Luận văn Phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

doc 127 trang nguyendu 6610
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_van_phat_trien_hoat_dong_tao_lap_thi_truong_trai_phieu.doc

Nội dung text: Luận văn Phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

  1. Bộ giáo dục và đào tạo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Trần Hải Đăng Phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam Chuyên ngành: Tài chính, Lưu thông tiền tệ và tín dụng luận văn thạc sỹ kinh tế Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Đăng Khâm Hà nội, 2006
  2. Mục lục trang Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ Phần mở đầu 1 Chương 1 Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng 4 thương mại 1.1. Tổng quan về thị trường trái phiếu 4 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thị trường trái phiếu 4 1.1.2. Phân loại thị trường trái phiếu 7 1.1.3. Các thành viên tham gia thị trường trái phiếu. 8 1.2. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại 11 1.2.1. Ngân hàng thương mại với hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu 11 1.2.2. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại 15 1.2.3. Lợi thế và bất lợi của hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu 19 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu 20 của ngân hàng thương mại. 1.3.1. Các nhân tố chủ quan. 21 1.3.2. Các nhân tố khách quan. 26 Kết luận chương 1 31 Chơng 2 Thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của 32 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2.1. Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam. 32 2.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển thị trường trái phiếu 32 Việt Nam. 2.1.2. Thị trường phát hành trái phiếu 35 2.1.3. Thị trường giao dịch trái phiếu 39 2.2. Thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng 44 Ngoại thương Việt nam.
  3. 2.2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 44 2.2.2. Thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng 48 Ngoại thương Việt Nam 2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân 58 hàng Ngoại thương Việt Nam 2.3.1. Những kết quả đạt được 58 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 60 Kết luận chương 2 64 Chương 3 Giải pháp phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái 65 phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 3.1 Định hướng phát triển Ngân hàng Ngoại thương Việt nam 65 3.1.1. Mục tiêu trở thành tập đoàn tài chính quốc tế Ngân hàng Ngoại thương 65 3.1.2. Mục tiêu phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của NHNT 68 3.2. Giải pháp 69 3.2.1. Tăng cường sự quan tâm của Lãnh đạo ngân hàng 69 3.2.2. Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức ngân hàng 70 3.2.3 Tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 71 3.2.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật 73 3.2.5. Tăng vốn cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu 73 3.2.6. Các giải pháp khác 75 3.3. Kiến nghị 79 3.3.1. Tiếp tục ổn định môi trường kinh tế vĩ mô 79 3.3.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý 79 3.3.3. Tiếp tục thực hiện cải cách chính sách tài chính - tiền tệ 81 3.3.4. Thành lập và phát triển thị trường OTC 84 3.3.5. Hoàn thiện chức năng và tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà Nước. 85
  4. 3.3.6. Phát triển hệ thống các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư có tổ chức 86 3.3.7. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng thị trường 87 3.3.8. Hoàn thiện cơ chế xác định lãi suất trái phiếu 88 3.3.9. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực 89 Kết luận chương 3 90 Kết luận 91 Danh mục tài liệu tham khảo 93
  5. Danh mục ký hiệu các chữ viết tắt 1. Công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương VCBS 2. Ngân hàng Ngoại thương NHNT 3. Ngân hàng Nhà Nước NHNN 4. Ngân hàng thương mại NHTM 5. Ngân hàng thương mại Nhà Nước NHTMNN 6. Thị trường giao dịch qua quầy OTC 7. Thị trường trái phiếu TTTP 8. Trung tâm giao dịch chứng khoán TTGDCK 9. Uỷ ban Nhân Dân UBND
  6. Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ Bảng trang Bảng 2.1 - Khối lượng trái phiếu niêm yết trên TTGDCK hàng năm 42 Bảng 2.2 - Kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất của Vietcombank 48 Bảng 2.3 - Loại, số lượng, giá trị trái phiếu do Ngân hàng Ngoại 54 thương nắm giữ Biểu đồ trang Biểu đồ 2.1 - Khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành hàng năm 37 Biểu đồ 2.2 - Giá trị giao dịch trái phiếu hàng năm 42 Biểu đồ 2.3 - Doanh số mua bán trái phiếu của NHNT trong Quý I + II/2006 54 Biểu đồ 2.4 - Doanh số mua bán trái phiếu Quý I + II /2006 55 Biểu đồ 2.5 - Số lượng nhân viên trong hoạt động kinh doanh trái phiếu 55 Biểu đồ 2.6 - Tỷ trọng giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường do NHNT nắm giữ so với tổng giá trị trái phiếu được niêm yết trên thị trường 56 Biểu đồ 2.7 - Tỷ trọng giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường do NHNT nắm giữ so với tổng giá trị trái phiếu được niêm yết trên thị trường 56 Biểu đồ 2.8 - Kết cấu tỷ trọng của các khoản thu nhập trên tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh của NHNT năm 2005 57 Vốn NHNT dành cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu so với số lượng trái phiếu do NHNT nắm giữ và Biểu đồ 2.9 - 58 tổng giá trị trái phiếu phát hành trên thị trường Quý I+II/năm 2006 Sơ đồ trang Sơ đồ 1.1 - Cấu trúc của thị trường tài chính 6 Sơ đồ 2.1 - Tổ chức bộ máy của Ngân hàng ngoại thương Việt nam 45
  7. Bộ giáo dục và đào tạo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Trần Hải Đăng Phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam Chuyên ngành: Tài chính, Lưu thông tiền tệ và tín dụng luận văn thạc sỹ kinh tế tóm tắt luận văn thạc sỹ Hà nội, 2006
  8. Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại là hoạt động nhằm duy trì tính thanh khoản cho một loại trái phiếu bằng cách nắm giữ một lượng đủ lớn và sẵn sàng mua hoặc bán cho khách hàng tại mức giá cam kết. Hoạt động này mang lại thu nhập cho ngân hàng và là một hoạt động quan trọng của ngân hàng hiện đại. Với mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu ở Việt nam, một ngân hàng hoạt động đa năng. Hiện nay, NHNTVN đang tích cực hoạt động trong lĩnh vực tạo lập thị trường trái phiếu. Việc phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu sẽ làm tăng vị thế của NHNT, góp phần đa dạng hoá hoạt động của ngân hàng, đồng thời góp phần quan trọng trong việc tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu Việt nam. Vì vậy việc phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của NHNTVN là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại. Phạm vi nghiên cứu là hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam từ năm 2000 đến nay.
  9. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu của đề tài, tác giả vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp phỏng vấn, điều tra, nghiên cứu tình huống, so sánh và phân tích nhằm luận giải những điều kiện tiền đề cho sự phát triển của hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu, từ đó, đề xuất hệ thống giải pháp phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. 5. Những đóng góp của luận văn Việc hệ thống hoá các vấn đề lý luận và khảo sát điều kiện thực tiễn nhằm phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của một ngân hàng thương mại sẽ có ý nghĩa trong việc xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu nói riêng cũng như phát triển thị trường chứng khoán Việt nam nói chung. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu của luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại Chương 2. Thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của NHNT Việt nam Chương 3. Giải pháp phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của NHNT Việt Nam Chương 1 Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại 1.1. Tổng quan về thị trường trái phiếu 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thị trường trái phiếu Thị trường trái phiếu (Bond Markets) là một bộ phận của thị trường tài chính và tại đó hàng hóa được mua bán là các trái phiếu hoặc cụ thể hơn
  10. được hiểu là nơi diễn ra hoạt động phát hành và giao dịch mua bán, trao đổi các loại trái phiếu của Chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Hoạt động của thị trường trái phiếu trên thị trường tài chính thường có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, thị trường trái phiếu là nơi mua bán các công cụ nợ dài hạn. Thứ hai, quy mô và khối lượng giao dịch trên thị trường trái phiếu rất lớn. Thứ ba, đối tượng tham gia thị trường trái phiếu rất đa dạng. chủ yếu là các trung gian tài chính, các nhà đầu tư có tổ chức trong đó có các ngân hàng thương mại. Thứ tư, phương thức giao dịch trên thị trường trái phiếu chủ yếu là thoả thuận, với cách thức và thời gian thanh toán hết sức linh hoạt. 1.1.2. Phân loại thị trường trái phiếu Căn cứ theo hình thức tổ chức của thị trường Theo tiêu thức này, thị trường trái phiếu được phân thành ba loại: (i) Sở giao dịch chứng khoán; (ii) Thị trường giao dịch qua quầy (OTC: Over – the – Counter Market); (iii) Thị trường thứ ba. Bên cạnh đó, người ta còn phân loại thị trường trái phiếu thành thị trường mở và thị trường đàm phán, thị trường giao ngay (Spot Markets) và thị trường kỳ hạn (Future Markets). Căn cứ theo quá trình luân chuyển vốn. Theo cách thức này, thị trường trái phiếu được phân thành (i) Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp một (Primary Market); Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp hai (Secondary Market). 1.1.3. Các thành viên tham gia thị trường trái phiếu Thị trường trái phiếu là một thực thể phức tạp mà ở đó có sự tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ thể này có thể tham gia với mục đích huy động vốn, đầu tư vốn, cung cấp dịch vụ hỗ trợ hay quản lý nhà nước. Các chủ thể trên có thể được phân thành: Chính phủ; Các doanh nghiệp; Các nhà đầu tư cá thể; Các tổ chức tài chính trung gian;
  11. 1.2. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại 1.2.1. Ngân hàng thương mại với hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Hoạt động ngân hàng thương mại được chia thành ba nhóm cơ bản như sau: (i) hoạt động huy động nguồn vốn; (ii) hoạt động sử dụng vốn; (iii) hoạt động trung gian tài chính. Từ đầu thế kỷ thứ 20 đến nay, các ngân hàng thương mại truyền thống đã dần trở thành những ngân hàng thương mại đa năng hiện đại. Hoạt động của một ngân hàng thương mại đa năng hiện đại trên thị trường trái phiếu cũng bao gồm ba hoạt động chính. (i) Ngân hàng là một nhà phát hành trái phiếu; (ii) Ngân hàng là một nhà đầu tư và kinh doanh trái phiếu; (iii) Ngân hàng thực hiện thanh toán, lưu ký, môi giới, tư vấn đầu tư và bảo lãnh phát hành trái phiếu. 1.2.2. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại Nhà tạo lập thị trường trái phiếu đó là một công ty giao dịch – môi giới. Công ty này có thể hoạt động giao dịch dưới hai hình thức. Thứ nhất là mua bán trái phiếu cho chính mình bằng nguồn vốn của công ty - đó là hoạt động giao dịch. Thứ hai là làm môi giới đại lý trái phiếu cho khách hàng để hưởng hoa hồng - đó là hoạt động môi giới. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại trên thị trường trái phiếu, thường thực hiện qua ba hoạt động chính đó là: môi giới, tự doanh và thực hiện lệnh để đáp ứng các yêu cầu từ phía nhà đầu tư. Hoạt động môi giới, là việc nhà tạo lập thị trường trái phiếu đại diện sắp xếp các giao dịch cho khách hàng và hưởng hoa hồng. Các giao dịch này xẩy ra trong trường hợp lệnh đặt mua đến nhưng nhà tạo lập thị trường trái phiếu không có đủ số trái phiếu đặt mua trong tài khoản của mình, hoặc lệnh đặt bán đến nhưng nhà tạo thị trường không đủ khả năng để mua toàn bộ số trái phiếu đặt bán của khách hàng thì để đảm bảo giao dịch, nhà tạo lập thị trường sẽ phải tìm một lệnh đối ứng khác thoả mãn toàn bộ hoặc một phần khối lượng của khách hàng đặt ra. Để tìm lệnh đối
  12. ứng này, nhà tạo lập thị trường này sẽ phải tìm đến một nhà tạo lập thị trường khác. Nhà tạo lập thị trường kia có thể trực tiếp mua hoặc bán hoặc cũng có thể chuyển tiếp một lệnh mua hoặc bán của một nhà đầu tư khác mà họ nhận được sang để đối ứng. Cơ chế này được thực hiện rất nhanh thông qua hệ thống công nghệ cơ sở của toàn thị trường. Có nhiều hệ thống khác nhau được ứng dụng ví dụ như: hệ thống NASDAQ Hoạt động môi giới của nhà tạo lập thị trường trái phiếu không phải là hoạt động mua bán trái phiếu, chỉ đơn giản là sắp xếp các giao dịch giữa người mua và người bán. Hoạt động tự doanh, nhà tạo lập thị trường có thể đóng vai là một đối tác trong giao dịch, có nghĩa là nếu lệnh đặt đến là lệnh mua, nhà tạo lập thị trường sẽ bán các trái phiếu tương ứng có trong kho của mình. Còn nếu lệnh đặt đến là lệnh bán, nhà tạo lập thị trường sẽ tiến hành mua khối lượng trái phiếu mà nhà đầu tư muốn bán. Lệnh mua hay bán mà nhà tạo lập thị trường nhận được chính là lệnh đáp lại các chào mua, chào bán mà nhà tạo lập thị trường đã yết ra trên thị trường. Việc mua và bán những trái phiếu trên sẽ bằng chính tài khoản của mình (người bỏ vốn). Hoạt động mua và bán trái phiếu cho chính mình đôi khi được gọi là giao dịch theo vị thế. Giữ vị thế trong một trái phiếu cũng có thể được hiểu là kiểm soát số trái phiếu đó. Các nhà tạo lập thị trường trái phiếu có thể không giao dịch thái quá cho tài khoản của họ, bởi vì điều này có thể làm ách tắc việc duy trì một thị trường công bằng và trật tự. Bất kỳ giao dịch nào thực hiện để lôi kéo thị trường hay lừa dối khách hành đều bị pháp luật ngăn cấm. Khi bán trái phiếu của mình, nhà tạo lập thị trường trái phiếu nhận từ khách hàng khoản chênh lệch tăng chứ không phải hưởng hoa hồng. Khoản chênh lệch tăng là sự khác biệt giữa giá chào bán của nhà nhà tạo lập thị trường trái phiếu hiện hành và giá thực sự khách hàng phải trả. Khi giá gửi đến khách hàng bao gồm khoản chênh lệch tăng của nhà tạo lập thị trường trái phiếu, nó được gọi là giá ròng. Nhà tạo lập thị trường trái phiếu không chỉ sắp xếp các giao dịch cho khách hàng mà thực chất là bán trái phiếu từ tồn kho của mình cho khách hàng.
  13. Thực hiện lệnh, Nhà tạo lập thị trường trái phiếu có thể thực hiện lệnh mua, lệnh bán của khách hàng theo bất kỳ cách nào sau đây: * Có thể hoạt động như đại diện của khách hàng tìm kiếm người bán, người mua và sắp xếp cho việc giao dịch. * Có thể mua trái phiếu từ nhà tạo lập thị trường trái phiếu khác và sau đó bán lại cho khách hàng và thu khoản chênh lệch tăng. * Có thể bán trái phiếu từ “kho” của mình cho khách hàng. 1.2.3. Lợi thế và bất lợi của hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Lợi thế của hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu là: được hưởng lợi từ việc kinh doanh trái phiếu; lãi của trái phiếu; tăng giá của trái phiếu; được ưu đãi về tài chính, phí, lệ phí khi tiến hành hoạt động trên TTTP; lợi thế về mặt thông tin; uy tín của ngân hàng được nâng lên; được hỗ trợ về mặt kỹ thuật, tư vấn từ phía Uỷ ban Chứng khoán, Ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội kinh doanh chứng khoán; và các quyền hợp pháp khác. Bất lợi là: tính linh hoạt các danh mục đầu tư bị ảnh hưởng; gặp tổn thất về giá; có lợi thế về thông tin nhưng vẫn không bằng những người có thông tin nội gián; luôn phải đầu tư thay mới trang thiết bị cũng như việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực; chịu sự quản lý chặt chẽ hơn từ phía các nhà quản lý thị trường so với các nhà kinh doanh trái phiếu. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại Sự phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào các nhân tố sau: Nhân tố chủ quan bao gồm: Quy mô về vốn; Đội ngũ nhân viên; Cơ sở vật chất kỹ thuật; Hệ thống thông tin; Quan điểm của các nhà lãnh đạo; Các nhân tố khác. Nhân tố khách quan bao gồm: Nhân tố pháp lý; Nhân tố chính sách; Sự phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng; Sự phát triển của Hiệp hội môi giới và kinh doanh chứng khoán; Các nhân tố khác.
  14. Kết luận chương 1 Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại là một vấn đề tương đối mới mẻ và mang tính thời sự. Trong chương 1 đã đưa ra được cái nhìn tổng quan về thị trường trái phiếu và nhà tạo lập thị trường trái phiếu. Đồng thời cũng đã khái quát được nội dung hoạt động, những nhân tố ảnh hưởng và những lợi thế, bất lợi thế trong hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, đã chỉ ra được tầm quan trọng của hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu. Chương 2 Thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Của ngân hàng ngoại thương việt nam 2.1. Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam 2.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam Thị trường trái phiếu ở nước ta xuất hiện từ năm 1945, tuy nhiên, cho đến giữa những năm 1990 thị trường trái phiếu vẫn chưa phát triển. Đầu những năm 1990, cùng với tiến trình Đổi mới của nền kinh tế – xã hội, thị trường trái phiếu Việt Nam với đúng nghĩa của nó đã từng bước được hình thành và phát triển. Tại thời điểm này có thể chia thị trường trái phiếu Việt Nam thành hai loại thị trường: đó là thị trường trái phiếu Chính Phủ và thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường trái phiếu Chính Phủ.Trong giai đoạn 1990 – 2000, thị trường phát hành trái phiếu Chính phủ được hoàn thiện và đẩy mạnh phát triển. Chính phủ đã ban hành hàng Nghị định 72/CP và Nghị định 48/1998/NĐ-CP điều chỉnh hoạt động giao dịch trái phiếu Chính phủ trên thị trường thứ cấp . Tháng 7/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức khai trương hoạt động, thị trường trái phiếu đã có bước phát triển mới. Điều này đã tác động lớn đến thị trường trái phiếu Chính phủ. Cả thị trường phát hành và thị trường giao dịch trái phiếu Chính phủ đều phát triển mạnh.
  15. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Được hình thành sau khi Luật Công ty ra đời năm 1990 và chỉ phát triển sau khi Chính phủ ban hành quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu của doanh nghiệp Nhà nước (Nghị định số 120/NĐ-CP ngày 17/9/1994). Đối với các ngân hàng thương mại, kể từ khi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành thể lệ phát hành trái phiếu các tổ chức tín dụng (Quyết định số 212/QĐ- NH1 ngày 22/09/1994), một số Ngân hàng Thương mại cũng phát hành trái phiếu. Năm 1998, Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán ra đời, đã tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ cho việc phát hành, niêm yết và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Tiếp theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP ra đời ngày 28/11/2003, và gần đây nhất ngày 29/06/2006 Luật chứng khoán đã được ban hành. Thời gian này, các doanh nghiệp đã dần quen và từng bước thích nghi với trái phiếu, hoạt động phát hành và hoạt động giao dịch và kinh doanh trái phiếu của các doanh nghiệp sôi động hơn. 2.1.2. Thị trường phát hành trái phiếu Đối với trái phiếu Chính Phủ: Tín phiếu kho bạc được phát hành tăng lên hàng năm. Năm 2001 đạt 3,886 tỷ đồng (2002: 7,919; 2003: 15,130; 2004: 18,411; 2005: 20,901) Nguồn: Bộ Tài Chính. Trái phiếu Chính Phủ là các loại trái phiếu có kỳ hạn từ 1 năm trở lên bao gồm: Trái phiếu kho bạc; Trái phiếu công trình; Trái phiếu đầu tư; Công trái; Trái phiếu ngoại tệ, cũng được phát hành với khối lượng ngày càng tăng. Biểu đồ 2.1-Khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành hàng năm đơn vị: tỷ đồng 35,000 28,905 30,000 25,000 18,624 20,000 16,606 15,000 10,000 5,453 5,589 4,100 5,000 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nguồn: Bộ Tài Chính
  16. Đối với trái phiếu doanh nghiệp. Ngay từ những năm 1994, một số doanh nghiệp Nhà nước đã áp dụng hình thức phát hành trái phiếu để huy động vốn nhưng số lượng còn ít. Từ năm 1994 đến nay đã có nhiều doanh nghiệp phát hành trái phiếu hơn nhưng vẫn chỉ tập trung vào các tổng công ty Nhà nước và các ngân hàng thương mại với tổng số vốn huy động trên 10.000 tỷ đồng. 2.1.3. Thị trường giao dịch trái phiếu Trước tháng 7/2000, ở Việt Nam hầu như không có thị trường thứ cấp. Từ tháng 7/2000 TTGDCK tp. Hồ Chí Minh được đưa vào hoạt động mới hình thành thị trường thứ cấp chính thức. Giao dịch qua nghiệp vụ thị trường mở. Thị trường mở bắt đầu hoạt động từ 7/2000. Khối lượng tín phiếu kho bạc giao dịch trên thị trường mở từ khi hoạt động đến 31/12/2005 đạt trên 90.000 tỷ đồng. Giao dịch trên Trung tâm giao dịch Chứng khoán. Các loại trái phiếu niêm yết trên TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội được giao dịch theo hai phương thức đấu giá khớp lệnh và giao dịch thoả thuận. Do TTGDCK Hà Nội mới đi vào hoạt động nên khối lượng và giá trị giao dịch còn rất nhỏ, chủ yếu các trái phiếu được giao dịch qua TTGDCK tp Hồ Chí Minh. Bảng 2.1-Khối lượng trái phiếu niêm yết trên TTGDCK hàng năm Đơn vị: ngàn trái phiếu; tỷ đồng Năm 2002 2003 2004 2005 Quý I+II/ 2006 Số trái phiếu niêm yết 48 144 322 584 684 Khối lợng niêm yết 14.973,24 152.033,24 370.467,24 717.848,73 992.028,73 Giá trị niêm yết 1.497 15.203 37.047 71.785 99.053 Nguồn: Trung tâm giao dịch chứng khoán tp Hồ Chí Minh Tương đồng với lượng trái phiếu niêm yết trên thị trường, giá trị giao dịch trái phiếu cũng tăng lên hàng năm thể hiện qua biểu đồ 2.2
  17. Biểu đồ 2.2- Giá trị giao dịch trái phiếu hàng năm Đơn vị: tỷ đồng 30,000.00 25,000.00 23,837.59 22,945.26 20,000.00 17,877.99 15,000.00 9,493.63 10,000.00 5,000.00 118.01 2,491.72 3.55 4.58 5.29 0.00 0.00 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Quí I+II/2006 Khớp lệnh Thoả thuận Nguồn: Trung tâm giao dịch chứng khoán tp Hồ Chí Minh Qua số liệu cho thấy, thị trường giao dịch trái phiếu tuy có những chuyển biến tích cực trên thị trường nhưng có thể thấy giao dịch trái phiếu chưa phổ biến, khối lượng giao dịch chưa lớn, thị trường trái phiếu vẫn chưa hấp dẫn các nhà đầu tư. 2.2. Thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam 2.2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Ngân hàng Ngoại thương việt Nam được thành lập vào ngày 01/04/1963, trải qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, tới nay NHNT đã phát triển lớn mạnh theo mô hình tập đoàn tài chính đa năng với 67 chi nhánh, 01 sở giao dịch, 52 phòng giao dịch và 04 công ty con trực thuộc trên toàn quốc, 02 văn phòng đại diện và 01 công ty con ở nước ngoài. Tổng tài sản của NHNT tại thời điểm cuối năm 2005 lên tới hơn 140.000 tỷ đồng, tổng dư nợ đạt gần 58.000 tỷ đồng. Những kết quả trên được thể hiện trên kết quả kinh doanh của NHNT qua 2 năm gần nhất bảng 2.2
  18. Bảng 2.2 - Kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất của Vietcombank Đơn vị: Triệu đồng Quý Chỉ tiêu Ghi chú 2005 2004 I/2006 I. Thu nhập lãi và các khoản tương đương 1.900.106 6.345.238 3.852.104 II. Chi phí lãi và các khoản tương đương 865.241 3.034.139 2.440.551 III. Thu nhập lãi thuần và các khoản tương đương (III) = (I) - (II) 1.034.865 3.311.099 1.411.553 IV. Thu nhập ngoài lãi thuần 246.118 975.252 1.432.425 V. Tổng thu nhập hoạt động kinh doanh (V) = (III) + (IV) 1.280.983 4.286.351 2.843.978 VI. Tổng chi phí hoạt động kinh doanh 234.248 967.922 882.827 VII. Thu nhập hoạt động kinh doanh thuần (VII) = (V) - (VI) 1.046.735 3.318.429 1.961.151 VIII. Chi phí dự phòng rủi ro - 1.558.546 462.566 IX. Lợi nhuận trước thuế (IX) = (VII) - (VIII) 1.046.735 1.759.883 1.498.585 X. Thuế thu nhập doanh nghiệp 293.086 467.330 394.772 XI. Lợi nhuận sau thuế (XI) = (IX) - (X) 753.649 1.292.553 1.103.813 XII. Lợi ích của các cổ đông thiểu số 879 2.344 1.040 XIII. Lợi nhuận thuần trong năm (XIII) = (XI) - (XII) 752.770 1.290.209 1.102.773 Nguồn: Bản cáo bạch của Vietcombank 2.2.2. Thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Với quy mô và tiềm lực sẵn có về vốn, công nghệ và trình độ chuyên nghiệp của các giao dịch viên, NHNT đã từng bước tiến hành hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu. Điều này được đánh dấu bằng việc NHNT chính thức khai trương Nghiệp vụ kinh doanh trái phiếu vào ngày 10/08/2005 – ghi nhận NHNT là ngân hàng đầu tiên ở VN yết giá hai chiều và cam kết mua và bán những loại trái phiếu đã niêm yết. Qua hơn 10 tháng hoạt động, hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của NHNT đã đạt được những kết quả rất khả quan như: số lượng trái phiếu do NHNT nắm giữ tính đến hết 30/06/2006 đạt trên 20.656 tỷ đồng, doanh số mua bán đạt trên 63.423 tỷ đồng thể hiện qua những số liệu sau.
  19. Bảng 2.3 – Loại, số lượng, giá trị trái phiếu do Ngân hàng Ngoại thương nắm giữ Chủng loại trái Số lượng (nghìn trái phiếu) Giá trị (tỷ đồng) phiếu Trái phiếu niên yết trên thị trường 8 206.562 20.656,28 do NHNT nắm giữ Doanh số giao dịch mua/bán trái phiếu từ đầu năm 2006 đến ngày 30/06/2006 đạt trên 63.423 tỷ đồng. Biểu đồ 2.3 – Doanh số mua bán trái phiếu của NHNT trong Quý I + II/2006 Đơn vị: tỷ đồng 18000 15527.55 16000 14000 12592.25 12000 10693.77 9808.6 10000 8464.9 8000 6345.2 6000 4000 2000 0 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Tổng doanh số mua bán trái phiếu của NHNT thực hiện so với tổng doanh số giao dịch mua bán trái phiếu của VCBS đến hết quý II năm 2006 được thể hiện qua biểu đồ 2.4
  20. Biểu đồ 2.4 – Doanh só mua bán Biểu đồ 2.5 - Số lượng nhân viên trái phiếu Quý I + II /2006 trong hoạt động kinh doanh trái phiếu Đơn vị: tỷ đồng Đơn vị: người 70000 63432 60000 12 50000 40000 30000 20000 9332 10000 0 6 Tại NHNTTW Tại VCBS Tại NHNTTW Tại VCBS Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Biểu đồ 2.6 - Tỷ trọng loại trái phiếu niêm yết trên thị trường do NHNT nắm giữ so với tổng các loại trái phiếu được niêm yết trên thị trường 1.16% Trái phiếu NHNT nắm giữ: 8 loại Trái phiếu toàn thị trường: 684 loại 98.84% Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
  21. Biểu đồ 2.7 - Tỷ trọng giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường do NHNT nắm giữ so với tổng giá trị trái phiếu được niêm yết trên thị trường 17.26% 82.74% Giá trị trái phiếu NHNT nắm giữ: 20.656 tỷ đồng Giá trị trái phiếu toàn thị trường: 99.053 tỷ đồng Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Biểu đồ 2.8 – Kết cấu tỷ trọng của các khoản thu nhập trên tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh của NHNT năm 2005 0.5% 7.4% 4.5% 10.4% 77.2% Lãi và các khoản tương đương Dịch vụ Kinh doanh ngoại hối Kinh doanh và đầu tư chứng khoán Khác Nguồn: Bản cáo bạch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
  22. Tổng số vốn Ngân hàng ngoại thương Việt Nam dành cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu là 700 tỷ đồng, số vốn này so với lượng trái phiếu niêm yết do Ngân hàng Ngoại thương nắm giữ và tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường được thể hiện qua biểu đồ 2.9 Biểu đồ 2.9 - Vốn NHNT dành cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu so với số lượng trái phiếu do NHNT nắm giữ và tổng giá trị trái phiếu phát hành trên thị trường Quý I+II/năm 2006 Đơn vị: tỷ đồng 120,000 110,372 100,000 80,000 60,000 40,000 20,565 20,000 700 0 Vốn NHNT dành cho kinh Tổng giá trị trái phiếu do Tổng giá trị trái phiếu phát doanh trái phiếu NHNT nắm giữ hành trên thị trường Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Trên đây là thực trạng hoạt động tạo lập thi trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, thực trạng hoạt động này sẽ được đánh giá chi tiết ở phần nghiên cứu tiếp theo. 2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2.3.1. Những kết quả đạt được Thứ nhất, số lượng trái phiếu nắm giữ tương đối lớn. Thứ hai, doanh số giao dịch trái phiếu đã đạt được so với thời gian hoạt động và số lượng cán bộ tham gia giao dịch là rất khả quan trên 63.423 tỷ đồng tính đến 30/06/2006. Thứ ba, hoạt
  23. động kinh doanh trái phiếu đã đóng góp một phần trong việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh. Thứ tư, làm tăng tính thanh khoản của trái phiếu. Thứ năm, đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng Ngoại thương. Thứ sáu, uy tín của Vietcombank tăng. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Hạn chế hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chưa thực sự phát triển, NHNT chưa phải là một nhà tạo lập thị trường theo đúng nghĩa. Những hạn chế có thể được kể đến như sau: Thứ nhất, chủng loại trái phiếu niêm yết trên thị trường do Ngân hàng Ngoại thương nắm giữ còn ít. Thứ hai, khối lượng và giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường do Ngân hàng Ngoại thương nắm giữ còn nhỏ. Thứ ba, hầu hết nghiệp vụ tạo lập thị trường trái phiếu mới chỉ dừng lại ở nghiệp vụ tự doanh chưa có giao dịch môi giới. Thứ tư, trong nghiệp vụ tự doanh cũng chỉ chủ yếu là các nghiệp vụ mua bán hẳn chiếm 90.21%, còn nghiệp vụ mua bán lại (REPO) chiếm tỷ trọng rất ít 9.79%. Thứ năm, doanh số mua bán trái phiếu chưa cao, chưa tạo được sự tăng trưởng đều đặn qua từng kỳ. Thứ sáu, thu nhập trong hoạt động kinh doanh trái phiếu đem lại cho ngân hàng còn thấp. Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế đã nêu ở phần trên bao gồm các nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính Ngân hàng Ngoại thương và các nguyên nhân khách quan tác động từ bên ngoài. (i) Nguyên nhân chủ quan. Thứ nhất, hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu vẫn chưa dành được sự quan tâm đặc biệt của Ban lãnh đạo NHNT. Thứ hai, chưa có một bộ phận chuyên biệt cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của NHNT. Thứ ba, lực lượng cán bộ phục vụ cho hoạt động kinh doanh trái phiếu chưa nhiều. Thứ tư, cơ sở vật chất kỹ thuật dành cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của NHNT chưa đáp ứng được với nhu cầu của thị trường. Thứ năm, quy mô vốn dành cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu còn hạn chế. Thứ sáu, các nguyên nhân khác như: quan hệ của ngân hàng với khách hàng và các nhà tạo lập thị trường trái phiếu khác; khả năng thu thập và phân tích thông tin; kỹ thuật phân tích thị trường; phát triển ứng dụng các công cụ phòng vệ, v.v đều chưa được phát triển.
  24. (ii) Nguyên nhân khách quan. Thứ nhất, môi trường pháp lý và kinh doanh không thuận lợi. Thứ hai, các chính sách tài chính tiền tệ chưa thúc đẩy được hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu. Thứ ba, do chưa có một thị trường OTC thực sự phát triển. Thứ tư, hoạt động phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập. Thứ năm, hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức chưa phát triển. Thứ sáu, các nguyên nhân khác như: hệ thống cơ sở hạ tầng thị trường chưa hiện đại; cơ chế lãi suất chưa linh hoạt; công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa thường xuyên và đồng bộ,v.v Kết luận chương 2 Thông qua việc nghiên cứu hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương trên thị trường trái phiếu ở Việt Nam, chương 2 của luận văn đã đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu tại Ngân hàng Ngoại thương, từ đó rút ra nguyên nhân của những vấn đề tồn tại làm cơ sở để đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới. Chương 3 Giải pháp phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng ngoại thương việt nam 3.1. Định hướng phát triển Ngân hàng Ngoại thương Việt nam Với mục tiêu trở thành NHTM hàng đầu tại Việt Nam và phấn đấu trở thành ngân hàng quốc tế trong khu vực, song song với việc mở rộng quy mô, Ngân hàng Ngoại thương cũng đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng và phát triển những mô thức quản lý ngân hàng hiện đại để nâng cao hiệu quả quản lý và giảm bớt rủi ro trong kinh doanh. Hai lĩnh vực quan trọng nhất được ứng dụng kỹ thuật quản lý hiện đại là quản trị rủi ro tín dụng và quản lý vốn. Mô thức quản trị đang được Ngân hàng Ngoại thương nghiên cứu ứng dụng cùng với sự trợ giúp của tư vấn quốc tế trong thời gian qua. Và nếu thành công, Ngân hàng Ngoại thương sẽ trở thành một trong
  25. số ít các ngân hàng ở Châu á cải tổ hệ thống tổ chức và áp dụng mô thức quản lý hiện đại. 3.1.1. Mục tiêu trở thành tập đoàn tài chính quốc tế Ngân hàng Ngoại thương Quy mô hướng tới một tập đoàn tài chính quốc tế. Trước những yêu cầu cấp bách của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương đã xác định một mục tiêu cụ thể – trở thành một Tập đoàn tài chính đa năng có qui mô đứng trong số từ 50 – 70 tập đoàn tài chính lớn nhất ở Châu á vào giai đoạn 2015 – 2020, có phạm vi hoạt động không những trong nước mà cả tại các thị trường tài chính thế giới. Về tổ chức, Ngân hàng Ngoại thương đang phấn đấu xây dựng mô hình tập đoàn tài chính với cơ cấu như sau. (i) Hoạt động Ngân hàng Thương mại: là xương sống của “Tập đoàn tài chính Vietcombank” – ngoài mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh hoạt động trong nước, sẽ tiến tới thành lập các Chi nhánh tại nước ngoài; các hoạt động kinh doanh trên thị trường tái chính cũng sẽ tiếp tục vươn rộng ra trên thị trường toàn cầu; các đơn vị trong mảng kinh doanh này (tổ chức hoạt động theo thị trường và đối tượng khách hàng bán buôn, bán lẻ). (ii) Hoạt động Ngân hàng Đầu (iii) Hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. (iv) Hoạt động kinh doanh bất động sản. 3.1.2. Mục tiêu phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của NHNT Cuối năm 2005 Ngân hàng Ngoại thương đã khai trương nghiệp vụ kinh doanh trái phiếu đây là một tiền đề hết sức quan trọng để Vietcombank phát triển hoạt động của một trung gian tài chính với vai trò là nhà tạo lập thị trường trái phiếu, là đầu mối kết nối giao dịch trái phiếu với hàng trăm đối tác trong và ngoài nước. Để góp phần thực hiện các mục tiêu trên, nhất là việc Ngân hàng ngoại thương phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu, trên cơ sở phân tích và đánh giá những khó khăn, hạn chế của hoạt động Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian qua, chúng tôi xin trình bầy một số giải pháp và kiến nghị như sau. 3.2. Giải pháp 3.2.1. Tăng cường sự quan tâm của Lãnh đạo ngân hàng
  26. Ban lãnh đạo Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên dành cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu một sự quan tâm đặc biệt cụ thể. Thành lập một bộ phận chuyên nghiệp, xây dựng một quy chế hoàn chỉnh cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đưa ra một kế hoạch cụ thể cho từng thời kỳ. 3.2.2. Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức ngân hàng Sự phát triển của thị trường trái phiếu trong đó có hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu không thể không dựa trên sơ sở hoạt động của ngân hàng thương mại. Để Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường trái phiếu với vai trò là nhà tạo lập thị trường, chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức của NHNT theo hướng NHTM đa năng. 3.2.3. Tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Con người là một trong những yếu tố quyết định và quan trọng trong sự phát triển của hoạt động tạo lập thị trường. Nếu thiếu đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên giỏi, có đạo đức kinh doanh thì hiệu quả thu lại sẽ rất thấp. Do dó Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần ưu tiên và chú trọng tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ đảm nhiệm nghiệp vụ tạo lập thị trường. 3.2.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật Để thực hiện được các hoạt động mới luôn cần có cơ sở vật chất mới đáp ứng. Với hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu thì cơ sở vật chất kỹ thuật lại càng phải được quan tâm hơn, bởi thị trường trái phiếu luôn rất nhậy cảm với mọi sự biến động của nền kinh tế xã hội, trong nước và quốc tế cho nên nếu nhà tạo lập thị trường không có một cơ sở vật chất kỹ thuật như: Hệ thống truyền tin, ghép lệnh, Hệ thống niêm yết giá, Hệ thống ký gửi, thanh toán thật tốt thì sẽ không đảm bảo được quyền lợi cho khách hàng cũng như quyền lợi của chính mình. 3.2.5. Tăng vốn cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Quy mô về vốn là một yếu tố then chốt quyết định tới việc Ngân hàng có trở thành một nhà tạo lập thị trường trái phiếu hay không. Bởi các nhà tạo lập thị trường
  27. luôn phải bảo đảm một lượng vốn để sẵn sàng mua trái phiếu và một lượng trái phiếu để sẵn sàng bán khi có yêu cầu. Do vậy, nếu lượng vốn và trái phiếu do Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nắm giữ không đủ lớn, ngân hàng sẽ không thể đóng vai là một nhà tạo lập thị trường trái phiếu được. Đối với Ngân hàng Ngoại thương hiện nay việc dành 700 tỷ đồng cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu e rằng là quá nhỏ so với tổng nguồn vốn huy động của NHNT (125.000 tỷ đồng) và so với tổng giá trị trái phiếu phát hành trên thi trường (110.372 tỷ đồng). Trong thời gian tới theo tôi, NHNT nên dành cho hoạt động tạo lập thị trường một nguồn vốn vào khoảng 10.000 tỷ đồng. 3.2.6. Các giải pháp khác - Mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng và các nhà tạo lập thị trường khác. Để chiếm lĩnh được thị trường ngoài khả năng về vốn, trình độ nghiệp vụ chuyên môn, cơ sở vật chất kỹ thuật, v.v thì mối quan hệ của ngân hàng với khách hàng và các nhà tạo lập thị trường khác là rất quan trọng. - Nâng cao khả năng thu thập và phân tích thông tin. Đối với Ngân hàng Ngoại thương việc thu thập và phân tích thông tin thường xuyên là yêu cầu bắt buộc không chỉ đối với hoạt động tạo lập thị trường mà còn đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Việc thu thập và phân tích thông tin này không chỉ gói gọn với thị trường trong nước mà phải trải rộng ra cả thị trường quốc tế. - Tiếp tục nâng cao kỹ thuật phân tích thị trường. Để thực hiện tốt hoạt động tạo lập thị trường, ngân hàng sẽ phải thực hiện rất nhiều hoạt động trong đó có hoạt động phân tích thị trường, hoạt động này giúp cho ngân hàng xác định được giá và khối lượng trái phiếu tốt nhất để tham gia giao dịch, giúp đáp ứng nhiều đối tượng đầu tư có nhu cầu khác nhau. Bên cạnh đó còn thực hiện được chức năng phòng vệ, hạn chế các rủi ro có thể xẩy ra. - Cần phát triển và ứng dụng các công cụ phòng vệ. Để hạn chế hoặc loại bỏ các rủi ro, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần phải có các công cụ tự bảo hiểm để đối phó với rủi ro lãi suất do việc nắm giữ trái phiếu. Các công cụ tự bảo hiểm thường là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hoán đổi, quyền lựa chọn.
  28. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Tiếp tục ổn định môi trường kinh tế vĩ mô Chính phủ phải tiếp tục đảm bảo được yêu cầu ổn định môi trường kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích tiết kiệm, nâng cao khả năng huy động vốn trên thi trường tài chính. 3.3.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý Hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thị trường trái phiếu hiện đang bị chi phối bởi nhiều văn bản pháp lý khác nhau. Qua các hoạt động thực tiễn cho thấy, khung pháp lý cho hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thị trường trái phiếu còn chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ và còn phức tạp. Các ngân hàng thương mại vừa hoạt động trên thị trường trái phiếu với tư cách trực tiếp cung cấp hàng hoá hoặc trong vai trò là người kinh doanh trái phiếu, vừa tham gia gián tiếp cung cấp các dịch vụ tài chính cho khác hàng và cho thị trường. Để phát triển các ngân hàng theo hướng đa năng, cần thiết phải có một khung pháp lý hoàn chỉnh để điều chỉnh các hoạt động trên. 3.3.3. Tiếp tục thực hiện cải cách chính sách tài chính - tiền tệ (i) Các chính sách thu đã có những chuyển biến tích cực, tạo cơ sở cho việc kiểm soát bội chi Ngân Sách Nhà Nước. Các hình thức huy động bằng phát hành trái phiếu của Chính Phủ ngày càng đa dạng và phong phú, lãi suất ngày càng hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, hình thức huy động này còn một số hạn chế, Chính Phủ nên có những phương thức đấu giá với chu kỳ đều đặn hơn. Không nên sử dụng phương thức bán lẻ mà chỉ nên sử dụng phương thức đấu giá hoặc phát hành thông qua tổ hợp các ngân hàng thương mại Nhà Nước. (ii) Trong hoạt động chi Ngân Sách Nhà Nước, cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề tiết kiệm và hiệu quả. Song song với nó, cần triệt để chống bao cấp, chống tham nhũng và phát huy các nguồn vốn trong dân cư và các tổ chức kinh tế để giảm chi cho Ngân Sách và tăng hiệu quả của chi tiêu. Việc cải cách chi Ngân Sách sẽ tạo
  29. điều kiện tăng phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tạo môi trường phát triển các doanh nghiệp cũng như nâng cao dân trí, giáo dục. Các vấn đề khác cần giải quyết để tạo điều kiện ổn định và phát triển kinh tế là tiếp tục thực hiện cải cách trong điều hành chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá; Đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại, v.v 3.3.4. Thành lập và phát triển thị trường OTC Với một số lượng rất lớn trái phiếu lưu hành trên thị trường tự do đã cho thấy một tiềm năng và một yêu cầu cấp thiết trong việc phát triển thị trường giao dịch qua quầy (OTC) ở Việt Nam hiện nay. Khó khăn cơ bản cho việc thiết lập thị trường OTC là : các trái phiếu phần lớn dưới dạng vật chất và chưa được lưu ký ở các tổ chức lưu ký ; việc mua bán chủ yếu được thực hiện thanh toán trực tiếp mà không thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng ; trình độ, ý thức của các nhà đầu tư chưa cao ; hệ thống pháp luật pháp luật chưa đồng bộ và thiếu hoàn thiện. Để thành lập và vận hành thị trường OTC có hiệu quả, sự can thiệp thậm chí có tính cưỡng bức của Chính Phủ là cần thiết và vai trò của các ngân hàng thương mại đối với thị trường này là rất lớn. 3.3.5. Hoàn thiện chức năng và tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà Nước Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong cải cách hành chính, song hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà Nước Việt Nam đang là vấn đề cần quan tâm, đặc biệt là sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà Nước. Hoạt động của các ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu nói riêng chịu sự quản lý của nhiều cơ quan quản lý Nhà Nước khác nhau, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước, Bộ tài chính. Chính sự trì trệ và yếu kém trong phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà Nước đã làm cho các ngân hàng thương mại bị động và lúng túng trong việc triển khai các hoạt động. Việc cải cánh hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà Nước trong lĩnh vực tài chính phải nhằm mục đích tăng tính tự chủ của các ngân hàng, để các ngân hàng thực sự là các tổ chức kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.
  30. 3.3.6. Phát triển hệ thống các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư có tổ chức Để bảo đảm mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu bền vững, cần nghiên cứu thực thi các giải pháp tăng cầu trái phiếu. Nói cách khác là phát triển hệ thống các nhà đầu tư trái phiếu bảo đảm tính bền vững của mối quan hệ cung – cầu trái phiếu trong quá trình phát triển. 3.3.7. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng thị trường Việc nâng cao tính minh bạch, công khai, công bằng thông tin phải dựa trên cơ sở hoàn thiện và thực thi quy định về công bố thông tin, quy định quản trị công ty; phải xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường chứng khoán nói chung, thị trường trái phiếu nói riêng một cách thống nhất. 3.3.8. Hoàn thiện cơ chế xác định lãi suất trái phiếu Lãi suất trái phiếu và giá trái phiếu có mối quan hệ chặt chẽ vì vậy thực chất định giá là xác định lãi suất phát hành. Về lâu dài cần xây dựng đường cong lãi suất chuẩn của các loại trái phiếu có kỳ hạn khác nhau làm cơ sở cho việc định giá các loại trái phiếu mới phát hành. 3.3.9. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực Nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán nói chung, thị trường trái phiếu nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để nhanh chóng đào tạo được một nguồn nhân lực dồi dào, có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu, Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước phối hợp với Ngân hàng Nhà Nước và Hiệp hội kinh doanh chứng khoán cần xây dựng các chương trình cụ thể. Kết luận chương 3 Để tăng cường hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của các ngân hàng thương mại trong tiến trình xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu ở Việt Nam, các giải pháp và kiến nghị của luận văn được đưa ra theo hai hướng: Các giải pháp nhằm phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và các kiến nghị nhằm cải tạo môi trường hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của các ngân hàng thương mại khi tham gia vào thị trường thị trường chứng
  31. khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Việc thực hiện các giải pháp và kiến nghị trên có thể giúp thị trường trái phiếu ở Việt Nam phát triển hoà nhập với thông lệ quốc tế, từng bước đưa nền kinh tế của Việt Nam hội nhập với nền kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới. Kết luận Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu là hết sức quan trọng đối với việc nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu, đây chính là một động lực thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển, từ đó góp phần vào việc hoàn thiện cấu trúc của thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu và vận dụng các lý luận kinh tế - tài chính, luận văn đã thực hiện được các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra và được trình bầy như sau: Thứ nhất, trình bầy những vấn đề cơ bản về hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại. Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện nay, đặc biệt tập trung đi sâu vào phân tích các mặt đạt được và hạn chế của hoạt động tạo lập thị trường của NHNT, qua đó, đưa ra những nguyên nhân dẫn đến những mặt hạn chế trên. Thứ Ba, thông qua những nguyên nhân gây cản trở sự phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của NHNT trong thời gian tới. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu là một lĩnh vực hết sức mới mẻ đối với thị trường trái phiếu ở Việt Nam, đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu nghiêm túc và công phu cả về mặt thực tiễn lẫn lý luận, những kết quả nghiên cứu của luận văn chỉ là một số đóng góp nhỏ và chưa thể bao quát toàn bộ các khía cạnh, lĩnh vực. Do vậy, chắc chắn còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để không ngừng phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới.
  32. Bộ giáo dục và đào tạo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Trần Hải Đăng Phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam Chuyên ngành: Tài chính, Lưu thông tiền tệ và tín dụng luận văn thạc sỹ kinh tế Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Đăng Khâm Hà nội, 2006
  33. Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Tạo lập thị trường trái phiếu là một hoạt động của ngân hàng thương mại hoặc một công ty chứng khoán nhằm duy trì tính thanh khoản cho một loại trái phiếu bằng cách nắm giữ một lượng đủ lớn và sẵn sàng mua hoặc bán cho khách hàng tại mức giá cam kết. Hoạt động này mang lại thu nhập cho nhà tạo lập thị trường từ lợi tức trái phiếu, từ chênh lệch giá, từ phí môi giới và từ những lợi thế mà ngân hàng thương mại được hưởng khi thực hiện chức năng tạo lập thị trường. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu là một hoạt động quan trọng của ngân hàng hiện đại nên luôn được các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý nghiên cứu phát triển. Với mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu ở Việt nam, một ngân hàng tầm cỡ quốc tế ở khu vực, hoạt động đa năng, phục vụ tốt nhất nhu cầu khách hàng, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã tích cực tham gia ngay từ những ngày đầu thành lập thị trường chứng khoán ở Việt nam. Tổng giá trị chứng khoán đầu tư của NHNT tính theo giá trị sổ sách 31/12/2003 đạt hơn 14 ngàn tỷ đồng, doanh số mua bán chứng khoán đạt gần 25 ngàn tỷ, chủ yếu là kỳ phiếu, trái phiếu và công trái. Hoạt động này đã mang lại thu nhập không nhỏ cho ngân hàng. Hiện nay, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đang tích cực hoạt động trong lĩnh vực tạo lập thị trường trái phiếu. Việc phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu sẽ làm tăng vị thế của Ngân hàng Ngoại thương, góp phần đa dạng hoá hoạt động của ngân hàng, đồng thời góp phần quan trọng trong việc tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu Việt nam. Với lý do trên, “Phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam” đã được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu a) Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại
  34. b) Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. c) Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu a) Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại. b) Phạm vi nghiên cứu là hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam từ năm 2000 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu của đề tài, tác giả vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp phỏng vấn, điều tra, nghiên cứu tình huống, so sánh và phân tích nhằm luận giải những điều kiện tiền đề cho sự phát triển của hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu, từ đó, đề xuất hệ thống giải pháp phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. 5. Những đóng góp của luận văn Hoạt động tạo lập thị trường là một hoạt động mới của các trung gian tài chính ở Việt nam, do vậy, việc hệ thống hoá các vấn đề lý luận và khảo sát điều kiện thực tiễn nhằm phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của một ngân hàng thương mại sẽ có ý nghĩa không chỉ đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển hoạt động này của các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán và trong việc xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu nói riêng cũng như phát triển thị trường chứng khoán Việt nam nói chung. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
  35. Chương 1. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại Chương 2. Thực trạng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam Chương 3. Giải pháp phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam
  36. CHương 1 Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại 1.1. Tổng quan về thị trường trái phiếu 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thị trường trái phiếu 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trái phiếu Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về trái phiếu và đa số đều cho rằng trái phiếu là sự thể hiện cam kết của người phát hành sẽ thanh toán một số tiền xác định tại những thời điểm xác định cho người chủ sở hữu trái phiếu. Tựu chung lại có thể định nghĩa trái phiếu như sau: Trái phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người chủ sở hữu trái phiếu đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Thực chất của việc phát hành trái phiếu là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay, do vậy, trái phiếu là một loại chứng khoán có độ an toàn cao. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hay dài hạn. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau người ta có thể phân trái phiếu thành nhiều loại khác nhau, nếu căn cứ theo hình thức phát hành, trái phiếu được phân thành hai loại là trái phiếu vô danh và trái phiếu ghi danh, nếu căn cứ theo chủ thể phát hành, trái phiếu được phân thành hai loại là trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Công ty. Cho dù trái phiếu được phân thành nhiều loại khác nhau nhưng chúng đều có đặc điểm chung là: Thứ nhất, trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành các công cụ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả
  37. gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hay dài hạn. Thứ hai, trường hợp chủ thể phát hành trái phiếu bị phá sản hoặc giải thể thì chủ sở hữu trái phiếu được ưu tiên hơn trong quá trình thanh lý tài sản so với các cổ đông thông thường của công ty. Vì vậy chủ thể phát hành bị rằng buộc nghĩa vụ thanh toán. Thứ ba, lợi tức của trái phiếu được xem như là chi phí đối với chủ thể phát hành. 1.1.1.2. Khái niệm thị trường trái phiếu Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau. Trong đó, thường xẩy ra tình huống: những người có cơ hội đầu tư sinh lời lại thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển dòng tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trường đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư mua các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn. Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc luật lệ đã được ấn định. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại thị trường tài chính thành các thị trường bộ phận khác nhau. (i) Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn. (ii) Căn
  38. cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài chính, thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. (iii) Căn cứ vào phương thức huy động vốn của tổ chức phát hành, thị trường tài chính được phân thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần. Thị trường nợ là thị trường mà hàng hóa được mua bán tại đó là các công cụ nợ. Các công cụ nợ có thời hạn xác định, có thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Tín phiếu và trái phiếu là hai ví dụ điển hình của các công cụ nợ. Khác với thị trường nợ, thị trường vốn cổ phần là nơi mua bán các cổ phiếu, giấy xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Theo tiêu thức phân chia này thị trường tài chính có thể được mô tả theo sơ đồ 1.1. Sơ đồ 1.1: Cấu trúc của thị trường tài chính Thị trường tài chính Thị trường nợ Thị trường vốn cổ phần Nợ ngắn hạn Nợ dài Hạn Thị trường Thị trường tín dụng Trái phiếu Như vậy, ta có thể thấy rằng Thị trường trái phiếu (Bond Markets) là một bộ phận của thị trường tài chính và tại đó hàng hóa được mua bán là các trái phiếu hoặc cụ thể hơn được hiểu là nơi diễn ra hoạt động phát hành và giao dịch mua bán,
  39. trao đổi các loại trái phiếu của Chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật. 1.1.1.3. Đặc điểm thị trường trái phiếu Hoạt động của thị trường trái phiếu trên thị trường tài chính thường có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, theo tính chất của hàng hóa trên thị trường trái phiếu ta có thể thấy thị trường trái phiếu là nơi mua bán các công cụ nợ dài hạn, các công cụ nợ dài hạn này chủ yếu là các trái phiếu chính phủ nên mức độ an toàn rất cao do được đảm bảo thanh toán bằng ngân sách quốc gia. Đồng thời thị trường trái phiếu cũng có tính thanh khoản cao do trái phiếu là một công cụ nợ có thể dễ dàng chuyển nhượng. Thứ hai, quy mô của thị trường trái phiếu rất lớn. Điều này được thể hiện qua việc trái phiếu được phát hành chủ yếu bởi chính phủ và các công ty có uy tín nên nó có thể huy động được một số vốn khổng lồ có thời hạn dài đáp ứng cho các khoản đầu tư dài hạn của các công ty, cũng như, giúp Chính phủ giải quyết được các vấn đề về thiếu hụt ngân sách, có thêm vốn để thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng mà không cần phải phát hành thêm tiền tạo ra sức ép về lạm phát, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển và giảm sức ép đối với hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó quy mô lớn của thị trường trái phiếu còn được thể hiện qua việc trái phiếu có đối tượng nắm giữ chủ yếu là các trung gian tài chính, các nhà đầu tư lớn do vậy khối lượng giao dịch trên thị trường là rất lớn. Thứ ba, đối tượng tham gia thị trường trái phiếu rất đa dạng nó bao gồm từ Chính phủ, các công ty, cho đến các cá nhân. Họ có thể đóng vai trò là nhà phát hành, nhà đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý thị trường hay các tổ chức dịch vụ. Thứ tư, phương thức giao dịch trên thị trường trái phiếu chủ yếu là thoả thuận, với cách thức và thời gian thanh toán hết sức linh hoạt. 1.1.2. Phân loại thị trường trái phiếu
  40. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của thị trường trái phiếu có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể xem xét một số cách thức sau: Căn cứ theo hình thức tổ chức của thị trường Theo tiêu thức này, thị trường trái phiếu được phân thành ba loại: (i) Sở giao dịch chứng khoán; (ii) Thị trường giao dịch qua quầy (OTC: Over – the – Counter Market); (iii) Thị trường thứ ba. Bên cạnh đó, người ta còn phân loại thị trường trái phiếu thành thị trường mở và thị trường đàm phán, thị trường giao ngay (Spot Markets) và thị trường kỳ hạn (Future Markets). Căn cứ theo quá trình luân chuyển vốn. Theo cách thức này, thị trường trái phiếu được phân thành (i) Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp một (Primary Market); (ii) Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp hai (Secondary Market). Trên sàn giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán, giá trái phiếu được xác lập dựa trên kết quả đấu giá của môi giới mua và môi giới bán, với sự can thiệp điều hoà nếu cần của các chuyên gia. Còn thị trường OTC không có sàn giao dịch và không có chuyên gia. Nhưng một số nhà kinh doanh trên OTC tạo ra một thị trường cho loại trái phiếu nhất định bằng việc đưa ra giá rao mua (bid) và chào bán (ask) cho thị trường, họ giữ các trái phiếu này, mua và bán trái phiếu cho chính mình, chấp nhận rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận. Những nhà kinh doanh trên được gọi là nhà tạo lập thị trường (khái niệm và hoạt động của nhà tạo lập thị trường sẽ được nghiên cứu kỹ ở phần sau). 1.1.4. Các thành viên tham gia thị trường trái phiếu Thị trường trái phiếu là một thực thể phức tạp mà ở đó có sự tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ thể này có thể tham gia với mục đích huy động vốn, đầu tư vốn, cung cấp dịch vụ hỗ trợ hay quản lý nhà nước. Các chủ thể trên có thể được phân thành: 1.1.3.1. Chính phủ
  41. Chính Phủ tham gia vào thị trường trái phiếu với hai tư cách. Thứ nhất, Chính Phủ với tư cách là người tổ chức và quản lý thị trường mà đại diện ở đây là Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước, cơ quan quản lý Nhà Nước về trái phiếu và thị trường trái phiếu. Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước tổ chức, hướng dẫn và quản lý các thị trường trái phiếu, đồng thời soạn thảo văn bản pháp luật về trái phiếu và thị trường trái phiếu để trình các cấp có thẩm quyền xem xét quyết định, cũng như tổ chức và hướng dẫn thực hiện các văn bản đó. Ngoài Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước, các cơ quan quản lý Nhà Nước khác như Ngân hàng Nhà Nước, Bộ Tài chính, các Bộ chủ quản cũng có cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý đối với các thành viên tham gia thị trường. Chẳng hạn Ngân hàng nhà nước, cơ quan quản lý Nhà Nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng có nhiệm vụ quản lý, hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác, bao gồm cả các hoạt động của các tổ chức này trên thị trường trái phiếu. Đồng thời, Ngân hàng Nhà Nước có thể làm đại lý phát hành trái phiếu, tín phiếu Chính Phủ. Sự phối kế hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà Nước trong hoạt động quản lý thị trường, quản lý các thành viên có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn cho hoạt động của thị trường. Thứ hai, Chính Phủ tham gia thị trường như là một nhà phát hành và kinh doanh trái phiếu. Để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng, Chính Phủ có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn. Trái phiếu Chính Phủ, tín phiếu Kho Bạc là loại hàng hóa chủ đạo của thị trường trái phiếu. Vai trò của Chính Phủ đối với sự hình thành và phát triển thị trường trái phiếu là rất quan trọng, đặc biệt là đối với thị trường trái phiếu Việt Nam. 1.1.3.2. Các doanh nghiệp Các doanh nghiệp là chủ thể quan trọng, cung cấp các loại hàng hoá cho thị trường trái phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao hơn Trái phiếu Chính Phủ và là một công cụ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
  42. Pháp luật từng nước quy định cụ thể loại hình doanh nghiệp nào được phép phát hành trái phiếu. Về cơ bản, các doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để thu hút vốn trên thị trường. Doanh nghiệp có thể tự mình phát hành trái phiếu, thông qua đại lý hoặc bảo lãnh phát hành. Phát triển hoạt động phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp sẽ đa dạng hoá các công cụ đầu tư, đồng thời tạo điều kiện phát triển các dịch vụ cho các trung gian tài chính như nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành, nghiệp vụ ngân hàng tín thác, nghiệp vụ tư vấn phát hành Để thực hiện nghiệp vụ đầu tư và nghiệp vụ ngân quỹ, các doanh nghiệp có thể tham gia mua bán trái phiếu trên thị trường. Khi thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ, doanh nghiệp chủ yếu mua bán trái phiếu có độ thanh khoản cao. Ngược lại, khi thực hiện nghiệp vụ đầu tư trái phiếu, doanh nghiệp thường lựa chọn một danh mục đầu tư đa dạng, bao gồm các loại trái phiếu khác nhau, với các mức độ rủi ro khác nhau. 1.1.3.3. Các nhà đầu tư cá thể Các nhà đầu tư cá thể là các cá nhân và các hộ gia đình. Họ mua bán trái phiếu nhằm mục đích kiếm lời và qua đó, một lượng tiết kiệm khổng lồ được huy động cho phát triển kinh tế. Các nhà đầu có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các nhà đầu tư có tổ chức, các trung gian tài chính. Hoạt động kinh doanh trái phiếu của các nhà đầu tư cá thể tạo ra tính sôi động của thị trường, đồng thời tạo điều kiện để các trung gian tài chính phát triển các dịch vụ hỗ trợ thị trường. 1.1.3.4. Các tổ chức tài chính trung gian Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của thị trường trái phiếu, với tư cách là nhà phát hành trái phiếu, nhà kinh doanh trái phiếu và là thành viên hỗ trợ cho hoạt động của thị trường qua các nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành, tư vấn và môi giới đầu tư, thanh toán và quản lý trái phiếu, quản lý danh mục đầu tư và quản lý quỹ đầu tư. Sự tham gia của các trung gian tài chính thực sự thúc đẩy thị trường tài chính nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng.
  43. 1.2. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại 1.2.1. Ngân hàng thương mại với hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu 1.2.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại Đa số các nhà kinh tế học trên thế giới đều cho rằng, ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Điều khác biệt của một ngân hàng thương mại với một loại hình doanh nghiệp nào đó chính là đối tượng và lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất đặc biệt - lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Ngoài ra, do các hoạt động kinh doanh tiền tệ và tín dụng của ngân hàng thương mại luôn có những ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế, do vậy mà các ngân hàng thương mại luôn được coi là những doanh nghiệp đặc biệt. 1.2.1.2. Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Căn cứ vào tính chất các hoạt động và vị trí tài chính của ngân hàng thương mại trong quan hệ với khách hàng, hoạt động ngân hàng thương mại được chia thành ba nhóm cơ bản như sau: a. Các hoạt động huy động nguồn vốn Ngân hàng thương mại bao giờ cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối tượng huy động của ngân hàng thương mại là tất cả các nguồn tiền nhàn rỗi trong các doanh nghiệp, các tổ chức Chính phủ và dân cư với bất kỳ hình thức, quy mô và thời hạn nào. Bổ sung thêm cho nguồn vốn huy động, các ngân hàng thương mại có thể đi vay của ngân hàng Trung Ương và từ các ngân hàng khác bằng nhiều hình thức. Bên cạnh đó vốn chủ sở hữu cũng là một bộ phận quan trọng trong nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn này tuy chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động song quy mô vốn chủ sở hữu lại quyết định khả năng huy động vốn và uy tín của một ngân hàng trên thương trường.
  44. b. Hoạt động sử dụng vốn Sử dụng vốn đầu tiên và chiếm tỷ trọng lớn nhất của các ngân hàng thương mại là cho vay. Các sản phẩm cho vay có thể phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau như thời gian, đối tượng vay vốn, tính chất sử dụng, vv Thu nhập từ hoạt động cho vay cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất và phụ thuộc vào khả năng hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn của khách hàng. So với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại có quy mô và tỷ trọng nhỏ hơn, song cũng có ý nghĩa rất quan trọng về mặt thu nhập và tạo điều kiện cho các ngân hàng thâm nhập sâu rộng vào nền kinh tế, đồng thời góp phần làm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Các sử dụng vốn khác của ngân hàng thương mại bao gồm mua sắm tài sản cố định, thực hiện các hoạt động tài trợ, quảng cáo, v.v thường chiếm tỷ trọng nhỏ và không ngay lập tức mang lại lợi nhuận cho ngân hàng song lại góp phần quan trọng vào việc phát triển và quảng bá các hoạt động ngân hàng. c. Hoạt động trung gian Song song với các hoạt động huy động và cho vay nói trên, ngân hàng thương mại còn có hoạt động trung gian. Hoạt động trung gian bao gồm: hoạt động trung gian thanh toán, hoạt động chuyển tiền, ủy thác, tín thác, v.v Hoạt động của bất kỳ một ngân hàng thương mại nào cũng bao gồm ba nghiệp vụ cơ bản như trên, song đến đầu thế kỷ thứ 19, với sự phát triển của phân công lao động xã hội trong ngành ngân hàng, các ngân hàng thương mại đã được chuyên môn hóa vào các lĩnh vực hoạt động khác nhau và trở thành những ngân hàng chuyên doanh. Có những ngân hàng chuyên huy động và cho vay ngắn hạn, trong khi một số ngân hàng khác lại chuyên về hoạt động đầu tư trung và dài hạn, v.v Sự chuyên môn hóa này giúp cho các ngân hàng thương mại có thể thâm nhập một cách sâu sắc vào sự phát triển từng lĩnh vực chuyên biệt của nền kinh tế - xã hội. Quá trình chuyên môn hóa nói trên của hệ thống các ngân hàng thương mại cũng chính là tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo - giai đoạn phát triển tổng hợp. Từ đầu thế kỷ thứ 20 đến nay, các NHTM chuyên môn hóa truyền thống đã trở
  45. thành những NHTM đa năng hiện đại. Hoạt động của ngân hàng thương mại đa năng chủ đạo dựa trên những thế mạnh đã được chuyên môn hóa, kết hợp với tất cả các hoạt động ngân hàng thương mại khác theo yêu cầu của từng nhóm khách hàng, và trải rộng trên cả ba nghiệp vụ huy động nguồn vốn, sử dụng vốn và hoạt động tài chính trung gian. Trong hoạt động sử dụng vốn, cho vay vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhưng có sự thay đổi các đối tượng và cơ cấu cho vay. Nếu như các ngân hàng thương mại cổ điển tập trung chủ yếu cho vay các doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh thì các ngân hàng hiện đại quan tâm đến việc cho vay tất cả các đối tượng khách hàng kể cả cá nhân và cho vay lẫn nhau. Nói cách khác, các ngân hàng ngày nay vừa hoạt động của một ngân hàng bán buôn đồng thời thực hiện hoạt động của một ngân hàng bán lẻ. Ngân hàng có thể cho các cá nhân vay tiền để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hiện tại. Các hoạt động này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong sử dụng vốn của ngân hàng, thực hiện đa dạng hoá các hình thức cho vay. Quan trọng hơn nữa, các hoạt động sử dụng vốn đầu tư, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh bất động sản, v.v cũng rất được chú trọng và ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong danh mục Tài sản của các ngân hàng thương mại. Tương ứng, thu nhập mang lại từ các hoạt động này ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu nhập của các ngân hàng hiện đại. Phần nội dung tiếp theo, chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu hoạt động của một ngân hàng thương mại đa năng, hiện đại trên thị trường trái phiếu. 1.2.1.3. Hoạt động ngân hàng thương mại trên thị trường trái phiếu a. Ngân hàng là một nhà phát hành trái phiếu Các ngân hàng thương mại huy động vốn trên thị trường có thể qua nhiều kênh khác nhau, một trong những kênh huy động vốn đó là qua phát hành trái phiếu. Với hình thức huy động vốn này các NHTM tại các nước có nền kinh tế phát triển thực hiện tương đối phổ biển và có hiệu quả, còn ở Việt Nam hình thức trên thời gian gần đây mới được áp dụng.
  46. b. Ngân hàng là một nhà đầu tư và kinh doanh trái phiếu Các ngân hàng thương mại ngày nay không chỉ thực hiện vai trò là một trung gian tài chính sử dụng nguồn vốn huy động được để tiến hành cho vay mà còn tham gia vào thị trường trái phiếu như một nhà đầu tư. Hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm mục đích thu nhập cho chính bản thân ngân hàng, bằng nguồn vốn kinh doanh trong phạm vi pháp luật cho phép. Thêm nữa, các ngân hàng còn thực hiện kinh doanh trái phiếu theo sự uỷ thác của khách hàng. Song song với các hoạt động của một nhà đầu tư, các ngân hàng còn có thể hoạt động tự doanh trên thị trường trái phiếu: tiến hành mua hoặc bán trái phiếu để bán hoặc mua trái phiếu tại các thời điểm khác nhau khi có sự biến động của giá trái phiếu. Hiện nay, trên thế giới phần lớn trái phiếu Chính Phủ là do các trung gian tài chính, các ngân hàng thương mại đa năng nắm giữ. Ví dụ: tại Mỹ 95% trái phiếu mới phát hành là do các ngân hàng thương mại nắm giữ. c. Ngân hàng thực hiện thanh toán, lưu ký, môi giới, tư vấn đầu tư và bảo lãnh phát hành trái phiếu Với công nghệ tin học và viễn thông hiện đại giúp cho hoạt động thanh toán qua ngân hàng trở nên ngày càng tiện lợi, mở đường cho các ngân hàng thương mại trở thành trung tâm thanh toán trái phiếu. Nhờ có hệ thống thanh toán bù trừ của ngân hàng mà hoạt động thanh toán trái phiếu bảo đảm được yêu cầu về thời gian, độ chính xác nhằm phục vụ cho các đối tượng mua bán trái phiếu trên thị trường. Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, thực hiện kiểm soát và giám sát bằng đồng tiền đối với các hoạt động kinh tế quốc dân, các ngân hàng thương mại luôn có đầy đủ các thông tin và khả năng phân tích mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, các nguồn tài trợ và xu hướng phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy mà sự tư vấn của ngân hàng luôn có cơ sở thực tiễn và thông tin thường chính xác, đáng tin cậy cho khách hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại có quy mô lớn hoàn toàn có khả năng bảo lãnh phát hành trái phiếu và làm đại lý thực hiện bao tiêu số trái phiếu sắp phát
  47. hành. Không những thế, khi muốn phát hành trái phiếu ra thị trường, các doanh nghiệp cũng như các tổ chức Chính Phủ rất cần đến sự tư vấn của các chuyên gia ngân hàng. Ngoài các nghiệp vụ cơ bản nêu trên, các ngân hàng thương mại khi tham gia vào hoạt động trên thị trường trái phiếu còn thực hiện cầm cố trái phiếu, chiết khấu trái phiếu, cho vay trái phiếu, cho vay mua trái phiếu, tạo lập thị trường trái phiếu, v.v Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu là một hoạt động mới đối với các NHTM, phần tiếp theo chúng ta tiếp tục nghiên cứu về hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu. 1.2.2. Hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Khái niệm hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về nhà tạo lập thị trường. Theo báo cáo của Tổ chức Quốc tế các Uỷ ban Chứng khoán – IOSCO (1999), nhà tạo lập thị trường được định nghĩa là “những thành viên tham gia trên các thị trường mua bán các công cụ tài chính hoạt động theo phương thức khớp giá, thực hiện chức năng đặt lệnh chào mua, chào bán. Những nhà tạo lập thị trường tạo ra thị trường có tính thanh khoản cao bằng cách thường xuyên yết lên các mức giá chào mua, chào bán, qua đó đảm bảo một thị trường hai chiều (mua bán liên tục)”. Theo định nghĩa trên trang web cung cấp các kiến thức cơ bản về tài chính ta có định nghĩa như sau: “Nhà tạo lập thị trường là một công ty môi giới – giao dịch chấp nhận rủi ro nắm giữ một khối lượng nhất định của một loại chứng khoán nhất định để nhằm hỗ trợ, thúc đẩy giao dịch đối với loại chứng khoán đó. Mỗi nhà tạo lập thị trường sẽ cạnh tranh trên thị trường để nhận được lệnh đặt từ phía khách hàng (là các nhà đầu tư tham gia trên thị trường) bằng cách báo các mức giá chào mua, chào bán đối với một khối lượng chắc chắn có thể giao dịch của loại chứng khoán nhất định. Khi nhận được lệnh đặt từ phía khách hàng, nhà tạo lập thị trường sẽ gần như ngay lập tức mua, bán những chứng khoán mà tổ chức đó nắm giữ trong kho hoặc tìm kiếm một lệnh đối ứng phù hợp. Toàn bộ quá trình này diễn ra trong khoảng vài giây.”
  48. Còn theo định nghĩa của các nhà kinh tế thì: Nhà tạo lập thị trường trái phiếu đó là một công ty giao dịch – môi giới. Công ty này có thể hoạt động giao dịch dưới hai hình thức. Thứ nhất là mua bán trái phiếu cho chính mình bằng nguồn vốn của công ty - đó là hoạt động giao dịch. Thứ hai là làm môi giới đại lý trái phiếu cho khách hàng để hưởng hoa hồng - đó là hoạt động môi giới. Khi công ty hoạt động giao dịch dưới hình thức mua bán trái phiếu bằng chính nguồn vốn của mình. Lúc này khác với các tổ chức trung gian, công ty đóng vai là một trong hai phía mua hoặc bán khi thực hiện giao dịch, có nghĩa là công ty sẽ dùng nguồn vốn của chính mình để mua hoặc bán trái phiếu đồng thời phải chịu những rủi ro, và hưởng lợi nhuận đối với trái phiếu nằm trong tài khoản “trong kho” của mình, hay còn gọi là nghiệp vụ tự doanh. Nhưng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu khác với hoạt động tự doanh thông thường ở chỗ, đối với hoạt động tự doanh công ty có thể mua hoặc không, có thể bán hết nếu cần lượng trái phiếu mà mình nắm giữ. Còn hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu, công ty luôn phải nắm giữ một lượng nhất định trái phiếu đủ lớn để sẵn sàng bán khi có yêu cầu đặt mua, đồng thời phải dự trữ ngân quỹ khi nhà đầu tư có yêu cầu bán. Hay nói cách khác phải đồng thời thực hiện quản lý ngân quỹ và đầu tư. Còn khi hoạt động dưới hình thức làm môi giới hay đại lý (tổ chức trung gian), các nhà tạo lập thị trường lúc này chỉ đứng ra thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và hưởng hoa hồng. Các hoạt động trên sẽ được nghiên cứu kỹ hơn ở phần sau. Thông thường, để một ngân hàng trở thành một nhà tạo lập thị trường đối với một trái phiếu nào đó, ngân hàng cần phải đáp ứng một số tiêu chuẩn tối thiểu, trong đó, có hai điều kiện tiên quyết là: - Phải đăng ký và đã được công nhận là thành viên của thị trường OTC. - Phải đáp ứng giá trị vốn thuần tối thiểu đối với từng loại trái phiếu được làm giá, đồng thời duy trì mức đó suốt quá trình hoạt động. Sau khi được chấp nhận tư cách làm một nhà tạo lập thị trường, ngân hàng còn phải đảm bảo một số chuẩn mực khi đưa ra giá cả cho các trái phiếu mà họ đảm nhận. Yêu cầu cụ thể thường là:
  49. * Phải cung cấp liên tục giá nêu từ hai phía mua và bán (two-sided quotations) đối với trái phiếu được uỷ nhiệm, tạo giá để duy trì thị trường. * Phải sẵn sàng thực hiện giao dịch ít nhất một đơn vị giao dịch (thường là một lô tròn 100 trái phiếu) với giá được nêu. * Phải đảm bảo rằng các giá nêu là hợp lý so với giá thị trường của trái phiếu trong cuộc. * Tôn trọng triệt để các giới hạn chênh lệch tối đa cho phép. * Báo cáo hàng tháng các dữ liệu giao dịch và các thông tin khác theo quy định về giao dịch trái phiếu và yêu cầu chủ quản. * Thống kê và báo cáo lượng giao dịch (theo ngày) đối với trái phiếu được tạo giá. * Mẫn cán thực hiện các nhiệm vụ liên tục trong thời gian làm việc hàng ngày. Cơ chế lập giá đối với một trái phiếu được thực hiện theo cách: cùng lúc có sự tham gia của nhiều ngân hàng, cộng với sự tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu trên đây, sẽ cung cấp cho thị trường một giá tốt nhất, đảm bảo sự điều hoà liên tục và cần thiết của thị trường. Từ những nghiên cứu trên ta nhận thấy thị trường OTC vận động nhờ một cơ chế lập giá và duy trì hoạt động gọi là “mạng lưới liên công ty” (interdealer network). Các nhà tạo lập thị trường trong tổ chức sẽ cạnh tranh giữa họ với nhau, liên tục đưa ra giá rao mua và giá chào bán. Giá thị trường được tham khảo từ mạng lưới này, các nhà đầu tư chỉ việc lựa chọn giá tốt nhất trong các báo giá (quotations) của các nhà tạo lập thị trường. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu về hoạt động của các nhà tạo lập thị trường trái phiếu. 1.2.2.2. Nội dung hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Phần lớn các nhà tạo lập thị trường trái phiếu tham gia hoạt động trên thị trường thường thực hiện hai hoạt động chính là môi giới và tự doanh để đáp ứng các lệnh từ phía nhà đầu tư, nhưng hai hoạt động trên không được thực hiện trong cùng một giao dịch.
  50. Hoạt động môi giới, là đại diện sắp xếp các giao dịch cho khách hàng và hưởng hoa hồng. Các giao dịch này xẩy ra trong trường hợp lệnh đặt mua đến nhưng nhà tạo lập thị trường trái phiếu không có đủ số trái phiếu đặt mua trong tài khoản của mình, hoặc lệnh đặt bán đến nhưng nhà tạo thị trường không đủ khả năng để mua toàn bộ số trái phiếu đặt bán của khách hàng. Để đảm bảo giao dịch, nhà tạo lập thị trường sẽ phải tìm một lệnh đối ứng khác thoả mãn toàn bộ hoặc một phần khối lượng của khách hàng đặt ra. Để tìm lệnh đối ứng này, nhà tạo lập thị trường này sẽ phải tìm đến một nhà tạo lập thị trường khác. Nhà tạo lập thị trường kia có thể trực tiếp mua hoặc bán hoặc cũng có thể chuyển tiếp một lệnh mua hoặc bán của một nhà đầu tư khác mà họ nhận được sang để đối ứng. Cơ chế này được thực hiện rất nhanh thông qua hệ thống công nghệ cơ sở của toàn thị trường. Có nhiều hệ thống khác nhau được ứng dụng ví dụ như: hệ thống NASDAQ Hoạt động môi giới của nhà tạo lập thị trường trái phiếu không phải là hoạt động mua bán trái phiếu, chỉ đơn giản là sắp xếp các giao dịch giữa người mua và người bán. Hoạt động tự doanh, nhà tạo lập thị trường có thể đóng vai là một đối tác trong giao dịch, có nghĩa là nếu lệnh đặt đến là lệnh mua, nhà tạo lập thị trường sẽ bán các trái phiếu tương ứng có trong kho của mình. Còn nếu lệnh đặt đến là lệnh bán, nhà tạo lập thị trường sẽ tiến hành mua khối lượng trái phiếu mà nhà đầu tư muốn bán. Lệnh mua hay bán mà nhà tạo lập thị trường nhận được chính là lệnh đáp lại các chào mua, chào bán mà nhà tạo lập thị trường đã yết ra trên thị trường. Việc mua và bán những trái phiếu trên sẽ bằng chính tài khoản của mình (người bỏ vốn). Hoạt động mua và bán trái phiếu cho chính mình đôi khi được gọi là giao dịch theo vị thế. Giữ vị thế trong một trái phiếu cũng có thể được hiểu là kiểm soát số trái phiếu đó. Các nhà tạo lập thị trường trái phiếu có thể không giao dịch thái quá cho tài khoản của họ, bởi vì điều này có thể làm ách tắc việc duy trì một thị trường công bằng và trật tự. Bất kỳ giao dịch nào thực hiện để lôi kéo thị trường hay lừa dối khách hành đều bị pháp luật ngăn cấm.
  51. Khi bán trái phiếu của mình, nhà tạo lập thị trường trái phiếu nhận từ khách hàng khoản chênh lệch tăng chứ không phải hưởng hoa hồng. Khoản chênh lệch tăng là sự khác biệt giữa giá chào bán của nhà nhà tạo lập thị trường trái phiếu hiện hành và giá thực sự khách hàng phải trả. Khi giá gửi đến khách hàng bao gồm khoản chênh lệch tăng của nhà tạo lập thị trường trái phiếu, nó được gọi là giá ròng. Nhà tạo lập thị trường trái phiếu không chỉ sắp xếp các giao dịch cho khách hàng mà thực chất là bán trái phiếu từ tồn kho của mình cho khách hàng. Thực hiện lệnh, Nhà tạo lập thị trường trái phiếu có thể thực hiện lệnh mua, lệnh bán của khách hàng theo bất kỳ cách nào sau đây: * Có thể hoạt động như đại diện của khách hàng tìm kiếm người bán, người mua và sắp xếp cho việc giao dịch. * Có thể mua trái phiếu từ nhà tạo lập thị trường trái phiếu khác và sau đó bán lại cho khách hàng và thu khoản chênh lệch tăng. * Có thể bán trái phiếu từ “kho” của mình cho khách hàng. Từ những nghiên cứu về khái niệm và hoạt động của nhà tạo lập thị trường trái phiếu trên có thể nhận thấy những lợi thế và bất lợi thế của một nhà tạo lập thị trường khi tham gia hoạt động trên thị trường trái phiếu. Những lợi thế và bất lợi thế đó sẽ được đề cập đến ở phần dưới đây. 1.2.3. Lợi thế và bất lợi của hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu 1.2.3.1. Lợi thế của hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Khi tham gia hoạt động trên thị trường trái phiếu với vai trò là một nhà tạo lập thị trường các ngân hàng sẽ được hưởng những lợi thế sau: Thứ nhất, được hưởng lợi từ việc kinh doanh trái phiếu như: lợi tức trái phiếu, sự tăng giá của những trái phiếu mà mình nắm giữ. Thứ hai, với tư cách là nhà tạo lập thị trường sẽ được ưu đãi về tài chính, phí, lệ phí khi tiến hành hoạt động trên TTTP, và được thuê các trang thiết bị với giá rẻ.
  52. Thứ ba, lợi thế về mặt thông tin, được ưu tiên truy cập các thông tin mật mang tính nhậy cảm do đó nắm được nhiều thông tin hơn các đơn vị khác. Thứ tư, uy tín của ngân hàng được nâng lên do là nhà tạo lập thị trường, từ đó mở rộng được nhiều mối quan hệ, tạo được nhiều cơ hội kinh doanh hơn. Thứ năm, thường được hỗ trợ về mặt kỹ thuật, tư vấn từ phía Uỷ ban Chứng khoán, Ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội kinh doanh chứng khoán, v.v 1.2.3.2. Bất lợi của hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Bên cạnh những lợi thế bao giờ cũng là những bất lợi, những bất lợi này có thể kể ra là: Thứ nhất, là nhà tạo lập thị trường nên phải đảm bảo lượng vốn đủ lớn để đáp ứng lượng dự trữ cũng như ngân quỹ, nên tốc độ luân chuyển vốn không cao; tính linh hoạt các danh mục đầu tư bị ảnh hưởng; gặp tổn thất khi giá trái phiếu bị sụt giảm, hoặc phải bán khi giá trái phiếu đang lên. Thứ hai, có lợi thế về thông tin nhưng vẫn không bằng những người có thông tin nội gián như: hội đồng quản trị công ty phát hành trái phiếu; những nhà làm chính sách phát hành trái phiếu Chính phủ. Thứ ba, luôn phải đầu tư thay mới trang thiết bị cũng như việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực. Thứ tư, chịu sự quản lý chặt chẽ hơn từ phía các nhà quản lý thị trường so với các nhà kinh doanh trái phiếu. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại hoạt động trên thị trường trái phiếu với vai trò là một nhà tạo lập thị trường thường chịu ảnh hưởng của rất nhiều các nhân tố như nhân tố chủ quan, nhân tố khách quan. Các nhân tố này có thể được kể đến như sau.
  53. 1.3.1. Các nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Quy mô vốn cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Khi các nhà tạo lập thị trường trái phiếu thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường sẽ gặp phải vấn đề về quy mô vốn cho hoạt động. Quy mô vốn cho hoạt động hay khả năng tài chính luôn là yếu tố hàng đầu khi một ngân hàng muốn trở thành một nhà tạo lập thị trường trái phiếu. Hỗ trợ từ phía nhà nước chỉ đảm bảo được một phần hoạt động về sau, ngân hàng khi muốn bắt đầu thực hiện hoạt động này luôn phải chứng minh về khả năng tài chính của mình. Tầm quan trọng của nó được thể hiện ở những mặt sau: Thứ nhất, với đặc tính trái phiếu là khối lượng và giá trị của mỗi lần giao dịch thường rất lớn, do vậy khả năng tài chính mạnh sẽ tạo cho ngân hàng một cơ sở chắc chắn để có thể tham gia mọi giao dịch ở trên thị trường và từ đó ngân hàng sẽ không phải bỏ lỡ bất cứ một cơ hội kinh doanh nào. Thứ hai, xét về khía cạnh pháp luật, mỗi thị trường có tồn tại hình thức nhà tạo lập thị trường đều có những qui định rất cụ thể về khả năng tài chính đối với nhà tạo lập thị trường. Các ngân hàng khi muốn đăng ký làm nhà tạo lập thị trường đều phải đáp ứng đủ các yêu cầu ban đầu, trong đó bao gồm có qui định về vốn. Đồng thời trong suốt quá trình hoạt động họ phải luôn đảm bảo những tiêu chí nhất định được qui định trong luật pháp như luôn phải duy trì một khoản đặt cọc tại cơ quan quản lý thị trường, điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn vốn kinh doanh của nhà tạo lập thị trường có quy mô vốn nhỏ. Thứ ba, với một khoản vốn lớn nhà tạo lập thị trường sẽ hạn chế được rất nhiều rủi ro, rủi ro được nói đến ở đây là rủi ro vỡ nợ (default risk). Rủi ro vỡ nợ có thể đến từ hai phương diện. Phương diện thứ nhất là nếu như tổ chức phát hành phá sản, nhà tạo lập thị trường đối với trái phiếu đó không chỉ chịu tác động trực tiếp đến số trái phiếu còn nằm trong kho của mình mà còn phải chịu trách nhiệm với những trái phiếu đã bán cho khách hàng và những trái phiếu đã mua vào trong danh mục đầu tư mà khách hàng nhờ quản lý. Phương diện thứ hai liên quan trực tiếp đến hoạt
  54. động của nhà tạo lập thị trường. Bản thân nhà tạo lập thị trường khi tiến hành giao dịch có thể sẽ phải đi vay vốn, khi đến hạn trả nợ, nếu không ước lượng và dự báo tốt nhu cầu của thị trường, nhà tạo lập thị trường sẽ mất khả năng thanh toán và có thể dẫn đến rủi ro vỡ nợ. Rõ ràng trong những tình huống như thế, có một khoản vốn lớn hoặc có một chỗ dựa tài chính vững chắc là rất cần thiết. 1.3.1.2. Đội ngũ nhân viên thực hiện hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Nhân viên của nhà tạo lập thị trường trái phiếu có nhiệm vụ thay mặt nhà tạo lập thị trường thực hiện các giao dịch tự doanh của mình hoặc thực hiện chức năng môi giới, tư vấn trái phiếu với khách hàng. Do đó nếu nhà tạo lập thị trường nào có một đội ngũ nhân viên giỏi với trình độ nghiệp vụ cao, nhiều kinh nghiệm họ có thể kinh doanh có lãi và trở thành một công ty có tên tuổi trên thị trường. Trong nghiệp vụ tự doanh của nhà tạo lập thị trường, nếu nhà tạo lập thị trường có một đội ngũ nhân viên có khả năng dự báo được xu hướng vận động của lãi suất, họ sẽ điều chỉnh kịp thời mức đáo hạn bình quân để đón đầu những biến động lãi suất thị trường. Kết quả đạt được là việc nắm giữ được danh mục trái phiếu có mức đáo hạn bình quân cao khi lãi suất có xu hướng giảm và ngược lại, nắm giữ thời hạn trung bình của những trái phiếu thấp khi lãi suất thị trường có xu hướng tăng, từ đó họ có thể tối ưu hoá được lợi nhuận và hạn chế được rủi ro cho công ty. Còn trong nghiệp vụ môi giới, nhân viên của nhà tạo lập thị trường là người thay mặt công ty trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng và trong khả năng của mình đáp ứng nhu cầu đó qua nhiều cách: tư vấn cho khách hàng về tình hình hiện nay trên thị trường để khách hàng tự xem xét và quyết định, dựa vào quyết định của khách hàng tiến hành đặt lệnh, quản lý tài khoản của khách hàng Lúc này các nhân viên sẽ là người đại diện và bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Do vậy, đòi hỏi nhân viên của nhà tạo lập thị trường phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có nhiều kinh nghiệm mới có khả năng đáp ứng được hết các yêu cầu từ phía khách hàng, từ đó tạo được uy tín và thu được nhiều phí dịch vụ làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
  55. Đồng thời các nhân viên của nhà tạo lập thị trường đòi hỏi phải có đạo đức nghề nghiệp. Bởi vì, trong các hoạt động của họ trên thị trường khi có xung đột về lợi ích giữa nhân viên - công ty - thị trường - nhà đầu tư, họ có thể hoặc cấu kết với khách hàng trong việc đặt, nâng, hạ giá trái phiếu nhằm gây biến động giá ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường, hoặc bán khống, mua bán nội gián, thông tin sai sự thật, tham gia hoạt động tín dụng và cho vay trái phiếu, lũng loạn thị trường. Từ đó tạo cái nhìn xấu đến hình ảnh của ngân hàng và gây phương hại đến nền kinh tế của đất nước. 1.3.1.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật Nếu như uy tín, khả năng tài chính và chất lượng hoạt động của một nhà tạo lập thị trường là một điều kiện quyết định đến sự tham gia của nhà tạo lập thị trường đó trên thị trường trái phiếu thì trình độ công nghệ lại là cơ sở tạo điều kiện để thực hiện các hoạt động đó. Để cung cấp các dịch vụ trái phiếu cho khách hàng trong điều kiện hiện nay, các nhà tạo lập thị trường phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để đảm bảo việc tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác. Vì thị trường trái phiếu luôn rất nhậy cảm với mọi sự biến động của nền kinh tế xã hội, trong nước và quốc tế cho nên nếu nhà tạo lập thị trường không có được đầy đủ những trang thiết bị thu thập và xử lý thông tin cần thiết, sẽ không thể đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Rất nhiều nhà tạo lập thị trường trên thế giới đã thành công nhờ có được cơ sở vật chất hiện đại kết hợp với xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp cho nên sớm có uy tín lớn trên thương trường cũng như có khả năng thâm nhập sâu rộng vào nền kinh tế. Cơ sở vật chất hiện đại phải được gắn với việc xây dựng và hoàn thiện chiến lược khách hàng sẽ cho phép tìm kiếm, tiếp cận và thoả mãn ở mức cao nhất nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng. Bí quyết thành công của các nhà tạo lập thị trường này là phải xác định đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích của mình và khách hàng, phương châm hoạt động vì lợi ích của khách hàng và không ngừng đổi mới phong cách phục vụ.
  56. Các nhà tạo lập thị trường lớn trên thế giới từ lâu cũng đã chú trọng đến sự phát triển các dịch vụ nhằm mục đích hỗ trợ khách hàng trong hoạt động kinh doanh cũng như trong quản lý sử dụng vốn. Các nhà tạo lập thị trường này đều có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thuộc nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ khác nhau. Ngoài ra họ còn có đội ngũ cộng tác viên và mối quan hệ mật thiết với các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ trong và ngoài nước. Điều này cho phép các nhà tạo lập thị trường đó tiến hành các trợ giúp đối với khách hàng để khách hàng của họ có thể hạn chế được những rủi ro trong kinh doanh. Quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn trong kinh doanh cũng là một yêu cầu rất quan trọng trong việc áp dụng công nghệ của nhà tạo lập thị trường. Khi các nhà tạo lập thị trường tham gia vào thị trường trái phiếu, mức độ rủi ro trong hoạt động của các nhà tạo lập thị trường sẽ tác động rất lớn đến tình trạng hoạt động của các chủ thể khác và toàn bộ thị trường. Do đó, vấn đề then chốt trong hoạt động kinh doanh của nhà tạo lập thị trường là giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích và rủi ro, bởi lợi ích tài chính lớn thường gắn liền với mức độ rủi ro cao. Hoạt động của một nhà tạo lập thị trường không thể lúc nào cũng chạy theo lợi ích tài chính và bất chấp rủi ro, ngược lại cũng không thể đảm bảo sự tồn tại và phát triển nếu như chỉ quan tâm đến những hoạt động kinh doanh an toàn với hiệu quả thấp. Điều này đòi hỏi sự phát triển về công nghệ cho phép nhà tạo lập thị trường có khả năng và các biện pháp phòng chống rủi ro, vừa đảm bảo an toàn ở mức độ nhất định mà vẫn thoả mãn những đòi hỏi về hiệu quả kinh doanh. 1.3.1.4. Hệ thống thông tin Hệ thống thông tin của nhà tạo lập thị trường trái phiếu là hệ thống chỉ tiêu, tư liệu liên quan đến trái phiếu và thị trường trái phiếu, là những chỉ tiêu phản ánh bức tranh của thị trường trái phiếu và tình hình kinh tế, chính trị tại những thời điểm hoặc thời kỳ khác nhau của từng quốc gia, từng ngành, nhóm ngành theo phạm vi bao quát của mỗi loại thông tin. Hệ thống thông tin này có thể giúp nhà tạo lập thị trường hoạt động và đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà tạo lập thị trường. Do vậy, nếu như nhà tạo
  57. lập thị trường nào có một hệ thống thông tin hiện đại, chính xác và khả năng phân tích tốt thì sẽ hoạt động có hiệu quả, ngược lại nhà tạo lập thị trường nào thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch (tin đồn) sẽ phải chịu tổn thất khi ra quyết định đầu tư. 1.3.1.5. Quan điểm của lãnh đạo ngân hàng về phát triển hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu Đối với mỗi loại hoạt động nghiệp vụ kinh doanh nào của ngân hàng, quan điểm của lãnh đạo ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của loại nghiệp vụ đó. Điều này được thể hiện qua việc nếu nhà lãnh đạo ngân hàng coi trọng hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu, họ sẽ đầu tư một lượng vốn lớn cho hoạt động này, sẽ tuyển lựa, đào tạo một đội ngũ nhân viên có chuyên môn cao, đầu tư một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, từ đó thúc đẩy hoạt động tạo lập thị trường của ngân hàng phát triển. Ngược lại, nếu nhà lãnh đạo ngân hàng không quan tâm đến hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu, họ sẽ không đầu tư nhiều thời gian và vốn, dẫn đến hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng đó kém phát triển. Hiện nay, các ngân hàng thương mại trên thế giới đều có xu hướng chuyển từ hình thức hoạt động của ngân hàng thương mại cổ điển sang hình thức hoạt động của một ngân hàng thương mại đa năng hiên đại. Trong đó, cơ cấu và phương thức huy động vốn của các ngân hàng hiện đại có nhiều thay đổi. Các công cụ để huy động vốn trong dân cư cũng như trong nền kinh tế trở nên đa dạng, phong phú và đặc biệt là hấp dẫn hơn bởi tính thanh khoản cao và lợi ích kinh tế. Điều đáng chú ý là các ngân hàng hiện đại ngày nay rất chú trọng mở rộng và tăng cường huy động vốn qua thị trường chứng khoán bằng cách phát hành cổ phiếu và các loại trái phiếu với kỳ hạn khác nhau. Qua đó cho thấy, các nhà lãnh đạo ngân hàng sẽ chú trọng đến việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, trong đó có hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu. Hoạt động này sẽ rất phát triển trong tương lai, mang lại nhiều lợi thế cho ngân hàng trong việc huy động vốn, tạo ra nhiều lợi nhuận và hạn chế bớt rủi ro trong kinh doanh.
  58. 1.3.1.6. Các nhân tố khác Ngoài những nhân tố tác động đến hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu của ngân hàng thương mại nghiên cứu ở phần trên, còn có các nhân tố chủ quan khác mà ta có thể kể đến như: - Quan hệ của ngân hàng với khách hàng và những nhà tạo lập thị trường khác: Nếu những mối quan hệ này tốt ngân hàng sẽ có một số lượng bạn hàng lớn sẵn sàng giúp đỡ ngân hàng về vốn, thông tin thị trường, v.v trong hoạt động kinh doanh. - Các hoạt động khác của ngân hàng như: Khả năng nắm bắt thông tin thị trường, khả năng phân tích nhu cầu thị trường là cơ sở đảm bảo cho nhà tạo lập thị trường thành công. Việc nắm bắt và phân tích tốt tình hình thị trường, mô hình hoá khối lượng “lưu kho”, ước lượng nhu cầu tài chính cần thiết theo đặc tính thị trường, là những bài toán mà nhà tạo lập thị trường buộc phải giải quyết trước khi muốn thực hiện hoạt động tạo lập thị trường. Tiếp theo phải kể đến là các công cụ phòng vệ. Đặc tính của công việc tạo lập thị trường là vừa phải phân tích ước lượng, dự báo tình hình thị trường, đưa ra các điều chỉnh về phương pháp và chiến lược, vừa phải tiến hành áp dụng các công cụ phòng vệ. Các công cụ phòng vệ có chức năng giúp nhà tạo lập thị trường phòng ngừa các rủi ro có thể xẩy ra. Các công cụ phòng vệ bao gồm cả các dạng hợp đồng phái sinh, các sản phẩm tài chính, kỹ thuật ứng dụng trong kinh doanh trái phiếu. Viêc áp dụng các công cụ này giúp cho nhà tạo lập thị trường đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng thông qua các kỹ thuật xử lý với kỳ hạn và lãi suất của các loại trái phiếu và phòng ngừa được các rủi ro qua việc áp dụng các hợp đồng kỳ hạn và quyền chọn đối với trái phiếu. Đây đồng thời là công cụ đầu cơ, giúp khuyếch đại quy mô đầu tư trái phiếu. 1.3.2. Các nhân tố khách quan Bên cạnh các nhân tố chủ quan, nhà tạo lập thị trường cũng phải đối mặt với rất nhiều tác động của các nhân tố khách quan. Những nhân tố khách quan có thể được kể đến là:
  59. 1.3.2.1. Nhân tố pháp lý Hoạt động của các nhà tạo lập thị trường là một hoạt động phức tạp, mức độ rủi ro cao và có liên quan, chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố kinh tế – xã hội khác nhau trong nước và trên thế giới. Vì vậy, hoạt động kinh doanh này cần phải được phát triển trên một cơ sở pháp lý chặt chẽ nhằm giải quyết các mâu thuẫn, những xung đột về lợi ích kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, tạo sự tin tưởng của các nhà đầu tư. Một hệ thống pháp luật về hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu được xây dựng chặt chẽ sẽ giúp cho các nhà tạo lập thị trường khi tham gia hoạt động trên thị trường phải có ý thức về những nghĩa vụ, quyền lợi, phạm vi hoạt động và trách nhiệm của mình. Nhờ đó, hoạt động của các nhà tạo lập thị trường sẽ không bị chồng chéo lên nhau hay không gây ra những biến động tiêu cực cho thị trường. 1.3.2.2. Nhân tố chính sách Nhân tố pháp lý có thể coi như là điều kiện cho các nhà tạo lập thị trường tham gia hoạt động, thì nhân tố chính sách được coi là các định hướng cho các nhà tạo lập thị trường. Tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, xu thế phát triển kinh tế trong nước và quốc tế mà Chính Phủ các nước sẽ đưa ra những chính sách khác nhau. Một chính sách đúng đắn, phù hợp và khuyến khích các nhà tạo lập thị trường sẽ là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của nhà tạo lập thị trường. Ngược lại một chính sách không phù hợp hoặc thắt chặt sẽ kìm chế các hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu. Bên cạnh đó khi nhà tạo lập thị trường kinh doanh trên thị trường trái phiếu phải đối mặt với rủi ro – rủi ro lãi suất, rủi ro phá sản, rủi ro thanh khoản,v.v Do vậy, sự ổn định chính sách sẽ dẫn tới ổn định thị trường tránh những tác động tiêu cực, tạo môi trường hoạt động tốt. Để tạo điều kiện ổn định và thúc đẩy hoạt động của nhà tạo lập thị trường trái phiếu, Chính Phủ cần phải thực hiện đồng bộ Chính sách tài chính – tiền tệ, Chính sách thu hút và khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài, hoàn thiện Chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, Chính sách phát triển khoa học và công
  60. nghệ. Đồng thời, Chính Phủ cần thực hiện cải cách hành chính, nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà Nước. 1.3.2.3. Sự phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng Như đã phân tích ở phần trước, thị trường chứng khoán là môi trường hoạt động của các nhà tạo lập thị trường trái phiếu. Sự phát triển của thị trường ảnh hưởng rất nhiều tới việc tạo cơ hội cho các nhà tạo lập thị trường trái phiếu tham gia thị trường. Các nhà tạo lập thị trường trái phiếu là các nhà đầu tư có tổ chức. Hoạt động đầu tư của các nhà có tổ chức này thường có quy mô lớn, tập trung thành các danh mục đầu tư đa dạng, do đó đòi hỏi thị trường phải sẵn có các trái phiếu có chất lượng tốt, tính thanh khoản cao, đa dạng về chủng loại và lớn về số lượng. ở những thị trường phát triển, các công cụ phái sinh được tạo lập nhằm cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà tạo lập thị trường trái phiếu. Các điều kiện này chỉ có thể có được ở những thị trường chứng khoán phát triển. Mặt khác, nhà tạo lập thị trường trái phiếu thường huy động những lượng vốn rất lớn. Khả năng cung ứng vốn của thị trường quyết định rất nhiều tới khả năng huy động vốn của các tổ chức này. Thị trường càng phát triển, số lượng các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành càng lớn sẽ tạo điều kiện phát triển các nghiệp vụ của các nhà tạo lập thị trường trái phiếu như nghiệp vụ tự doanh, nghiệp vụ môi giới, nghiệp vụ tư vấn, nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư, nghiệp vụ thanh toán, lưu ký, v.v Hệ thống kiểm toán và kế toán cung cấp các quy tắc nền tảng buộc phải tuân theo đối với các công ty. Chỉ có hệ thống kế toán, kiểm toán tin cậy mới có thể cung cấp các thông tin chính xác cho các nhà đầu tư. Các tiêu chuẩn về kế toán và kiểm toán của các nước cần phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Các nhà đầu tư rất quan tâm tới hệ thống kiểm toán độc lập trong việc làm tăng uy tín của các báo cáo
  61. tài chính. Việc phát triển và hoàn thiện hệ thống kiểm toán, kế toán sẽ tạo điều kiện chuẩn hoá về thông tin và giảm rủi ro cho các thành viên tham gia thị trường. Hệ thống thông tin của thị trường phát triển cũng có ý nghĩa quan trọng đối với sự tham gia của các thành viên trên thị trường. Mục đích cơ bản của hệ thống này là để cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin đầy đủ và chính xác liên quan đến trái phiếu và để ngăn chặn các gian lận trong giao dịch. Việc lựa chọn mô hình quản lý thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng cần phải xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố và phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường. Các mô hình quản lý và giám sát được lựa chọn trên cơ sở không để thị trường phát triển quá “nóng” gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và làm thiệt hại cho các nhà đầu tư, song cũng không nên hạn chế thị trường bằng việc can thiệp quá mức của Chính Phủ. Sự can thiệp quá mức sẽ hạn chế hiệu quả của thị trường và sẽ gây ảnh hưởng không tốt tới hoạt động của các nhà tạo lập thị trường trái phiếu. 1.3.2.4. Sự phát triển của Hiệp hội môi giới và kinh doanh chứng khoán Hiệp hội các nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp đại diện cho ngành chứng khoán nhằm đảm bảo và dung hoà lợi ích của các thành viên trên cơ sở đảm bảo lợi ích chung của thị trường. Hoạt động chính của Hiệp hội các nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán là điều hành các giao dịch qua quầy, đại diện cho ngành chứng khoán nêu lên những kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước nhằm tăng cường tính hiệu quả và ổn định của thị trường. Ngoài ra, Hiệp hội còn thu thập và phản ánh các khiếu nại của khách hàng đến các đơn vị thành viên. Do vậy, sự phát triển của Hiệp hội môi giới và kinh doanh chứng khoán có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các nhà tạo lập thị trường trái phiếu. Khi các nhà tạo lập thị trường trái phiếu là thành viên của Hiệp hội họ sẽ được hưởng những quyền lợi mà chỉ có các thành viên trong Hiệp hội mới có, như quyền được chia sẻ thông tin, được ưu tiên về giá.v.v đồng thời Hiệp hội là những người đảm bảo và dung hoà lợi ích của các thành viên nên nó hạn chế được rất nhiều sự cạnh