn kiên trì giữ nguyên tỷ lệ tiền gửi DTBB cả nội tệ và ngoại tệ từ năm 2005 đến tháng 5/ 2007, tạo khoảng cách nhất định so với lãi suất tiền gửi nội tệ hạn chế tình trạng dịch chuyển từ VND sang USD do lãi suất tăng khá và hấp dẫn. Trước sức tăng trưởng tín dụng nóng, sức ép của lạm pháp và lo ngại những rủi ro về chất lượng các khoản vay Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 1141/QĐ- NHNN ngày 30-5-2007, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Trong lần tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng “việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giống như việc Ngân hàng Nhà nước thay cái má phanh cũ bằng một má phanh mới để có thể nhạy hơn trong việc kiểm soát độ nở của tiền tệ (tăng trưởng tín dụng)”. 5.1.3 Hệ quả của việc tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc: 5.1.3.1 Tác động tới lượng tiền cung ứng: Với mục tiêu như trên tổng phương tiện thanh toán đã được kiểm soát ở mức hợp lý (10 tháng qua, tổng phương tiện thanh toán tăng 10,59%, so với cùng kỳ năm ngoái (tăng 32%), chỉ bằng 1/3 và kiểm soát chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng (10 tháng đầu năm, tăng trưởng dư nợ tín dụng là 19,6%, so với cùng kỳ năm ngoái (tăng 37%), thì chỉ bằng 56% của năm ngoái. Thực hiện kiểm soát 2 chỉ tiêu này, Ngân hàng Nhà nước đã rút về được khoảng 35.000 tỷ đồng số tiền mặt lưu thông trên thị trường, góp phần kiềm chế lạm phát. Tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán năm 2008 (nguồn: NHNN) 5.1.3.2 Tác động tới lãi suất thị trường: - Các ngân hàng lao vào cuộc cạnh tranh đua huy động vốn với mức lãi suất cạnh tranh quyết liệt và do sự cạnh tranh gay gắt đó đã đẩy lãi suất huy động tiền đồng của các
  17. ngân hàng dao động từ 8-9,6% /năm .Lãi suất huy động ngoại tệ từ 4-4,7%/năm. Chẳng hạn như : Khởi động cho cuộc đua tăng lãi suất VND là Ngân hàng Ngân hàng TMCP An Bình (ABBANK) với lãi suất tiết kiệm thực gửi VND được điều chỉnh lên đến 9,12%/năm. Mức tăng lên đến 0,36%/năm cho các kỳ hạn tiết kiệm thực gửi từ 30 - 59 ngày. Các kỳ hạn tiết kiệm thực gửi từ 180 - 269 ngày, từ 270 - 359 ngày và từ 360 - 450 ngày có mức tăng là 0,12%/năm. Theo sau ABBANK, Ngân hàng Quốc tế (VIB Bank) với lãi suất tiết kiệm lũy tiến bằng đồng VND cũng tăng từ 0,12%/năm đến 0,24%/năm so với mức lãi suất trước. Cụ thể, mức lãi suất mới đối với kỳ hạn 2 tháng là 8,04%/năm; kỳ hạn 3 tháng lãi suất là 8,76%/năm; kỳ hạn 6 tháng lãi suất là 9,00%/năm; kỳ hạn 9 tháng lãi suất là 9,24%/năm; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên lãi suất là 9,36%/năm. Trong khi đó, Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) cũng thông báo tăng lãi suất tiết kiệm VND của các hình thức Tiết kiệm thường, Tiết kiệm Phát lộc và Tiết kiệm Đa năng ở tất cả các kỳ hạn. Lãi suất Tiết kiệm thường được điều chỉnh tăng từ 0,2% đến 0,35%/năm, trong đó tăng mạnh nhất ở kỳ hạn 12 tháng, lên 9,6%/năm. Lãi suất Tiết kiệm Phát lộc tăng khá mạnh ở các kỳ hạn 13 tháng và 14 tháng, lên 9,60%/năm. Lãi suất Tiết kiệm đa năng (Tiết kiệm rút gốc linh hoạt) tăng từ 0,1% đến 0,35%/năm, kỳ hạn 12 tháng tăng mạnh lên 9,6%/năm. Các ngân hàng cũng áp dụng mức lãi suất cho vay ngắn hạn tiền đồng mới từ 10,8%-13,8%/năm, ngoại tệ từ 6,6%-7,5%/năm, lãi suất cho vay dài hạn đối với tiền đồng từ 12,36%-15,48%/năm, ngoại tệ 6,8%-7,37%/năm. 25 21 20.5 20.5 20.5 20 19 16.7 17.5 17.2 17.7 17.4 17.3 16.5 16.5 16.4 15.5 15 14.3 cho vay % 12.8 12.6 11.4 12 11.9 10 10.3 huy động 8.8 8 5 0 Jan- Feb- Mar- Apr- May- Jun- Jul- Aug- Sep- Oct- Nov- Dec- 08 08 08 08 08 08 08 08 08 08 08 08 thang Diễn biến lãi suất huy động và cho vay năm 2008 (Nguồn: NHNN) 5.1.4 Kết quả đạt được :
  18. Chỉ số giá tiêu dùng từ cuối 2007 đến cuối năm 2008 Từ những tháng nửa cuối năm 2008, đã có sự cải thiện dần các chỉ số lạm phát. Từ tháng 6,7 năm 2008 trở lại đây, tốc độ tăng CPI trên thị trường trong nước đã có sự chững lại khá rõ rệt. Chỉ số CPI cả nước trong tháng 9 năm 2008 chỉ tăng 0.18% so với tháng trước (giá tiêu dùng các tháng 1 đến tháng 8 năm 2008 so với tháng trước lần lượt tăng: 2,38% ; 3,56%; 2,99%; 2,2%; 3,91%; 2,14%; 1,13%; 1,56%). CPI so với cùng kỳ năm ngoái đã đến đỉnh điểm trong tháng 8 (28,4%), giảm dần đến cuối năm và ước đạt mức 24%. Riêng chỉ số CPI tháng 10 năm 2008 giảm 0,19% so với tháng trước. 5.1.5 Tồn tại của việc thay đổi tỷ lệ DTBB trong giai đoạn này: Khó khăn trong hoạt động ngân hàng: Việc thay đổi tỷ lệ DTBB trong giai đoạn này một cách đột ngột và gấp gáp đã khiến không ít ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn. Bởi khi thay đổi như thế các ngân hàng thương mại cần có một lộ trình thích ứng và điều chỉnh lại tốc độ. Nếu tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10%, ngân hàng thương mại chỉ được sử dụng 90% lượng vốn huy động thay vì 95% trước đây để cho vay. 5% bị “đóng băng” khi cất vào kho theo yêu cầu trong khi vẫn phải trả lãi suất cho người gửi tiền. Lượng vốn cho vay cũng bị giảm 5%, ngân hàng mất một phần thu. Như vậy, lợi nhuận của ngân hàng từ hoạt động tín dụng đứng trước khả năng bị thu hẹp. Khắc phục tình trạng này, thứ nhất, các ngân hàng phải tìm được một nguồn vốn rẻ hơn, cách này rất khó trong bối cảnh đồng vốn ngày càng đòi hỏi chi phí cao như hiện nay; thứ hai, ngân hàng phải giảm lãi suất huy động và tăng lãi suất cho vay để đảm bảo doanh thu. Nhưng cái giá phải trả cho con đường thứ hai cũng không nhỏ. Giảm lãi suất huy động là giảm lợi ích của người gửi tiền. Trong khi lạm phát đang và dự báo sẽ tiếp tục tăng cao, lãi suất huy động giảm thì lãi suất thực của người gửi tiền càng bị rút ngắn. Lãi suất huy động giảm, giữ chân người gửi tiền đã khó, kêu gọi huy động càng khó hơn; tăng hấp dẫn bằng khuyến mại lại càng tăng thêm chi phí.
  19. Hiện tại, nguồn vốn khả dụng của nhiều ngân hàng vẫn khá chủ động, nhưng nhu cầu vốn cho dài hạn là một áp lực. Khó khăn đối với doanh nghiệp: Việc các NHTM tăng lãi suất cho vay cũng đồng thời là sự tác động xấu đến các doanh nghiệp, nhất là khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi lẽ, khi thắt chặt tín dụng, lập tức các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay, doanh nghiệp sẽ khó khăn khi tiếp cận với nguồn vốn có lãi suất cao, làm cho chi phí đầu tư bị đẩy cao. Trong khi đó giai đoạn này với những cơ hội và điều kiện sản xuất thuận lợi các doanh nghiệp lại rất cần đến nguồn vốn vay của ngân hàng để mở rộng sản xuất. Như vậy hành động việc tăng tỷ lệ DTBB lên gấp đôi từ 5% đến 10% cũng giống như hành động phanh quá gấp của NHNN trong giai đoạn này đã là liều thuốc quá mạnh đối với các NHTM cũng như đem lại những khó khăn không hề nhỏ cho doanh nghiệp. 5.2.Tình hình tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11/2008 đến nay: QĐ 2560/QĐ-NHNN 3158/QĐ-NHNN QD 2811/QĐ-NHNN 2951 /QĐ-NHNN ngày 3/11/2008, áp ngày 19/12/2008, áp ngày 20/11/2008 ngày 03 /12/2008 dụng 11/2008 dụng từ 01/01/2009 Loại TCTD Tiền gửi Tiền gửi Tiền gửi Tiền gửi Tiền gửi Tiền gửi Tiền gửi Tiền gửi VND ngoại tệ VND ngoại tệ VND ngoại tệ VND ngoại tệ <12 ≥12 <12 ≥12 <12 ≥12 ≥12 <12 <12 <12 ≥12 <12 ≥12 <12 th ≥12 th ≥12 th th th th th th th th th th th th th th Các NHTM Nhà nước , NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước 10 4 9 3 8 2 9 3 6 2 7 3 5 1 7 3 ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính Ngân hàng Nông nghiệp và Phát 7 3 8 2 5 1 8 3 1 6 2 2 1 6 2 triển nông thôn NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín 3 3 8 2 1 1 8 1 1 6 2 1 1 6 2 dụng nhân dân Trung ương 5.2.1 Nguyên nhân: Nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng huy động vốn và thanh toán, cũng như giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh
  20. phát triển. Các chính sách tiền tệ trên được ban hành cũng nhằm thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về chủ động ngăn ngừa suy thoái kinh tế. 5.2.2 Hệ quả của việc giảm liên tục tỷ lệ dự trữ bắt buộc giai đoạn này 5.2.2.1 Tác động tới lượng tiền cung ứng: Kết quả đạt được là tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức thích hợp (năm 2008, tổng phương tiện thanh toán tăng 20%, tín dụng tăng 23,58%; 7 tháng đầu năm 2009, hai chỉ tiêu này tăng 20,22% và 22,61%) 5.2.2.2 Lãi suất thị trường: Sau quyết định ngày 3/11/2008 trên của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng quốc doanh và Vietcombank đã bước đầu thực hiện điều chỉnh giảm từ 1 đến 1,5 điểm phần trăm đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn áp dụng lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam với các đối tượng ưu tiên theo chính sách khách hàng của mình là 15-16%/năm, và cho vay hộ sản xuất ở địa bàn nông thôn là 15,5%/năm, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa 15,9%/năm. Còn Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam áp dụng lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam 15-16%/năm cho các đối tượng ưu tiên trong lĩnh vực xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, và nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu. Trong những tháng tiếp theo thì mặt bằng lãi suất chung có xu hướng giảm do tác động của chính sách kích cầu trong giai đoạn này của chính phủ. Diễn biến lãi suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ 2008-200 5.2.2.3 Kết quả đạt được: Tăng trưởng kinh tế: Tổng sản phẩm trong nước quý I/2009 đạt 3,1% so với cùng kỳ năm 2008, là quý có mức tăng thấp nhất trong những năm gần đây, nhưng đến quý II/2009 đã tăng 4,5% và quý
  21. III/2009 tăng 5,8%. Tính chung 9 tháng, tổng sản phẩm trong nước tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,6%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,5% (công nghiệp tăng 3,3%, xây dựng tăng cao với 9,7%); khu vực dịch vụ tăng 5,9%. Mức tăng trưởng kinh tế các quý trong 9 tháng năm nay cho thấy xu hướng phục hồi của nền kinh tế nước ta ngày càng rõ nét hơn. Kết quả đạt được đánh dấu thành công bước đầu của Chính phủ trong chỉ đạo và điều hành vĩ mô nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. GDP 8 6 % 4 GDP 2 0 8 8 8 8 9 9 9 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 2 2 2 2 2 2 2 I/ I/ I/ / I/ I/ I/ I II IV I II Quý Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng quý trong năm 2008-2009 5.2.2.4 Những tồn tại trong việc điều hành DTBB giai đoạn này: Tỷ lệ DTBB thay đồi liên tục làm tăng chi phí của ngân hàng trong việc điều chỉnh lại bảng cân đối tài sản và các chi phí khác liên quan đến việc thay đồi lượng tiền dự trữ GIẢI PHÁP NHTW - Xây dựng tỷ lệ lạm phát kỳ vọng: sự thay đổi cung tiền chịu ảnh hưởng bởi lãi suất trong mối quan hệ giữa cung tiền và nhu cầu đầu tư .Tuy nhiên, lãi suất danh nghia bản thân lại chiệu tác động của lạm phts kỳ vọng.Do vậy Việt Nam cần nghiên cứu và xây dựng cụ thể trong cả ngắn hạn và dài hạn làm căn cứ trong điều hành và quản lí vĩ mô - Nâng cao vai trò quản lý NN trong lĩnh vực NH của NHTW: Trực tiếp nắm bắt tình hình, kiểm tra, thanh tra hoạt động của các NHTM thông qua hoạt động này giúp cho NHTW kịp thời nắm bắt những khó khăn
  22. vướng mắc, những tồn tại phát sinh trong hoạt động kinh doanh NH để có những biện pháp phù hợp. Theo dõi, giám sát hoạt động thị trường tiền tệ và hoạt động NH thông qua hệ thống thông tin giữa các NHTM và NHNN, qua hệ thống báo cáo, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh doanh, quản lý và quản trị NH để nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động của hệ thống NH, lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế từ đó có thể đề ra tỷ lệ DTBB phù hợp trong từng thời kỳ. - Chuyển hướng việc sử dụng công cụ tỷ lệ DTBB làm công cụ chính sang các công cụ mang tính chất thị trường tại Việt Nam: o Như đã biết, công cụ DTBB làm giảm số nhân tiền tệ, do đó làm giảm cung tiền, nếu tỷ lệ DTBB tăng và ngược lại, đây là 1 công cụ đầy quyền lực vì 1 sự thay đồi của DTBB sẽ đưa đến 1 sự thay đổi trong cung tiền gấp bội lẩn, nên NHTW rất khó quản lý để điều chỉnh lượng cung tiền. Dù vậy, NHNN Việt Nam vẫn sử dụng DTBB làm công cụ chủ yếu trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Điều này tất yếu sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe của nền kinh tế. o Trong khi đó, ở Việt Nam hiện nay, mức LS cơ bản, LS tái cấp vốn, tái chiết khấu chỉ mang tính định hướng và gần như vô tác dụng đối với việc điều tiết lượng cung tiền. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn ở Việt Nam chưa phát triển, các trái phiếu được chào bán kém thanh khoản dẫn đến hàng loạt đợt phát hành chào bán trái phiếu thất bại. Do đó, nghiệp vụ thị trường mở cũng ít phát huy tác dụng. Vì vậy, việc phát triển các công cụ nghiệp vụ thị trường mở, LS tái chiết khấu để dần thay thế công cụ DTBB tại Việt Nam là điều cần thiết. - Nâng cao năng lực thống kê, dự báo của NHNN Việt Nam Đây không phải là một công việc dễ dàng nhưng là việc cần phải làm vỉ nếu không có dự báo tốt sẽ khó có thể đạt hiệu quả cao trong lập chính sách cũng như trong triển khai thực hiện. Để dự báo tốt thì phải có hệ thống cập nhật đầy đủ thông tin, mô hình định lượng kinh tế chuẩn và năng lực phân tích thông tin đầy đủ để đánh giá tình hình và dự báo. Mặc dù các mô hình thống kê đưa ra cơ sở cho việc dự báo kinh tế, các nhà phân tích giỏi phải luôn bổ sung vào kết quả dư báo của mô hình với những điều chỉnh hợp lý và tinh tế, để nâng cao độ chính xác của dự báo đưa ra. - CHÍNH PHỦ:  Tăng cường tính độc lập tự chủ của Ngân hàng Trung ương: Hiện nay, Ngân hàng Trung ương còn lệ thuộc quá nhiều vào Chính Phủ; trong đó, Chính phủ là nơi quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi CSTT. Nói cách khác, NHTƯ thực chất là một cơ quan của Chính phủ. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHTƯ, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Do đó, cần tạo cho Ngân hàng Trung ương tính độc lập tự chủ trong việc lựa chọn các công cụ điều hành (với mô hình này, Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu CSTT sau khi thảo luận, thỏa thuận với NHTƯ. Khi quyết định được thông qua, NHTƯ có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể toàn quyền lựa chọn những công cụ điều hành CSTT phù hợp nhất. Với cấp độ tự chủ này, NHTƯ được trao đủ thẩm quyền để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất nhằm đạt
  23. được các chỉ tiêu đã được thỏa thuận giữa Chính phủ/Quốc hội với NHTƯ),đặc biệt là trong bối cảnh việc điều hành CSTT ở nước ta đã từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường, dần loại bỏ các công cụ trực tiếp và đã sử dụng các công cụ gián tiếp như lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn. => mức độ độc lập tự chủ này cho phép dung hòa giữa mục tiêu của CSTT với các mục tiêu của chính sách kinh tế trong một giai đoạn nhất định .  Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa CSTT và CSTK ở Việt Nam - Cần sửa lại Luật ngân sách và Luật ngân hàng Nhà nước theo hướng đảm bảo sự độc lập của CSTT: + Việc cho vay ngân sách hàng năm phải được khống chế bởi một hạn mức cụ thể do Quốc hội quy định trên cơ sở ưu tiên các mục tiêu dự kiến của CSTT như chỉ tiêu cung ứng tiền, lạm phát + Các khoản cho vay ngân sách nhà nước phải là ngắn hạn dưới 1 năm và phải được đảm bảo bằng các chứng khoán Chính phủ và không được cấp bằng tín dụng ngoại tệ cho NSNN. + Lãi suất cho vay NSNN cao hơn lãi suất đấu thầu trên thị trường mở ở phiên giao dịch gần nhất nhằm làm giảm lạm phát tín dụng của NHNN, đồng thời, khuyến khích việc sử dụng phương thức tài trợ thiếu hụt phi lạm phát qua phát hành trái phiếu, tín phiếu làm cơ sở phát triển thị trường mở và các công cụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN. + Không được dùng tiền NHTƯ để tái cấp vốn, xóa nợ, khoanh nợ, giãn nợ của NHTM ảnh hưởng tới quá trình dự báo và điều hành CSTT của NHNN. - Xây dựng cơ chế cung cấp thông tin giữa NHNN và các Bộ, ngành khác để có thể dự báo chính xác nhu cầu vốn khả dụng, kiểm soát được lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế. - NHNN và Bộ tài chính cần phối hợp chặt chẽ hơn trong việc xây dựng và thực thi CSTT và CSTK hàng năm trên cơ sở mục tiêu về lạm phát, GDP và dự báo cán cân thanh toán. Bộ tài chính cần phối hợp với NHNN trong việc lập dự toán NSNN, xác định quy mô thâm hụt, nhu cầu tài trợ từ nguồn vốn vay trong nước và ngoài nước. - Hoàn thiện thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và xác định rõ về thành viên, thời hạn cần đa dạng hơn và lãi suất cần được xác định phù hợp hơn để có mức lãi suất chuẩn, làm cơ sở cho định hướng điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ. - Phối hợp xây dựng CSTT và CSTK phù hợp với hạn mức nợ nước ngoài của quốc gia. - Bộ tài chính phối hợp chặt chẽ với NHNN trong việc bán ngoại tệ cho NHNN kịp thời để quản lý tập trung, thống nhất nhằm đảm bảo hiệu quả chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá. - Thực hiện một CSTK thận trọng trong việc cân đối giữa hai mục: tăng trưởng và lạm phát, CSTT cần hướng tới lấy kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, CSTK phải phù hợp với CSTT.
  24. NHTM:  Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ cho NHTW  Cần có các cơ quan dự báo hiệu quả để có những chính sách điều chỉnh hợp lý  Nâng cao chất lượng tín dụng để duy trì khả năng thanh khoản và chủ động đáp ứng kịp thời những yêu cầu của NHTW trong việt thực thi chính sách tiền tệ