Tiểu luận Tái cấp vốn – Thực trạng và giải pháp của Ngân hàng Trung Ương

doc 23 trang nguyendu 7360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tái cấp vốn – Thực trạng và giải pháp của Ngân hàng Trung Ương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctieu_luan_tai_cap_von_thuc_trang_va_giai_phap_cua_ngan_hang.doc

Nội dung text: Tiểu luận Tái cấp vốn – Thực trạng và giải pháp của Ngân hàng Trung Ương

  1. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 Đề tài tiểu luận TÁI CẤP VỐN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 1. Tổng quan về công cụ tái cấp vốn 1.1 Khái niệm Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của Ngân hàng Trung Ương (NHTW) cho các ngân hàng trung gian nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho ngân hàng. 1.2 Mục đích Bổ sung nguồn vốn khả dụng cho các ngân hàng trung gian nhằm duy trì, mở rộng quy mô tín dụng và đáp ứng nhu cầu thanh toán cho các ngân hàng trung gian, cũng có nghĩa là cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng trung gian để thực hiện vai trò “người cho vay cuối cùng”, giúp các ngân hàng trung gian khắc phục khó khăn về tài chính do mất khả năng thanh toán, duy trì sự ổn định trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. - Thông qua việc cho các ngân hàng trung gian vay, NHTW điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng trung gian theo hướng ổn định, lành mạnh hóa, qua đó điều chỉnh các điều kiện tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, phối hợp với các công cụ khác để kiểm soát lượng tiền cung ứng, giữ trạng thái ổn định lâu dài của lưu thông tiền tệ. - Hoạt động chính của ngân hàng trung gian là đi vay để cho vay, nhưng không phải lúc nào hoạt động của ngân hàng cũng thuận lợi. Những đợt rút tiền ồ ạt của dân chúng (do mất lòng tin vào hoạt động ngân hàng, lãi suất quá thấp so với lạm phát ) rất dễ lan tràn theo “hiệu ứng đàn cừu” và dễ làm cho ngân hàng trung gian mất khả năng thanh toán. Trong những trường hợp này, ngân hàng trung gian không thể thu hồi kịp tiền cho vay để chi trả, và không còn chỗ vay mượn nào khác, ngân hàng trung gian tìm đến NHTW như là một phương cách cuối cùng. Khi đó, NHTW sẽ thực hiện cấp tín dụng có đảm bảo cho ngân hàng trung gian. - Nếu NHTW dễ dãi trong việc cấp tín dụng, sẽ tạo cho các ngân hàng trung gian tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn vốn tín dụng của NHTW khi gặp khó khăn, ngân hàng trung gian dám chấp nhận nhiều rủi ro hơn trong kinh doanh, kết quả là gây rủi ro cho hoạt động ngân hàng. Điều này giải thích tại sao NHTW rất thận trọng, không thường xuyên sử dụng vai trò người cho vay cuối cùng của mình. Nguyên tắc “người cho vay cuối cùng” của NHTW chỉ phục vụ việc duy trì tính co giãn cần thiết của việc cung ứng tiền cho toàn bộ hệ thống ngân hàng chứ không phải từng cho ngân hàng riêng lẻ. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 4
  2. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 Việc cho vay của NHTW đối với các tổ chức tín dụng được tiến hành nhằm thực hiện việc điều chỉnh các điều kiện tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Vì vậy hạn mức tái cấp vốn, điều kiện và lãi suất tái cấp vốn đều bị chi phối bởi mục tiêu của chính sách tiền tệ, không nhằm mục đích lợi nhuận. 1.3 Nguyên tắc cấp tín dụng - Tôn trọng hạn mức tín dụng đặt ra (hạn mức được đặt ra tùy theo từng ngân hàng và dựa vào mục tiêu cụ thể sao cho phù hợp với chỉ tiêu cung ứng tiền của NHTW). - Các khoản tín dụng cung ứng luôn gắn với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất của việc phân bổ vốn, đảm bảo hiệu lực chi phối và kiểm soát tiền tệ của NHTW. - NHTW luôn đóng vai trò chủ động trong quan hệ tín dụng nhằm kiểm soát hoạt động về số lượng, chất lượng và mục đích của các khoản vay, thực hiện chính sách tiền tệ hiệu quả nhất. Vì vậy, NHTW thường đặt ra các điều kiện chặt chẽ để chấp thuận cho vay: điều kiện cho vay, hạn mức cho vay, , gắn việc cho vay với việc thực hiện các yêu cầu quản lý khác. NHTW kiểm soát mục đích của các khoản đã cho vay, thường xuyên điều chỉnh lượng tiền cho vay phù hợp với tình hình thực tế. 1.4 Các hình thức tái cấp vốn: NHTW thực hiện tái cấp vốn cho các ngân hàng trung gian dưới 2 hình thức: - Chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá. - Cho vay có đảm bảo bằng các chứng từ: giấy tờ có giá, hồ sơ tín dụng. 1.4.1 Chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá - Định nghĩa: chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá là nghiệp vụ NHTW mua các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán, mà các giấy tờ có giá này được các ngân hàng xin vay mua trên thị trường sơ cấp hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp (sau đây gọi tắt là nghiệp vụ chiết khấu). - Đối tượng và điều kiện được tham gia nghiệp vụ chiết khấu: các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và đáp ứng đủ các điều kiện sau: + Có tài khoản tiền gửi và lưu ký giấy tờ có giá tại Sở Giao dịch NHTW. + Có đăng ký chữ ký của lãnh đạo và giới thiệu các cán bộ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu với NHTW. - Quy định các loại giấy tờ có giá: giấy tờ có giá phải có tính thanh khoản cao, có chất lượng tốt và có khả năng thanh toán, thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải lớn hơn thời hạn chiết khấu của NHTW. Một số giấy tờ có giá thường được NHTW chấp nhận cho chiết khấu như: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu của NHTW và các loại giấy tờ có giá khác được quy định trong từng thời kỳ. Ngoài ra, căn cứ vào chính sách phát triển kinh tế của nhà nước trong từng thời kỳ, những ngành, lĩnh vực kinh tế nào được nhà nước khuyến khích, tập trung đầu tư phát Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 5
  3. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 triển thì giấy tờ có giá những ngành, lĩnh vực đó thuộc danh mục giấy tờ có giá được chiết khấu ở NHTW. Như vậy việc nới lỏng hay thắt chặt các điều kiện đối với các giấy tờ có giá được chấp nhận sẽ có tác dụng mở rộng hay thu hẹp khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ NHTW, từ đó tác động đến quy mô tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại, tác động đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế. - Lãi suất chiết khấu: Lãi suất chiết khấu là lãi suất NHTW áp dụng để tính số tiền thanh toán khi thực hiện chiết khấu giấy tờ có giá. Lãi suất chiết khấu do NHTW xác định và công bố phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Với bản chất của loại cho vay dưới hình thức chiết khấu giấy tờ có giá, đây là loại cho vay có mức độ rủi ro thấp nên lãi suất chiết khấu thường là lãi suất cho vay thấp nhất của NHTW. - Hình thức chiết khấu: + Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá: NHTW mua hẳn giấy tờ có giá của các ngân hàng trung gian theo giá chiết khấu. + Chiết khấu có kỳ hạn: NHTW chiết khấu giấy tờ có giá kèm theo yêu cầu: ngân hàng xin vay cam kết mua lại toàn bộ giấy tờ có giá đó sau một thời hạn nhất định (thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải lớn hơn thời hạn giao dịch). - Hạn mức chiết khấu: Là mức chiết khấu tối đa của NHTW cho một ngân hàng trung gian trong từng thời kỳ, căn cứ vào mục tiêu của chính sách tiền tệ và tổng khối lượng tiền cung ứng đã được phê duyệt. Hạn mức chiết khấu cho từng ngân hàng được tính theo công thức: Trong đó: H: hạn mức chiết khấu của ngân hàng. V: vốn tự có của ngân hàng. S: tỷ trọng giữa dư nợ tín dụng bằng VND so với tổng tài sản có, được tính theo công thức sau: k: hệ số chiết khấu, được tính theo công thức: Trong đó: Vi và Si là số vốn tự có và tỷ trọng giữa dư nợ tín dụng so với tổng tài sản có của ngân hàng thứ i. - Phương thức chiết khấu: + Phương thức trực tiếp: các ngân hàng đem “Giấy đề nghị chiết khấu giấy tờ có giá” trực tiếp đến Sở Giao dịch NHTW. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 6
  4. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 + Phương thức gián tiếp: các ngân hàng giao dịch thông qua mạng vi tính hoặc qua fax tới Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước. 1.4.2 Cho vay có đảm bảo bằng chứng từ (cầm cố bằng giấy tờ có giá hay bằng hồ sơ tín dụng) Là hình thức cho vay của NHTW đối với các ngân hàng trung gian trên cơ sở cầm cố giấy tờ có giá hay hồ sơ tín dụng thuộc sở hữu ngân hàng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ. Cầm cố giấy tờ có giá là việc NHTW nắm giữ bản gốc giấy tờ có giá, hoặc yêu cầu ngân hàng xin vay chuyển khoản giấy tờ có giá vào tài khoản của NHTW để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho một hay nhiều khoản vay của ngân hàng tại NHTW. Khi có nhu cầu vay vốn, các ngân hàng trung gian có thể sử dụng các giấy tờ có giá để làm đảm bảo cho các khoản vay được yêu cầu tại NHTW. Khi tái cấp vốn theo hình thức này, giá tri tiền vay được xác định theo một tỷ lệ phần trăm tính trên giá chứng từ có giá làm đảm bảo. Tỷ lệ này thay đổi tùy thuộc vào mức độ rủi ro của chứng từ và đánh giá của NHTW. - Đối tượng được vay cầm cố tại NHTW: Các ngân hàng trung gian xin vay phải có uy tín với NHTW, có tình hình tài chính lành mạnh, không có nợ quá hạn quá lớn, khả năng rủi ro thấp. - Điều kiện về giấy tờ có giá: So với hình thức chiết khấu, các điều kiện đối với giấy tờ có giá làm đảm bảo được nới rộng hơn, vì trong trường hợp này, NHTW chỉ nhận giấy tờ có giá với tư cách là đảm bảo mà không phải sở hữu. Tuy nhiên, các giấy tờ có giá được sử dụng làm đảm bảo cho khoản vay phải đạt các tiêu chuẩn: hợp pháp, hợp lệ, được phép giao dịch đảm bảo, tổ chức thanh toán phải có khả năng tài chính tốt, thời hạn đáo hạn của giấy tờ có giá phải lớn hơn thời hạn xin vay của ngân hàng trung gian. Điều kiện về giấy tờ có giá: +Ngân hàng xin vay là người thụ hưởng (đối với giấy tờ có giá ghi danh) hoặc là người nắm giữ hợp pháp (đối với giấy tờ có giá vô danh). +Được giao dịch, được thanh toán cho NHTW với tư cách là bên thứ 3 theo quy định của pháp luật và cam kết của người thụ hưởng. +Trường hợp giấy tờ có giá được phát hành theo hình thức ghi sổ phải có xác nhận và đảm bảo của tổ chức có trách nhiệm thanh toán đối với giấy tờ có giá đó về việc sẽ thanh toán cho NHTW khi ngân hàng xin vay có nợ đến hạn chưa thanh toán. Trường hợp đảm bảo bằng hồ sơ tín dụng thì các hồ sơ tín dụng được sử dụng làm đảm bảo nợ vay phải là những hồ sơ có khả năng thu hồi nợ tốt, khách hàng vay vốn đang sử dụng tốt đồng vốn vay, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Trong thời gian vay vốn, các hồ sơ tín dụng làm đảm bảo sẽ được quản lí, theo dõi theo quy chế riêng của NHTW. - Hạn mức cho vay: là mức dư nợ tối đa mà NHTW chấp nhận trong việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian. Hạn mức tái cấp vốn được tính hàng năm và chia Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 7
  5. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 ra từng quý. Việc phân bổ hạn mức tín dụng phụ thuộc vào quy mô hoạt động của từng ngân hàng và tỷ trọng khoản mục dư nợ tín dụng trên tổng tài sản có, được thông báo cho các ngân hàng hàng quý. - Lãi suất cho vay cầm cố: là lãi suất tái cấp vốn của NHTW áp dụng khi thực hiện cho vay cầm cố giấy tờ có giá đối với các ngân hàng trung gian tại thời điểm giải ngân khoản vay và duy trì trong suốt thời hạn cho vay. Lãi suất cho vay cầm cố được quy định và điều chỉnh phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, được công bố trong từng thời kỳ. Trường hợp khoản vay đến hạn mà ngân hàng chưa thanh toán, thì chuyển sang nợ quá hạn và phải áp dụng lãi suất quá hạn từ thời điểm chuyển khoản vay sang nợ quá hạn. - Mức cho vay và thời hạn cho vay: mức cho vay cầm cố phụ thuộc vào nhu cầu vay vốn, hạn mức cho vay cầm cố còn lại của NHTW. Nếu cộng cả lãi phải thanh toán thì tối đa không vượt quá tổng số tiền được thanh toán của giấy tờ có giá cầm cố khi đến hạn. - Thời hạn cho vay: tùy thuộc vào mục tiêu khoản vay nhưng tối đa không vượt quá thời hạn còn lại của giấy tờ có giá được chấp nhận cầm cố. - Thủ tục cho vay: Tổ chức tín dụng có nhu cầu vay, có đề nghị vay NHTW phải gửi các giấy tờ sau: +Đơn xin vay, bao gồm: tên, địa chỉ của tổ chức vay; số tiền vay; mục đích vay; cam kết về bảo đảm tiền vay, sử dụng tiền vay, trả nợ, trả lãi +Các tài liệu liên quan đến điều kiện vay vốn của tổ chức vay. +Bảng kê chứng từ kèm theo các chứng từ đề nghị cầm cố để vay vốn Trường hợp đến thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng vay tiền không trả được nợ thì NHTW có quyền phát mãi các chứng từ có giá để thu hồi nợ. 1.5 Cơ chế tác động 1.5.1 Tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng Khi NHTW tăng tổng hạn mức tái cấp vốn hoặc nới lỏng các điều kiện về giấy tờ có giá được sử dụng, điều đó có nghĩa là các ngân hàng có thể được vay tái cấp vốn ở NHTW nhiều hơn và dễ dàng hơn. Khả năng đi vay của ngân hàng trung gian tại NHTW tăng sẽ làm tăng khối lượng vốn khả dụng được bổ sung từ NHTW, tăng khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền cho hệ thống ngân hàng. Lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế tăng lên sẽ làm tăng khả năng đầu tư, làm gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Những tác động trên là ngược lại khi NHTW giảm hạn mức tái cấp vốn hay thắt chặt những điều kiện tái cấp vốn. Hơn nữa, khi NHTW giảm lãi suất tái cấp vốn, việc đi vay của ngân hàng trung gian tại NHTW dễ dàng hơn và với chi phí thấp. Điều này khuyến khích các ngân hàng mở rộng khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng, tăng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế. Việc tăng lãi suất tái cấp vốn sẽ có tác động theo chiều ngược lại. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 8
  6. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 1.5.2 Tác động đến lãi suất Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn sẽ làm tăng chi phí nguồn vốn của các ngân hàng trung gian, để đảm bảo lợi nhuận hoạt động buộc các ngân hàng trung gian phải tăng lãi suât cho vay lên. Sự tăng lên của lãi suất cho vay sẽ làm giảm nhu cầu vay vốn của các chủ thể trong nền kinh tế, kết quả là làm giảm khả năng mở rộng tiền qua hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, khi lãi suất tái cấp vốn tăng sẽ tác động đến khối lượng vốn khả dụng bổ sung từ NHTW. Khi lượng vốn khả dụng thay đổi nó sẽ làm quan hệ cung cầu vốn khả dụng trên thị trường liên ngân hàng biến động, sự biến động này sẽ tác động làm tăng lãi suất thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng thay đổi sẽ kéo theo làm lãi suất thị trường thay đổi. 1.5.3 Hiệu ứng thông báo Sự thay đổi lãi suất tái cấp vốn được coi là dấu hiệu của định hướng chính sách tiền tệ, vì thế nó có thể được sử dụng để thông báo cho biết ý định của NHTW về chính sách tiền tệ trong tương lai. Khi NHTW công bố tăng lãi suất chiết khấu, thị trường sẽ dự đoán về một chính sách tiền tệ thắt chặt trong tương lai, từ đó có những phản ứng phù hợp. 2. Thực trạng sử dụng công cụ tái cấp vốn trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay Điều 43 pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước quy định: “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tối thiểu về tiền gửi, tối đa về cho vay của các tổ chức tín dụng”. Ngân hàng Nhà nước nhận chiết khấu, tái chiết khấu các loại giấy tờ có giá mà các tổ chức tín dụng đã mua, vẫn còn thời hạn và đảm bảo khả năng thanh toán. Ngày 06 tháng 10 năm 1999, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 356/1999/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế về nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng. Theo quyết định này thì: - Ngân hàng Nhà nước chỉ chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn là các tín phiếu Kho bạc Nhà nước phát hành thông qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Việc bổ sung thêm các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác làm công cụ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu do Thông đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ. Các giấy tờ có giá ngắn hạn được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu là các tín phiếu Kho bạc Nhà nước phát hành thông qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng đồng Việt Nam và còn thời hạn thanh toán tối thiểu là 30 ngày. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 9
  7. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 - Lãi suất chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn được Ngân hàng Nhà nước xác định trên cơ sở tham khảo lãi suất phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và lãi suất trúng thầu Tín phiếu Kho bạc Nhà nước phiên gần nhất. - Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ chiết khấu với các ngân hàng theo phương thức trực tiếp (các ngân hàng đến giao dịch trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước) hoặc gián tiếp (mạng vi tính, fax). Ngày 26 tháng 08 năm 2002 Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 906/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại. Và đến ngày 12 tháng 08 năm 2003 Ngân hàng Nhà nước lại ban hành quy chế mới về nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu theo quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN. Theo quy chế mới này thì có một số điểm mới: - Kỳ hạn chiết khấu tối đa của các giấy tờ có giá theo hình thức chiết khấu có kỳ hạn được quy định rõ là 91 ngày, đối với quy chế ban hành năm 2002 thì không quy định điều này. - Và trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước chiết khấu toàn bộ thì thời hạn còn lại tối đa là 91 ngày trong khi theo quy chế năm 2002 thì quy định tối đa là 90 ngày. Ngày 29/04/2008 Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 12/2008/QĐ- NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế năm 2003. Theo quy chế này thì từ nay chiết khấu, tái chiết khấu gọi chung là chiết khấu. Và công thức xác định số tiền thanh toán khi thực hiện nghiệp vụ chiết khấu được sửa đổi như sau: Trường hợp chiết khấu toàn bộ thời gian còn lại của các giấy tờ có giá: Trong đó,S t : số tiền NHNN thanh toán khi chiết khấu các giấy tờ có giá Gt : giá trị giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán Tc : thời gian còn lại (tính theo ngày) của giấy tờ có giá (được tính từ ngày chiết khấu đến ngày đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá). Ls : lãi suất chiết khấu tại thời điểm Ngân hàng Nhà nước chiết khấu (tỉ lệ % theo năm). 365 : số ngày quy ước cho 1 năm. Cách tính giá trị giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán: Gt  Đối với giấy tờ có giá ngắn hạn, thanh toán gốc và lãi một lần khi đáo hạn: Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 10
  8. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 Trong đó,G t : giá trị giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán bao gồm gốc và lãi. Ls : lãi suất phát hành giấy tờ có giá (%/năm). MG: mệnh giá của giấy tờ có giá. n : kỳ hạn của giấy tờ có giá (tính theo tháng).  Đối với giấy tờ có giá dài hạn, thanh toán gốc và lãi một lần khi đáo hạn (lãi nhập gốc): Trong đó,G t : giá trị giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán bao gồm gốc và lãi. Ls: lãi suất phát hành giấy tờ có giá (%/năm). MG: mệnh giá của giấy tờ có giá. n : kỳ hạn của giấy tờ có giá (số năm).  Đối với giấy tờ có giá dài hạn, thanh toán gốc và lãi khi đáo hạn (lãi không nhập gốc): Trong đó,G t : giá trị giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán bao gồm gốc và lãi. Ls : lãi suất phát hành giấy tờ có giá (%/năm). MG: mệnh giá của giấy tờ có giá. n : kỳ hạn của giấy tờ có giá (số năm). Trường hợp chiết khấu có kỳ hạn: gồm 2 bước: Bước 1: Xác định St Trong đó,S t : số tiền NHNN thanh toán khi chiết khấu các giấy tờ có giá Gt : giá trị giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán Tc : thời gian còn lại (tính theo ngày) của giấy tờ có giá (được tính từ ngày chiết khấu đến ngày đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá). Ls : lãi suất chiết khấu tại thời điểm Ngân hàng Nhà nước chiết khấu (tỉ lệ % theo năm). 365 : số ngày quy ước cho 1 năm. Bước 2: Số tiền ngân hàng thương mại thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước khi hết thời hạn chiết khấu (chiều về): Gv : số tiền mà ngân hàng thương mại thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước khi hết thời hạn chiết khấu. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 11
  9. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 Tm : kỳ hạn chiết khấu (tính theo ngày của Ngân hàng Nhà nước). Những thay đổi về lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn: Ngày áp Lãi suất tái Lãi suất Văn bản quyết định dụng cấp vốn chiết khấu 837/QĐ-NHNN 10/04/2009 7.0% 5.0% 173/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 01/01/2009 8.0% 6.0% 3159/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008 9.5%/năm 7.5%/năm 2949/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008 11.0%/năm 9% 2810/QĐ-NHNN 21/11/2008 12.0% 10% 2561/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008 05/11/2008 13%/năm 11%/năm 2318/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008 14.0%/năm 12.0%/năm 1316/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 11/06/2008 15.0%/năm 13.0%/năm 1098/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 19/05/2008 13.0% 11% 306/QĐ-NHNN Ngày 30/01/2008 01/02/2008 7.5% 6.0% 1746/QĐ-NHNN ngày 1/12/2005 01/12/2005 6.5%/năm 4.5%/năm 316/QĐ-NHNN ngày 25/03/2005 01/04/2005 6.0%/năm 4.0%/năm 20/QĐ-NHNN ngày 07/01/2005 15/01/2005 5.5%/năm 3.5%/năm 833/QĐ-NHNN ngày 30/07/2003 5.0%/năm 01/08/2003 832/QĐ-NHNN ngày 30/07/2003 3.0%/năm 552/QĐ-NHNN ngày 30/05/2003 01/06/2003 6%/năm 545/QĐ-NHNN ngày 29/05/2003 01/06/2003 6.5%/năm 131/QĐ-NHNN ngày 17/02/2003 01/03/2003 6.6%/năm Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 12
  10. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 839/2001/QĐ-NHNN ngày 29/06/2001 4.8%/năm 01/07/2001 838/2001/QĐ-NHNN ngày 29/06/2001 4.2%/năm 243/2001/QĐ-NHNN ngày 29/03/2001 5.4%/năm 01/04/2001 242/2001/QĐ-NHNN ngày 29/03/2001 4.8%/năm 2.1 Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2003 Cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực Đông Nam Á xảy ra cuối năm 1997 đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam. Tổng sản phẩm trong nước những năm 1992-1997 thường đạt các mức tăng trưởng 8-9% đã đột ngột giảm xuống chỉ còn 5.8% vào năm 1998 và 4.8% vào năm 1999. Năm 2000, kinh tế Việt Nam đã lấy lại được đà tăng trưởng với tốc độ phát triển 6.79%, tuy nhiên giảm phát lại xuất hiện trong năm này (tỷ lệ lạm phát -0.6%) và kéo dài đến những tháng đầu năm 2001. Vì vậy, đến ngày 29/03/2001, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 243/2001/QĐ-NHNN, trong đó điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 0.45%/tháng (tức 5.4%/năm). Cũng theo quyết định số 242/2001/QĐ-NHNN được ban hành cùng ngày, lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 0.4%/tháng (tức 4.8%/năm). Cả hai văn bản đều được áp dụng ngày 01/04/2001. Quyết định này nằm trong mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện các giải pháp “kích cầu” nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng Đông Nam Á, khi những tác động bất lợi đối với nền kinh tế nước ta xuất hiện rất chậm, nhưng lại kéo dài. Đến ngày 29/06/2001, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ban hành quyết định số 839/2001/QĐ-NHNN, theo đó lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm xuống mức 0.4%/tháng ( tức 4.8%/năm), và theo quyết định số 838/2001/QĐ-NHNN được ban hành cùng ngày (hai văn bản được áp dụng vào ngày 01/07/2001), lãi suất chiết khấu cũng được điều chỉnh giảm xuống mức 0.35%/tháng (tức 4.2%/năm). Công cụ tái cấp vốn, cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác như thị trường mở, dự trữ bắt buộc đã được điều hành phối hợp tương đối đồng bộ, linh hoạt để đảm bảo sự ổn định của thị trường tiền tệ. Năm 2002, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước được giữ nguyên ở mức thấp, phù hợp với diễn biến thị trường và các mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, chính sách kích cầu đi liền và đòi hỏi ngân hàng tăng tín dụng đã đưa lạm phát đến mức báo động. Lạm phát năm 2002 là 3% và đang có xu hướng tăng lên. Do vậy, ngày 17/02/2003, Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 131/2003/QĐ-NHNN, theo đó, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng lên mức 0.55%/tháng (tương đương 6.6%/năm), và được áp dụng ngày 01/03/2003. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 13
  11. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 Đến ngày 29/05/2003, Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 545/2003/QĐ- NHNN, theo đó lãi suất tái cấp vốn giảm xuống mức 6.5%/năm, áp dụng ngày 1/6/2003. Tuy nhiên, chỉ sau 1 ngày khi có quyết định điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ mức 6.6%/năm xuống 6,5%/năm đã ngay lập tức có Quyết định số 552/2003/QĐ- NHNN ngày 30/05/2003 mới thay thế cho quyết định số 545 trên với lãi suất tái cấp vốn là 6%/năm, có hiệu lực ngày 1/6/2003. Mục đích của việc hạ lãi suất tái cấp vốn là nhằm khuyến khích các Ngân hàng thương mại vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước với chi phí thấp, từ đó làm giảm sức ép về nguồn vốn huy động từ thị trường và giảm lãi suất huy động đang quá nóng hiện nay (có những ngân hàng áp dụng mức huy động tới mức 8.54%/năm). Tuy nhiên, việc giảm lãi suất tái cấp vốn từ 6.5% xuống còn 6%/năm vẫn chưa có tác động mạnh đến thị trường. Thực trạng lãi suất huy động VND ở một số ngân hàng trong tháng 7/2003 đã lên mức cao nhất trong vòng mười năm qua. Hầu hết các ngân hàng thương mại đã và đang duy trì mức lãi suất huy động vốn bằng VND ở mức cao để cạnh tranh thu hút khách hàng. Một số ngân hàng vẫn tiếp tục tăng lãi suất huy động trong khi vốn khả dụng dư thừa. Điều này rất dễ dẫn tới nguy cơ “tín dụng nóng”, gây rối loạn cho hoạt động ngân hàng bất cứ lúc nào. Ngày 30/7/2003, Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 832/2003/QĐ- NHNN, trong đó lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng được tiếp tục được điều chỉnh giảm xuống còn 3%/năm, áp dụng ngày 1/8/2003, và quyết định số 833/2003/QĐ-NHNN, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh xuống còn 5%/năm, có hiệu lực ngày 1/8/2003. 2.2 Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2005 Từ tình hình thực tiễn của năm 2003 và căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của năm 2004, ngay từ đầu năm 2004 Ngân hàng Nhà nước đã xác định mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ vừa linh hoạt, vừa thận trọng, nâng cao vai trò điều tiết và kiểm soát tiền tệ, nhằm ổn định tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 7.5-8%, lạm phát dưới 5% theo chỉ tiêu Quốc hội đã phê duyệt. Những tháng đầu năm 2004, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng mạnh (tính chung 2 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 4.1%, gần với mức dự kiến cả năm), nguyên do từ nạn dịch cúm gia cầm đầu năm, tiếp theo là sự tăng giá xăng dầu nhập khẩu, kéo theo sự tăng giá dây chuyền của những mặt hàng nhập khẩu có nhập lượng là xăng dầu, giá một số mặt hàng nguyên liệu, lương thực trên thế giới: hàng nông khoáng sản xuất khẩu cũng tăng cao, khiến cho các nhà thu mua hàng xuất khẩu tăng giá thu mua, có tác động đẩy mức giá nông sản trong nước tăng cao. Trước tình hình này, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời phân tích, tìm ra nguyên nhân tăng giá chủ yếu là do tác động từ bên cung, việc tăng giá có những nguyên nhân phi tiền tệ nên không cần thay đổi nhiều chính sách lãi suất, dự trữ bắt buộc, tỷ giá mà chủ yếu cần các biện pháp phi tiền tệ để ổn định giá. Bên cạnh đó, mục tiêu tăng trưởng kinh tế Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 14
  12. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 năm 2004 đặt ra ở mức cao 7.5-8%, thị trường vốn vẫn chưa thực sự phát triển, tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc cung ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, từ tháng 3/2004, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời điều chỉnh mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thận trọng hơn nhằm ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất, góp phần kiểm soát lạm phát và thựce hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Để đạt được các mục tiêu đó, các công cụ chính sách tiền tệ đã được sử dụng một cách linh hoạt: giữ nguyên các mức lãi suất chủ đạo: lãi suất cơ bản 7.5%/năm, lãi suất tái cấp vốn 5%/năm, lãi suất chiết khấu 3%/năm. Bên cạnh đó, các công cụ: dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ giá cũng được phối hợp điều chỉnh nhằm thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Đến cuối năm 2004, lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng – CPI là 9.5%, vượt xa con số của Quốc hội đặt ra đầu năm là không quá 5.1%. Theo ý kiến của TS Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “tính dự báo của chúng ta còn chênh lệch với thực tế, không dự báo được lạm phát trên thực tế, thậm chí còn ở mức rất thấp”. Nguyên nhân của việc dự báo không chính xác được các chuyên gia tham dự buổi tọa đàm “Chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong quá trình đổi mới và cải cách kinh tế” (tổ chức ngày 23/12/2004 tại Hà Nội) cho rằng do khả năng nắm bắt trước các biến động của thị trường còn hạn chế, còn phụ thuộc nhiều vào các biến động đó, khả năng kiểm soát, điều hành thị trường của Ngân hàng Nhà nước còn hạn chế. Tuy nhiên, nguyên nhân khách quan và chủ yếu của lạm phát năm 2004 là Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến động của thị trường thế giới: giá dầu, giá nguyên liệu đầu vào của nhiều ngành tăng ngoài dự đoán trong khi nền kinh tế Việt Nam đang vận động theo hướng mở cửa, các mặt hàng thương mại biến động theo xu hướng quốc tế, sự tăng giá các mặt hàng trong nước là điều không tránh khỏi. Nhưng dù là do nguyên nhân bên trong hay chịu nhiều tác động từ bên ngoài vẫn còn nhiều hạn chế trong mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Ngày 07/01/2005, Ngân hàng Nhà nước ký ban hành quyết định số 20/QĐ-Ngân hàng Nhà nước, theo đó, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi cho các Ngân hàng thương mại vay sẽ được nâng thêm 0.5%, cụ thể: lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng lên 5.5%/năm và lãi suất chiết khấu là 3.5%/năm, thay cho mức 5% và 3% trước đó. Quy định này được áp dụng từ ngày 15/01/2005. Nguyên do của việc điều chỉnh theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là nhằm để các ngân hàng chủ động hơn trong việc tự huy động vốn từ dân cư, hạn chế sự trông chờ vào nguồn vốn vay nhà nước. Hơn nữa, thời điểm hiện tại đang là dịp cuối năm, nhu cầu tiêu dùng tăng, việc điều chỉnh lương mới được thực hiện và dịch cúm gà có nguy cơ quay trở lại là những yếu tố làm giá cả hàng hóa tăng lên, cộng vào đó là tỷ lệ lạm phát cao trong năm 2004 có khả năng kéo theo sự tăng giá liên tục nếu như Ngân hàng Nhà nước không có biện pháp can thiệp kịp thời. Do đó, động thái tăng lãi suất của Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 15
  13. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 Ngân hàng Nhà nước nhằm mục đích thu bớt lượng tiền mặt trong lưu thông, kiềm chế lạm phát. Tổng sản phẩm trong nước quí I/2005 tăng 7.2% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, so với tháng 12/2004, chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2005 tăng 3.7%, trong đó giá của tất cả các nhóm mặt hàng đều tăng, đặc biệt là nhóm lương thực, thực phẩm tăng 6.1%. Giá tiêu dùng tháng 3/2005 so với tháng 3/2004 tăng 8.4% và giá bình quân 12 tháng tại thời điểm tháng 3/2005 đã tăng đáng kể, gần 9%. Chỉ trong vòng quý I của năm 2005, lạm phát cũng đã tăng vọt trở lại ở mức 4.3%. Đây là điều đáng quan tâm trong thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Vì vậy, ngày 25/03/2005, Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 316/QĐ- NHNN, thực hiện việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu và được áp dụng vào ngày 01/04/2005. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 5.5%/năm lên 6%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 3.5%/năm lên 4%/năm. Đây là lần thứ hai kể từ đầu năm 2005, Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều chỉnh tăng hai mức lãi suất này. Việc tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu vẫn không nằm ngoài mục đích khuyến khích các Ngân hàng thương mại phải nỗ lực mạnh hơn trong việc huy động vốn từ dân cư, hạn chế sự lệ thuộc vào nguồn vốn vay của nhà nước, đồng thời thu về một lượng tiền mặt trên thị trường. Đặc biệt trong tình tình giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu đang tăng mạnh, do đó, việc tăng các loại lãi suất của Ngân hàng Nhà nước giúp làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm lạm phát. Tuy nhiên, động thái tăng lãi suất này của Ngân hàng Nhà nước vẫn còn thận trọng, thấp hơn so với mặt bằng lãi suất chung trên thị trường (hiện trên dưới 7%/năm) nên chưa đủ mạnh để tác động đáng kể đến thị trường. Đến tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng tăng 7.6% so với tháng 12 năm trước, tăng 8.5% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 11 tiếp tục tăng ở tất cả 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, mức tăng từ 0.1 đến 1.1%. Giá lương thực, thực phẩm tháng 11 đã tăng cao trở lại, tăng hơn mức giá tiêu dùng chung. Do đó, ngày 01/12/2005, Ngân hàng Nhà nước lại thực hiện điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn thêm 0.5%, lên mức 6.5%/năm, lãi suất chiết khấu tăng lên 4.5%/năm (theo quyết định 1746/QĐ-NHNN ngày 01/12/2005). Đây là lần thứ ba trong năm 2005, các loại lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước đều tăng lên. Việc tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu chứng tỏ Ngân hàng Nhà nước thực hiện định hướng thắt chặt tiền tệ, góp phần kiềm chế lạm phát. Phản ứng này có thể dễ dàng thấy được bởi các diễn biến kinh tế vĩ mô chủ yếu được coi là mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Đó là, hết tháng 11/2005, chỉ số giá tiêu dùng đã lên tới 7.6%/năm, dự báo cả năm sẽ lên tới 8%-8.2%/năm. Lạm phát tuy thấp hơn mức 9.5% (năm 2004), nguyên nhân không phải do lượng cung tiền, chủ yếu là do thiên tai, dịch bệnh, giá dầu thô và giá các loại nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới tăng, nhưng do tâm lý lo ngại lạm phát tăng cao và sức ép dư luận nên Ngân hàng Nhà nước không thể không tính đến khi điều hành chính sách tiền tệ. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã hạn chế cung ứng Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 16
  14. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 tiền cho các ngân hàng thương mại thông qua việc tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Kết quả việc tăng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước: để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, các Ngân hàng thương mại phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường nếu không muốn phải vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước với lãi suất cao. Trong thời điểm hiện tại đang có nhiều kênh cạnh tranh thu hút vốn như: trái phiếu đô thị xây dựng cầu Vĩnh Tuy (Hà Nội), đầu tư cổ phiếu do đó các Ngân hàng thương mại muốn huy động được vốn phải tăng lãi suất huy động, dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng (lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước tăng thì lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại cũng được điều chỉnh lên). Một số Ngân hàng thương mại cổ phần đã tăng lãi suất huy động vốn nội tệ lên tới 0.81%/tháng, tương đương 9.72%/năm. Lãi suất huy động và lãi suất cho vay tăng lên giúp thu bớt một lượng tiền trong lưu thông và hạn chế cung ứng tiền cho nền kinh tế. 2.3 Giai đoạn từ năm 2005 đến nay Năm 2005, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng lãi suất hai lần, sau một thời gian dài giữ nguyên. Việc tăng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn không nằm ngoài mục đích cảnh báo các ngân hàng chủ động hơn trong việc tự huy động vốn từ dân cư, hạn chế lệ thuộc vốn cho vay từ Chính phủ. Nhất là việc này sẽ khuyến khích các ngân hàng thương mại phải nỗ lực mạnh hơn để huy động thêm vốn,“gom” bớt tiền mặt trên thị trường. Lượng tiền mặt giảm trong lưu thông sẽ giúp Việt Nam giảm lạm phát trong tình hình giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu đang tăng mạnh. Tuy nhiên, động thái tăng lãi suất này của Ngân hàng Nhà nước còn thận trọng, chưa đủ mạnh để tác động đáng kể đến thị trường. Bởi lãi suất chiết khấu và tái cấp vốn dù đã tăng nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mặt bằng lãi suất chung nên thị trường Việt Nam (trên dưới 0.7%/năm). Và đến ngày 01/12/2005 Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định tỷ lệ lãi suất như sau: - Lãi suất tái cấp vốn là 6.5%/năm - Lãi suất chiết khấu là 4.5%/năm - Đồng thời lãi suất cơ bản đồng Việt Nam cũng tăng từ 7.8%/năm lên 8.25%/năm. Như vậy, tổng cộng trong năm 2005 Ngân hàng Nhà nước đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản và 3 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Việc tăng lãi suất lúc bấy giờ của Ngân hàng Nhà nước nhằm nhắc nhở các tổ chức tín dụng hãy cố gắng tập trung huy động vốn tư dân cư, hạn chế lệ thuộc vào vốn cho vay từ Chính phủ. Đồng thời việc tăng các mức lãi suất trên cũng là cách kích thích các ngân hàng thương mại nỗ lực hơn để gom bớt tiền mặt trên thị trường. Lượng tiền mặt giảm trong lưu thông sẽ giúp Việt nam giảm lạm phát trong tình hình giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu đang tăng mạnh. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 17
  15. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 Ngày 30/01/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 306/QĐ-NHNN, theo đó lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng lên mức 7.5%/năm và lãi suất tái chiết khấu là 6%/năm, thay cho mức 6.5%/năm và 4.5%/năm. Việc tăng lãi suất lần này nhằm thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa các mức lãi suất điều hành của cơ quan nhà nước với lãi suất thị trường, nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ trong năm 2008 theo yêu cầu của Chính phủ. Từ tháng 12/2005 đến thời điểm hiện tại, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu được duy trì ở mức 6.5%/năm và 4.5%/năm, vì theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất được duy trì không đổi do cung cầu vốn trên thị trường không có biến động lớn trong hai năm 2006-2007, và đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao (tăng trưởng trong 2 năm). Tuy nhiên, hiện lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu thấp hơn nhiều so với lãi suất liên ngân hàng (lãi suất cơ bản tiền đồng cũng thấp hơn lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng). Theo Ngân hàng Nhà nước, tình trạng này chưa phù hợp với yêu cầu điều tiết và kiểm soát tiền tệ một cách chặt chẽ. Cũng theo dự báo của Ngân hàng Nhà nước, tình hình cung cầu vốn trên thị trường đang diễn ra bình thường, giá cả đầu năm ít có khả năng tăng đột biến, tỷ giá giữa USD và VND đang có xu hướng giảm nhẹ, nên việc điều chỉnh lãi suất lần này sẽ không làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường. Tuy nhiên, dưới sự ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và lạm phát tăng cao trong 5 tháng đầu năm 2008 (19.09%) đã buộc Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Ngày 16/05/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 1098/QĐ-NHNN, thay đổi lãi suất tái cấp vốn từ 7.5%/năm lên 13%/năm, lãi suất chiết khấu thay đổi từ 6%/năm lên 11%/năm phù hợp với chủ trương chống lạm phát và đảm bảo điều tiết tiền tệ một cách có hiệu quả. Đến ngày 10/06/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 1316/QĐ- NHNN và Quyết định số 1317/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 về việc điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Theoo đó, kể từ ngày 11/06/2008, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành lãi suất cơ bản từ 12%/năm tăng lên 14%/năm lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi suất chiết khấu từ 11%/năm lên 13%/năm. Việc điều chỉnh lãi suất lần này theo thông báo cảu Ngân hàng Nhà nước là do mặt bằng lãi suất thị trường hiện nay tăng so với tháng 05/2008. Đồng thời, dự báo xu hướng biến động trong thời gian tới của lạm phát, cung – cầu vốn thị trường, tỷ giá , Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng lãi suất để tiếp tục thực thị chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Quyết định tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đã ngày càng phù hợp hơn so với lãi suất thị trường, chứng tỏ Ngân hàng Nhà nước đang quyết tâm thực hiện định hướng thắt chặt tiền tệ, góp phần kiềm chế lạm phát. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, chủ động hạn chế tấc động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cấu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững; chiều ngày 20/10/2008, Ngân Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 18
  16. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 hàng Nhà nước công bố quyết định hạ lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống 13%/năm theo quyết định 2316/QĐ-NHNN, có hiệu lực từ ngày 21/10. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh xuống mức 14%, (QĐ 2318/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008), lãi suất chiết khấu hạ còn 12%/năm đồng thời trong tháng 10/2008 các tổ chức tín dụng được rút hết, trước hạn tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc để bảo đảm an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, chú trọng các biện pháp ngăn ngừa rủi ro cso thể xảy ra do tác động của khủng hoảng tài chỉnh và dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu, chấp hành đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh. Đáp ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, trên cơ sở khả năng huy động vốn ở trong và ngoài nước, đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu và nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dự án đầu tư khả thi, có hiệu quả và khả năng trả nợ đúng hạn. Theo Ngân hàng Nhà nước, việc điều chỉnh giảm lãi suất lần này là dựa vào nhiều lí do. Thứ nhất, dự kiến chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 sẽ còn tăng thấp hơn tháng 9, lạm phát trong những tháng cuối năm sẽ thấp; thứ hai, các dự báo trong và ngoài nước đều cho thấy giá các mặt hàng chủ chốt trên thị trường thế giới sẽ giảm mạnh; thứ ba, lãi suất thị trường trong nước đang có xu hướng hạ xuống, vốn khả dụng trên thị trường dư thừa nhiều; thứ tư, việc giảm lãi suất nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng huy động vốn và thanh toán, hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả, giảm lãi suất cho vay, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển trong tình hình nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát. Nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng huy động vốn và thanh toán, hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả, giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh tiếp tục kiềm chế lạm phát, chủ động ngăn ngừa suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững; đồng thời đối phó với nguy cơ suy giảm kinh tế toàn cầu, các quốc gia trên thế giới đã đồng loạt thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã liên tục điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn từ 14%/năm xuống 13%/năm (ngày 03/11/2008), 12%/năm (ngày 21/11/2008) và giảm lãi suất chiết khấu từ 12%/năm xuống 11%/năm, 10%/năm. Đến ngày 05/12/2009, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XII về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 03/12/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã triển khai một số biện pháp về điều hành các công cụ chính sách tiền tệ; theo đó, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm 1%/năm đối với lãi suát cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố các Quyết định điều chỉnh giảm các mức lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các Ngân hàng thương mại (NHTM) đã điều chỉnh giảm Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 19
  17. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 lãi suất huy động và cho vay; thị trường phản ứng khá tích cực đối với các giải pháp điều hàh chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể là: các NHTM ban hành các quyết định lãi suất cho vay bằng VND áp dụng từ ngày 05/12/2008 với mức lãi suất cho vay thấp nhất là 0.83%/tháng (10%/năm) và mức lãi suất cho vay phổ biến là 1.25%/tháng (15%/năm). Mức lãi suất này tương đương với mức lãi suất cuối năm 2007 và thấp nhất trong năm 2008 (giảm 6-11%/năm so với thời điểm cao nhất cuối tháng 6/2008. Đến ngày 19/12/2008 Ngân hàng Nhà nước đã ra quyết định 3159/QĐ-NHNN giảm lãi suất tái cấp vốn xuống còn 9.5%/năm và 8%/năm vào ngày 23/01/2009 và lãi suất chiết khấu còn 7.5%/năm (ngày 19/12/2008) và 6%/năm (ngày 23/01/2009). Lần gần đây nhất Ngân hàng Nhà nước ra quyết định điều chỉnh lãi suất là quyết định 837/QĐ-NHNN ngày 10/04/2009 giảm lãi suất tái cấp vốn còn 7%/năm và lãi suất chiết khấu còn 5%/năm nhằm tiếp tục ngăn chặn tác động của cuộc khủng hoảng và đà suy giảm kinh tế, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển, đảm bảo an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững. Đồng thời, việc giảm lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hàng vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước rẻ hơn, hỗ trợ khả năng giảm thêm lãi suất cho vay cho doanh nghiệp. Từ đó, sẽ thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế. 2.4 Thành tựu và hạn chế Trong thời gian việc sử dụng công cụ tái cấp vốn trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ như sau: Thứ nhất, công cụ tái cấp vốn mà nòng cốt là việc xây dựng và điều hành khung lãi suất thời gian qua đã dần hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường theo hướng lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần thành lãi suất trần, lãi suất chiết khấu điều chỉnh thành lãi suất sàn. Cặp lãi suất tái cấp vốn được giữ khá ổn định và được điều chỉnh tương ứng với sự biến động của lãi suất thị trường trong từng thời kỳ. Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước trong đó việc quy định lãi suất chiết khấu đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các ngân hàng thương mại trong những năm vừa qua. Thông thường, vào các thời điểm cuối năm và gần Tết Nguyên đán thường xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn vốn thanh toán của các ngân hàng thương mại do nhu cầu rút tiền của khách hàng, có những ngày lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đặc biệt, sự thiếu hụt này thường mang tính hệ thống, do vậy, bất cứ một khâu nào gặp ách tắc sẽ kéo theo hàng loạt các sự cố tiếp theo. Do vậy, hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đã góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán, qua đó, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Đồng thời, hoạt động tái cấp vốn còn có vai trò trong việc hỗ trợ vốn ngắn hạn, các nhu cầu bất thường xảy ra nhằm hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 20
  18. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 Thứ ba, so với trước đây, thời gian xử lý đề nghị xin vay cầm cố đã được rút ngắn chỉ còn 2 ngày (trước đây thường là 3 đến 4 ngày). Thứ tư, chủng loại giấy tờ có giá chấp thuận sử dụng trong quan hệ tái chiết khấu với Ngân hàng Nhà nước ngày càng được mở rộng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong quan hệ tái chiết khấu với Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh những ưu điểm như trên, chính sách tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước còn có những hạn chế như sau: Thứ nhất, hiệu lực can thiệp của công cụ tái cấp vốn đến thị trường tiền tệ chưa cao. Lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phản ánh đúng cung – cầu vốn trên thị trường tiền tệ do lãi suất tái cấp vốn được quy định một cách cứng nhắc và tách xa với lãi suất thị trường, những thay đổi lãi suất tái cấp vốn chỉ nhằm làm cho nó phù hợp với lãi suất thị trường chứ không có tác động điều tiết. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có những thành công bước đầu trong việc thiết kế kiểm soát lãi suất thị trường theo mô hình khung lãi suất với lãi suất sàn là lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn là lãi suất trần nhưng Ngân hàng Nhà nước còn chưa chủ động trong điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường tiền tệ, do vậy, khung lãi suất chưa thực hiện được vai trò hướng dẫn sự biến động lãi suất thị trường. Thứ hai, mối liên hệ giữa công cụ này và tổng phương tiện thanh toán chưa rõ ràng. Hoạt động tái cấp vốn mới chỉ dừng lại ở mục đích bổ sung nguồn vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng, các chức năng nhằm điều chỉnh các điều kiện tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ, điều chỉnh quá trình phát triển kinh tế về quy mô và cơ cấu đầu tư dựa trên sự cấp vốn theo thời gian, theo lĩnh vực ngành kinh tế, theo từng vùng lãnh thổ chưa được phát huy. Thứ ba, quy trình thủ tục tái cấp vốn chưa đồng bộ và còn những hạn chế nhất định khiến cho nghiệp vụ tái cấp vốn chưa phát huy được hiệu quả: - Việc phân bổ hạn mức chiết khấu trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước với các ngân hàng mới chỉ dựa trên các yếu tố như tổng dư nợ bằng đồng Việt Nam, tổng tài sản có và vốn tự có của ngân hàng mà chưa tính tới khối lượng giấy tờ có giá mà các ngân hàng nắm giữ. - Thời gian hoàn thành một đề nghị cho vay cầm cố giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước còn dài. Đối với đề nghị vay vốn của các ngân hàng có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường không quá 2 ngày làm việc, nhưng đối với các ngân hàng không có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian này thường bị kéo dài ra, có khi lên tới 5 ngày làm việc. Đây là một trong những hạn chế cơ bản của công cụ này, làm giảm tính chất hỗ trợ khẩn cấp của công cụ tái cấp vốn trong bổ sung dự trữ của các ngân hàng. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 21
  19. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 - Sự quan tâm và hiểu biết của hệ thống ngân hàng về các nghiệp vụ tái cấp vốn không đồng đều và nhìn chung chưa cao. Các ngân hàng thường xuyên tiếp cận nguồn vốn này chỉ là 4 Ngân hàng thương mại Nhà nước có trụ sở tại Hà Nội. Các cán bộ nghiệp vụ của các Ngân hàng thương mại còn lúng túng, chưa nắm vững được nội dung cần thiết của bộ hồ sơ vay vốn, trình tự thực hiện nghiệp vụ. Tổng hạn mức chiết khấu đã phân bổ cho các ngân hàng chỉ đạt 60-80% tổng hạn mức được phép sử dụng trong quý. Điều này thể hiện sự thiếu quan tâm của các ngân hàng đối với hình thức tái cấp vốn này. 3. Một số đề xuất 3.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước 3.1.1 Nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước Cần nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước, bằng cách mạnh dạn giao quyền cho Ngân hàng Nhà nước nhiều hơn nhằm chủ động , kịp thời trong việc đưa ra chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình kinh tế, trong đó có sự điều chỉnh công cụ tái cấp vốn nhằm đối phó với tình hình đầy biến động của thị trường: - Nội dung thực thi công cụ tái cấp vốn phải tuân thủ nguyên lý có tính khoa học và phải tuân thủ những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường (quy luật cung cầu giá trị, quy luật giá trị ). Đồng thời thường xuyên tiếp thu có chọn lọc các thành quả trong việc sử dụng công cụ tái cấp vốn của hệ thống Ngân hàng Thế giới và áp dụng một cách có hiệu quả theo điều kiện của Việt Nam. - Cần theo dõi sát biến động của lãi suất trên thị trường cũng như động thái của kinh tế vĩ mô nhằm điều chỉnh các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu phù hợp với sự phát triển kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực hơn. - Khi đưa ra bất kỳ sự điều chỉnh nào cần phải tận dụng đúng thời cơ. Có như vậy mới tạo ra được những hiệu ứng tốt. - Bất kỳ sự điều chỉnh nào về chính sách của công cụ tái cấp vốn cũng phải tính đến sự ảnh hưởng và phối hợp giữa các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. 3.1.2 Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò “ người cho vay cuối cùng” Ngân hàng Nhà nước cần phải kiểm soát chặt chẽ khối lượng, chất lượng tín dụng qua hình thức chiết khấu, tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang suy thoái. Để đạt được mục tiêu này Ngân hàng Nhà nước cần xác định cụ thể đối tượng chiết khấu và công cụ chiết khấu. Đối tượng để Ngân hàng Nhà nước chiết khấu phải là các khoản vay ngắn hạn, có hiệu quả và có khả năng thanh toán. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 22
  20. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 - Phải là khoản vay ngắn hạn bởi các khoản nợ của ngân hàng thương mại cũng thường ngắn hạn. Việc hạn chế ở các khoản vay ngắn hạn sẽ đảm bảo các ngân hàng thương mại có khả năng thanh toán thích hợp ngay cả khi phải đối phó với tình huống đột biến yêu cầu tăng khả năng thanh toán. - Phải là khoản vay có hiệu quả, có khả năng tự thanh toán. Đó là khoản vay được người vay hoàn trả đúng hạn do việc sử dụng vốn vay có hiệu quả. Đó là các khoản cho vay phục vụ sản xuất lưu thông hàng hóa. Các khoản vay tiêu dùng không được coi là có khả năng tự thanh toán, sẽ không được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu. Cần đa dạng hóa các công cụ chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước, một trong số các công cụ đó là các thương phiếu. Thương phiếu là giấy nhận nợ giữa doanh nghiệp, thương phiếu phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu mở rộng công cụ để Ngân hàng Nhà nước chiết khấu theo căn bản khả năng tự thanh toán có thể kể đến trái phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu Ngân hàng Nhà nước. Đây là những giấy nhận nợ đảm bảo khả năng thanh toán vì được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm thanh toán. 3.1.3 Lãi suất chiết khấu và hiệu quả vai trò “người cho vay cuối cùng” của Ngân hàng Nhà nước Mục đích của việc ấn định và điều chỉnh lãi suất chiết khấu là để khuyến khích các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng mở rộng hay hạn chế khả năng vay Ngân hàng Nhà nước. Tại một số nước, lãi suất chiết khấu được Ngân hàng Nhà nước ấn định ở mức cao hơn mức lãi suất thị trường ngắn hạn vào mọi thời điểm và coi đó là “mức lãi suất phạt” để làm công cụ hạn chế khả năng vay quá mức của các ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Nhà nước. Trong điều kiện có lạm phát, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện hữu hiệu vai trò “người cho vay cuối cùng” thông qua cơ chế chiết khấu, tái cấp vốn. Lãi suất chiết khấu có tính chất “lãi suất phạt” để hạn chế khả năng tái chiết khấu của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng. 3.1.4 Lãi suất chiết khấu là lãi suất chủ đạo trong cơ chế lãi suất thị trường Có thể nói là trong cơ chế thị trường khi Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất chiết khấu sẽ làm tăng lãi suất của ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng và làm cho giá của các chứng khoán giảm. Thực tế Việt Nam thời gian qua lãi suất chiết khấu gần như chạy theo lãi suất ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng và lãi suất ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng hầu như chạy theo giá các chứng khoán như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Trong điều kiện hiện nay, Ngân hàng Nhà nước cần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn sao cho phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ. Trong những năm trước mắt, với điều kiện thị trường tiền tệ ở Việt Nam như hiện nay thì lãi suất tái cấp vốn được lựa chọn là lãi suất trần và lãi suất chiết khấu là lãi suất sàn trên thị trường. Cùng với khung lãi suất này, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được Ngân hàng Nhà Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 23
  21. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 nước sử dụng để định hướng lãi suất thị trường. Ngân hàng Nhà nước sẽ quy định và công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Những điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước cần phải linh hoạt hơn trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường. 3.1.5 Các đề xuất khác Một là, hiện nay theo chế độ hiện hành về nghiệp vụ chiết khấu thì trong trường hợp chiết khấu có kỳ hạn thời gian thanh toán còn lại của giấy tờ có giá tối đa là 91 ngày. Còn trong quy định và nghiệp vụ thị trường mở thì thời gian thanh toán còn lại của giấy tờ có giá tối đa là 90 ngày. Mà phương pháp tính toán giữa hai công cụ này là giống nhau thì vậy xin kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước nên thống nhất lại số ngày giữa hai công cụ. Hai là, mở rộng danh mục các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao dịch tái cấp vốn. Có thể tiến tới chấp nhận trái phiếu công ty của một số ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn hoặc giấy tờ có giá do các tổ chức tín dụng phát hành có chất lượng cao, do một tổ chức có uy tín xếp hạng, được chiết khấu trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước với các ngân hàng thương mại. Ba là, hoàn thiện quy trình thủ tục tái cấp vốn: - Thống nhất đầu mối phê duyệt đề nghị NHNN tái cấp vốn đối với các ngân hàng tại NHNN về một Vụ chức năng vì hiện nay, Vụ Tín dụng đang xem xét, phê duyệt đề nghị hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, trái phiếu đặc biệt và phân bổ hạn mức chiết khấu và Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước là đơn vị xem xét đề nghị chiết khấu của các ngân hàng. Việc xử lý các đề nghị chiết khấu nên tập trung về Vụ Tín dụng để đảm bảo tính thống nhất, tránh phân tán. - Khi điều kiện cơ sở hạ tầng cho phép, Ngân hàng Nhà nước nên tính tới việc thực hiện tái cấp vốn qua mạng thông tin nhằm giảm bớt thời gian luân chuyển chứng từ xét duyệt. Ngân hàng Nhà nước cần hiện đại hóa hệ thống thông tin, hệ thống vi tính và công nghệ, tổ chức đăng kí giao dịch và xử lý, giải quyết các yêu cầu của ngân hàng thương mại qua hệ thống mạng vi tính. Bốn là, tăng cường áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro đối với giấy tờ có giá sử dụng trong công cụ tái cấp vốn. Năm là, Ngân hàng Nhà nước cũng cần đẩy mạnh tuyên truyền về công cụ này đối với tất cả các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Sáu là, Ngân hàng Nhà nước nên bãi bỏ hạn mức tín dụng, thay vào đó cần căn cứ vào nhu cầu thực tế của ngân hàng thương mại và giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại để quyết định cho vay. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 24
  22. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 3.2 Đối với luật pháp Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh luật pháp, chính sách cho phù hợp nhằm chủ động đối phó với mọi tình huống xảy ra đối với kinh tế vĩ mô, và phù hợp với nền kinh tế thị trường. Việc xây dựng và hoàn thiện nội dung chính sách hay cơ chế vận hành công cụ phải tuân thủ và bám sát định hướng lớn, cơ bản của hệ thống ngân hàng và phù hợp với chính sách tiền tệ đưa ra. Cải thiện việc thực thi pháp luật nhằm phát huy hiệu quả điều hành của công cụ tái cấp vốn, góp phần làm nên thành công của chính sách tiền tệ. 3.3 Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước - Nâng cao vai trò quản lý và năng lực cho đội ngũ cán bộ. - Thống nhất lãnh đạo giữa cơ quan chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. - Nâng cao tinh thần tiết kiệm, công bằng và làm việc có hiệu quả đối với các cán bộ vì lợi ích của toàn xã hội. Xử lý nghiêm túc các trường hợp vi phạm. - Tạo ra hành lang qui phạm pháp lý cụ thể để các cán bộ quản lý các cấp có thể điều chỉnh các hành vi của mình. 4. Kết luận Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong hệ thống các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của Nhà nước. Chính sách tiền tệ rất nhạy cảm và ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó các công cụ điều hành chính sách tiền tệ là cốt lõi. Chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ để tác động nhằm làm cho nền kinh tế vận động theo mục tiêu đề ra. Việc sử dụng các công cụ một cách phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc điều hành chính sách tiền tệ. Khi nền kinh tế bị suy thoái thì Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng để kích thích sản xuất và tiêu dùng thông qua các công cụ: giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất, ngược lại khi nền kinh tế bị lạm phát cao hay tăng trưởng quá nóng thì Nhà nước dùng chính sách tiền tệ thắt chặt: tăng lãi suất, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, Từ đó, có thể thấy chính sách tiền tệ là một công cụ rất quan trọng trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ trong việc phản ánh thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua, nhóm đã chọn đề tài về thực trạng sử dụng công cụ tái cấp vốn trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay. Nhóm hy vọng, đề tài đã đề cập đến những thông tin về thực trạng sử dụng công cụ tái cấp vốn trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua một cách đầy đủ nhất. Đồng thời nhóm cũng Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 25
  23. GVHD: Thạc sĩ Lê Văn Hải ĐH23C2 xin đưa ra một số đề xuất và kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn công cụ tái cấp vốn, góp phần hoàn thiện công cụ chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, do khả năng hiểu biết còn hạn chế, không tránh khỏi được những sai sót. Rất mong quý thầy cô và các bạn có những đóng góp để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Đề tài: Tái cấp vốn – thực trạng và giải pháp 26