Luận văn Thanh khoản ngân hàng thương mại định lƣợng, giải pháp thực tiễn thị trường Việt Nam trong những năm gần đây

pdf 146 trang nguyendu 4230
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thanh khoản ngân hàng thương mại định lƣợng, giải pháp thực tiễn thị trường Việt Nam trong những năm gần đây", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_thanh_khoan_ngan_hang_thuong_mai_dinh_long_giai_pha.pdf

Nội dung text: Luận văn Thanh khoản ngân hàng thương mại định lƣợng, giải pháp thực tiễn thị trường Việt Nam trong những năm gần đây

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRỪƠNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM   CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƢỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN “NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2010” TÊN CÔNG TRÌNH: THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ĐỊNH LƢỢNG, GIẢI PHÁP THỰC TIỄN THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
  2. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Diễn giải Gốc Tiếng Anh (nếu có) ABCP Thương phiếu có tài sản đảm bảo. Asset-Backed Commercial Paper MBS Chứng khoán thế chấp bằng khoản vay Mortgage-backed Security thế chấp. RMBS Chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp Residential mortgage- nhà ở backed security CMBS Chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp Commercial mortgage- thương mại backed security NHTW Ngân hàng Trung Ương. N/A NHTM Ngân hàng thương mại N/A FNMA Hiệp hội thế chấp Liên bang. Federal National Mortgage Association FHA Cơ quan quản lý nhà liên bang Federal Housing Administraion FDIC Bảo hiểm tiền gửi Liên bang. The Federal Deposit Insurance Corporation LTCM Công ty quản lý quỹ LTCM Long – term Capital Management LP GSEs Nhóm các dịch vụ tài chính cho công The Government Sponsored ty tạo ra bởi chính phủ. Enterprises LLSS Tỉ lệ cho vay dài hạn trên tiết kiệm Long-term Loans over Short ngắn hạn term Savings CAR Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu. Capital Adequacy Ratio CMO Thế chấp nghĩa vụ Collateralized Mortgage Obligation N/A: không áp dụng từ Tiếng Anh
  3. DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH Bảng 3.1: Ngân hàng thương mại Nhà nước. 39 Bảng 3.2: Các Ngân hàng thương mại cổ phần. 39 Bảng 3.3: Các Ngân hàng thương mại liên doanh. 40 Bảng 3.4: Quy mô vốn điều lệ một số NHTM của các quốc gia trong khu vực. 49 Bảng3.5:Tỉ lệ LLSS thị trường ngân hàng Việt Nam trong những năm gần đây. 54 Bảng 3.6:Dự báo thay đổi tiền gửi trong hệ thống ngân hàng những năm tới. 57 Bảng 3.7:Dự báo tỉ lệ LLSS năm 2011. 58 Bảng 3.8: Dự báo cho vay dài hạn 2011 một số ngân hàng. 58 Bảng3.9: hệ số tương quan các biến trong mô hình dự báo thay đổi tiền gửi. 59 Hình 1: Chỉ số NASDAQ từ 1994 - 2008 81 Bảng 1: Kết quả hồi qui lợi nhuận theo tỉ lệ LLSS 94 Bảng 2: Kết quả hồi qui dự báo thay đổi tiền gửi: 95 Bảng 3: Chỉ tiêu dự báo thay đổi tiền gửi 96 Bảng 4: Tỉ lệ LLSS một số NHTM Việt Nam 2005 – 2010 96 Hình 2: Tỉ lệ vốn tự có và lợi nhuận tài sản quý 1/1984 – quý 1/2010 136 Hình 3: Tỉ lệ LLSS ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn 1987 - 2008 136 Hình 4: Tỉ lệ LLSS và cho vay ngắn hạn 1997 - 2009 137 Hình 5: Thay đổi % tiết kiệm và cho vay 1974 – 2009 137 Hình 6: Biến thiên tiết kiệm và cho vay 1985 - 2009 138 Hình 7: Dư nợ ABCP và biến thiên 1992 – 2008 138 Hình 8: MBS và dư nợ cho vay thế chấp 1999 – 2007 139 Hình 9:Phân phối thương phiếu tới hạn 07 – 08 139 Hình 10: Lãi suất vay thế chấp và lãi suất T-bonds 10 năm 1979 - 2008 140
  4. DANH MỤC PHỤ LỤC ABCP - Asset-Backed Commercial Paper 78 Bong bóng Dot – com. 79 FNMA 82 FDIC 85 GSE 87 LTCM 88 Sáng lập viên 89 MBS 90 THÔNG TƯ 13 97
  5. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH DANH MỤC PHỤ LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1 3 1.1 Khái niệm: 3 1.1.1 Tính thanh khoản trong ngân hàng: 3 1.1.2 Rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại: 4 1.2 Vai trò tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại: 6 1.3 Một số nguyên nhân làm giảm tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại: 7 1.3.1 Chạy theo lợi nhuận ngắn hạn: 7 1.3.2 Bùng nổ cho vay và sụt giá tài sản: 8 1.3.3 Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém: 8 1.3.4 Mất cân đối trong cơ cấu tài sản: 9 1.3.5 Một số nguyên nhân khác: 9 Chƣơng 2 11 2.1. Tiền mặt và tương đương tiền: 12 2.2. Quy tắc tài trợ vàng: 12 2.3. Vốn cổ phần với vai trò là khoản dự phòng: 13 2.4. Khe hở thanh khoản: 137 2.5. Tỷ lệ LLSS: 137 2.5.1. Mô hình: 18 2.5.1.1. Không có hoạt động thị trường liên ngân hàng và i: 19 2.5.1.2. Hoạt động thị trường liên ngân hàng vài: 22
  6. 2.5.1.3. Tấm đệm an toàn Minsky: 24 2.5.2. Khủng hoảng nợ 1990 đến 2008: 26 2.5.2.1. Tiến trình khủng hoảng nợ: 26 2.5.2.2. Một số lý thuyết giải thích rủi ro tín dụng: 26 2.5.2.3. Con đường dẫn tới một cuộc khủng hoảng: 29 Chƣơng 3 38 3.1 Giới thiệu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 38 3.3.1 Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam: 38 3.1.2 Chính sách về kiểm soát tính thanh khoản của ngân hàng trung ương: 42 3.2. Mô hình tính thanh khoản hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam: 52 3.2.1. Cơ sở xây dựng mô hình: 52 3.2.2. Hồi qui xây dựng mô hình: 54 3.2.3. Dự báo LLSS tối ưu của ngành: 56 3.2.4. Những tồn tại của mô hình: 59 Chƣơng 4 60 4.1. Giải pháp ngắn hạn: 60 4.2. Giải pháp dài hạn: 61 4.2.1. Giải pháp vĩ mô: 61 4.2.2. Giải pháp vi mô cho từng ngân hàng: 67 KẾT LUẬN 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 74 PHỤ LỤC 78
  7. ~ 1 ~ LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kinh tế thế giới đang từng bước phục hồi, bước ra khỏi cuộc khủng hoảng “dưới chuẩn” bùng phát từ tháng 8 năm 2007. Chúng ta đã rút ra được không ít những bài học từ cuộc khủng hoảng này, một trong số đó là việc rủi ro thanh khoản đã bị đánh giá thấp. Chúng ta đã tranh luận nhiều về rủi ro vỡ nợ, khả năng thanh toán và các Hiệp định Basel trong những năm qua mà giảm sự chú ý vào rủi ro thanh khoản. Giờ nhìn lại, rủi ro này cần được quan tâm hơn nữa. Rủi ro thanh khoản thật sự là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với lĩnh vực tài chính. Một trong những rủi ro thanh khoản đáng chú ý nhất là rủi ro của hệ thống ngân hàng. Với việc tham khảo các mô hình tính thanh khoản ngân hàng của các nhà kinh tế học trên thế giới, dùng những mô hình đó để xem xét, kiểm định cho tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam và kiến nghị những giải pháp cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian sắp đến. Với những mong muốn của bản thân trong việc tìm hiểu về rủi ro thanh khoản ngân hàng, vận dụng những mô hình trên thế giới vào việc kiểm định tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương hàng Việt Nam, điều đó đã thúc đẩy tôi quyết tâm nghiên cứu, tìm hiểu sâu và hoàn thành đề tài “Thanh khoản ngân hàng thương mại: Định lượng, giải pháp – Thực tiễn thị trường Việt Nam trong những năm gần đây”. 2. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những mô hình tính thanh khoản của các nhà kinh tế học trên thế giới, tìm hiểu và kiểm định tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, đề tài đã nêu lên một cái nhìn tổng quan về tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, tập trung nghiên cứu và làm rõ hơn những khó khăn trong việc quản lí tính thanh khoản của ngân hàng thương mại, cũng như đề ra những kiến nghị cho việc nâng cao tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng nước ta. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu
  8. ~ 2 ~ Để nêu bật lên được những vấn đề quan trọng của đề tài, ngoài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng những phương pháp như so sánh số liệu qua các năm (2005- 2010), phương pháp hồi quy bằng mô hình OLS trong excel để phân tích và rút ra được tình hình thanh khoản trong hệ thống NHTM và những dự đoán trong tương lai. 4. Nội dung nghiên cứu Nội dung đề tài được cơ cấu thành 4 chương: - Chương 1: Tổng quan tính thanh khoản của ngân hàng thương mại. - Chương 2: Mô hình tính thanh khoản ngân hàng. - Chương 3: Tính thanh khoản của ngân hàng thương mại Việt Nam. - Chương 4: Giải pháp nâng cao tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. 5. Đóng góp của đề tài Kết quả thu được từ đề tài là một sự tương quan chặt chẽ của khả năng thanh khoản và lợi nhuận của NHTM. Mô hình cũng đưa ra một số giải pháp để nâng cao khả năng thanh khoản của NHTM trong giai đoạn tới. 6. Hƣớng phát triền của đề tài Trong tương lai với nguồn số liệu và kiến thức phong phú và sâu hơn chúng tôi rất mong muốn hoàn thiện mô hình đo lường này với độ tin cậy cao. Và để từ đó có thể đưa ra những giải pháp cụ thể và hiệu quả hơn để tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó chúng tôi cũng mong muốn tìm hiểu sâu hơn vai trò của NHTW, chính sách lãi suất và các nhân tố kinh tế vĩ mô tác động đến khả năng thanh khoản của ngân hàng.
  9. ~ 3 ~ Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÍNH THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1 Khái niệm: 1.1.1 Tính thanh khoản trong ngân hàng: Trong ngân hàng thanh khoản bao gồm nhiều phương diện: Trong ngắn hạn: Thanh khoản là khả năng ngân hàng có thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán ngay thời điểm chúng phát sinh liên quan đến khả năng sinh lãi đảm bảo thanh khoản. Trong dài hạn: Thanh khoản là khả năng vay đủ vốn dài hạn với lãi suất hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc tăng tài sản (thanh khoản theo cấu trúc, hiện rất được các ngân hàng chú trọng). Theo những nghiên cứu những năm 90 về khả năng thương mại thì thanh khoản là khả năng trao đổi thường trực các sản phẩm trên thị trường vốn mà không làm giảm giá quá mức. (Khả năng thanh khoản tài sản). Thanh khoản thị trường là khả năng của thị trường trong việc tạo cơ sở cho hoạt động vay mượn tại các thị trường vốn và thị trường tiền tệ. (Chính sách ngân hàng trung ương). Vậy, thanh khoản là đại diện cho khả năng thực hiện tất cả các nghiệp vụ thanh toán khi đến hạn – đến mức tối đa và bằng đơn vị tiền tệ được quy định. Do thực hiện bằng tiền mặt nên thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền tệ. Việc không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khả năng hay mất tính thanh khoản. Do đó, thanh khoản không phải là một số tiền nào đó, cũng không phải là một tỷ lệ. Thay vào đó, nó thể hiện phạm vi khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán của một ngân hàng. Trái ngược với nó là “thiếu khả năng thanh khoản”, nghĩa là: ngân hàng thiếu khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Theo nghĩa này thì thanh khoản đại diện cho yếu tố định tính về sức mạnh tài chính của một ngân hàng. ( Duttweiler, 2008, trang 30).
  10. ~ 4 ~ 1.1.2 Rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại: Rủi ro thanh khoản là một loại rủi ro quan trọng bậc nhất đối với một tổ chức kinh tế, đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức tài chính. Trong thực tế có không ít trường hợp, một tổ chức kinh tế có tài sản nhiều, nợ rất ít nhưng hoàn toàn có thể phá sản do yếu tố rủi ro thanh khoản của tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Ở mức nhẹ hơn, rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh doanh của tổ chức đó trong một thời điểm cụ thể. Rủi ro thanh khoản là trường hợp không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán; việc không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đó sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn, thậm chí có thể khiến công ty gặp thất bại. Chúng ta có thể chia rủi ro thanh khoản làm bốn nhóm theo cấu trúc như sau: Rủi ro thanh khoản rút tiền trước hạn: Điều này liên quan đến cả tài sản và nợ. Việc rút tiền dựa trên cơ sở quyền chọn có thể được thực hiện. Những khoản tiền gửi có thể được rút mạnh tay vào ngày sớm nhất thay vì đợi đến hạn. Rủi ro thanh khoản có kỳ hạn: Điều kiện thanh toán theo đúng hợp đồng. Rủi ro thanh khoản tài trợ: Nếu một tài sản không được tài trợ hợp lý, việc tài trợ theo sau đó có thể phải được thực hiện trong những điều kiện bất lợi, nghĩa là với giá chênh lệch cao hơn. Trong trường hợp xấu, thậm chí quỹ tiền có thể bị rút mạnh tay như trường hợp trên. Rủi ro thanh khoản thị trường: Các điều kiện thị trường bất lợi có thể làm giảm khả năng chuyển các tài sản khả nhượng thành tiền mặt hoặc để tài trợ cần thiết. Hoặc theo nguồn gốc dẫn tới rủi ro thanh khoản ngân hàng, các nhà nghiên cứu thống nhất có thể chia rủi ro thanh khoản thành 3 nhóm: Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản nợ có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi người gửi tiền rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn, nhưng NHTM không sẵn có nguồn vốn để thanh toán, để chi trả. Với một lượng tiền gửi được yêu cầu rút ra lớn và đột ngột buộc NHTM phải đi vay bổ sung trên thị trường tiền tệ, phải huy động vốn đột xuất với chi phí vượt trội, hoặc bán bớt tài sản để chuyển hoá thành vốn khả dụng đáp ứng nhu cầu chi trả.
  11. ~ 5 ~ Để đáp ứng nhu cầu ngay lập tức NHTM có thể phải bán tài sản với giá thấp hơn thị trường hoặc vay trên thị trường với lãi suất cao để có lượng vốn khả dụng cần thiết. Rủi ro thanh khoản từ bên tài sản có, chủ yếu phát sinh liên quan đến việc thực hiện các cam kết tín dụng, cho vay. Có cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút tiền bất cứ lúc nào trong thời hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi một người vay yêu cầu NHTM thực hiện cam kết tín dụng thì NH phải đảm bảo đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không NH sẽ phải đối mặt với uy tín trên thương trường, thậm chí đối mặt với mất khả năng thanh toán. Tương tự, nguyên nhân rủi ro đến từ bên tài sản Nợ, khi đó NHTM sẽ phải huy động thêm nguồn vốn mới với chi phí cao hoặc bán tài sản với giá thấp. Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các công cụ tài chính phái sinh, rủi ro thanh khoản đến từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng tăng. Khi mà các nghĩa vụ thanh toán bất thường xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh toán các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi hay hợp đồng quyền chọn. Các hợp đồng đó đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản. Khi đó, NHTM có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu không có kế hoạch chuẩn bị nguồn thanh khoản kịp thời, không có những tài sản nhanh chóng hay dễ dàng chuyển thành tiền, những công cụ có thể giao dịch trên thị trường tiền tệ. Dấu hiệu ngân hàng đang phải đối mặt với rủi ro thanh khoản: Lãi suất huy động vốn của các ngân hàng đã có những diễn biến bất thường. Lãi suất huy động vốn các kỳ hạn ngắn lại cao hơn lãi suất huy động các kỳ hạn dài, các ngân hàng chỉ tập trung huy động vốn hạn ngắn. Xét về bản chất thì hiện tượng này phản ánh việc hệ thống ngân hàng đang thiếu thanh khoản, mục đích huy động vốn của các ngân hàng lúc này chủ yếu là nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản chứ không phải vì mục tiêu sinh lời. Lãi suất vay trên thị trường liên ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Ở Việt Nam có những thời điểm lãi suất vay qua đêm lên đến 30-40%/năm, nhưng cũng không có ngân hàng nào cho vay. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do các ngân hàng đều đang có vấn về thanh khoản, trong điều kiện tình hình huy động vốn từ dân cư và doanh nghiệp
  12. ~ 6 ~ không thuận lợi buộc họ phải chấp nhận vay với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng để giải quyết nhu cầu thanh khoản trước mắt. 1.2 Vai trò tính thanh khoản trong ngân hàng thƣơng mại: Cũng giống như tất cả các chỉ tiêu khác gây ảnh hưởng và hình thành nên trạng thái thanh khoản, thanh khoản không là yếu tố dẫn đầu mà chỉ là yếu tố đi theo. Như vậy chúng ta đặt ra câu hỏi: thanh khoản có vai trò quan trọng như thế nào trong khuôn khổ mở rộng các vấn đề và rủi ro. Những nghiên cứu kinh nghiệm cho thấy thanh khoản luôn dồi dào. Có những giai đoạn thanh khoản có phần thiếu thốn và do đó cái giá phải trả là khá đắt. Trong dài hạn, những biến động chênh lệch giá không hề lạ lẫm gì với những ngân hàng đã từng trải qua giai đoạn thanh khoản thiếu thốn trong nhiều phân khúc thị trường khác nhau. Ngân hàng có thể trả được khoản chi phí này và đó là vấn đề tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải vấn đề sống còn. Tuy nhiên, một đặc tính của thanh khoản là nó phải luôn có mặt vào mọi lúc, không phải trung bình và cũng không phải hầu như mọi lúc. Các khoản thanh toán phải được chi trả vào ngày đến hạn, hoặc nếu không thể trả được, ngân hàng sẽ bị xem như không có khả năng thanh khoản. Theo thống kê thì khả năng này xảy ra rất thấp. Nhưng nếu điều này xảy ra, ảnh hưởng của nó sẽ rất nghiêm trọng và có thể khai tử ngân hàng. Không có nhà quản lý nào dám nhận rủi ro như vậy, cũng không ai dám đùa giỡn với các khoản đầu tư của cổ đông. Mặc dù, ta không nên chỉ tập trung vào những trường hợp tiêu cực khi thiếu khả năng thanh khoản xảy ra. Nhưng đây là một trong những mối quan tâm chính của giám đốc tài chính (hay giám đốc thanh khoản), vì: Thứ nhất, trường hợp xấu nhất có thể xảy ra theo sau đó là không còn khả năng thanh khoản. Thật khó tưởng tượng một giám đốc tài chính có thể bỏ qua việc này. Thứ hai, nếu trường hợp này xảy ra thì việc kinh doanh sẽ gặp khó khăn, thu nhập giảm sút. Một lần nữa chắc chắn các nhà quản lý không thích điều này.
  13. ~ 7 ~ Và cuối cùng, những khó khăn thanh khoản vẫn thường xuyên xảy ra dù không quá nghiêm trọng để giết chết ngân hàng nhưng vẫn đủ nguy hiểm để cản trở công việc kinh doanh trong một thời gian, khiến doanh nghiệp phải thay đổi chiến lược kinh doanh, hoặc ít ra là thay đổi các yếu tố cấu thành của chiến lược đó. Những cá nhân và ban phụ trách đảm bảo trạng thái thanh khoản phù hợp trong ngân hàng sẽ tìm cách duy trì các loại rủi ro ở mức có thể chấp nhận được, cũng như dưới hình thức cân bằng. Nếu tính đến các mục tiêu này, bất kỳ chính sách thanh khoản nào cũng phải vừa cân nhắc việc đảm bảo nghĩa vụ thanh toán, vừa cho phép thực hiện một chiến lược kinh doanh có liên quan đến lợi nhuận tiếp sau đó. Có hai nguyên nhân giải thích tại sao thanh khoản lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ngân hàng. Thứ nhất, cần phải có thanh khoản để đáp ứng yêu cầu vay mới mà không cần phải thu hồi những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn. Thứ hai, cần có thanh khoản để đáp ứng tất cả các biến động hàng ngày hay theo mùa vụ về nhu cầu rút tiền một cách kịp thời và có trật tự. Do ngân hàng thường xuyên huy động tiền gửi ngắn hạn (với lãi suất thấp) và cho vay số tiền đó với thời hạn dài hạn (lãi suất cao hơn) nên ngân hàng về cơ bản luôn có nhu cầu thanh khoản rất lớn. Ngoài ra thanh khoản còn ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền Thanh khoản ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền và người cho vay. Thanh khoản kém, chứ không phải là chất lượng tài sản có kém, mới là nguyên nhân trực tiếp của hầu hết các trường hợp đổ vỡ ngân hàng. 1.3 Một số nguyên nhân làm giảm tính thanh khoản trong ngân hàng thƣơng mại: 1.3.1 Chạy theo lợi nhuận ngắn hạn: Những bài học nhẵn tiền ở nước Mỹ, châu Âu mới đây là những bài học không hề rẻ trong việc quản lý rủi ro, nhất là rủi ro thanh khoản. Lý do đơn giản giải thích cho khủng hoảng vừa qua trong hệ thống ngân hàng là lòng tham. Vì lợi nhuận trước mắt, các nhà quản lý thay vì đầu tư vào danh mục an toàn với lợi nhuận thấp như trái phiếu chính
  14. ~ 8 ~ phủ để có thể trở thành vật cầm cố tại ngân hàng nhà nước bù đắp tính thanh khoản khi cần thiết; lại lựa chọn những danh mục rủi ro cao với tỷ suất sinh lợi cao tương đương, như các hợp đồng cho vay thế chấp mua nhà tại thị trường Mỹ. 1.3.2 Bùng nổ cho vay và sụt giá tài sản: Theo một số trường phái kinh tế, khủng hoảng ngân hàng do việc cho vay với số lượng lớn và tài trợ vốn không hiệu quả trong giai đoạn mở rộng của chu kỳ kinh doanh; một cuộc khủng hoảng xảy ra khi “bong bóng” bị nổ. Ba đặc điểm sau của những cuộc khủng hoảng gần đây đã chứng minh cho quan điểm nói trên: cả bùng nổ cho vay của ngân hàng và giảm giá cổ phiếu thường diễn ra trước khủng hoảng ngân hàng; những nước mới nổi có dòng vốn đầu tư lớn là những nước mở rộng khu vực ngân hàng thương mại nhanh nhất; sự lạc quan quá mức về hiệu quả của cải cách chính trị tại những nước mới nổi. Quan điểm này dựa theo giả thiết rằng khó phân biệt những khoản tín dụng rủi ro thấp và những khoản tín dụng rủi ro cao khi nền kinh tế mở rộng quá nhanh bởi vì người đi vay thường có lợi nhuận và tính thanh khoản tạm thời rất cao; thay đổi đột ngột về giá tài sản cố định và cổ phiếu làm căng thẳng khủng hoảng, bởi vì tập trung cho các khoản vay quá nhiều; và giảm giá tài sản đẩy giá trị thị trường của tài sản thế chấp xuống. Tại Mỹ La Tinh cũng như một số nước công nghiệp phát triển như: Phần Lan, Nauy, Thụy Điển, Nhật Bản và Mỹ, khủng hoảng ngân hàng xảy ra sau bùng nổ cho vay. Bùng nổ cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính – ngân hàng năm 2008, và nghiêm trọng hơn đã lan rộng trên toàn cầu. Các ngân hàng đầu tư như Lehman Brothers tại Mỹ và các ngân hàng bán lẻ như Northern Rock tại Anh đã phải đóng cửa vào năm 2008. Tháng 2/2009, một vài ngân hàng chính của Anh như Lloyds TSB và Barcllys Bank, đã gần sụp đổ khi giá cổ phiếu giảm trầm trọng tại thị trường chứng khoán London. 1.3.3 Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém: Ngân hàng tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng cho một ngành, một địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ hoặc trong tổng
  15. ~ 9 ~ huy động có một khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút một cách bất ngờ thì dẫn đến rủi ro thanh khoản. 1.3.4 Mất cân đối trong cơ cấu tài sản: Điều này xuất phát hầu hết từ áp lực lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông lên ban điều hành mà quên mất những nguyên tắc trong quản trị tài sản nợ và tài sản có. Trong danh mục tài sản của mình, ngân hàng có phần đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, trong đó quan trọng nhất là trái phiếu chính phủ và/hoặc tín phiếu kho bạc. Trái phiếu chính phủ/tín phiếu kho bạc mặc dù lãi suất không hấp dẫn nhưng nó lại là một nguồn cực kỳ quan trọng cho ngân hàng để nhận chiết khấu từ ngân hàng nhà nước một khi thanh khoản có vấn đề. Điều này, bất cứ ngân hàng nào, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, đều hiểu nhưng với tiềm lực tài chính yếu thì khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng lớn hơn trong việc đấu thầu các loại tài sản trên. 1.3.5 Một số nguyên nhân khác: Ngoài những nguyên nhân nêu trên, chúng ta còn có thể tìm thấy những yếu tố khác, không kém phần quan trọng tác động ảnh hưởng đến tính thanh khoản ngân hàng thương mại, như: Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống. Quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi cho rằng, “do sự yếu kém từ quản trị tài sản nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu Ngân hàng Nhà nước cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của mình”.
  16. ~ 10 ~ Xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân khiến “các ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các ngân hàng”. Chu kỳ kinh doanh là một tác nhân quan trọng. Theo thời vụ ở những tháng cuối năm phát sinh nhu cầu nguồn tiền lớn để các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, quyết toán công nợ cho những doanh nghiệp khác, chi trả lương thưởng cho cán bộ nhân viên, thực hiện cam kết giải ngân cho các đối tác, giải quyết hàng tồn kho, nhập khẩu hàng hóa tạo nên một chu kỳ căng thẳng nguồn vốn vào những tháng cuối năm. Năm nay, lại đặc biệt hơn khi mà ngân hàng hạn chế cho vay vào thời điểm này nên có thể có một nguyên nhân tâm lý khác, đó là việc găm giữ tiền mặt cũng như chậm thanh toán các khoản nợ đến hoặc sắp đến hạn, chấp nhận trễ hạn để tận dụng nguồn vốn vay. Điều này làm cho dòng tiền quay trở lại ngân hàng không cao mặc dù lãi suất tiếp tục tăng nóng. Rủi ro từ tính lỏng của tài sản không ổn định. Một tổ chức tài chính (ngân hàng) có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ chức này đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay một sự kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó. Tổ chức này cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu thị trường hoạt động của tổ chức này có nguy cơ mất khả năng thanh khoản. Rủi ro thanh khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân hàng này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng. Và còn nhiều những nguyên nhân khác, tùy thuộc vào từng đặc điểm của từng thời kỳ và ở mỗi quốc gia, mỗi ngân hàng khác nhau.
  17. ~ 11 ~ Chƣơng 2 THƢỚC ĐO TÍNH THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Thước đo tính thanh khoản đã được tập trung chú ý trong một thời gian dài bởi nhiều nhà nghiên cứu. Friedman và Schwartz nghiên cứu cuộc chạy đua rút tiền ở các ngân hàng và miêu tả vai trò ngân hàng thương mại trong việc chuyển đổi tài sản tiết kiệm thanh khoản thành tài sản kém thanh khoản. Patinkin, Tobin và Niehans nghiên cứu thêm một số đặc điểm thanh khoản của tài sản và tiết kiệm. Trước đó, mô hình rủi ro thanh khoản lấy biến động giá như là cơ sở của rủi ro và vốn cổ phần là giải pháp duy nhất để chuẩn bị cho những mất mát và tiếp đó là một cuộc chạy đua rút tiền gửi. Tuy nhiên, giá biến động ngẫu nhiên và khá năng động nên ít tương quan với mô hình. Ví dụ, theo Basel II, LTCM vẫn còn đầy đủ vốn cổ phần vào cuối quý II năm 1998. Nhưng nó đã mất hơn 2.3 tỉ đô la trong 3 tuần đầu tháng 9. Không khả thi để LTCM tăng vốn chủ sở hữu trong một thời gian ngắn để chuẩn bị cho một cú sốc, cái hiếm khi mới xảy ra (Jorion). Vấn đề này một lần nữa được đưa ra trong cuộc khủng hoảng dưới chuẩn vừa qua. Chúng ta có thể đánh giá mức độ thanh khoản dựa trên khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của mình. Những yếu tố cần xem xét bao gồm mức độ biến động của tiền gửi, mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn nhạy cảm với rủi ro, khả năng sẵn có của những tài sản có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền mặt, khả năng tiếp cận đến thị trường tiền tệ, mức độ hiệu quả nói chung của chiến lược, chính sách quản lý tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng, tuân thủ với các chính sách thanh khoản nội bộ ngân hàng, nội dung, quy mô và khả năng sử dụng dự kiến của các cam kết cấp tín dụng. Tuy nhiên, rất khó có thể xây dựng một thước đo duy nhất để định lượng hay bao quát được tất cả các yếu tố về thanh khoản, mức độ đủ vốn, chất lượng tài sản có và lợi nhuận, do có nhiều khác biệt về quy mô, hoạt động giữa các ngân hàng khác nhau, cũng như do ảnh hưởng của điều kiện thị trường khu vực, quốc gia và quốc tế. Không có một tỷ
  18. ~ 12 ~ lệ nào thực sự bao hàm được các khía cạnh khác nhau của yếu tố thanh khoản đối với tất cả các ngân hàng với quy mô và loại hình khác nhau. 2.1. Tiền mặt và tương đương tiền: Vì mục đích bảo toàn nghĩa vụ thanh toán, phần này chủ yếu tập trung vào các điều kiện ngắn hạn. Để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong tương lai gần đòi hỏi tiền mặt phải có sẵn hoặc có sớm. Chính vì thế, phạm vi thời gian ngắn hạn lại được chia nhỏ ra, xét đến các lượng tiền mặt. Các chỉ số thanh khoản liên quan đến tiền mặt: Thanh khoản cấp độ 1 = Tiền mặt / Nợ ngắn hạn Thanh khoản cấp độ 2 = Tiền mặt và trái quyền ngắn hạn / Nợ ngắn hạn Chúng ta không kỳ vọng thanh khoản cấp độ 1 sẽ đạt được một chỉ số mà trong đó tiền mặt có thể thỏa mãn 100% nợ ngắn hạn. Chỉ số này dao động trong khoảng từ 20% trở lên. Thanh khoản cấp độ 2: Khi mà trái quyền ngắn hạn được cộng vào với tiền mặt, được kỳ vọng sẽ thỏa mãn ít nhất 100% nợ ngắn hạn. Cả hai chỉ số này đều liên quan đến công tác quản lý tiền mặt và được sử dụng cho mục đích này. Chúng đưa ra dấu hiệu hiệu quả cho khả năng thanh toán nợ hiện hành và trong tương lai gần. Tuy nhiên, giá trị của chúng đối với trạng thái cân bằng tài chính đang bị bỏ quên: trong tổng tài sản và nợ, chúng chỉ thỏa mãn được một phần. Tuy nhiên, thế cân bằng tài chính chứa đựng một góc độ nào đó của toàn bảng cân đối kế toán. 2.2. Quy tắc tài trợ vàng: Để thỏa mãn nhu cầu cân bằng tài chính, người ta phải nhìn vào các yếu tố chính của một bảng cân đối kế toán; đó là, tham khảo lại công thức phần trình bày trên. Ý nghĩa đằng sau nó là phân biệt thanh khoản ngắn hạn từ những lập luận thanh khoản dài hạn; hoặc nói theo cách khác, phân biệt giữa một mặt là thanh khoản liên quan đến thanh toán hoặc thanh khoản theo tình huống, mặt khác là thanh khoản theo cấu trúc. Các chỉ số phản ánh mặt này là: Thanh khoản cấp độ 3: Tài sản dài hạn / Nợ ngắn hạn 1 Quy tắc BS vàng: Tài sản cố định / (Vốn + Nợ dài hạn) 1
  19. ~ 13 ~ Công thức trên, được gọi là công thức cân đối kế toán vàng, đại diện cho một dạng cụ thể của quy tắc vàng trong tài trợ, hay còn được biết đến dưới tên gọi quy tắc vàng trong nghiệp vụ ngân hàng. Công thức này cho rằng tài sản phải được tài trợ một cách phù hợp. Nếu nó được tài trợ dài hạn, phần quỹ đi kèm với những tài sản đó cũng sẽ có thời gian đáo hạn dài. Những tài sản cố định không có khả năng chuyển thành tiền mặt trong thời gian ngắn hạn. Chính vì thế, việc tài trợ những tài sản này trong thời gian ngắn hạn sẽ gặp phải rủi ro là không thể hoàn trả khoản vay vào thời điểm đáo hạn do việc tài trợ đó không thể được kéo dài hay không thể thay thế được. Từ quan điểm chiến thuật, những quy tắc này đều hợp lý và rõ ràng, Những tài sản được tài trợ ngắn hạn sẽ sớm ra khỏi bảng cân đối kế toán và tạo ra tiền mặt cần thiết kịp thời để chi trả cho các khoản nợ đi kèm. Những tài sản còn lại có thể được tài trợ từ các nguồn vốn hay thông qua việc vay mượn dài hạn từ các ngân hàng hay thị trường vốn. Thời gian đáo hạn cho những tài sản và nợ này xảy ra đồng thời. 2.3. Vốn cổ phần với vai trò là khoản dự phòng: Có nhiều cách để xem xét vốn đầu tư. Nhìn chung, chúng ta đã sử dụng chúng một cách tương đối thoải mái và thay thế bằng các thuật ngữ như: vốn cổ phần hoặc vốn chủ sở hữu. Ngay khi thảo luận về vốn đầu tư với chức năng chống chọi rủi ro, chúng ta cần phải hiểu rõ về những gì mà mình muốn nói đến. Những gì mà chúng ta đang tìm kiếm là một lượng tiền chính xác, chứ không phải một thuật ngữ chung chung. Vốn đầu tư có thể được xem xét theo ba cách khác nhau:
  20. ~ 14 ~ Năng lực chống chọi rủi ro Mức độ nghiêm trọng Rủi ro tiềm ẩn Lượng tiền vượt mức lợi nhuận tối 1. Mức thông thường 1 2 3 thiểu Các khoản dự trữ chưa được tiết lộ 2. Mức tối thiểu Lơi nhuận tối thiểu Các khoản dự phòng dành cho Rủi ro ngân hàng nói chung Các khoản dự phòng theo công bố (theo quy định và tự do) Vốn tự có 3. Mức tối thiểu Nợ dưới chuẩn (Phỏng theo Schierenbeck, 2003b, trang 51f) Cơ sở để chống chọi với rủi ro chính là vốn pháp định. Nó bao gồm tất cả các nguồn tiền chịu trách nhiệm trong trường hợp rủi ro do giảm giá biến thành những khoản thua lỗ thật sự - thứ sau đó phải được bù đắp bằng các khoản dự phòng. Do đó, vốn pháp định cũng là cơ sở cho khả năng thanh toán. Ta có thể nói thuật ngữ “năng lực chống chọi rủi ro” được dựa trên kiến thức chung áp dụng cho những người điều chỉnh cũng như cho công tác xếp hạng và đánh giá nội bộ của ngân hàng. Các quy định về vốn pháp định đòi hỏi phải luôn duy trì mức vốn đầu tư để hỗ trợ cho rủi ro tiềm ẩn, mức độ thua lỗ tối thiểu bù đắp cho khoản dự phòng được thiết lập ở mức 4% cho Bậc 1 và mức 8% cho Bậc 1 và 2 kết hợp. Nếu chúng ta giả định một khoản thua lỗ tiềm ẩn là 1000 đơn vị tiền tệ, mức tối thiểu cần là 40 và 80 đơn vị tiền tệ theo thứ tự tương ứng. Kéo theo đó là Bậc 1 chất lượng cao có thể bù cho Bậc 2. Tuy nhiên, không có trường hợp ngược lại. Bậc 3 liên quan đến hoạt động mua bán. Allen N.Berger và Christa H.S.Bouwman đã kiểm tra tác động của cuộc khủng hoảng và tỉ lệ cạnh tranh vốn của các ngân hàng và lợi nhuận của bản thân ngân hàng trong và sau cuộc khủng hoảng. Bằng chứng cho thấy lượng vốn lớn giúp các ngân hàng tồn tại trong cuộc khủng hoảng. Tỉ lệ vốn cao dường như đã giúp những ngân hàng nhỏ
  21. ~ 15 ~ cải thiện thanh khoản của cổ phiếu ngân hàng trong cuộc khủng hoảng, các thị trường liên quan trong cuộc khủng hoảng. Nghiên cứu tác động của cuộc khủng hoảng trước tỷ lệ vốn cổ phần trong cạnh tranh và lợi nhuận ngân hàng tư nhân xung quanh cuộc khủng hoảng. Từ những tác động của vốn ngân hàng đến khả năng tạo thanh khoản ( Diamond và Rajan 2000,2001, Berger và Bouwman ), những ngân hàng với tỉ lệ vốn cổ phần khác nhau hành động khác nhau trong cuộc khủng hoảng trong giới hạn khả năng thanh khoản của họ. Đặc biệt, chúng ta có thể hỏi: phải chăng những ngân hàng có vốn cổ phần cao có thể tăng thị phần trên thị trường trong giới hạn khả năng tạo thanh khoản do sự sụt giảm của các ngân hàng có tỉ lệ vốn thấp trong cuộc khủng hoảng, và khuyến khích chuyển giao thị phần để thu lợi nhuận cao hơn? Nếu thế, những ngân hàng có tỉ lệ vốn cổ phần cao có thể nâng cao vị thế cạnh tranh với các đối thủ trong cuộc khủng hoảng? Những vụ mua lại gần đây của Countrywide, Bear Stearns, và Washington Mutual cung cấp những trường hợp nghiên cứu thú vị trong vấn đề này. Tất cả ba công ty trên đều có tỉ lệ vốn thấp và cần được giải cứu từ các ngân hàng với vị thế vốn lớn. Ngân hàng liên bang Hoa Kỳ và J.P Morgan Chase có tỉ lệ vốn đủ cao để sáp nhập ( thâu tóm) một phần nhỏ các đối thủ để mang lại lợi nhuận lớn tiềm năng. Kinh nghiệm hiện tại của IndyMac Bank cung cấp một ví dụ thú vị khác. FDIC đã nắm giữ IndyMac Bank sau khi nó bị thiệt hại đáng kể và người gửi tiền bắt đầu chạy đua rút tiền khỏi ngân hàng. FDIC dự định bán ngân hàng, tốt nhất là bán như một khối nhưng nếu không thể, ngân hàng sẽ bán từng phần. Trong cách sáp nhập thì người sáp nhập phải có nguồn vốn mạnh hơn. Nguồn quỹ khoản 700 tỉ đô là cần để giải cứu cho ngân hàng. Ví dụ: ngân hàng PNC đang sử dụng gói cứu trợ để thâu tóm ngân hàng National City. Một cuộc khủng hoảng là một sự kiện tự nhiên để kiểm định tác động của nguồn vốn đến vị thế cạnh tranh của các ngân hàng. Trong khoảng thời gian bình thường ( không có khủng hoảng), vốn có nhiều tác động đến ngân hàng, một số trong đó chống lại những cái khác, làm cho nó trở nên khó khăn để nghiên cứu. Ví dụ: vốn sẽ giúp các ngân hàng đối phó hiệu quả hơn với các loại rủi ro, nhưng nó còn làm giảm giá trị bảo hiểm tiền gửi
  22. ~ 16 ~ đặt trong những quyền chọn (Merton 1977). Trong một cuộc khủng hoảng những rủi ro tăng cao và khả năng hấp thụ rủi ro của vốn trở nên đặc biệt quan trọng. Các ngân hàng có tỉ lệ vốn cao có tấm đệm tốt hơn để chống lại những cú sốc của cuộc khủng hoảng, do đó tiềm năng có thể đạt một lợi thế tiềm năng. 2.4. Khe hở thanh khoản: Deep và Schaefer (2004) xây dựng một thước đo thanh khoản và áp dụng nó vào dữ liệu trên 200 ngân hàng lớn nhất Hoa Kỳ từ năm 1997 đến năm 2001. Tác giả xác định khe hở thanh khoản để đánh giá thanh khoản ngân hàng. Với khe hở thanh khoản được xác định: ả ả ả ắ ạ ả ư ộ ở ả ổ ả Tác giả xem xét tất cả các khoản cho vay có kỳ hạn từ một năm hoặc ít hơn được là thanh khoản, và họ một họ đã loại trừ các cam kết cho vay và các khoản mục khác ngoài bảng cân đối kế toán ( các khoản mục ngoại bảng) vì bản chất của chúng. Họ thấy rằng các khe hở thanh khoản là khoảng 20% tổng tài sản cho mẫu gồm của các ngân hàng lớn. Các tác giả kết luận rằng các ngân hàng không sẵn sàng để tạo ra nhiều thanh khoản. Khe hở thanh khoản là một bước tiến trực quan, nhưng chúng ta không thể tin rằng nó là đủ toàn diện để có thể đánh giá thanh khoản ngân hàng và giúp ngân hàng đề phòng và tránh né rủi ro hoàn toàn. 2.5. Tỷ lệ LLSS (Tỉ lệ cho vay dài hạn trên tiết kiệm ngắn hạn): Phần trình bày này giới thiệu tỉ lệ LLSS như một thước đo mới khả năng thanh khoản ngân hàng. Thước đo này thể hiện khả năng của ngân hàng để đáp ứng những khoản vay dài hạn bằng tiền gửi tiết kiệm ngằn hạn. Khả năng này được xác định bởi sự phân phối tài sản thanh khoản và kém thanh khoản trong ngân hàng. Phần trình bày còn sử dụng ABCP và MBS đại diện cho hoạt động thị trường liên ngân hàng, đây được xem như là nguồn tài trợ bên ngoài để ngân hàng đối phó với những cú sốc thanh khoản. Sau đây, chúng ta đi sâu tìm hiểu tỉ lệ LLSS, tính toán tỉ lệ LLSS tối ưu theo điều kiện thị trường và sử dụng thước đo này để đánh giá khả năng thanh khoản ngân hàng.
  23. ~ 17 ~ Giới thiệu tỉ lệ LLSS: Tỉ lệ LLSS , thước đo tính thanh khoản, đo lường khả năng ngân hàng duy trì chức năng cốt lõi của mình – vay ngắn hạn và cho vay dài hạn. Khi thực hiện chức năng vay mượn ngắn hạn và cho vay dài hạn, ngân hàng phải nắm giữ tài sản của mình đến ngày đáo hạn mới có thể thu được toàn bộ giá trị. Do đó, việc bán tài sản để đáp ứng nhu cầu rút tiền sẽ dẫn đến thiệt hại lớn cho các ngân hàng (Tobin[12]). Khả năng phát hành các khoản vay dài hạn của ngân hàng là hữu hạn bởi giới hạn của nguồn vốn hiện tại và sự bất ổn của lượng tiền gửi trong tương lai, và ngân hàng buộc phải nắm giữ một lượng tài sản ngắn hạn, như tiền mặt và tín phiếu kho bạc. Do đó, tỉ lệ LLSS của ngân hàng < 1. Càng ít các khoản vay dài hạn được phát hành, càng làm giảm tỉ lệ LLSS, càng an toàn hơn cho ngân hàng. Tỉ lệ LLSS còn xác định được lợi nhuận ngân hàng. Các ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận từ hai nguồn: Thứ nhất, ngân hàng đi vay giá rẻ và cho vay giá cao. Trong hai thập kỷ trước, chênh lệch lãi suất huy động tiền gửi và cho vay của ngân hàng phổ biến từ 30 đến 200 điểm phần trăm. Thứ hai, ngân hàng kiếm lời từ việc huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn. Chênh lệch thời gian càng dài thì chênh lệch lãi suất càng lớn. Chênh lệch lãi suất nghiệp vụ thứ hai cao hơn trong nghiệp vụ thứ nhất. Ví dụ, trong 30 năm, bình quân lãi suất thế chấp tài sản cố định cao hơn LIBRA tối thiểu 400 điểm. Lợi nhuận ngân hàng bằng chênh lệch lãi suất cùng kỳ hạn cộng thêm  lần chênh lệch lãi suất khác kỳ hạn. Tỉ lệ LLSS càng cao thì lợi nhuận ngân hàng càng cao. Tỉ lệ LLSS đo lường sự thỏa hiệp giữa lợi nhuận và rủi ro thanh khoản mong đợi. Trong trường hợp tối đa, ngân hàng chọn tỉ lệ LLSS  =1. Họ đầu tư tất cả tiền gửi tiết kiệm vào các khoản vay dài hạn và hoàn toàn không đầu tư vào tài sản thanh khoản. Nếu thuận lợi, ngân hàng có thể thu được lợi nhuận cao từ khoản cho vay dài hạn. Tuy nhiên, sự kiện rút tiền không được mong đợi có thể gây ra hoãn loạn và sau đó là một cuộc chạy đua rút tiền. Trong trường hợp ngược lại, ngân hàng chọn tỉ lệ LLSS  = 0 và đầu tư toàn bộ tiền gửi tiết kiệm để cho vay ngắn hạn. Ngân hàng luôn đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền, nhưng chi phí cho sự an toàn là lợi nhuận thấp.
  24. ~ 18 ~ 2.5.1. Mô hình: Trước khi đưa ra và giải thích mô hình, để mô hình đơn giản chúng ta cần làm rõ hai vấn đề. Thứ nhất, hoạt động ngân hàng được chia làm hai nhóm: dịch vụ với khách hàng phi tài chính và hoạt động thị trường liên ngân hàng như vay và cho vay thị trường qua đêm, bán và mua ABCP và MBS Vấn đề thứ hai, cú sốc thanh khoản được chia làm hai nhóm: cú sốc hệ thống và những cú sốc đơn lẻ. Cú sốc hệ thống là việc rút riền ròng ra khỏi hệ thồng ngân hàng. Cú sốc đơn lẻ là sự chuyển giao tiền gửi giữa các ngân hàng. Hãy tưởng tưởng, một người gửi tiền có tài khoản ở 2 ngân hàng. Dòng tiền vào của anh ta không chắc chắn và sở thích của anh ta vào các ngân hàng là ngẫu nhiên. Sự không chắc chắn của dòng tiền vào là một rủi ro hệ thống, vì nó làm thay đổi tiền gửi ròng của toàn ngành ngân hàng. Sự không chắc chắn trong sở thích của anh ta là một rủi ro đơn lẻ. Khi người gủi tiền chuyển tiền gủi của mình từ một ngân hàng sang một ngân hàng được ưa thích hơn, cú sốc tiền gửi chỉ có tác động đến 2 ngân hàng không có ảnh hưởng đến toàn ngành. Mô hình hai khoảng thời gian đạt được như một thỏa hiệp và dự báo tỉ lệ LLSS tối * ưu của ngân hàng  . Ngân hàng i với vốn chủ sở hữu mi, nhận tiết kiệm ngắn hạn si,0 và si,1 vào thời điểm 0 và 1, khi đó si,1 là biến thiên ngẫu nhiên vào thời điểm 0. Vốn vào ngắn hạn ci,t từ khu vực phi tài chính {si,t}, hoặc từ nguồn vốn bên ngoài do hoạt động thị trường liên ngân hàng. Dòng vốn vào ngắn hạn phải trả lại vào kỳ tiếp theo. Ngân hàng i l s đầu tư vốn ngắn hạn của nó ci,0 vào khoản vay dài hạn q i , hoặc cho vay ngắn hạn q i,0 vào thời điểm 0. Khoản cho vay dài hạn được hoàn trả lại vào cuối kỳ kế tiếp. Ngân hàng s kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất đi vay và cho vay từ đầu tư ngắn hạn q i,t ; và cả sự khác biệt chênh lệch lãi suất vay và đi vay với chênh lệch kỳ khoản  từ đầu tư dài hạn l q i. Giả sử và  là hằng số xác định. Giả định này gần đúng với thực tế. Vay thế chấp nhà với lãi suất điều chỉnh (ARM) là một dạng hợp đồng vay thế chấp nhà, về phía ngân hàng thu được lợi nhuận cố định là ( +). Chúng ta giả định và  là hằng số là vì “việc xác định lãi suất không phải là vấn đề chính trong thị trường thứ cấp”(Fooote[5]). Chúng ta còn giả định rằng lợi nhuận ngay lập tức được chia cho cổ đông.
  25. ~ 19 ~ Khi đó, tỉ lệ LLSS được định nghĩa như sự cân bằng giữa hai quyết định đầu tư ( cho vay dài hạn và ngắn hạn) trên tổng tiền gửi i= . Tỉ lệ LLSS biến thiên xác định giữa lợi nhuận và rủi ro thanh khoản. - Lợi nhuận ngân hàng là  .Trong đó i là hàm lợi nhuận theo i. - Khả năng xảy ra một cuộc chạy đua rút tiền vào thời điểm 1 là l P(ci,1<q i)=P(ci,1<i.(ci,0+mi)). Đây cũng là một hàm theo biến i. Để đơn giản hóa mô hình, giả định rằng thiệt hại do một cuộc chạy đua rút tiền là vô hạn, và lượng tiền gửi trong tương lai không chắc chắn ci,1 thấp hơn biên ci. Sự phân bổ tài sản tối ưu của ngân hàng đạt được là do tối ưu hàm sau:  { } Điều kiện: l s Ở đây, d i và d i,t (t = 0,1) lần lượt là cầu khoản vay dài hạn và ngắn hạn từ bộ phận phi tài chính. Khi tác động của một cuộc chạy đua rút tiền là vô hạn và cú sốc tiền gửi là * hữu hạn bởi si, thì giải pháp tối ưu cho vấn đề i là phải đạt được ngưỡng tỉ lệ LLSS an toàn ̅ . Khi tổng các khoản vay dài hạn vượt quá ̅ .(ci,0+mi), một cuộc chạy đua rút tiền là gần như chắc chắn. 2.5.1.1. Không có hoạt động thị trường liên ngân hàng và i: Phần này thảo luận về sự lựa chọn tỷ lệ LLSS của ngân hàng trong một thị trường giản đơn, nơi ngân hàng chỉ phục vụ những khách hàng phi tài chính mà không có hoạt
  26. ~ 20 ~ động của thị trường liên ngân hàng. M & A là một cách để các ngân hàng tránh né những cú sốc tiền gửi, và tạo lợi thế do quy mô để ngân hàng đạt lợi nhuận cao. Khi ngân hàng chỉ phục vụ những khách hàng từ bộ phận phi tài chính, thì dòng vốn vào ngắn hạn của ngân hàng ci,t bằng tiền gửi tiết kiệm si,t từ cư dân, tổ chức phi tài chính và chính phủ. Do đó, khả năng cho vay dài hạn của ngân hàng được quyết định bởi sự biến thiên ngẫu nhiên của si,1. Để có thể tồn tại qua những cú sốc tồi tệ nhất, tức * si,1=si, thì ngân hàng phải đạt  theo định lý sau: Định lý 1: không có hoạt động thị trường liên ngân hàng, để có thể tồn tại qua những cú sốc tiền gửi, giải pháp tối ưu cho các ngân hàng giải quyết vấn đề tối đa hóa lợi nhuận là *= và các khoản cho vay ngắn, dài hạn lần lượt là: l l q i = min{si+mi , d i} s l s q i,t = min {si,t+mi – q i , d i,t } Minh họa: ngân hàng A có vốn chủ sở hữu là mA = 100 triệu USD lượng tiền gửi hiện tại là sA,0 = $1 tỉ, tiền gửi kỳ kế tiếp sA,1 có thể là $800 triệu hoặc $1.2 tỉ. Như vậy, tổng tiết kiệm thời điểm 1 không nhỏ hơn $900 triệu. Ngân hàng A có thể phát hành $900 triệu nợ dài hạn mà không phải lo sợ một cuộc chạy đua rút tiền. Trong trường hợp cú sốc tiền gửi xảy ra, ngân hàng có thể chi trả $200 triệu cho người gửi bằng cách thu hồi $200 triệu nợ ngắn hạn. Nếu ngân hàng phát hành nhiều hơn $900 triệu nợ dài hạn, ví dụ như $1 tỉ, như vậy ngân hàng chỉ có $100 triệu nợ ngắn hạn để thu hồi trả cho $200 triệu tiền gửi bị rút ra, như vậy ngân hàng A phải đối mặt với một cuộc chạy đua rút tiền. Một khía cạnh khác, i cho thấy tối đa ảnh hưởng của thanh khoản đến ngân hàng. i càng thấp, tài sản thanh khoản càng nhiều, ngân hàng càng an toàn để vượt qua những cú sốc thanh khoản. Theo quan điểm về rủi ro thanh khoản,  đo lường khả năng thanh khoản của tài sản ngân hàng, cái không thể đo lường bằng tác động của đòn bẩy. Ý tưởng này có thể được áp dụng cho các tổ chức tài chính khác. Ví dụ: những cú sốc thanh khoản với những quỹ đầu tư dài, ngắn hạn được đo lường bằng khoản chiết khấu vào giá. Trong 2 thập kỉ trước, lãi suất chiết khấu bình quân của trái phiếu hạng AAA phổ biến từ 4% đến 8%. Bảng 1 cho thấy sự thay đổi của lãi suất chiết khấu lên khả năng tài chính của các quỹ.
  27. ~ 21 ~ Giả sử lãi suất chiết khấu hiện tại là 4%, và một quỹ đầu tư với vốn chủ sở hữu $1 tỉ, có thể vay mượn $24 tỉ bằng bán khống. Miễn là quỹ này giữ tỉ lệ LLSS  <60%. Ví dụ, quỹ đầu tư $9.33 tỉ vào tín phiếu kho bạc và phần còn lại vào cổ phiếu những công ty nhỏ. Quỹ đầu tư có thể điều chỉnh vị thế tín phiếu kho bạc theo lãi suất chiết khấu, và giữ lượng cổ phiếu như mong muốn. Quỹ đầu tư an toàn với đòn bẩy từ 25 đến 15.67 miễn nó giữ  thấp hợp lý. Nếu không việc bán tháo cổ phiếu, là tài sản kém thanh khoản, có thể làm mất khả năng kiểm soát quỹ. Ngay cả việc lựa chọn đòn bẩy thấp, như 17, thì sự mất mát từ việc bàn tháo cổ phiếu cũng không thể tránh khỏi nếu quỹ đầu tư tất cả tiền mà quỹ vay mượn được vào cổ phiếu kém thanh khoản. Trong 1998, LTCM đã phá sản vì tác động của lãi suất chiết khấu, khi tài sản của chúng nhìn chung là khá kém thanh khoản. Định lý 1 chỉ ra rằng khả năng phát hành nợ dài hạn của ngân hàng phụ thuộc vào {ci}. M & A là một cách hiệu quả để làm giảm những cú sốc tiền gửi. Hãy tưởng tượng có 2 ngân hàng A và B, cung cấp cùng một nhóm các dịch vụ. Kênh đầu tư mà người dân lựa chọn là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Nếu A và B hoạt động riêng biệt, thì lượng tiền gửi của họ trong tương lai phụ thuộc vào sở thích của cư dân. Giả sử A và B có vốn chủ sử hữu là mA=mB=$100 triệu và tiền gửi ban đầu là sA,0=sB,0=$1 tỉ. Sự chuyển giao tiền gửi một cách ngẫu nhiên giữa 2 ngân hàng là $100 triệu. Để chuẩn bị cho việc rút tiền $100 triệu, cả 2 ngân hàng đều xây dựng tỉ lệ LLSS *=90.9% (=1/1.1). Cung tín dụng tổng cộng là $2.2 tỉ nhưng tổng khoản cho vay là $2 tỉ. Nếu A và B sáp nhập thành ngân hàng C, C có vốn chủ sở hữu là $200 triệu, lượng tiền gửi ban đầu là $2 tỉ, tỉ lệ LLSS *  C=1 (không còn cú sốc tiền gửi đơn lẻ nữa). Tổng giá trị các khoản cho vay lúc này là $2.2 tỉ. Ngành ngân hàng trong trường hợp này an toàn, không có rủi ro thanh khoản. Như vậy, M & A làm giảm những cú sốc tiền gửi đơn lẻ và làm tăng ngưỡng an toàn của tỉ lệ LLSS *. Ngành ngân hàng có thể cho vay dài hạn nhiều hơn mà không làm tăng rủi ro thanh khoản nhờ M & A. Trước 1990, thị trường vẫn chưa hoàn thiện, vì vậy tất cả các ngân hàng tập trung vào khách hàng từ khu vực phi tài chính. Chúng ta sử dụng chỉ tiêu tổng khoản vay thế chấp nhà trên tổng tiết kiệm làm đại diện cho tỉ lệ LLSS. Hình 2 cho thấy trước 1990, tỉ lệ
  28. ~ 22 ~ này ở các ngân hàng nhỏ trong vòng 15%, trong khi đó các ngân hàng lớn trong khoản 35% đến 40%. Khi phục vụ khách hàng từ khu vực phi tài chính, các ngân hàng tư nhân phải nắm giữ thêm nhiều tiền mặt và tài sản thanh khoản để quản lý những cú sốc tiền gửi, là việc rút tiền hoặc chuyển giao tiền gửi giữa các ngân hàng. Tổng tiền mặt và tài sản thanh khoản của ngành ngân hàng trong giai đoạn này nhiều hơn cần thiết để đáp ứng rút tiền thuần. Do đó, ngành an toàn, nhưng không hiệu quả vì tổng khoản vay dài hạn thấp hơn tiềm năng. 2.5.1.2. Hoạt động thị trường liên ngân hàng vài: Phần này thảo luận làm thế nào hoạt động thị trường liên ngân hàng có thể chia sẻ và loại bỏ những cú sốc tiền gửi. Kết quả còn dự báo hạn mức thị trường liên ngân hàng. Những ngân hàng tư nhân xem thị trường liên ngân hàng như nguồn lực bên ngoài để vượt qua những cú sốc tiền gửi và làm giảm tài sản thanh khoản của mình. Ngân hàng trong trường hợp này không phải gia tăng rủi ro, vì hoạt động của thị trường liên ngân hàng làm tăng tỉ lệ LLSS ̅ . Chúng ta sử dụng ABCP và MBS để đại diện cho hoạt động của thị trường liên ngân hàng. Đến năm 2007, MBS chiếm 76% công cụ tín dụng ở Mỹ có giá trị hơn $10,000 tỉ (Randall Wray [33]), ABCP toàn cầu đạt $12,100 tỉ trong đó 32% được phát hành ở Mỹ. (Viral và Philipp [14]). Định lý sau đây cho thấy ABCP và MBS cung cấp một nền tảng để các ngân hàng chia sẻ và loại bỏ những cú sốc tiền gửi đơn lẻ, và tăng ̅ . Định lý 2: ngân hàng i đối mặt với cú sốc tiền gửi đơn lẻ i và một phần i của cú sốc hệ thống . Với ABCP và MBS, giải pháp tối ưu cho vấn đề tối đa hóa lợi nhuận là * *  i =  l l q i = min{si,0 + i + mi , d i} s l s q i,t = min{si,t + mi - q i,t , d i,t} ∑( ) Trong đó, * = là ngưỡng an toàn LLSS của ngành. ∑( )
  29. ~ 23 ~ Một ví dụ tương tự như phần 2.1.1 là một minh họa hữu ích cho định lý 2. Có 2 ngân hàng A và B với vốn chủ sở hữu $100 triệu và tiền gửi ban đầu là sA=sB= $1 tỉ vào thời điểm 0. Cú sốc chuyển giao tiền gửi giữa 2 ngân hàng ngẫu nhiên là $200 triệu. Khi những cú sốc hệ thống bằng không, thì *=1, và tổng tiền gửi là $2 tỉ. Nếu không có ABCP, tiền gửi ngân hàng A vào thời điểm 1 sA,1 hoặc là $1200 triệu hoặc là $800 triệu. Ngưỡng an toàn tỷ lệ LLSS của ngân hàng là 81.1% (= ). Ngành ngân hàng giữ $400 triệu tài sản thanh khoản để tránh xa khỏi những cuộc chạy đua rút tiền. Tổng các khoản vay của dân chúng là $1.8 tỉ, tổng cung vốn là $2.2 tỉ cũng không chắc chắn. Khi có tài trợ bên ngoài, ABCP cải thiện ngưỡng tỉ lệ LLSS an toàn của A và B từ 81.8% lên . Vốn vào ngắn hạn của ngân hàng vào thời điểm 1 là cA,1=sA,1+aA,1 , trong đó aA,1 là giao dịch ABCP và được ngân hàng kiểm soát. Khi sA,1 = $800 triệu, A bán 200 triệu ABCP để đáp ứng nhu cầu rút tiền 200 triệu; khi sA,1=$1.2 tỉ, A có thể mua 200 triệu ABCP từ B. Do đó, A và B loại bỏ những cú sốc tiền gửi đơn lẻ, và dòng vốn vào vào thời điểm 1 là một số xác định cA,1=cB,1=$1 tỉ. Khi cA,1=$1 tỉ, = . Tương tự =1. MBS tạo ra tính thanh khoản giữa hai ngân hàng để cho ra một kết quả tương tự. Nếu không có MBS, rất tốn kém để các ngân hàng thu hồi các khoản cho vay dài hạn nếu chưa đến hạn. Với hoạt động của thị trường liên ngân hàng, tổng khoản cho vay vào thời điểm 0 tăng lên đến $2.2 tỉ. Ngân hàng A và B không còn đối mặt với những cú sốc tiền gửi đơn lẻ nữa, và ngưỡng an toàn tỉ lệ LLSS tăng lên đến mức tiềm năng của ngân hàng. Ngân hàng A và B tăng cho vay dài hạn mà không gây thêm rủi ro thanh khoản. Định lý 2 cũng cho thấy rằng thị trường ABCP và MBS là có giới hạn. Lưu ý: l l  và q i=min{si,0+ i+mi,d i}. Những ngân hàng tư nhân nắm giữ tiền mặt và tài sản thanh khoản để chuẩn bị đương đầu với những cú sốc hệ thống, và ngưỡng an toàn tỉ lệ LLSS của từng ngân hàng  không thể vượt quá ngưỡng an toàn của ngành . Khi ngân hàng tin tưởng sai lầm rằng thị trường ABCP và MBS vô hạn, thì họ có thể phát hành quá mức các khoản vay dài hạn vào thời điểm đó. Trong trường hợp xấu xảy ra, ngân hàng
  30. ~ 24 ~ không có đủ tiền mặt và tài sản thanh khoản để vượt quá cú sốc hệ thống. Sau khi sử dụng hết tài sản thanh khoản, ngân hàng bắt đầu thanh lý những tài sản ít thanh khoản để đáp ứng việc rút tiền không được mong đợi này. Sau đó cầu ABCP và MBS vượt qua cung từ các ngân hàng khác, ảnh hưởng của việc thanh lý các khoản vay dài hạn lên nền kinh tế không thể tránh khỏi. Và việc bán tháo tài sản vào thời điểm xấu này làm mất niềm tin của nhà đầu tư, điều này có thể càng làm nguy hiểm hơn cho ngành tài chính và nền kinh tế thực. 2.5.1.3. Tấm đệm an toàn Minsky: Phần này nghiên cứu tấm đệm an toàn tỉ lệ LLSS của ngành ̅ và việc phân bổ tài sản trong ngành . ̅ được quyết định bởi những cú sốc tiền gửi hệ thống, và quyết định tối thiểu hóa tài sản thanh khoản ngân hàng để đối phó với những cú sốc tiền gửi;  được xác định bằng phân bổ tài sản hiện tại của ngân hàng. Khoảng cách giữa ̅ và  cho biết liệu ngành ngân hàng đầu tư có đủ linh động để ứng phó với những cú sốc thanh khoản. ̅ và  còn quyết định sự thỏa hiệp giữa an toàn thanh khoản và hiệu quả hoạt động. Khi  ̅ ngành có lợi nhuận cao nhưng không thể tồn tại qua một cú sốc. Sự cải tiến tài chính đóng vai trò quan trọng trong sự thay đổi , trong khi đó ̅ tương đối ổn định. Nếu không có hoạt động thị trường liên ngân hàng, những ngân hàng tư nhân cung cấp dịch vụ cho khách hàng từ bộ phận phi tài chính. Mức lợi nhuận của ngành ngân hàng trong trường hợp này an toàn cao. Trong trường hợp này ngân hàng tư nhân phải nắm giữ đủ tài sản thanh khoản để đối phó với cả hai cú sốc hệ thống và đơn lẻ. Ngân hàng lựa chon tỷ lệ LLSS thấp: ̅ ,và nợ dài hạn là si,0+ i+ i+mi . Trong đó, i và  lần lượt là cú sốc đơn lẻ và hệ thống. Khi i và  độc lập, các khoản cho vay dài hạn của ∑ ngành là S++M+∑ , và tỉ lệ LLSS ngành là  = . Toàn ngành ngân phải gia tăng tài sản thanh khoản |∑ |để chuẩn bị cho cú sốc thanh khoản đơn lẻ,  thấp hơn ngưỡng an toàn tỉ lệ LLSS của ngành .
  31. ~ 25 ~ Khi thị trường liên ngân hàng hoàn thiện, các ngân hàng chia sẻ và loại bỏ cú sốc đơn lẻ thông qua ABCP và MBS. An toàn trong lợi nhuận của ngân hàng bằng 0. Trong trường hợp này, giao dịch ABCP và MBS thực sự xóa cú sốc đơn lẻ, ai+bi+ i=0. Tỉ lệ LLSS của ngân hàng và khoản cho vay dài hạn của họ là . Do đó, khoản cho vay dài hạn của ngành ngân hàng là S+ +M. Và tỉ lệ LLSS ngành = , bằng với ngưỡng an toàn LLSS . Toàn ngành giữ đủ tài sản thanh khoản để ứng phó với cú sốc hệ thống và đứng vững trong trường hợp một cuộc chạy đua rút tiền tồi tệ nhất diễn ra. Với sự lạm dụng hoạt động của thị trường liên ngân hàng, ngân hàng giả định sai rằng thị trường liên ngân hàng vô tận. Ngân hàng mong đợi vào ABCP và MBS để vượt qua cả cú sốc hệ thống và đơn lẻ trong tương lai, và phát hành một lượng lớn các khoản vay dài hạn. Khoản cho vay dài hạn của ngành cao hơn S+ +M, và tỉ lệ LLSS của ngành cao hơn . An toàn trong lợi nhuận của ngành âm. Toàn ngành không giữ đủ tài sản thanh khoản để đói phó với những cú sốc hệ thống, và cuộc chạy đua rút tiền là không thể tránh khỏi. Phần tóm tắt sau đây thể hiện tác động của thay đổi của an toàn lợi nhuận: Không có ABCP ABCP hoàn thiện Lạm dụng ABCP ai+bi=0 ai+bi= - i ai+bi=- ( i+ i) i   ̅  ̅  ̅ An toàn lợi nhuận Cao 0 Âm Lợi nhuận Thấp Cao Rất cao
  32. ~ 26 ~ 2.5.2. Khủng hoảng nợ 1990 đến 2008: 2.5.2.1. Tiến trình khủng hoảng nợ: Cuộc khủng hoảng dưới chuẩn được kích hoạt bằng mất mát $500 tỉ cho vay thế chấp nhà. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng có thể nhìn lại từ hoạt động của Bill Clinton năm 1997 là miễn thuế từ kinh doanh bất động sản. Những năm sau đó ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ luôn giữ lãi suất ở mức thấp. Trong khi đó nợ của Mỹ ngày càng lớn với các nước châu Á và các nước dầu mỏ. Dễ dãi trong việc cấp tín dụng mua nhà đã đẩy giá nhà đất lên đỉnh điểm vào năm 2005. Khi giá nhà đất bắt đầu chững lại 2006 và bắt đầu giảm 2007, thì tỉ lệ vỡ nợ và tài sản bị tịch biên tăng lên đột ngột. Một lượng lớn tài sản thế chấp được bán đổ cho nhà đầu tư thông qua MBS và các công cụ tài chính khác, đã dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống tài chính 2008. Sau khi Lehman Brother và những tổ chức tài chính quan trọng khác sụp đổ 2008, thị trường MBS đã gần như đóng cửa, và thị trường tiền tệ thì trải qua một cuộc chạy đua rút tiền ở các ngân hàng. Cuộc khủng hoảng đã lan rộng toàn cầu. 2.5.2.2. Một số lý thuyết giải thích rủi ro tín dụng: Ba năm trước, nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng nhiều để tìm ra nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn, và thảo luận những lý thuyết khác nhau về các bộ phận khác nhau tác động đến khủng hoảng. Hầu hết các lý thuyết đã được phát triển trong khuôn khổ phân tích rủi ro tín dụng. Kết quả thu được không tương thích với thực tế và không thể dung hòa để tạo nên một bức tranh tổng quan về khủng hoảng. Phần sau đây trình bày 2 cách giải thích quan trọng và đối lập nhau giữa lý thuyết và dữ liệu thực tiễn. Nhóm 1: nguyên nhân sâu xa là từ hệ thống tài chính: bong bong nhà đất, dễ dãi trong việc cấp tín dụng, Bong bong nhà đất bị vỡ là nguyên nhân kích hoạt cuộc khủng hoảng. Theo chỉ số giá nhà ở quốc gia S&P Case – Shiller, giá nhà ở tại Mỹ tăng lên 124% từ năm 1997 đến 2006. Những nghiên cứu khác thì tin rằng việc cấp tín dụng dễ dãi của Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ và dòng vốn quốc tế từ châu Á và các nước dầu mỏ đã kích thích tạo bong bóng nhà đất. Sau đó, những nhà đầu cơ đã bắt đầu rời khỏi thị trường khi giá nhà giảm
  33. ~ 27 ~ 20% trước 2006. Nhiều khách hàng vay nợ ngừng trả tiền cho khoản vay thế chấp nhà của mình, đặc biệt với vốn chủ sở hữu âm theo giá trị nhà của họ và họ trở thành Ninjna ( không thu nhập, không việc làm và không tài sản). Tuy nhiên những cú sốc ngoại sinh từ thị trường nhà đất tác động đến thị trường tài chính một cách khiêm tốn. Không có quá nhiều sự khác biệt giữa bong bóng nhà đất 1989 và 2007. Bằng cách xem xét dữ liệu mức vay được thu thập bởi LoanPerformance, Chris và Karen ([9]) nhận thấy rằng vào năm 2005 chỉ có 6 tiểu bang ở Mỹ cộng thêm Washington D.C thì mức nợ dưới chuẩn trên từng đơn vị nhà ở đã hơn 5%. Bằng cách kiểm tra dữ liệu các bang giữa 1981 đến 2007, Calomiris [15] chỉ ra rằng khó khăn thị trường nhà đất là vấn đề địa phương, chỉ có tác động trong phạm vi địa phương đó. Đến tháng 12 năm 2009, chỉ với 35 quận tại Mỹ mà đã có hơn 3500 hạt đã mất nhiều hơn 20% giá trị nhà ở so với đỉnh cao của nó. Năm 2007, tỉ lệ tịch biên nhà ở hầu hết các bang vẫn còn thấp hơn 1989. Nhà đầu cơ vẫn vào và ra khỏi thị trường. Tuy nhiên, những hành vi của những nhà đầu cơ đã không thay đổi nhiều từ 1998 đến 2007. Sự thật là 27.5% giao dịch nhà ở đã được các nhà đầu cơ thực hiện 2007, cao hơn 27.1% vào 2005. Như vậy, thực sự có rất ít bằng chứng là bong bóng nhà đất 2006 – 2008 là nghiêm trọng hơn 1987 – 1989. Một lý giải khác là có sự khác biệt trong niềm tin vào giá nhà đất bình quân trong khu vực tác động làm nền kinh tế thế giới tồi tệ hơn. Ninjna và những người vay có rủi ro cao đã dừng việc chi trả cho khoản vay thế chấp nhà của họ. Trong khi đó những thiệt hại thế chấp ước tính $400 tỉ đến $500 tỉ, chúng có mối quan hệ khiêm tốn với sự tàn phá của cải khi đặt trong hoàn cảnh cuộc khủng hoảng Greenlaw [6]. Các thiệt hại ít hơn 4% tổng dư nợ thế chấp $14,000 tỉ và tương ứng với sự sụt giảm không quá bất thường từ 2 – 3% của thị trường chứng khoán Mỹ. Trong khi đó lãi suất vẫn thấp như lịch sử, và các quốc gia châu Á vẫn tiếp tục rót vốn vào nước Mỹ trước, trong và sau cuộc khủng hoảng. Trong ngắn hạn luôn tồn tại những cú sốc ngoại sinh. Thách thức là hiểu được làm thế nào cú sốc ngoại sinh tác động vào ngành tài chính. Vẫn còn một thắc mắc rằng $500 tỉ tài sản thế chấp mất đi châm ngòi cho cuộc khủng hoảng toàn cầu, nhưng sao nền kinh tế vẫn không thể phục hồi khi mà chính phủ Mỹ đã chi tiêu nhiều hơn $2000 tỉ cho nó.
  34. ~ 28 ~ Nhóm 2: sự yếu kém của hệ thống tài chính. Những nguyên nhân được đề xuất bao gồm: đòn bẩy tài chính cao, sai lệch xếp hạn tín dụng, vấn đề đại lý Theo hiểu biết thông thường, ngân hàng phải có đủ vốn chủ sở hữu để bù lỗ tiềm năng, và đòn bẩy tài chính an toàn Ủy ban Basel đã đặt yêu cầu về vốn đối với ngân hàng. Với 1 đồng USD cho vay, ngân hàng phải thêm 4 xu vào vốn chủ sở hữu, hay đòn bẩy là 25. Đổi mới trong tài chính giúp ngân hàng thương mại tránh xa yêu cầu vốn tối thiểu của Basel. Các tổ chức tín dụng tìm kiếm đòn bẩy cao hơn trước khủng hoảng. Đòn bẩy của Bear Stern cao hơn 32 vào cuối 2007, Lehman Brother và Merrill Lynch lần lượt là 29 và 31. Đầu tư chiến lược của các tổ chức tài chính là gốc rễ của cuộc khủng hoảng. Vấn đề đại lý dẫn đến MBS và các công cụ tài chính phái sinh khác trở nên quá đắt. Giá chứng khoán phụ thuộc vào xếp hạn của họ. Cơ quan xếp hạn tín nhiệm bị nghi ngờ cung cấp thông tin xếp hạn tín nhiệm sai lệch trong bong bóng nhà đất, vì mâu thuẫn về lợi ích. Cơ quan xếp hạn tín nhiệm hoạt động như một tham khảo cho nhà phát hành chứng khoán. Những nhà phát hành chi trả lệ phí và tham khảo xếp hạn đã xem nhẹ rủi ro và bật đèn xanh cho các ngân hàng gạt bỏ sự đắt đỏ của tài sản trong thị trường. Brunnnermeier [2] cho rằng các ngân hàng có tác động nhỏ để nhân viên giám sát cho qua các khoản vay thế chấp nhà khi họ chuyển giao rủi ro cho bên đầu tư thứ ba. Do đó, báo cáo tín nhiệm tạo điều kiện để mở rộng cho vay với rủi ro cao. Tuy nhiên, tỉ lệ đòn bẩy không là giải thích hợp lý cho tài sản của ngân hàng. Greenlaw [6] thấy rằng tỉ lệ đòn bẩy bình quân ngành ngân hàng không thể hiện xu hướng thực tế, nhưng giao động xung quanh giá trị đó. Ông còn ghi nhận rằng đòn bẩy ngân hàng không tăng đáng kể. Các nhà phê bình cho rằng đòn bẩy cao không thể giải thích làm thế nào ngân hàng có thể sống sót qua cuộc khủng hoảng S&L, khủng hoảng tài chính châu Á với đòn bẩy tương đương. Con số ngân hàng phá sản giảm từ 100 trường hợp 1980 và đầu năm 1990 xuống còn ít hơn 5 trường hợp trong giai đoạn 1995 – 2006. Những nhận định về đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp tư nhân cũng mơ hồ khó hiểu. Top năm ngân hàng đầu tư 2007: Lehman Brother, Bear Stearns, Merrill Lynch, Goldman Sachs và Morgan Stanley, thì Morgan Stanley có đòn bẩy cao nhất trừ Bear Stearns vẫn
  35. ~ 29 ~ sống sót dù đòn bẩy của nó là 33 năm 2007; Merrill Lynch hoàn toàn theo khuyến cáo của Basel và có đòn bẩy thấp nhất trước năm 2007, lại gặp thất bại trong cuộc khủng hoảng. Đòn bẩy không phải là chỉ số duy nhất phản ảnh rủi ro. Thảo luận về xếp hạn tín nhiệm sai lệch và sự vô trách nhiệm của ngân hàng trong việc cho vay vẫn còn là một câu hỏi lớn. Các ngân hàng không chỉ là nhà phát hành, họ còn là người mua ròng MBS trên thị trường. Cổ nhiếu công ty, như Lehman Brothers, mua bán các xếp hạn tín nhiệm để bán MBS với giá cao. Nhưng Lehman Brothers không đại diện cho toàn ngành ngân hàng. Trong năm 2002 – 2007, mặc dù là nhà phát hành nhưng các ngân hàng mua ròng MBS. Acharya đã đặt tên cho hiện tượng này là “chuyển giao chứng khoán phi rủi ro”. Năm 2007, ngân hàng thương mại nắm giữ 39% dư nợ vay thế chấp nhà . Một số ngân hàng lớn đã có động thái mua và bán MBS như J.P Morgan, Citigroup . Năm 2006, J.P Morgan báo cáo tổng vị thế MBS vào khoảng 4.7 lần kích thước danh mục cho vay của nó. Ngân hàng thực sự đã giao dịch MBS nhiều hơn GSEs sau 2006. Vấn đề đại lý khá yếu, thậm chí nếu nó tồn tại, thì ngân hàng chi trả cùng một khoản phí để phát hành và mua chứng khoán vào cùng một thời điểm. Cuối cùng, có ít bằng chứng cho thấy ngân hàng thay đổi thái độ với những khách hàng vay nợ trước khủng hoảng. Emyank và Hemert [4] đã so sánh đặc điểm của các khoản vay và khách hàng đi vay từ 2001 đến 2007 và tìm thấy không có sự khác biệt lớn nào, và họ không thể nào giải thích được những sai lệch khác thường điển hình của các khoản vay 2006 – 2007. Hoạt động của thị trường liên ngân hàng không thể giải thích được rủi ro các khoản cho vay và ắc hẳn phải có một nguyên nhân nào khác để giải thích. 2.5.2.3. Con đường dẫn tới một cuộc khủng hoảng: Phần này sẽ giải thích nguyên nhân của khủng hoảng dưới chuẩn theo tỉ lệ LLSS và làm thế nào hoạt động thị trường liên ngân hàng trở nên quan trọng với ngân hàng trong việc chia sẻ và loại bỏ rủi ro đơn lẻ. Một thực tế đáng ngạc nhiên từ cuộc khủng hoảng dưới chuẩn trước đây là ngành ngân hàng nói chung nắm giữ đủ vốn chủ sở hữu trong cuộc khủng hoảng. Theo báo cáo
  36. ~ 30 ~ quý FDIC, trong quý tồi tệ nhất 2005 thì tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản vẫn cao hơn 7.5%, tương tự như giai đoạn 1994 – 2000. Ngành ngân hàng vẫn còn hoảng sợ, thậm chí chính phủ đã viện trợ để đẩy tỉ lệ vốn lên mức cao trong lịch sử là cao hơn 8.5% quý 1 năm 2010. Hình 1 so sánh lợi nhuận hàng quý / tổng tài sản và tỉ lệ vốn của FDIC từ 1984 – 2010. Tỉ lệ vồn ngân hàng tăng từ thấp hơn 5% vào 1990 lên gần 8% năm 1995 và ổn định từ đó. Hình này cho thấy cuộc khủng hoảng dưới chuẩn gây ra là bởi những cú sốc mới ngoài đòn bẩy và rủi ro vốn đầu tư. Chìa khóa để hiểu cuộc khủng hoảng dưới chuẩn là cơ chế ưu tiên của ngân hàng để đối phó với cú sốc tiền gửi. Các nguồn lực bên ngoài và công cụ phái sinh và thị trường liên ngân hàng, hoặc khoảng quỹ nội bộ của họ. Công cụ phái sinh mà thị trường liên ngân hàng cung cấp là một nguồn vốn bên ngoài phong phú cho các ngân hàng tư nhân đối phó những cú sốc thanh khoản, và tạo thanh khoản giữa các ngân hàng để làm giảm chi phí, quyết định vị thế cho vay dài hạn. Tuy nhiên, thị trường có giới hạn. Kích thước của thị trường liên ngân hàng đã bị giới hạn bởi ̅, và toàn ngành phải đầu tư (1- ̅) tổng tài sản vào tài sản thanh khoản. Thật không may giới hạn của thị trường ̅ = 55%, lại không được các ngân hàng và các nhà quản lý biết đến, thị trường đã trở nên quá tải, và đạt đỉnh điểm là 65% vào 2005. Ngành ngân hàng đã đầu tư quá mức vào các khoản vay thế chấp nhà, và nắm giữ quá ít tài sản thanh khoản để đối phó những cú sốc hệ thống. Sau khi lĩnh vực tài chính gánh chịu tổn thất $500 tỉ do các khoản vay thế chấp dưới chuẩn, một số ngân hàng đã phá sản. Những tác động thực sự vẫn chưa tới. Một số công cụ phái sinh của thị trường liên ngân hàng, như ABCP và MBS, đã biến mất ngay sau đó ( Acharya [2]). Ngân hàng đột nhiên thấy rằng họ không thể thu hút các nguồn lực bên ngoài và phải thanh lý các tài sản cốt lõi để ứng phó với cú sốc tiền gửi. Bán tháo các tài sản dài hạn bao gồm không chỉ tài sản quay vòng, cả những tài sản dưới chuẩn không liên quan. Giá tài sản kém thanh khoản sai lệch so với cơ bản. Sự biến mất của các nguồn lực thị trường buộc các ngân hàng phải bán các tài sản dài hạn, điều này càng làm mất niềm tin thị trường. Sự thay đổi của tỉ lệ LLSS chứng minh toàn bộ quá trình. Trong giai đoạn trước đó, LLSS thấp và  cao. Sau năm 2000,  vượt quá ̅, và đạt đỉnh năm 2005 là 65% . Sau đó các ngân hàng đã trải qua một cuộc chuyển đổi đau đớn để làm cho tỉ lệ LLSS  của mình thấp xuống.
  37. ~ 31 ~ Giai đoạn trước 1988: Trong giai đoạn này ngành ngân hàng an toàn nhưng không hiệu quả. Ngân hàng tuân thủ các quy định nghiêm ngặt. Họ chủ yếu tập trung vào dịch vụ cho các khách hàng phi tài chính, còn hoạt động thị trường liên ngân hàng thì rất hiếm. Ngân hàng phụ thuộc vào nguồn vốn nội bộ của mình – tiền mặt và tài sản thanh khoản để quản lí những cú sốc tiền gửi và những nhà quản lý nhận thức đầy đủ về yêu cầu tối thiểu của tài sản thanh khoản. Một khía cạnh khác ngân hàng được giao một trách nhiệm quan trọng là giữ vốn dưới dạng tài sản thanh khoản để đối phó với cả 2 cú sốc hệ thống và cú sốc đơn lẻ, khả năng đầu tư dài hạn của ngân hàng bị hạn chế. Tỉ lệ LLSS của ngân hàng i thấp, và vì ảả ếế ấấ vậy LLSS của ngành <<̅. Hình 2 sử dụng tỉ lệ như là chỉ số bình ổổ ảả quân LLSS. Trước 1990, LLSS của ngành hấp hơn 30%, nhỏ hơn nhiếu so với LLSS giai đoạn 1990 – 2002. Trong giai đoạn này, sự nỗ lực của chính phủ tập trung vào việc giúp các ngân hàng giảm rủi ro và tăng LLSS của họ. Thành công nhất của những nỗ lực này là sự thành lập của FDIC. FDIC đã thúc đẩy niềm tin của người gửi tiền vào các thành viên FDIC và giảm tính không chắc chắn của việc rút tiền vì những tin đồn xấu, ảo giác bất an. Những cú sốc tiền gửi hệ thống trong ngân hàng được đo lường bằng độ lệch chuẩn của những thay đổi tiền gửi hàng tuần tính bằng %, ở khoảng 1.5% sau chiến tranh thế giới thứ hai và sau hệ thống Bretton Wood. Sau chiến tranh những cú sôc tiền gửi chỉ còn 50% so với trước chiến tranh. Ngoài FDIC, Cục dự trữ liên bang đỡ đầu cho Hiệp hội thế chấp quốc gia Mỹ là một trường hợp thành công khác của chính phủ. Năm 1938, hiệp hội thế chấp quốc gia Washington được thành lập và ngay sao đó được đổi thành Hiệp hội thế chấp quốc gia liên bang FNMA hoặc Fannie Mea. Trước đó FNMA đa cung cấp bảo hiểm cho các khoảnvay thế chấp nhà và mua lại những khoản nợ xấu trong trường hợp quá hạn. FNMA giúp ngân hàng cải thiện ci và ̅. Giới hạn ̅ cao hơn cho phép ngân hàng cho vay nhiều hơn mà không tạo thêm rủi ro thanh khoản.
  38. ~ 32 ~ Mặc dù có sự nỗ lực của chính phủ, rủi ro đơn lẻ vẫn còn tồn tại và tỉ lệ LLSS đã thấp đi, nhất là với những ngân hàng nhỏ phải đối mặt với nhiều cú sốc đơn lẻ hơn. Hình 2 thể hiện trước 1987, bình quân tỉ lệ LLSS  của các ngân hàng nhỏ xung quanh 15%, hầu hết các ngân hàng lớn là 30%, ngành thấp hơn 25%, còn thấp hơn khá nhiều so với tỉ lệ LLSS năm 1990 và đầu 2000, và giới hạn LLSS thấp hàm ý rằng khó khăn hơn để xin vay thế chấp mua nhà , thực tế là chỉ có 40% các gia đình ở Mỹ sở hữu nhà. Rủi ro đơn lẻ mạnh đến nỗi mà một lượng lớn tài sản thanh khoản được đầu tư cũng không đủ để bảo vệ tấm đệm an toàn. Bảng 2 thể hiện trước 1992, số ngân hàng phá sản hàng năm là cao hơn 150. Tuy nhiên, một sự phá sản của một ngân hàng địa phương không ảnh hưởng đến toàn ngành ngân hàng, vì toàn ngành vẫn dự trữ đủ tài sản thanh khoản để tránh một cuộc chạy đua rút tiền và đảm bảo ở tình trạng ổn định. Giai đoạn 1988 – 2006: Sự bãi bỏ các quy định tài chính, cho phép các ngân hàng để cơ chế thi trường kiểm soát các cú sốc tiền gửi. Sau đó ngành ngân hàng cải thiện các hoạt động của mình mà không làm tăng rủi ro thanh khoản. Như phần trình bày trước đây, ngân hàng tăng tỉ lệ LLSS khi tăng quy mô lớn lên. Các hoạt động M&A lớn được thực hiện giữa các ngân hàng tạo ra các ngân hàng lớn. Hình 2 thể hiện đầu 1980, các ngân hàng nhỏ và lớn tăng đáng kể tỉ lệ LLSS. Trong khi đó những cú sốc đơn lẻ vẫn tiếp tục tồn tại. Những ngân hàng lớn có lợi thế hơn các ngân hàng nhỏ về đa dạng khách hàng và có tương quan thấp với những cú sốc tiền gửi, và nắm giữ tài sản thanh khoản để đạt an toàn. Hình 2 còn thể hiện trước 1993, ngân hàng lớn đầu tư nhiều hơn vào các khoản vay thế chấp nhà và có tỉ lệ LLSS là 60% cao hơn ngân hàng nhỏ. Theo định lí 2 dự báo, các ngân hàng xem thị trường liên ngân hàng là một nguồn quỹ bên ngoài để đối phó với những cú sốc tiền gửi. Ngưỡng an toàn LLSS của ngân hàng tăng lên sau khi ngân hàng chia sẻ và giảm cú sốc tiền gửi thông qua ABCP, repo và các hoạt động khác liên quan thị trường liên ngân hàng. Những cú sốc tiền gửi đến các ngân
  39. ~ 33 ~ hàng tư nhân đã có tác động, khi dòng tiền từ thị trường ABCP bị hủy bỏ thì những cú sốc trở thành cú sốc giữa hai ngân hàng. Thực tế hoạt động của thị trường liên ngân hàng được đưa ra hình 6 và 8. Hình 6 biểu thị trước 2000, vì LLSS của ngân hàng vẫn còn thấp, và tất cả các ngân hàng giữ nhiều tiền mặt và tài sản thanh khoản. Ngân hàng sẵn sang làm người bán trong thị trường ABCP. Dư nợ ABCP hàng tuần phổ biến đạt 10%. Bong bóng Dot.com làm chậm trường ABCP. Nhưng thị trường tăng tốc từ 2004 – 2007 một lần nữa với tốc độ thấp hơn trước năm 2000. Thay đổi ABCP hàng tuần giảm xuống thấp hơn 5%. ABCP không được sử dụng trực tiếp cho các khoản vay dài hạn. Hầu hết ABCP rất ngắn hạn. Hình 8 thể hiện đa số ABCP đáo hạn từ 1 đến 4 ngày. ABCP dài hạn, đáo hạn từ hơn 80 đến dưới 270 ngày, loại này rất hiếm. Các ngân hàng sử dụng ABCP như là tài trợ qua đêm để đối phó với cú sốc tiền gửi và là nguồn quỹ quay vòng cho khoản cho vay dài hạn. Định lí 2 còn dự báo rằng, các cải tiến tài chính tạo thêm thanh khoản giữa các ngân hàng. Chứng khoán phái sinh tạo điều kiện giao dịch tài sản thanh khoản kém giữa các ngân hàng mà không làm thay đổi giá trị tài sản. Ví dụ: bán MBS ít tác động đến giá nhà hơn là từ chối cấp tín dụng. Hình 7 thể hiện 2001, MBS nắm giữ bởi Frannie Mea và Freddle Mac thực sự đã giảm, cho thấy các ngân hàng giưc nhiều MBS và khoản chovay thế chấp nhà mua nhà trong bảng cân đối kế toán. Trong khi đó các ngân hàng mua bán song hành MBS. Trong giai đoạn này ngân hàng phát hành nhiều khoản vay thế chấp nhà, giữ ít tài sản thanh khoản. Hình 3 thể hiện tỉ lệ LLSS  tăng lên hơn 35% từ 1997 đến 2000. Ngay cả khi ngân hàng phát hành thêm nhiều khoản vay dài hạn, ngành ngân hàng không mất đi khả năng đối phó với những cú sốc tiền gửi. Thị trường đã thành công trong việc cứu trợ tài chính để các ngân hàng tồn tại trong khủng hoảng tài chính châu Á, bong bóng Dot.com . . .Minh chứng cụ thể là số trường hợp phá sản từ 100 năm 1980 xuống còn 5 trường hợp 1995. Hoạt động thị trường liên ngân hàng tạo điều kiện rút ngắn tỉ lệ LLSS giữa ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ từ 20% xuống 0, làm lợi nhuận các ngân hàng nhỏ cao hơn các ngân hàng lớn. Ngoài ra, lợi nhuận có được của các ngân hàng nhỏ còn dựa
  40. ~ 34 ~ vào hiểu biết địa phương để tìm kiếm cơ hội đầu tư và cho vay với những yêu cầu đặc biệt. Các ước tính ̅: Thực sự quan trọng để tính toán giới hạn an toàn của tỉ lệ LLSS của ngành ̅ để xác định lượng tài sản thanh khoản phù hợp để bảo vệ ngành khỏi một cuộc chạy đua rút tiền. Chúng ta cũng gặp khó khăn để ước tính ̅ theo định nghĩa của nó mà không cần quan sát dòng tiền gửi của ngân hàng. Thật không may, dữ liệu lượng tiền gửi là không có. Hai ước tính gián tiếp để tính ̅ được đưa ra. Cả 2 ước tính chỉ ra ̅ khoảng 50%. Cách 1: so sánh biến động tiền gửi và cho vay. Ngành ngân hàng là trung gian chấp nhận tiền gửi và là kênh cho vay. Ngưỡng an toàn của LLSS cho thấy ngân hàng cho vay chỉ một phần tiền gửi và đầu tư số còn lại vào tài sản thanh khoản, sự thay đổi trong tiền gửi luôn được mong đợi lớn hơn các khoản cho vay để ngân hàng được an toàn. Khi ngân hàng không có rủi ro thanh khoản, họ có thể đối phó với những cú sốc tiền gửi mà không gặp khó khăn nào, và STD( tiền gửi) > STD( các khoản cho vay). Nếu không ngân hàng phải điều chỉnh tài sản kém thanh khoản của mình để đối phó cú sốc tiền gửi. Như bán hạ giá các khoản cho vay dài hạn để đối phó với cú sốc tiền gửi, STD ( tiền gửi) STD( các khoản cho vay), và ngành ngân hàng mất khả năng đáp ứng các khoản vay dài hạn sau 2005. Sau 2005 tỉ lệ LLSS là ngưỡng an toàn ̅ của ngành, khoảng 50% theo hình 2 và 3. Cách 2: so sánh LLSS ngân hàng lớn và LLSS của ngân hàng nhỏ. Ngưỡng an toàn LLSS của ngành ̅ được quyết định bởi bản chất của cú sốc tiền gửi, so sánh LLSS của ngân hàng lớn và LLSS của ngân hàng nhỏ cho ra một cách ước tính khác của ̅. Ngân hàng lớn phục vụ một lượng lớn khách hàng và đối mặt với ít cú sốc tiền gửi. Trước khi một số ngân hàng lạm dụng thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng lớn mong đợi có LLSS cao hơn, họ có thể phát hành nhiều khoản vay thế chấp nhà với ít biến động. Hình
  41. ~ 35 ~ 2 cho thấy tỉ lệ LLSS ngân hàng nhỏ cao hơn LLSS ngân hàng lớn 1997, ngưỡng an toàn LLSS nằm trong khoản 45%. Ngân hàng đã có được bài học kinh nghiệm rằng ABCP là cơ chế đáng tin cậy để đối phó những cú sốc tiền gửi, và thành công trong 2 thập kỷ trước tiếp tục lặp lại làm họ tiếp tục tin rằng thị trường không có giới hạn. Ngân hàng phát hành càng nhiều các khoản vay thế chấp nhà khi có thể, không chú ý vào tỉ lệ LLSS của mình đã vượt qua ngưỡng an toàn của ngành ̅. Giai đoạn 2007 đến nay: Đây là giai đoạn cuộc khủng hoảng, khi  vượt quá ̅ 50%, toàn ngành không đủ tài sản thanh khoản để chuẩn bị cho những cú sốc hệ thống. Nhiều cú sốc nhỏ có thể làm thị trường sụp đổ. Trước cuộc khủng hoảng dưới chuẩn, vị thế tài sản thanh khoản của ngân hàng giảm đến mức thấp, nguy hiểm và tỉ lệ LLSS tăng cao. Hình 3 cho thấy từ ả ắ ạ 1997 đến 2007, tài sản thanh khoản, được đo lường bằng giảm 1/3 ổ ả lần, xuống từ 45% còn 31%. Thiếu tài sản thanh khoản đặt ngân hàng vào một vòng xoay đi xuống. Trong đầu 2007, liên quan đến bong bóng nhà ở và các khoản vay thế chấp nhà dưới chuẩn tạo nên một cuộc cuộc rút tiền gửi bất ngờ hơn 2% tổng tiết kiệm ngân hàng. Ngân hàng phát hiện ra rằng thị trường liên ngân hàng không đủ mạnh để chống chọi cú sốc. Theo hình 4 ta thấy những năm 1995, 2000 và 2008, ngành ngân hàng đối mặt với cuộc rút tiền thuần. Năm 1995, thị trường liên ngân hàng còn khá xa giới hạn của mình, và các khoản quỹ bên ngoài từ hoạt động của thị trường liên ngân hàng nhiều để ngân hàng duy trì các khoản cho vay dài hạn và phát hành thêm các khoản vay mới. Sự thay đổi các khoản vay luôn dương, các khoản vay tăng lên khoảng 1% mỗi tuần trong khi đó tiền gửi lại giảm hơn 1% mỗi tuần. Các ngân hàng đã thành công trong việc bảo vệ tài sản kém thanh khoản của mình trong cú sốc tiền gửi. Năm 2000, tác động của bong bóng Dot.com tạo ra một cuộc rút tiền ròng bất ngờ cho các ngân hàng. Các ngân hàng vẫn còn bảo vệ được tài sản kém thanh khoản của mình. Ngân hàng cắt giảm tổng khoản cho vay xuống gần 0.1% trong hai tuần. Cuối 2007
  42. ~ 36 ~ đầu 2008, việc cát giảm các khoản cho vay đã trở nên phổ biến ở các ngân hàng. Không giống như ngân hàng vẫn còn một ít tài sản thanh khoản để ứng phó với của sốc thanh khoản, các quỹ phòng ngừa rủi ro và các tổ chức tài chính khác đã phá sản trong thời gian này, vì các tổ chức này đột ngột gặp rắc rối với đòn bẩy tài chính cao của mình( Khaidani [8]). Sự sống sót của các ngân hàng qua cú sốc 2007 chỉ đánh dấu sự bắt đầu của một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Một số ngân hàng nhận các khoản quỹ bên ngoài từ hoạt động của thị trường liên ngân hàng đã đạt giới hạn. Họ bắt đầu quay đầu với hoạt động của thị trường liên ngân hàng, giảm cho vay thế chấp nhà và các khoản vay dài hạn khác , và nắm giữ nhiều hơn tài sản thanh khoản để làm giảm tỉ lệ LLSS và khôi phục nguồn vốn nội bộ với vai trò tài trợ cho vay dài hạn. Mặt khác, áp lực thanh lý các khoản vay buộc các ngân hàng bán bớt tài sản kém thanh khoản với giá rẻ. Sự biến động mạnh trong giá làm thị trường thêm bất ổn, và có ít tài sản đủ chất lượng để thế chấp. Thị trường liên ngân hàng không vô tận và không ít giao dịch tiềm năng đã bị hủy bỏ. Sau tháng 8/2007, thị trường thứ cấp không còn gian dịch những chứng khoán từ các khoản vay thế chấp nhà không phù hợp. Không còn thị trường thứ cấp, thị trường ABCP thu hẹp đáng kể vì nó không thể tăng trưởng với hầu hết chứng khoán không phù hợp. Khắp nơi, người dân nắm giữ 46% tài sản có liên quan đến các khoản vay thế chấp nhà dưới chuẩn, về cơ bản đã bị trục suất ra khỏi thị trường liên ngân hàng. Hình 6 cho thấy thị trường ABCP giảm hơn 40% trong năm 2007. Sự biến mất của thị trường liên ngân hàng đã tạo ra con sóng thứ hai của ngành tài chính đánh vào ngành ngân hàng. Ngân hàng đột ngột nhận ra chính mình những năm 1980, khi họ phải giải quyết cả cú sốc đơn lẻ và cú sốc hệ thống bằng chính quỹ nội bộ của mình. Tất cả các ngân hàng phải giảm vị thế tài sản kém thanh khoản của mình và hạ tỉ lệ LLSS từ 60% xuống 45%, và phải làm thật nhanh. Về cơ bản không ai có thể giải thích giá cả vì nó biến động tự do. Việc bán tài sản thế chấp từ dân của AIG là một minh họa cụ thể cho sự biến động của giá cả. Sự thay đổi tài sản ngân hàng không chỉ được quyết định bởi giao dịch ngân hàng, mà còn phụ thuộc vào giá cả bên ngoài. Hình 5 cho thấy sau 2005, biến thiên cho vay đã cao hơn tiết kiệm. Toàn ngành mất an toàn trong lợi
  43. ~ 37 ~ nhuận để làm tấm đệm ứng phó với cú sốc tiền gửi và giữ vai trò duy trì các khoản cho vay dài hạn bằng tiền gửi. Nhiều ngân hàng gặp thất bại trong việc thanh lý tài sản đã tuyên bố phá sản. Các nền kinh tế lâm vào một cuộc suy thoái nghiêm trọng. 2.6. Một số tiêu chí khác: Ngoài các chỉ tiêu đánh giá trên, chúng ta cũng có thể xem xét khả năng thanh khoản ngân hàng thông qua các chỉ tiêu: Lượng tài sản dự trữ: Không những số lượng tài sản dự trữ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản ngân hàng mà chất lượng của chúng cũng đóng vai trò quan trọng. Một danh mục tài sản dự trữ chất lượng tốt, tức có tính thanh khoản cao như: tiền mặt, chứng khoán thị trường, trái phiếu chính phủ sẽ đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng ở hiện tại và tương lai gần. Khả năng tiếp cận thị trường tiền tệ: Đây là một chỉ tiêu không kém phần quan trọng trong việc đánh giá khả năng thanh khoản ngân hàng. Điều này thể hiện mối quan hệ của bản thân ngân hàng với các tổ chức tài chính khác, ngân hàng Nhà nước Một mối quan hệ tốt có thể giúp ngân hàng thuận tiện hơn trong việc vay mượn và nhận sự hỗ trợ từ các bên tham gia thị trường tiền tệ khi cần thiết với chi phí hợp lí và kịp thời. Điều này tạo điều kiện đảm bảo danh tiếng và thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
  44. ~ 38 ~ Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ TÍNH THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM 3.1 Giới thiệu hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 3.3.1 Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam: Hiện nay ở nước ta có rất nhiều loại hình ngân hàng thương mại được phân theo hình thức sở hữu. Đó là ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần (đô thị và nông thôn), ngân hàng thương mại liên doanh, chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài, ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài. Trong thời gian qua, đặc biệt từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ để tận dụng tốt những cơ hội trong quá trình hội nhập, khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh. Đó là có mạng lưới rộng lớn, có khách hàng truyền thống và hiểu biết về khách hàng cũng như các điều kiện kinh doanh tại Việt Nam, kinh nghiệm nghiệp vụ tích lũy trong nhiều năm qua. Đây là một lợi thế trong việc chăm sóc khách hàng. Do vậy, các ngân hàng thương mại trong nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ truyền thống là huy động vốn và cho vay. Hiện nay, thị phần huy động vốn của các ngân hàng thương mại trong nước chiếm tỷ trọng lớn, trên 90%. Công nghệ ngân hàng là lĩnh vực được các ngân hàng rất chú trọng, coi là phương tiện chủ lực để rút ngắn khoảng cách phát triển so với ngân hàng của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Hầu hết các ngân hàng thương mại đã đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng lõi (core banking), cho phép quản trị dữ liệu một cách tập trung tại hội sở chính, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Về sản phẩm dịch vụ: các ngân hàng thương mại đã tập trung đổi mới, cho ra đời nhiều sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh những sản phẩm truyền thống như tiền gửi và cho vay, đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới tăng tiện ích cho khách hàng như: tăng tiện ích của tài khoản cá nhân, phát triển dịch vụ thẻ, phát triển các
  45. ~ 39 ~ dịch vụ ngân hàng hiện đại như phone banking, internet banking Dịch vụ tiền gửi được đa dạng hóa, cho phép người gửi có nhiều lựa chọn cho đồng vốn nhàn rỗi của mình. Bên cạnh các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cố định truyền thống, các ngân hàng còn đưa ra các sản phẩm tiền gửi được hưởng lãi suất biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo giá trị theo vàng, được bù chênh lệch tỷ giá Đặc biệt, dịch vụ thanh toán thẻ đã có sự phát triển bùng nổ. Nhiều sản phẩm thẻ đa tiện ích đã được giới thiệu tới khách hàng và thanh toán bằng thẻ ATM đã trở nên khá phổ biến tại các tỉnh, thành phố lớn. Về năng lực tài chính: quy mô vốn của các ngân hàng thương mại đã được tăng lên đáng kể. Vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam kể đến năm 2010 như sau: Bảng 3.1: Ngân hàng thương mại Nhà nước. Vốn điều lệ (tỷ STT Tên ngân hàng đồng) 1 Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 21000 2 Phát triển Việt Nam 10000 3 Chính sách xã hội Việt Nam 15000 4 Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long 3000 5 Đầu tư và phát triển Việt Nam 10449 Bảng 3.2: Các Ngân hàng thương mại cổ phần. Vốn điều lệ Vốn điều lệ Tên ngân hàng Tên ngân hàng (tỷ đồng) (tỷ đồng) 1. An Bình 3830 2. Sài Gòn-Hà Nội 3500 3. Bắc Á 3000 4. Sài gòn công thƣơng 3000 5. Dầu khí Toàn Cầu 3810 6. Sài gòn thƣơng tín 9179 7. Gia Định 3000 8. Phát triển Mê Kông 3000 9. Hàng hải 5000 10. Tiên Phong 3000 11. Kiên Long 3000 12. Việt Nam Thƣơng tín 3000 13. Kỹ Thƣơng 6932 14. Việt Á 3000 15. Liên Việt 5160 16. Xuất nhập khẩu 10560
  46. ~ 40 ~ 17. Miền Tây 1 18.Xăng dầu Petrolimex 2000 19. Nam Việt 1000 20. Á Châu 9377 21. Nam Á 3000 22. Đông Nam Á 5400 23. Công Thƣơng 15172 24. Đông Á 4500 25. Nhà Hà Nội 3000 26. Đại Dƣơng 5000 27.PháttriểnNhàTHCM 3000 28. Đại Tín 3000 29. Phƣơng Nam 3049 30. Đại Á 3100 31. Phƣơng Đông 3140 32. Đệ Nhất 2000 33. Quân Đội 7300 34.NgoạithƣơngViệtNam 13223 35. Quốc tế 4000 36. Bảo Việt 3000 37. Sài Gòn 3653 38. Việt Nam tín nghĩa 3399 39. Phƣơng Tây 2000 Bảng 3.3: Các Ngân hàng thương mại liên doanh. Vốn điều lệ Tên ngân hàng (triệu USD) 1. INDOVINA BANK 165 2.VINASIAM 20 3.SHINHANVINA BANK 75 4. Việt-Nga 62,5 5. VID PUBLIC BANK 62,5 Ngoài việc tăng quy mô vốn, nhiều ngân hàng còn đẩy mạnh việc thực hiện cơ cấu lại tài chính như tăng vốn tự có, xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tổ chức và hoạt động. Việc tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro cùng với việc tăng vốn chủ sở hữu đã giúp các ngân hàng thương mại giải quyết tốt vấn đề nợ xấu phát sinh từ nhiều năm trước, chất lượng tài sản được cải thiện đáng kể. Một số ngân hàng thương mại cổ phần đã và đang nỗ lực trong việc đổi mới cơ cấu quản trị điều hành theo hướng phù hợp với các tiêu chuẩn về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại.
  47. ~ 41 ~ Bên cạnh những mặt khá tốt đó, các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế: Thứ nhất, năng lực tài chính của các ngân hàng nội địa còn rất non yếu Thứ hai, các ngân hàng nước ngoài có thế mạnh về cung cấp dịch vụ, trong khi đó các ngân hàng nội địa chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tín dụng. Thứ ba, là vấn đề công nghệ. Các ngân hàng nước ngoài vượt khá xa về trình độ công nghệ ngân hàng với các hệ thống máy móc thiết bị cũng như các ứng dụng công nghệ thông tin trong nghiệp vụ ngân hàng. Và thứ tư là trình độ quản lý. Yếu tố này liên quan đến vấn đề nhân sự. Việt Nam còn thiếu rất nhiều các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực ngân hàng. Điều này không những đáng lo ngại cho các ngân hàng nội địa trong vấn đề quản lý ngân hàng mà còn là nguy cơ cạnh tranh nhân lực giữa các ngân hàng sẽ đẩy chi phí tiền lương, tiền công lao động lên cao. Các ngân hàng trong nước sẽ gặp khó khăn và phải đối mặt với sự chảy máu chất xám. Bên cạnh những điểm hạn chế hay còn gọi là những nguy cơ tiềm ẩn nêu trên, các ngân hàng trong nước còn gặp phải vấn đề đáng lo ngại nữa là thị phần co hẹp. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều bất cập, các ngân hàng chưa xây dựng được phương án phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ một cách đồng bộ và hiệu quả. Kênh cung ứng dịch vụ truyền thống chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ khách hàng cá nhân, các kênh phân phối dịch vụ hiện đại mới chỉ được cung ứng tại một số ngân hàng, các phương thức giao dịch từ xa dựa trên nền tảng công nghệ thông tin và điện tử chưa phổ biến Nhiều ngân hàng chưa có chiến lược tiếp thị rõ ràng trong hoạt động ngân hàng bán lẻ, hoạt động tiếp thị còn yếu và thiếu chuyên nghiệp, tỉ lệ khách hàng cá nhân tiếp
  48. ~ 42 ~ cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng còn ít. Chính sách khách hàng kém hiệu quả, chất lượng phục vụ chưa cao, các Ngân hàng thương mại Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu cơ bản về dịch vụ ngân hàng của các nhóm đối tượng khác nhau, thủ tục giao dịch chưa thuận tiện, một số qui định và quy trình nghiệp vụ còn nặng về bảo đảm an toàn cho ngân hàng, chưa thuận lợi cho khách hàng. Bộ máy tổ chức chưa theo định hướng khách hàng, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ. Trình độ công nghệ và ứng dụng công nghệ của các ngân hàng còn nhiều bất cập, nền tảng công nghệ thấp, không có khả năng phát triển hoặc mở rộng các ứng dụng mới. Trình độ thiết kế tổng thể còn yếu, hệ thống ứng dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro, các ngân hàng vẫn chưa có một bộ phận chuyên trách nghiên cứu chiến lược phát triển công nghệ thông tin. Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin chưa cao, các sản phẩm mới chưa nhiều, vấn đề bảo mật thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu, nguy cơ rủi ro còn tiềm ẩn với cả khách hàng và ngân hàng. Trên tầm vĩ mô, mặc dù môi trường pháp lý đã được cải thiện đáng kể, nhưng các văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các quy trình thao tác giao dịch thủ công, mang nặng tính giấy tờ và phức tạp trong quá trình xử lý, nhiều quy chế đã trở nên bất cập và không bao hàm hết các mặt nghiệp vụ. Nhà nước còn giữ tỉ lệ sở hữu khá lớn trong hệ thống ngân hàng thương mại, nên không thể tránh khỏi mâu thuẫn và xung đột lợi ích, còn can thiệp quá sâu vào quá trình ra quyết định của các ngân hàng thương mại, kết quả là quản trị ngân hàng yếu kém và ảnh hưởng tiêu cực quyền lợi của các cổ đông. 3.1.2 Chính sách về kiểm soát tính thanh khoản của ngân hàng trung ương: 3.1.2.1. Quy định của ngân hàng Trung ương kiểm soát tính thanh khoản ngân hàng thương mại: Căn cứ Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2003;
  49. ~ 43 ~ Căn cứ Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004; Căn cứ Nghị định số 96/2008/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng như sau: Quy định về tỉ lệ vốn an toàn tối thiểu: tại điều 4, 5, 6 thông tư 13/2010/TT- NHNN. Nội dung: Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ). Bên cạnh đó thông tư còn quy định cụ thể về tỉ lệ vốn an toàn riêng lẻ và tỉ lệ vốn an toàn hợp nhất. Tỉ lệ vốn an toàn riêng lẻ và hợp nhất được tính lần lượt như sau: Có Có rủi ro hợp nhất Quy định giới hạn tín dụng: Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
  50. ~ 44 ~ Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát. Tổng dư nợ cho vay và chiết khấu giấy tờ có giá đối với tất cả khách hàng nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. Và nhiều quy định khác liên quan trong điều này. Quy định giới hạn cho thuê tài chính. 1. Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính. 2. Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính, trong đó mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định tại Khoản 1 Điều này. Quy định tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động: Tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều kiện trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả và các tỷ lệ bảo đảm an toàn khác và không được vượt quá tỷ lệ dưới đây: Đối với ngân hàng: 80% Đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng: 85% Ngoài ra, thông tư còn quy định về tỷ lệ khả năng chi trả, giới hạn góp vốn và mua cổ phần tại các điều từ 12 đến 17.
  51. ~ 45 ~ Nội dung cụ thể được trình bày trong thông tư 13 và 19 của ngân hàng Nhà nước được đính kèm trong phần phụ lục. 2.5.1.1. Công cụ của ngân hàng trung ương kiểm soát tính thanh khoản ngân hàng thương mại: Ngân hàng trung ương sử dụng một hệ thống công cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng đó là tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (hoặc cho vay) của các NHTM. Khi NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nghĩa là giảm khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM từ đó giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Ngược lại, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM sẽ tăng lên (bành trướng khối tiền tệ). Cơ chế tác động của công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc Thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động đến cả khối lượng và giá cả tín dụng của các NHTM từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM. + Về số lượng: Tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là giải phóng hay phong tỏa, cho hoặc không cho các NHTM sử dụng khối lượng tiền tệ trung ương bị coi là thiếu hay dư thừa, cũng tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các NHTM. + Về chi phí: Giảm hay tăng dự trữ bắt buộc (dự trữ bắt buộc không được hưởng lãi, nếu có thì thường là rất thấp) sẽ làm giảm hoặc tăng chi phí tín dụng của các NHTM.
  52. ~ 46 ~ + Tăng hay giảm số lượng tín dụng kép: do tăng, giảm chi phí, tăng giảm lãi suất cho vay, dẫn đến giảm hoặc tăng dung lượng tín dụng. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn (Tín phiếu kho bạc, Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi ) trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung - cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ, cụ thể: + Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát. + Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các NHTM. Công cụ lãi suất tín dụng Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhưng sự tăng giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại, có sức công phá ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kì nhất định. Cơ chế tác động là công cụ lãi suất tín dụng: Việc điều hành lãi suất chủ yếu được thông qua hai cơ chế:
  53. ~ 47 ~ Cơ chế điều hành gián tiếp: Thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá ) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với các chủ thể trong nền kinh tế. Cơ chế điều hành trực tiếp: thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được cho phép, các tổ chức tín dụng có quyền ấn định lãi suất kinh doanh cho phù hợp. Khi có các thay đổi kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Công cụ hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể và nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
  54. ~ 48 ~ Qua sử dụng hạn mức tín dụng NHTW nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh làm tăng tổng khối lượng tiền quá mức trong nền kinh tế, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của hệ thống ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được quy định. Lúc này, NHTW phải theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt. Công cụ hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển, hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM, thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, như nhược điểm đã nêu trên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao vì nó thiếu linh hoạt. Công cụ tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của nội tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái lại là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu hàng hóa và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và hết sức mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ ngoại hối của quốc gia. Về thực chất, tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiên tệ bởi lẽ tỷ giá không làm tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên có quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi, lại coi tỷ giá là công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành chính sách tiền tệ.
  55. ~ 49 ~ 3.1.2.3. Đánh giá chung tình hình thanh khoản ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua: Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam từng bước phát triển về quy mô cũng như chất lượng để đảm bảo yêu cầu thanh khoản, cũng như đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Một trong những bước phát triển quan trọng là nỗ lực tăng vốn điều lệ ngân hàng thương mại của Nhà nước. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục vốn pháp định của các TCTD, trong đó mức vốn pháp định áp dụng cho NHTMCP đến cuối năm 2008 là 1000 tỷ đồng và đến cuối năm 2010 là 3000 tỷ đồng. Tuy nhiên, vốn điều lệ của nhiều NHTM hiện nay còn quá nhỏ bé và hạn chế so với NHTM của các nước trong khu vực làm cho tình hình tài chính một số NHTM không lành mạnh, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh khoản cao và năng lực cạnh tranh thấp. VỐN ĐIỀU LỆ CỦA CÁC NGÂN HÀNG 5% 3% 29% NHTMNN NHTMCP NH liên doanh NH nƣớc ngoài 63% Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Bảng 3.4: Quy mô vốn điều lệ một số NHTM của các quốc gia trong khu vực. Đơn vị: Triệu USD
  56. ~ 50 ~ Quốc gia Vốn Quốc gia Vốn INDONESIA MALAYSIA Bank Mandiri 2.122 Maybank 4,102 Bank BNI 1.499 Public bank (PBB) 2,382 Bank central Asia 1.304 Commerce Asset - Holding 1,695 Bank Rakyat Indonesia 1.070 AMMB Holding 1,476 Bank Danamon Indonesia 807 RHB Bank Berhad 1,179 Panin Bank 363 Hong Leong Bank 1,128 VIETNAM THAILAND Vietinbank 577 Bangkok Bank 3,178 BIDV 724 Siam Commercial Bank 2,189 Vietcombank 621 Kasikornbank 1,996 Agribank 1062 Krung Thai Bank 1,837 Sacombank 344 Siam City Bank 853 ACB 401 Thai Military Bank 802 Techcombank 355 Bank of Ayudhya 771 PHILIPINES SINGAPORE Bank of Philippine Islands 975 DBS Bank 9,623 Metropolitan Bank Et Trust Company 704 United overseas Bank 6,297 Oversea - Chinese Banking Equitable PCI Bank 464 Corporation 5,589 Nguồn: www.thebanker.com/top1000