Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm

doc 92 trang nguyendu 8230
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_van_mot_so_giai_phap_nham_tang_cuong_huy_dong_von_tai_n.doc

Nội dung text: Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm

  1. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Lời nói đầu Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến. Để thục hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất quan trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào qui mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu phát triển và cạnh tranh các doanh nghiệp việt nam cũng đòi hỏi phải được mở rộng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, đổi mới dây truyền công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hoá, dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. Một địa chỉ quen thuộc và tiện ích nhất mà người cần vốn nghĩ đến đó là các Ngân hàng thương mại. Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy nhiên trong điều kiện thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn bước đầu hình thành và phát triển thì huy động vốn qua kênh ngân hàng vẫn là phổ biến và hiệu quả nhất. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại vừa với danh nghĩa là một tổ chức hạch toán kinh tế - kinh doanh, vừa với vai trò trung gian tài chính. Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối chúng cho các nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác của các doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế theo các nguyên tắc tín dụng. Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng của nền kinh tế cũng tương đương với việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại phải được tăng cường, mở rộng cho phù hợp. Mặt khác việc tăng cường huy động và sử dụng vốn hợp lý cũng giúp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn, hiệu quả hơn.
  2. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng tăng và đòi hỏi phải được đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Do vậy, trong thời gian tới để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đáp ứng cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các ngân hàng thương mại và NHCT Hoàn Kiếm cũng không là ngoại lệ. Vấn đề tìm ra những giải pháp để hoàn thiện công tác huy động vốn là rất thiết thực và cấp bách. Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở trường, cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm hiểu tình hình thực tế tại NHCT Hoàn Kiếm vừa qua, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm ”. Làm luận văn tốt nghiệp cho mình. Luận văn được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau: Chương I : Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. Chương II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Chương III : Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm.
  3. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Chương I hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.1. Khái quát chung về NHTM. Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước phát triển hầu như không có một công dân nào là không có quan hệ giao dịch với một Ngân hàng thương mại nhất định nào đó. NHTM được coi như là một định chế tài chính quen thuộc trong đời sống kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động dịch vụ của Ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Mọi công dân đều chịu tác động từ các hoạt động của Ngân hàng, dù họ chỉ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịnh vụ Ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá trong kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế. Bản chất, chức năng, các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng hầu như là giống nhau song quan niệm về ngân hàng lại không đồng nhất giữa các nước trên thế giới. 1.1.1. NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế. 1.1.1.1. Khái niệm. Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tuợng hoạt động. Ví dụ: Theo Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của
  4. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay theo như Luật Ngân hàng của ấn Độ năm 1959 đã nêu: “ Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư” Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM, nó tuỳ thuộc vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ nhưng khi đi sâu phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy rằng: Tất cả các NHTM đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính Ngân hàng. Trên thế giới các ngân hàng thương mại hoạt động với chức năng, nghiệp vụ khá giống nhau, đó là việc: nhận tiền gửi ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng. Để phân loại các Ngân hàng thương mại ta có thể dựa trên các tiêu chi sau: * Căn cứ vào hình thức sở hữu: Các Ngân hàng thương mại được phân thành: - Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn của một cá nhân. Đây là các ngân hàng nhỏ, thường chỉ hoạt động trong phạm vi một địa phương với đối tượng phục vụ chủ yếu là những người trong địa phương. - Ngân hàng sở hữu của các cổ đông: Là ngân hàng được hình thành từ nguồn vốn thông qua tập trung phát hành cổ phiếu. Những người nắm giữ cổ phiếu này chính là những người chủ của ngân hàng. Họ có quyền tham gia vào các hoạt động của ngân hàng và được chia lãi cổ tức. Do huy động từ nhiều người nên các ngân hàng này có vốn chủ sở hữu lớn, có các hình thức kinh doanh đa dạng. - Ngân hàng sở hữu nhà nước: Là loại hình ngân hàng có vốn chủ sở hữu thuộc về Nhà nước. Đây là loại hình ngân hàng có thể nói là an toàn nhất, rất ít khi bị phá sản. Tuy nhiên, các ngân hàng này nhiều khi phải thực hiện
  5. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D những nhiệm vụ nhà nước giao, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. * Căn cứ theo tính chất hoạt động - Ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng. Ngân hàng chuyên doanh là ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh, thường chỉ cung cấp một số dịch vụ ngân hàng nhất định. Ngân hàng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng. Đây là xu hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại. - Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ. Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động của nó chủ yếu thực hiện đối với các khách hàng lớn. Số lượng các giao dịch của ngân hàng bán buôn nhỏ song về giá trị một dịch vụ lại lớn. Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó thực hiện đối với các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân. Số lượng các giao dịch của ngân hàng bán lẻ lớn song giá trị một giao dịch thường nhỏ. * Căn cứ theo cơ cấu tổ chức Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty. Sự phân chia này là do pháp luật ở nhiều nước cấm không cho ngân hàng trực tiếp tham gia vào một số hoạt động kinh doanh như: buôn bán chứng khoán, bất động sản nên các ngân hàng tổ chức ra các công ty riêng, có tư cách pháp nhân để kinh doanh. Việt Nam, với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi người được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước ta quan niệm: (Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam ban hành 02/ 1997/QH 10) “Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt
  6. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”. *Hiện nay, ở Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau: - Ngân hàng thương mại quốc doanh: Đây là các ngân hàng giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng ở nước ta. Các ngân hàng này được nhà nước cấp vốn và hoạt động chịu sự quản lý của nhà nước. Ngoài việc tiến hành kinh doanh bình thường: huy động vốn, cho vay và các dịch vụ khác, ngân hàng còn phải thực hiện các nhiệm vụ khi nhà nước giao cho. Hiện nay có các ngân hàng thương mại quốc doanh sau: Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long. - Ngân hàng thương mại cổ phần: Đây là các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo luật công ty cổ phần. Sở hữu ngân hàng là các cổ đông, họ cùng nhau góp vốn để hình thành và hoạt động theo quy định của pháp luật. - Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. - Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng nguyên xứ) hoạt động tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. - Ngân hàng đầu tư: Ngân hàng đầu tư hoạt động với mục tiêu đầu tư trung và dài hạn, cũng vì sự phát triển nhưng thông qua hình thức đầu tư gián tiếp thông qua các giấy tờ có giá. - Ngân hàng phát triển: Ngân hàng phát triển có nét đặc trưng nổi bật là những ngân hàng này tập trung vốn huy động trung, dài hạn và đầu tư trung, dài hạn vì sự phát triển. Hoạt động đầu tư của loại ngân hàng này chủ yếu đầu tư trực tiếp qua các dự án. - Ngân hàng chính sách: Là những ngân hàng thương mại 100% vốn Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước( gồm sở hữu Nhà nước
  7. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D và sở hữu của các tổ chức kinh tế quốc doanh) được lập ra để phục vụ những chính sách của Nhà nước. Loại ngân hàng này không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. -Ngân hàng hợp tác: Ngân hàng hợp tác hay gọi rộng ra là những tổ chức tín dụng hợp tác, là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành viên tự nguyện lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu tương trợ lẫn nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng. 1.1.1.2. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế a. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế Ngân hàng thương mại ra đời là tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, trong xã hội xuất hiện người thì có vốn nhàn rỗi, ngượi thì cần vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách nào? NH thương mại ra đời là chìa khoá giúp cho người cần vốn có được vốn và người có vốn tạm thời nhàn rỗi có thể kiếm được lãi từ vốn. Các ngân hàng cũng cân đối được vốn trong nền kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển. Các ngân hàng đứng ra huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các cá nhân sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi cần vốn để tiến hành tái sản xuất với trang thiết bị hiện đại hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn. có lợi nhuận cao hơn. Xã hội càng phát triển nhu cầu vốn cần cho nền kinh tế càng tăng, không một tổ chức nào có thể đáp ứng được. Chỉ có ngân hàng - một tổ chức trung gian tài chính mới có thể đứng ra điều hoà, phân phối vốn giúp cho tất cả các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển nhịp nhàng, cân đối. b. Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp không phải là cứ sản xuất bất cứ cái gì mà phải luôn trả lời được 3 câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai? Có nghĩa là sản xuất theo tín hiệu của thị trường. Thị trường yêu cầu các doanh nghiệp phải sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, phù hợp với thị hiếu của người
  8. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D tiêu dùng. Để được như vậy các doanh nghiệp phải được đầu tư bằng dây truyền công nghệ hiện đại, trình độ cán bộ, công nhân lao động phải được nâng cao Những hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư lớn và để đáp ứng được thì chỉ có các ngân hàng. Ngân hàng sẽ giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được các cải tiến của mình, có được các sản phẩm có chất lượng, giá thành rẻ, nâng cao năng lực cạnh tranh. c. NHTM là công cụ đièu tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tièn tệ của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành phần kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự giao động của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Do vậy sự hoạt động có hiệu quả của NHTM thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nứơc tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong hệ thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay vốn, NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều kiển chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế. d. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Ngày nay, trong su hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc hình thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm cho các mối quan hệ thương mại, lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng được mở rộng và trở nên cần thiết, cấp bách. Nền tài chính của một quốc gia cần phải hoà nhập với nền tài chính thế giới. Các ngân hàng
  9. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D thương mại là trung gian, cầu nối để tiến hành hội nhập. Ngày nay, đầu tư ra nước ngoài là một hướng đầu tư quan trọng và mang lại nhiều lợi nhuận. Đồng thời các nước cần xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh và nhập khẩu những mặt hàng mà mình thiếu. Các ngân hàng thương mại với những nghiệp vụ kinh doanh như : nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh và đặc biệt là các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đã góp phần tạo điều kiện, thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển. 1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Ba nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ này đan xem lẫn nhau trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, tạo nên một chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM. 1.1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn. Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau: * Nghiệp vụ tiền gửi: Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi. * Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền kinh
  10. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh. * Nghiệp vụ đi vay: Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo Trong đó các khoản vay từ Ngân hàng nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó không tự cân đối được nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ. * Nghiệp vụ huy động vốn khác: Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể tạo vốn kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động không thường xuyên của NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòi hỏi các Ngân hàng phải lập ra các dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay. * Vốn chủ sở hữu của NHTM : Đây là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Lượng vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định, ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay, đặc biệt là tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Trong thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân hàng mang lại. 1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn. Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các
  11. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Nghiệp vụ tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể sau: * Nghiệp vụ ngân quỹ: Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như khả năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra. * Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. NH thương mại đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là vấn đề mà mọi NH thương mại đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợi nhuận từ hoạt động cho vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo thời gian có cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn, theo hình thức đảm bảo có cho vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo, theo mục đích có cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua * Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình thức như : hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó. * Nghiệp vụ khác Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động king doanh như: kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; king doanh và dịch vụ bảo hiểm
  12. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian khác Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số nghiệp vụ khác như: * Dich vụ trong thanh toán: Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế. Các doanh nghiệp , tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua hoặc bán hàng hoá và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác. * Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán chứng khoán, tư vấn cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản * Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền; cho thuê két sắt, bảo mật 1.2. Vốn của ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với các chức năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền.Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả và có lợi nhuận thì đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có một lượng vốn hoạt động nhất định. Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau: “ Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác ”. Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành phần tạo nên vốn của ngân
  13. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D hàng thương mại. Về thực chất vốn của ngân hàng thương mại là bao gồm các nguồn tiền tệ của chính bản thân ngân hàng và của những người có vốn tạm thời nhàn rỗi. Họ chuyển tiền vào ngân hàng với các mục đích khác nhau: hoặc lấy lãi, hoặc nhờ thu, nhờ chi hay là dùng các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng. Đây chính là họ chuyển quyền sử dụng vốn cho ngân hàng và số tiền mà ngân hàng phải trả hay làm các dịch vụ chính là cái giá của quyền sử dụng các giá trị tiền tệ đó. Nhờ việc có được nguồn vốn, các ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh: cho vay, bảo lãnh, cho thuê Nói chung vốn của ngân hàng chi phối toàn bộ và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại. 1.2.2. Cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại Vốn của ngân hàng thương mại bao gồm: - Vốn chủ sở hữu. - Vốn huy động. - Vốn đi vay. - Vốn khác. Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh của NHTM. 1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của chính ngân hàng, ngân hàng có toàn quyền sử dụng gồm các trang thiết bị, cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhà cửa Đây là nguồn vốn khá quan trọng, trước hết nó tạo uy tín cho chính ngân hàng. Ngân hàng có to, đẹp, bề thế thì mới tạo được cảm giác an toàn kho khách hàng khi đến giao dịch. Đối với mỗi ngân hàng, nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. a. Nguồn vốn hình thành ban đầu
  14. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Trước khi tiến hành kinh doanh, theo quy định của pháp luật, ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, đó là vốn pháp định (hay vốn điều lệ). Tuỳ theo hình thức sở hữu, do nhà nước cấp nếu là ngân hàng quốc doanh, do cổ đông đóng góp nếu là ngân hàng cổ phần, do các bên đóng góp nếu là ngân hàng liên doanh và của cá nhân nếu là ngân hàng tư nhân. b. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Nguồn bổ sung này có thể từ lợi nhuận hay từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm Nguồn vốn bổ sung này tuy không thường xuyên song đối với các ngân hàng lớn từ lâu đời thì nguồn bổ sung này chiếm một tỷ lệ rất lớn. c. Các quỹ Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quĩ có một mục đích riêng: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi, quĩ khen thưởng Nguồn để hình thành nên các quỹ là từ lợi nhuận. Các quỹ này thuộc toàn quyền sử dụng của ngân hàng. d. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi thành cổ phần thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng vốn theo các mục đích kinh doanh của mình như có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. 1.2.2.2. Vốn huy động Vốn huy động là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Với việc huy động vốn, ngân hàng có được quyền sử dụng vốn và có trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi. Ngân hàng có thể huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội với nhiều hình thức khác nhau.
  15. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D a. Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch ) Đây là khoản tiền của các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng với mục đích là sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Khoản tiền gửi thanh toán này có thể được trả lãi ( trả lãi thấp ) hoặc không được trả lãi tuỳ thuộc vào mỗi ngân hàng. Người gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thu hộ tiền, trả hộ tiền với một mức phí thấp. Các ngân hàng có thể sử dụng các số dư tiền gửi khách hàng vào các hoạt động của mình. b. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Nhiều doanh nghiệp, tổ chức xã hội có các hoạt động thu, chi tiền theo các chu kỳ xác định. Họ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi. Tuy khoản tiền này không tiện lợi bằng tiền gửi thanh toán ( do khi cần tiền phải đến ngân hàng để rút ) nhưng bù lại tiền gửi có kỳ hạn lại có lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn được ghi trên hợp đồng. c. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Trong cộng đồng dân cư luôn có những người có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi tiền vào ngân hàng nhằm thực hiện các mục đích bảo toàn và sinh lời đối với những khoản tiền đó. Người gửi tiết kiệm sẽ có sổ tiết kiệm xác định rõ thời gian và hình thức trả lãi đã thoả thuận với ngân hàng. Hiện nay tiền gửi tiết kiệm là khu vực tiềm năng đồng thời là nơi cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, để thu hút nguồn tiền này các ngân hàng luôn đưa ra các hình thức huy động đa dạng như tiết kiệm bằng VNĐ, bằng vàng và bằng ngoại tệ, với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn và với nhiều kỳ hạn để người gửi có nhiều cơ hội lựa chọn cho phù hợp, tiện ích nhất. d. Tiền gửi của các ngân hàng khác Đây là nguồn tiền gửi có qui mô thường nhỏ, giữa các ngân hàng luôn có tiền gửi của nhau. Mục đích của việc gửi tiền này là để đảm bảo thanh toán thuận tiện, phục vụ tối đa lợi ích cho khách hàng của mình.
  16. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 1.2.2.3. Vốn đi vay Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các ngân hàng cũng phải đi vay để đảm bảo thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt buộc Các ngân hàng có thể vay ở: a. Vay ngân hàng Nhà nước ( ngân hàng trung ương ) Khi các ngân hàng thương mại có nhu cầu cấp bách về vốn thì người dang tay cứu giúp sẽ là ngân hàng trung ương. Hình thức vay chủ yếu là tái chiết khấu ( hay tái cấp vốn ). Các ngân hàng thương mại sẽ mang các trái phiếu mà mình đã chiết khấu lên ngân hàng trung ương để tái chiết khấu. Thông thường các ngân hàng trung ương chỉ cho tái chiết khấu những trái phiếu có chất lượng, thời hạn ngắn và phù hợp với mục tiêu của Nhà nước trong từng thời kỳ. b. Vay các tổ chức tín dụng khác Đây là các khoản vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng hoặc giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Hình thức vay này rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Các khoản vay có thể không cần thế chấp hoặc thế chấp bằng các chứng khoán của kho bạc. Các khoản vay này thông thường có thời hạn ngắn chủ yếu chỉ để giải quyết những nhu cầu tức thời. c. Vay trên thị trường vốn Các ngân hàng có thể phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn để huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu cho vay trung và dài hạn và các nhu cầu đầu tư khác. Những ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ có khả năng vay được nhiều hơn các ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng nhỏ thường vay gián tiếp thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn này
  17. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, các hình thức phát hành, chuyển đổi, thời hạn của các công cụ nợ 1.2.2.4. Vốn khác a. Nguồn uỷ thác Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác qua đó làm tăng nguồn vốn của ngân hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ b. Nguồn trong thanh toán Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt như: L/C, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi hay ngân hàng là đầu mối trong đồng tài trợ cũng giúp ngân hàng làm tăng nguồn vốn của mình. c. Nguồn khác Gồm các khoản phải nộp, phải trả như: thuế chưa nộp, lương chưa trả 1.2.3. Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. 1.2.3.1.Đối với toàn bộ nền kinh tế Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần khuyến khích tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường nhỏ, lẻ và người tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các ngân hàng thương mại. Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết kiệm chuyển thành đầu tư góp phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế. Đối với những người có vốn nhàn rỗi: Việc huy động vốn của ngân hàng trước hết sẽ giúp cho họ những khoản tiền lãi hay có được các dịch vụ thanh toán đồng thời các khoản tiền không bị chết, luôn được vận động, quay
  18. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D vòng. Đối với những người cần vốn: Họ sẽ có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động của ngân hàng. Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều kiện để thực hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng hơn với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy động vốn có thể thực hiện bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân sách nhà nước nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua các ngân hàng thương mại vẫn là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất. 1.2.3.2. Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. a. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có vốn. Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác. Ngân hàng đi vay để cho vay. Vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự án lớn luôn dễ dàng hơn các ngân hàng nhỏ. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nói cách khác, không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của mình. b. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. Có được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng. Các
  19. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D ngân hàng lớn, nhiều vốn thường có rất nhiều các dịch vụ ngân hàng. Phạm vi hoạt động kinh doanh của họ sẽ rộng hơn nhiều các ngân hàng nhỏ. Chính vì vậy càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. c. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương trường Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy tín, luôn được ca ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân hàng chính là vốn của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của ngân hàng luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với ngân hàng. Trong nên kinh tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh toán luôn được các ngân hàng ưu tiên hàng đầu và để được như vậy thì các ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn. d. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều kiện để các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo khách hàng mới, giữ chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân hàng tăng lên đồng thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân hàng lớn giúp cho ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và được thực hiện tốt hơn. 1.3. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại Một hoạt động không thể thiếu của các ngân hàng thương mại là tiến hành huy động vốn để ngân hàng đi vào hoạt động. Quá trình huy động vốn
  20. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D đó hầu như đều giống nhau ở các ngân hàng nhưng để phân loại các hình thức huy động thì lại rất khác nhau. Điều này còn phụ thuộc vào các tiêu chí được lựa chọn để phân loại. 1.3.1. Phân loại căn cứ theo thời gian Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn vốn huy động cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo thời gian, hình thức huy động được chia thành: 1.3.1.1. Huy động ngắn hạn Đây là hình thức huy động chủ yếu trong các ngân hàng thương mại thông qua việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và các nghiệp vụ nhận tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán Phần lớn số này được dùng để cho vay ngắn hạn ( dưới 1 năm ) hoặc được chuyển hoán kỳ hạn để thực hiện cho vay trung hạn. Do thời gian ngắn nên lãi suất huy động ngắn hạn thường thấp, tuy nhiên tính ổn định lại kém. 1.3.1.2. Huy động trung hạn Đây là nguồn huy động vốn ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ trung hạn trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 đến 5 năm). Vốn huy động này ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy nhiên lãi suất huy động nguồn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn huy động trung hạn rất quan trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện các hoạt động đầu tư, thay đổi công nghệ và cho vay trung, dài hạn với lãi suất cao. 1.3.1.3. Huy động dài hạn Đây là hoạt động huy động vốn dài hạn của ngân hàng trên thị trường vốn, với nguồn huy động này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn định cao ( từ 5 năm trở lên ). Do vậy lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng rất
  21. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D cao. 1.3.2. Phân loại căn cứ theo đối tượng huy động 1.3.2.1. Huy động vốn từ dân cư Đây là một khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàng. Ngân hàng huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển đến cho những người cần vốn để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Nguồn huy động từ dân cư thường khá ổn định . 1.3.2.2. Huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội Đây là nguồn huy động được đánh giá là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ hầu hết đều có tài khoản trong ngân hàng. Các doanh nghiệp khi bán được hàng hoá đều gửi tiền vào ngân hàng và rút ra khi cần. Chu kỳ rút tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội không giống nhau. Vì vậy ngân hàng luôn có trong tay một khoản tiền lớn mà mình có thể sử dụng một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên độ lớn của khoản tiền này phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích mà ngân hàng mang lại khi khách hàng sử dụng các dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội gắn liền với việc mở rộng, cải tiến các dịch vụ ngân hàng. 1.3.2.3. Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác Trong quá trình hoạt động các ngân hàng thường có các khoản tiền gửi ở lẫn nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán Ngoài ra việc vay lẫn nhau giữa các ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy không thường xuyên song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng thương mại. Khi xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ hay khả năng thanh toán bị đe doạ các ngân hàng thương mại có thể vay lẫn nhau. Quá trình vay này là một thoả thuận tín dụng giữa hai bên. Quá trình tăng vốn huy động này có thể được thực hiện ở trên thị trường nội tệ hay thị trường ngoại tệ. Trong số
  22. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D những người cho ngân hàng vay có một người đặc biệt. Đó là ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương đóng vai trò là người cho vay cuối cùng để cứu cho các ngân hàng thương mại khỏi các trục trặc xảy ra. Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác tuy cũng khá dễ dàng nhưng số lượng thường không nhiều và chi phí huy động thường cao hơn. Do vậy, hình thức này các ngân hàng sử dụng không nhiều. 1.3.3. Phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các ngân hàng thương mại sử dụng hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn rõ ràng tạo sự thuận tiện cho ngân hàng khi tiến hành huy động. Các hình thức huy động bao gồm: 1.3.3.1. Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi a. Huy động tiền gửi không kỳ hạn Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát triển có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản tiền gửi này không phải là để lấy lãi mà chủ yếu dùng để thanh toán. Khách hàng gửi tiền phần lớn là những tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá nhân làm ăn buôn bán phải thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ liên tục. Người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào hoặc để trả cho người thứ ba. Hình thức rút có thể là tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toàn bằng séc. Đặc biệt người gửi tiền có thể không cần trực tiếp đến ngân hàng lấy mà có thể rút qua các máy rút tiền tự động ( máy ATM ). Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi này trên hai tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai: + Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền gửi. Loại tài khoản này luôn luôn có số dư có. + Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường được sử dụng cho các tổ chức kinh tế. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng
  23. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D còn số dư nợ thể hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay. Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ ngân hàng nên mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí không phải trả lãi. Tuy nhiên ở nhiều nước có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt thấp ( trong đó có Việt Nam ) và để tăng mức động viên tiền gửi, ngân hàng vẫn trả lãi cho tiền gửi này ( có những thời điểm được trả ngang bằng với lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn ). Tỷ lệ huy động từ nguồn này sẽ là khá cao nếu ngân hàng có các dịch vụ đa dạng, sản phẩm ngân hàng chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng rãi đáp ứng tốt các nhu cầu của người gửi tiền. b. Huy động tiền gửi có kỳ hạn Là các tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng và rút ra sau một thời hạn nhất định. Khoản này thường gắn với các tổ chức kinh tế có chu kỳ kinh doanh gần như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn định, ít có sự biến động. Phần tiền gửi này ngân hàng sử dụng dễ dàng nên mức lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng cao hơn. Người gửi tiền ngoài mục đích sử dụng các dịch vụ ngân hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi suất sẽ có tác động rất nhanh và rõ nét đối với nguồn vốn huy động của ngân hàng. ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi ( mà chúng ta vẫn gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích ) với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm ngày càng phổ biến, đã và đang phát huy vai trò hay việc tạo vốn cho các ngân hàng. c. Huy động tiền gửi tiết kiệm Đây là hình thức phổ biến nhất, lâu đời nhất của các ngân hàng thương mại. Bao gồm các loại sau:
  24. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Hình thức này gần giống như huy động tiền gửi không kỳ hạn. Tuy nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của phần này ổn định hơn, ít biến động hơn nên ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn. -Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất, quen thuộc nhất ở nước ta. Người gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau những thời hạn xác định: 3 tháng, 6 tháng Người gửi không được rút trước, nếu rút trước hạn thì sẽ bị phạt. Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất cao nên ngân hàng phải trả khách hàng với lãi suất gần như là cao nhất. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, để tăng sức cạnh tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã rất linh hoạt trong việc khách hàng rút ra trước thời hạn. Có ngân hàng thì tính lãi cho khách hàng với lãi suất không kỳ hạn, có ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với số ngày gửi thực tế - Tiền gửi tiết kiệm có thời hạn dài. Loại hình này khá phổ biến ở những nước phát triển nhưng ở nước ta còn khá mới mẻ. Người gửi có thể gửi tiền vào bất cứ lúc nào và chỉ được rút ra khi đến hạn ( thời hạn tương đối dài ). Loại hình này giúp cho ngân hàng có nguồn vốn ổn định để có thể đầu tư trung và dài hạn. 1.3.3.2. Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường kinh doanh đầy biến động như hiện nay. Các ngân hàng thương mại có thể vay từ nhiều nguồn: a. Vay từ các tổ chức tín dụng Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các ngân hàng thường xây dựng các mối quan hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ không vay ngân hàng trung ương.
  25. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D b. Vay từ ngân hàng trung ương Khi ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay mất khả năng thanh toán thì người cuối cùng mà các ngân hàng có thể cầu cứu là ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương cho vay dưới hình thức tái chiết khấu thương phiếu. Các ngân hàng thương mại có thể mang các thương phiếu lên ngân hàng trung ương để vay. Tuy nhiên việc vay này cũng có một số khó khăn do ngân hàng trung ương chỉ cho ngân hàng thương mại một hạn mức tái chiết khấu và việc cho vay này lại nằm trong định hướng của chính sách tài chính quốc gia. Dẫu sao đây cũng là một hình thức bổ sung vốn cho ngân hàng thương mại cực kỳ quan trọng trong những thời điểm nhất định. 1.3.3.3. Huy động qua phát hành các công cụ nợ Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả khá cao của các ngân hàng thương mại. Trong qúa trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, ngân hàng thấy cần phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy hấp dẫn. Điều đó có nghĩa là ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, có nghĩa là có đầu ra mới tính đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy động, loại tiền huy động và đưa ra các mức chi phí hợp lý làm cho việc tạo vốn của ngân hàng thành công nhanh chóng. Để vay trên thị trường, ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và trái phiếu. Trái phiếu ngân hàng là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của khách hàng đối với người chủ ngân hàng với những cam kết như thanh toán một số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước. Trái phiếu được phát hành trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, chủ yếu là để huy động vốn trung và dài hạn. Kỳ phiếu: kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế
  26. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 1.3.3.4. huy động vốn qua các hình thức khác. Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại còn sử dụng các hình thức khác về dịch vụ xã hội: làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian thanh toán, đầu mối trong hợp đồng đồng tài trợ Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ trên càng mang lại cho ngân hàng những nguồn huy động lớn giúp cho ngân hàng có thể kinh doanh một cách an toàn và hiệu quả. 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM Trong cả môi trường tự nhiên và xã hội, mỗi sự vật, hiện tượng đều có những tác động đến sự vật, hiện tượng khác và đồng thời cũng phải chịu những tác động ngược trở lại. Việc huy động vốn của các ngân hàng cũng vậy. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhận thức được những yếu tố tác động đến việc huy động vốn. Những tác động này rất phong phú, đa dạng. Dựa vào bản chất của các tác động ta chia các yếu tố đó thành những yếu tố khách quan và các yếu tố chủ quan. 1.4.1. Yếu tố khách quan Đây là các yếu tố mà khi tác động đến ngân hàng sẽ không thể chống được, đó là các rủi ro không thể tránh. Ngân hàng chỉ có thể nhận thức, dự báo và tìm cách giảm thiểu các rủi ro khi nó xảy ra. 1.4.1.1. Pháp luật, chính sách của Nhà nước Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Do vậy tất cả mọi hoạt động của ngân hàng đều chịu sự điều chỉnh của luật pháp. Cụ thể là Luật các tổ chức tín dụng (1997), Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (1990), Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1998), các văn bản pháp luật khác như: chỉ thị, thông tư Lĩnh vực hoạt động của ngân
  27. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D hàng là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy các hoạt động của ngân hàng luôn được Nhà nước quản lý chặt chẽ bằng các văn bản pháp quy. Mỗi văn bản đều có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của Ngân hàng, cụ thể là hoạt động huy động vốn. Chính phủ đề ra chính sách tiền tệ quốc gia và hệ thống ngân hàng là công cụ đắc lực để thực hiện. Chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó ngân hàng thương mại huy động vốn dễ dàng hơn. Hoặc khi Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì ngân hàng khó huy động vốn hơn vì người có tiền nhàn rỗi họ bỏ tiền vào sản xuất có lợi hơn gửi ngân hàng Các quy định của pháp luật đòi hỏi các ngân hàng thương mại luôn phải tuân thủ. Pháp luật quy định số tiền huy động của ngân hàng không được lớn hơn 20 lần vốn chủ sở hữu. Hay thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc chính phủ điều chỉnh việc cung ứng tiền cho nền kinh tế. Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay lãi suất tái chiết khấu là tuỳ theo định hướng phát triển của từng thời kỳ. Các chính sách đầu tư, ưu đãi, ưu tiên phát triển mũi nhọn cũng ảnh hưởng sâu sắc tới việc huy động vốn của ngân hàng thương mại. Nói chung bất cứ ngân hàng thương mại nào khi cần huy động vốn đều phải xem xét các quy định của luật pháp. 1.4.1.2. Tình hình chính trị – kinh tế – xã hội trong và ngoài nước Có thể nói đây là yếu tố khách quan đối với tất cả các ngành nghề kinh tế, không riêng gì ngân hàng. Sự ổn định chính trị cả trong và ngoài nước có tác động rất rõ. Các cuộc bãi công, biểu tình, sụp đổ chính phủ luôn kéo theo tình trạng huy động vốn của ngân hàng bị trì trệ bởi người dân không còn tin tưởng. Ngược lại, sự đồng tâm, nhất trí, ổn định trong bộ máy lãnh đạo sẽ làm cho các ngân hàng thương mại huy động vốn được dễ dàng. Như Achentina năm 2002, sau khi có những vấn đề về chính trị, người dân kéo đến ngân hàng
  28. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D rút tiền ồ ạt làm cho cả hệ thống ngân hàng chao đảo. Và cuộc chiến Irac gần đây cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới trong đó có sự khó khăn về huy động vốn của ngân hàng thương mại. Nền kinh tế ở vào trạng thái tăng trưởng hay suy thoái đã tác động tới việc huy động vốn của ngân hàng. ở tình trạng tăng trưởng, người dân cần nhiều vốn để đầu tư mở rộng quy mô, trang thiết bị. Các ngân hàng phải huy động nhiều vốn và càng có điều kiện để huy động do tích luỹ được nhiều hơn. Ngược lại ở tình trạng suy thoái, sản xuất đình trệ, đầu tư bị thu hẹp, ngân hàng huy động vốn khó khăn. 1.4.1.3. Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền Tập quán tiêu dùng của người dân có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc huy động vốn của ngân hàng. Rõ ràng ở những vùng, người dân thường có thói quen gửi tiền vào ngân hàng thì ngân hàng sẽ huy động được dễ dàng hơn nhiều ở những vùng người dân thường hay cất trữ tiền trong nhà bằng vàng, bất động sản Đồng thời ngay thói quen thanh toán khi mua hàng hoá cũng góp phần làm tăng hay giảm nguồn vốn huy động của ngân hàng. ở nhiều nước phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt là phổ biến, hầu như người dân nào cũng có tài khoản trong ngân hàng và ngân hàng là cái gì đó không thể thiêú trong cuộc sống. Ngược lại, ở một số nước, thói quen thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn ăn sâu thì nguồn vốn huy động của ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Các tập quán tiêu dùng này khó có thể được thay đổi ngay một sớm một chiều. Do đó để mở rộng nguồn huy động, các ngân hàng phải nỗ lực hết mình: cải cách quy trình, thủ tục, phát triển chính sách khách hàng Một trong những đặc tính của cộng đồng dân cư đó là tính lan truyền nhanh chóng. Cuộc đổi tiền năm 1985 – 1986 với tốc độ lạm phát chóng mặt 600-700 % đã khiến người gửi tiền kéo ồ ạt đến ngân hàng để rút. Điều này đã kéo theo sự sụp đổ của hơn 7500 quỹ tín dụng nhân dân và làm cả hệ thống
  29. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D ngân hàng lao đao. Đồng thời gần đây các vụ bê bối, tham nhũng liên quan đến các ngân hàng như dệt Nam Định, vụ Tamexco, Minh Phụng-Epco đã làm suy giảm uy tín của các ngân hàng trong con mắt của người gửi tiền. Nó không tạo cho người gửi tiền cảm giác an toàn và nó đã làm hạn chế khả năng hoạt động của các ngân hàng. Một trong những lý do nữa là người dân chưa hiểu biết nhiều về các hoạt động của ngân hàng, các tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp. Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải tăng cường tuyên truyền sâu rộng, quảng cáo, quảng bá về các hoạt động của mình, các lợi ích của người gửi tiền cũng như các thủ tục cần thiết. 1.4.2. Yếu tố chủ quan 1.4.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng Chiến lược kinh doanh có thể nói là đường lối, phương hướng hoạt động cho một ngân hàng. Mỗi ngân hàng có một chiến lược kinh doanh khác nhau. Điều này phụ thuộc vào từng điểm mạnh, điểm yếu, khả năng cũng như hạn chế của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh xác định quy mô huy động có thể mở rộng hay thu hẹp, cơ cấu vốn có thể thay đổi về tỷ lệ các loại nguồn, chi phí hoạt động có thể tăng hay giảm . Chiến lược kinh doanh có liên quan đến huy động vốn bao gồm: Chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và phí dịch vụ. Đây là các yếu tố quan trọng. Với việc lãi suất huy động tăng thì sẽ dẫn đến nguồn vốn vào ngân hàng tăng, rất lớn. Nhưng đồng thời thì hiệu quả của việc huy động vốn có thể giảm do chi phí huy động tăng. Do đó số lượng nguồn vốn huy động được sẽ phụ thuộc chủ yếu vào chiến lược kinh doanh hay đúng hơn là phụ thuộc vào chính bản thân ngân hàng. 1.4.2.2. Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng
  30. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Không chỉ riêng ngân hàng mà trong bất cứ hoạt động nào, ngành nghề nào, yếu tố con người cũng phải được đặt lên hàng đầu. Các cán bộ nhân viên ngân hàng có năng lực sẽ phán đoán, xử lý chính xác các tình huống sẽ làm cho các hoạt động huy động vốn được thực hiện một cách tốt đẹp. Trình độ của cán bộ ngân hàng cao sẽ làm cho các thao tác nghiệp vụ được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả. Thái độ trong tiếp xúc của nhân viên với khách hàng cũng rất quan trọng. Nó có thể lôi kéo khách hàng làm tăng nguồn vốn huy động đồng thời cũng có thể làm khách hàng rơì bỏ gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trong hoạt động của ngân hàng, trước hết là trong khâu huy động vốn. Các nhân viên ngân hàng là những người mang hình ảnh cho cả ngân hàng. Do đó, để tăng cường huy động vốn thì một điều cực kỳ quan trọng là các nhân viên ngân hàng phải có đủ những tiêu chí của một nhân viên ngân hàng chuyên nghiệp: Hiểu biết khách hàng, Hiểu biết nghiệp vụ, Hiểu biết quy trình, Hoàn thiện phong cách phục vụ. 1.4.2.3. Uy tín của ngân hàng Đó là hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng, là niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng. Uy tín của mỗi ngân hàng được xây dựng, hình thành trong cả một quá trình lâu dài. Người gửi tiền khi gửi thường lựa chọn những ngân hàng lâu đời chứ không phải là những ngân hàng mới thành lập. Ngân hàng lớn thường được ưu tiên lựa chọn so với các ngân hàng nhỏ. Hình thức bảo hiểm tiền gửi làm tăng độ an toàn, tăng uy tín của ngân hàng. Một điều quan trọng ở nước ta là hình thức sở hữu cũng có ảnh hưởng quan trọng tới huy động vốn. Các ngân hàng quốc doanh bao giờ cũng có độ an toàn cao hơn cho người gửi tiền, uy tín của các ngân hàng thương mại quốc doanh cao hơn so với các ngân hàng khác. Những ngân hàng có uy tín luôn chiếm được lòng tin của khách hàng là tiền đề cho việc họ huy động được những nguồn vốn lớn hơn với chi phí rẻ hơn và tiết kiệm được thời gian. 1.4.2.4. Trình độ công nghệ ngân hàng Có thể nói công nghệ ngân hàng hiện đại khác xa so với trước đây.
  31. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Việc áp dụng máy tính là một cuộc cách mạng trong hoạt động của ngân hàng. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại, ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng, về thị trường tốt. Từ đó, có thể hoạch định ra các hình thức huy động, thời gian huy động, hình thức trả lãi Mặt khác, nhờ hệ thống thông tin tốt khiến cho ngân hàng có thể nâng cao hiệu quả huy động vốn. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên phổ biến, đó là một xu thế tất yếu. Việc thanh toán không dùng tiền mặt sẽ khiến cho các ngân hàng ngày càng gắn liền với các hoạt động xã hội. Ngoài ra mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn cũng tác động tới việc huy động vốn của ngân hàng. Mạng lưới huy động rộng rãi, tạo điều kiện cho người gửi tiền. Mạng lưới hẹp thì sẽ gây khó khăn cho khách hàng có tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng, chi phí giao dịch lớn, mất nhiều thời gian. Nhìn chung có rất nhiều những yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn của ngân hàng. Các yếu tố này tác động đến mọi hoạt động, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Mỗi ngân hàng khi hoạt động đều cần phải tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu. Những yếu tố tác động này có tính hai mặt: có thể có tác động tích cực đồng thời có thể tác động tiêu cực tới ngân hàng. Ngân hàng nào xác định đúng, chính xác các yếu tố tác động sẽ huy động được vốn lớn với chi phí rẻ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động.
  32. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D chương II Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm 2.1. khái quát sự hình thành và phát triển của ngân hàng công thương hoàn kiếm Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, có trụ sở tại số 37 Hàng Bồ quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Đây là khu vực nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội, là trung tâm kinh tế - Văn hoá - Chính trị của thủ đô, là mơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp nhất thành phố. Mặt khác, đây còn là nơi tập trung của rất nhiều vằn phòng đại diện của các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trước đây Ngân hàng là một chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước với nhiệm vụ chính là bảo đảm nhu cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và tập thể trên địa bàn quận. Nhưng do nhu cầu đổi mới kinh tế cùng với sự chuyển đổi chung của hệ thống Ngân hàng Việt Nam (năm 1988) từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp, chi nhánh Ngân hàng quận Hoàn Kiếm cũng được thay đổi cả về chức năng và nhiệm vụ và trở thành Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của NHCT Việt Nam với chức năng hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Và từ đó đến nay Ngân hàng đã thực sự đi vào hoạt động kinh doanh trên cơ sở tự hạch toán kinh doanh. Trải qua quá trình 15 năm hoạt động cho đến nay Ngân hàng đã hoàn toàn hoà nhập được với hoạt động chung của cả hệ thống Ngân hàng trong cơ chế thị trường. Không những chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà còn không ngừng mở rộng và phát triển với hiệu quả ngày càng cao. Hiện nay ngân hàng có cơ cấu, tổ chức như sau:
  33. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D NHCT Hoàn Kiếm có 227 cán bộ trên tổng số hơn 1,2 vạn cán bộ của toàn bộ hệ thống NHCT. Trong đó có 40,8% có trình độ đại học và trên đại học, còn lại đều đã được đào tạo qua hệ cao đẳng, trung học chuyên ngành ngân hàng. NHCT Hoàn Kiếm có 9 phòng, hoạt động theo chức năng riêng đã được phân công theo sự chỉ đạo điều hành của Ban giám đốc gồm: Giám đốc: Nguyễn Hữu Thuỷ: phụ trách về lao động – tiền lương, phòng kinh doanh đối ngoại, phòng kiểm tra nội bộ . Phó giám đốc: Phạm Thị Mai: phụ trách phòng kinh doanh kiêm chủ tịch công đoàn của chi nhánh. Phó giám đốc: Lê Tuyết Mai: phụ trách phòng kế toán – tài chính, phòng giao dịch Đồng Xuân, phòng vi tính. Phó giám đốc: Nguyễn Thị Huy: phụ trách phòng Nguồn vốn, phòng ngân quỹ, phòng tổ chức – hành chính. Phòng kinh doanh: Đây là phòng kinh doanh tổng hợp, thực hiện các nghiệp vụ cho vay đối với các khách hàng là các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, dưới hình thức là các khoản vay ngắn, trung và dài hạn, cho vay uỷ thác, cho vay theo dự án. Đồng thời cũng thực hiện chức năng giám sát và quản lý việc sử dụng vốn. Phòng kinh doanh đối ngoại: thực hiện 2 chức năng chính là thanh toán quốc tế (thanh toán xuất nhập khẩu bằng các phương thức mở tài khoản, nhờ thu và L/C) và kinh doanh ngoại tệ (thanh toán, chuyển tiền cho các khách hàng, chủ yếu là mua bán ngoại tệ để phục vụ cho các doanh nghiệp XNK), hạch toán kế toán các nghiệp vụ ngoại tệ, làm đầu mối thanh toán séc du lịch, thẻ tín dụng quốc tế, thu chi tiền mặt ngoại tệ cho các đơn vị, thực hiên việc giải ngân cho một số dự án do NHCTVN chỉ định. Phòng giao dịch Đồng Xuân: do trên địa bàn quận Hoàn Kiếm có khu chợ Đồng Xuân nên NHCTHK đã tổ chức ra một phòng riêng để phục vụ cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Phòng này hoạt động như một chi nhánh ngân hàng, tự hạch toán thu chi độc lập và có lãi. Hiện nay phòng giao dịch Đồng Xuân đang có kế hoạch mở rộng thành một chi nhánh NHCT gần tương tụ như chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Phòng nguồn vốn: cân đối tổng hợp: làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cân đối và tổng hợp về nguồn vốn và sử dụng vốn; huy động mọi nguồn vốn tiết kiệm từ các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phân kinh tế; thực hiện chế độ thông tin, lập kế hoạch tài chính, tổng hợp, phân tích, báo cáo về mọi
  34. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D tình hình hoạt động kinh doanh của NHCTHK theo yêu cầu của Giám đốc NHCT Việt Nam. Hiện nay chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm có tất cả 11 quỹ tiết kiệm. Mỗi quỹ tiết kiệm đều có 1 bộ máy gồm: Trưởng quỹ, thủ quỹ và kế toán. Phòng kế toán-tài chính: thực hiện hạch toán kế toán các nghiệp vụ thanh toán bằng VND, lên cân đối tổng hợp. Phòng có 5 tổ công tác chịu trách nhiệm về các chức năng riêng biệt: Tổ kế toán nội bộ, Tổ thanh toán viên, Tổ thanh toán liên ngân hàng, Tổ thanh toán bù trừ và Tổ tiết kiệm. Phòng ngân quỹ: quản lý tồn quỹ, thực hiện thu chi theo lệnh về tiền mặt VND và ngoại tệ, bảo quản và phân phối các chứng từ có giá. Phòng kiểm tra nội bộ: thực hiện kiểm soát nội bộ là nhiệm trọng tâm của phòng, ngoài ra còn thanh tra các vụ việc có liên quan, các thao tác nghiệp vụ nhằm ngăn chặn các rủi ro xảy ra từ chính các cán bộ ngân hàng. Phòng vi tính: quản lý và xử lý các dữ liệu kế toán, kết nối mạng nội bộ, ngoài ra còn thực hiện việc bảo dưỡng, lắp đặt các máy tính phục vụ cho việc tổng hợp, cân đối, sao kê cho mạng máy tính phòng kế toán. Phòng tổ chức-hành chính: thực hiện các công việc về hành chính quản trị như các doanh nghiệp khác, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động kinh doanh của các phòng ban; quản lý, sắp xếp và điều chuyển nhân sự, bảo đảm tiền lương cho cán bộ nhân viên, tham mưu cho lãnh đạo về xét tuyển và đề bạt cán bộ. Các phòng trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp với nhau để thực hiện tốt các hoạt động của ngân hàng. Cơ cấu tổ chức của các phòng ban ngày càng được cải tiến để ngày càng phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ của một ngân hàng đa năng, hiện đại và ngày càng có nhiều sản phẩm mới, đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng trong cơ chế thị trường. 2.2. Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng công thương hoàn kiếm Tất cả các Ngân hàng thương mại để đi vào hoạt động phải cần huy động vốn. Hoạt động huy động vốn (nghiệp vụ tài sản nợ) trong mỗi Ngân hàng không nằm riêng lẻ mà cùng với các nghiệp vụ tài sản có và các dịch vụ
  35. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D khác hình thành nên định hướng hoạt động chung của Ngân hàng. Huy động vốn là cơ sở, tạo cho Ngân hàng có nguồn vốn kinh doanh để thu được lợi nhuận. Nhận thức được vấn đề đó, NHCT Hoàn Kiếm đã coi việc huy dộng vốn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Toàn thể cán bộ công nhân viên của Ngân hàng đã có những cố gắng vượt bậc để thực hiện mục tiêu trên. Trong những năm qua, nguồn vốn mà NHCT Hoàn Kiếm huy động được luôn ổn định năm sau cao hơn năm trước. Nguồn vốn huy động được dồi dào không những đáp ứng được nhu cầu ở chi nhánh mà còn đựơc điều chuyển về hội sở chính, góp phần điều hoà vốn chung trong toàn hệ thống. Đội ngũ nhân viên ngân hàng với trình độ chuyên môn cao, phương pháp làm việc hiện đại, khoa học đã góp phần làm giảm chi phí huy động. So với các chi nhánh khác, chi phí huy động của Ngân hàng gần như là thấp nhất. Đồng thời huy động được vốn nhiều nhưng nguồn vốn huy động của chi nhánh vẫn được đánh giá là có độ an toàn cao. Đây là kết quả của việc đa dạng hoá các hình thức huy động, linh hoạt về lãi suất, hình thức trả lãi, nâng cao chất lượng các dịch vụ Ngân hàng. Ngân hàng luôn tích cực tìm kiếm nguồn vốn có chất lượng để phục vụ cho mục đích kinh doanh của mình. 2.2.1.Tình hình huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm Trong những năm qua hoạt động huy động vốn của NHCT Hoàn kiếm đã đạt được những thành tích xuất sắc. Nguồn vốn của ngân hàng luôn dồi dào, năm nào cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra. Ta có thể thấy qua bảng sau: Bảng2.1.khối lượng vốn huy động theo kế hoạch(đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Nguồn vốn huy động theo kế hoạch 1.753.712 2.803.075 4.500.000 Nguồn vốn thực tế huy động được 2.335.896 4.297.992 5.060.689 Mức chênh lệch tuyệt đối + 582.184 +1.494.917 + 560.689 Mức chênh lệch tương đối 33,19% 51,86% 12,45% Nguồn số liệu: phòng Kế toán NHCT Hoàn Kiếm
  36. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Năm 2000. Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động vốn tăng 15% so với năm 1999 (1.753.712 triệu đồng). Nhưng trên thực tế chi nhánh đã huy động được 2.335.896 triệu đồng vượt 33,19% kế hoạch đặt ra. Trong năm Ngân hàng đã bước đầu áp dụng phương thức giao dịch tức thời trên máy vi tính tại một số quỹ, đội ngũ nhân viên với phong cách phục vụ văn minh, lịch sự, đúng quy trình, tận tình, chu đáo đã chiếm được lòng tin của số lượng khách hàng ngày càng tăng. Đây là cơ sở giúp cho Ngân hàng có số dư tiền gửi tăng mặc dù lãi suất huy động của Ngân hàng thường thấp hơn các Ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Năm 2001 Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động vốn tăng 20% so với năm 2000 tức khoảng 2.803.075 triệu đồng. Trong năm Ngân hàng đã huy động được 4.297.992 triệu đồng, vượt 51,86% kế hoạch đặt ra. Năm 2002 Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động tổng nguồn vốn là 4.500.000 triệu đồng. Trong năm Ngân hàng đã huy động được 5.060.689 triệu đồng, vượt 12,45% kế hoạch đặt ra. Qua bảng trên ta thấy nguồn vốn huy động của Ngân hàng năm nào cũng cao hơn so với kế hoạch đặt ra. Năm 2001 nguồn vốn huy động của Ngân hàng tăng vọt so với năm 2000 và năm 2002 tăng chậm hơn. Gọi là tăng chậm, song so với các chi nhánh khác hay các đơn vị khác trên địa bàn, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn của NHCT Hoàn Kiếm là quá lý tưởng. Tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng thường cao hơn hẳn các đơn vị khác trên điạ bàn quận. Sự tăng trưởng lớn về nguồn vốn đã khẳng định uy tín và vị thế của Ngân hàng trên thương trường. Ta có thể thấy rõ sự tăng trưởng qua bảng sau: Bảng 2.2. Khối lượng vốn huy động(đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng vốn huy động 1.524.967 2.335.896 4.297.992 5.060.689 Lượng vốn huy động gia +810.929 +1.962.096 +762.697 tăng sau mỗi năm Tỷ lệ gia tăng năm sau so 53,17% 83,99% 17.74% với năm trước Nguồn số liệu: Phòng Kế toán NHCT Hoàn Kiếm Khối lượng vốn huy động của NHCT Hoàn Kiếm có thể nói là ở mức
  37. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D đáng kinh ngạc. Chỉ sau 2 năm nguồn vốn huy động đã tăng gấp đôi. Năm 2000, khối lượng vốn huy động của Ngân hàng tăng 53,17% so với năm 1999. Đặc biệt năm 2001, tỷ lệ trên là 83,99%. Đến năm 2002, khối lượng vốn huy động chỉ tăng 17,74%. Ta có thể thấy rõ một điều là nguồn vốn năm nào cũng tăng, song không ổn định. Chỉ tính riêng năm 2001, nguồn vốn huy động đã tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Với tổng nguồn vốn lớn và ổn định, chi nhánh có đủ khả năng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng, đồng thời chuyển vốn về NHCT Việt Nam, góp phần điều hoà toàn hệ thống và tham gia thị trường vốn. Có thể nói trong lúc việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn, sự cạnh tranh lãi suất quyết liệt, lãi suất huy động liên tục tăng trong khi lãi suất cho vay không thể tăng cùng tốc độ, thì đây là kết quả rất đáng khích lệ. Có được kết quả trên là vì ngay từ khi nguồn vốn còn dồi dào, Ngân hàng đã xác định nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế là rất lớn, vốn không bao giờ thừa cho một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nên đã xác định một chiến lược tăng trưởng vốn lâu dài. 2.2.1.1. Về nguồn huy động vốn Một trong những thế mạnh của NHCT Hoàn Kiếm, đó là nguồn huy động vốn rất đa dạng. Hiện nay NHCT Hoàn Kiếm huy động vốn chủ yếu bằng các nguồn như : -Tiền gửi của các tổ chức kinh tế (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn) -Tiền gửi của đân cư ( tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn) -Phát hành các công cụ nợ - Nguồn đi vay - Các nguồn huy động khác Một trong những điều đặc biệt ở NHCT Hoàn Kiếm, đó là trong cơ cấu tiền gửi thì tiền gửi của tổ chức kinh tế có tỷ trọng khá lớn. Nó thể hiện vai trò, vị thế của chi nhánh Hoàn Kiếm so với các đơn vị khác trên địa bàn. Khách hàng là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của chi nhánh Hoàn
  38. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Kiếm là rất lớn. Từ lâu chi nhánh đã thấy được tầm quan trọng của lượng khách hàng này và đã có những giải pháp hữu hiệu để thu hút. Nhưng như thế không có nghĩa là tiền gửi của dân cư không quan trọng. Bên cạnh đó là nguồn phát hành các công cụ nợ, tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác Cơ cấu trong huy động vốn của NHCT Hoàn Kiếm khá đa dạng và phong phú, thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.3. Cơ cấu nguồn vốn huy động (đơn vị: triệu đồng) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tỷ Tỷ Tỷ Chỉ tiêu Số dư trọng Số dư trọng( Số dư trọng (%) %) (%) Tiền gửi của các tổ 371.847 15,94 1.065.158 24,78 1.456.202 28,77 chức kinh tế Tiền gửi của dân 530.686 22,71 602.946 14,04 625.620 12,38 cư Phát hành các 3 17.399 0,4 102.468 2,02 công cụ nợ Nguồn đi vay 1.280.171 54,8 2.500.030 58,16 30 Nguồn vốn khác 153.189 6,55 112.459 2,62 2.876.368 56,83 Tổng 2.335.896 100 4.297.992 100 5.060.689 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Ta thấy qua các năm tiền gửi của tổ chức kinh tế có xu hướng tăng dần và tăng khá nhanh vào các năm 2001 và năm 2001. Năm 2000, tiền gửi của các tổ chức kinh tế chỉ chiếm 15,94% tổng nguồn vốn nhưng đến năm 2001 chiếm đến 24,78% . Đây là cố gắng rất lớn của chi nhánh. Bước vào năm 2001, năm đầu của kế hoạch 5 năm (2001- 2005), nhận thức được những thời cơ và thách thức khi mở cửa, hội nhập kinh tế với nước ngoài. Ngân hàng đã cùng doanh nghiệp suy nghĩ, tháo gỡ những khó khăn, đưa ra các loại hình dịch vụ mới, đáp ứng một cách tốt nhất cho doanh nghiệp về thanh toán, bảo lãnh Chính vì vậy trong con mắt của các tổ chức kinh tế, Ngân hàng là một người bạn đáng tin cậy, có thể chia sẻ, giúp đỡ doanh nghiệp trong kinh doanh. Không thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến với mình, Ngân hàng
  39. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D luôn chủ động tìm kiếm các khách hàng mới. Có rất nhiều các khách hàng lớn như: Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Điện Lực Việt Nam, Công ty Đầu tư Phát triển nhà Hà Nội, Công ty Phát triển hạ tầng với số dư tiền gửi ở Ngân hàng lên tới hàng trăm tỷ đồng. Ngoài ra phần lớn khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ cá thể. Tiền gửi của khu vực dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn tiền gửi của dân cư qua các năm vẫn tăng song có xu hướng giảm dần về tỷ trọng. Nếu như năm 2000, số dư tiền gửi là 530 tỷ và chiếm tỷ trong là 22,71% thì các con số tương ứng trong năm 2001 là 602 tỷ và 14,04%. Như vậy về số tuyệt đối là tăng gần 1/5 so với năm trước song về tỷ trọng lại giảm gần một nửa. Đây là do năm 2001, chi nhánh ngoài huy động vốn từ dân cư đã đẩy mạnh thu hút từ nhiều nguồn khác và đạt được nhiều thắnh lợi. Tiếp đà năm 2001, đến năm 2002. nguồn vốn huy động vẫn tăng song tỷ trọng lại giảm. Điều này cho thấy đi đôi với việc tăng tổng nguồn vốn thì cần phải rất chú trọng và cải thiện việc huy động tiền gửi từ dân cư. Về phát hành các công cụ nợ. Thực ra việc phát hành này cũng là huy động từ khu vực dân cư. Ngân hàng phát hành các kỳ phiếu, trái phiếu theo định hướng chung của NHCT Việt Nam. Đây là khu vực mà có tốc độ tăng ngoạn mục nhất. Năm 2000, việc phát hành các công cụ nợ của Ngân hàng chỉ thu được vỏn vẹn 3 triệu đồng. Một con số quá khiêm tốn. Đến năm 2001 đã nhảy vọt lên 17 tỷ và năm 2002 là hơn một trăm tỷ. Ngoài ra nguồn vốn đi vay của chi nhánh cũng rất lớn, vào các năm 2000 và 2001 chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn. Song đến năm 2002 nguồn vay này chỉ chiếm không đáng kể trong tổng nguồn vố. Đây là do trong năm, Ngân hàng có nhiều hợp đồng tín dụng và nguồn vốn từ các đơn vị khác trong hệ thống do không có đầu ra nên được điều chuyển về. Nguồn vốn khác của Ngân hàng cũng rất lớn , trong năm 2000 và năm 2001 chỉ chiếm vài % nhưng đến năm 2002 chiếm tới hơn 50% tổng nguồn
  40. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D vốn. Ngân hàng cho vay được nhiều, đầu tư có hiệu quả nên các ngân hàng khác, chi nhánh khác có nguồn vốn nhiều không cho vay được đã uỷ thác cho Ngân hàng sử sụng. Nguồn vốn uỷ thác này rất lớn thể hiện được uy tín và vị thế của chi nhánh trên thương trường. 2.2.1.2. Về kỳ hạn huy động vốn Xét về mặt thời gian Ngân hàng huy động vốn theo hai loại : không kỳ hạn và có kỳ hạn. Hình thức có kỳ hạn của Ngân hàng rất đa dạng, đáp ứng được mọi nhu cầu của người gửi. Năm 2002, chi nhánh mở thêm thời hạn huy động mới là 2 tháng và hiện nay Ngân hàng đang huy động với các thời hạn sau: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng và trên 12 tháng. Thời hạn đa dạng đã đáp ứng mọi mục đích của người gửi tiền: gửi với mục đích sinh lợi, gửi với mục đích thanh toán, gửi với mục đích an toàn Ngân hàng tạo mọi thuận lợi cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng nhận được sự tán thưởng, đánh giá cao của khách hàng thể hiện qua kết quả huy động: Bảng 2.4. Nguồn vốn huy động theo kỳ hạn (đơn vị: triệu đồng) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tỷ Tỷ Tỷ Chỉ tiêu Số dư trọng Số dư trọng Số dư trọng (%) (%) (%) Vốn không 166.108 7,12 353.416 8,22 464.485 9,18 kỳhạn Vốn ngắn 1.785.224 76,42 3.566.086 82,97 3.889.729 76,86 hạn Vốn trung 384.564 16,46 378.490 8,81 706.475 13,96 và dài hạn Tổng 2.335.896 100 4.297.992 100 5.060.689 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồng vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Nguồn huy động không kỳ hạn của Ngân hàng qua các năm đều tăng. Tỷ trọng trong tổng nguồn vốn ngày càng được tăng cường một cách khá đều đặn. Trong cơ cấu của nguồn tiền gửi không kỳ hạn này thì chủ yếu là tiền gửi
  41. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D của các tổ chức kinh tế, chiếm khoảng 95%. Nguồn tiền gửi của khu vực dân cư rất ít. Nó phản ánh đặc điểm của nguồn tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn tiền gửi không kỳ hạn chủ yếu được các tổ chức kinh tế sử dụng với mục đích phục vụ cho việc thanh toán. Còn đối với dân cư, mục đích chủ yếu là để lấy lãi, nên họ gửi vào các khoản mục có kỳ hạn. Trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng tính theo thời gian, thì nguồn vốn ngắn hạn luôn rất lớn, chiếm khoảng 75 - 80% tổng nguốn vốn. Nguồn vốn ngắn hạn này huy động từ dân cư, doanh nghiệp và được các ngân hàng khác điều chuyển đến. Ngày nay các doanh nghiệp cũng có xu hướng gửi tiền vào các khoản mục ngắn hạn: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng thay vào chỉ gửi vào tiền gửi không kỳ hạn như trước kia. Các doanh nghiệp đã tính toán kỹ lưỡng chu kỳ kinh doanh của mình, từ đó tìm ra giải pháp tối ưu để tối đa hoá lợi nhuận. Khoản tiền huy động từ nguồn trung và dài hạn là quan trọng đối với bất cứ Ngân hàng nào. Đây là nguồn chủ yếu để Ngân hàng tiến hành cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay trung và dài hạn rất cao, từ đó Ngân hàng kiếm dược nhiều lợi nhuận. Lấy nguồn huy động trung và dài hạn để cho vay trung và dài hạn là một cách để giảm bớt rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất. Nguồn vốn trung và dài hạn của Ngân hàng không nhiều, chiếm một tỷ trọng nhỏ. Năm 2001 nguồn này còn bị giảm sút so với năm 2000 và có tăng trong năm 2002. Tuy nhiên so với các khoản cho vay trung và dài hạn thì không tương xứng. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn của chi nhánh ngày càng tăng và đến năm 2002 đạt mức cao hơn so với cho vay ngắn hạn. Ngân hàng đã áp dụng việc chuyển hoán kỳ hạn nguồn. Đây là một con dao hai lưỡi và Ngân hàng phải hết sức quan tâm tới an toàn tín dụng. 2.2.1.3. Về chi phí huy động vốn Trên con đường hội nhập và phát triển, nguồn vốn cần cho đầu tư, phát triển kinh tế là luôn cần thiết. Trong khi các đơn vị khác, việc huy động vốn gặp khó khăn và để tăng sức cạnh tranh, họ luôn tăng lãi suất huy động. NHCT Hoàn Kiếm với lãi suất huy động không cao hơn, song lại huy động
  42. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D được một nguồn vốn lớn, đã chứng tỏ được uy tín của mình đối với khách hàng, tạo vị thế phát triển vững chắc. Chi phí huy động bao gồm ngoài phần lãi phải trả còn có những khoản khác như: lương nhân viên, trang bị máy đếm tiền, máy soi tiền, tiền thuê trụ sở, các chi phí hành chính khác Trong đó phần lãi phải trả là bộ phận chủ yếu của chi phí huy động. NHCT Hoàn Kiếm huy động vốn theo khung lãi suất do Tổng giám đốc NHCT Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Khác với các Ngân hàng cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, lãi suất luôn được điều chỉnh theo kiểu phá giá. Lãi suất huy động của chi nhánh không cao hơn song vẫn thu hút được đông đảo khách hàng. Chi nhánh luôn nghiên cứu tìm ra các biện pháp để giảm các chi phí khác trong chi phí huy động. Mục tiêu đặt ra là phải làm sao để tốc độ tăng của lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng cuả chi phí. Và Ngân hàng đã thực hiện một cách xuất sắc mục tiêu trên. Kết quả là, năm 2000 lợi nhuận hạch toán là 23 tỷ đồng và đến năm 2002 là 42,2 tỷ đồng. Ngân hàng xác định thế mạnh trong cạnh tranh sẽ là ở khâu dịch vụ. Từ đó Ngân hàng nâng cao chất lượng các dịch vụ, hấp dẫn, lôi cuốn đuợc nhiều khách hàng mới đồng thời luôn quan tâm, giữ chân các khách hàng truyền thống. 2.2.2. Các hình thức huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm 2.2.2.1. Huy động vốn từ các quỹ NHCT Hoàn Kiếm là một trong số 115 chi nhánh trên toàn quốc của NHCT Việt Nam. Là một Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước, NHCT Việt Nam có vốn pháp định do Nhà Nước cấp. ở cấp chi nhánh song hàng năm NHCT Hoàn Kiếm vẫn có những khoản vốn huy động được từ chính các quỹ tại đơn vị. Ngân hàng trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như: quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ khen thưởng Nguồn huy động từ các quỹ này có ý nghĩa rất lớn. Đây là nguồn của chính đơn vị, đơn vị sử dụng nên không phải trả lãi như các nguồn
  43. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D huy động khác. Hơn nữa nguồn này còn thể hiện tình hình hoạt động kinh doanh hiệu quả của đơn vị. Tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, nguồn vốn huy động từ các quỹ trong các năm qua như sau: Bảng 2.5. Nguồn vốn huy động từ các quỹ (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Nguồn vốn huy động từ các quỹ 129 275 417 Lượng vốn gia tăng giữa các năm +146 +142 Tỷ lệ gia tăng giữa các năm (%) 113,17 49,81 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp So sánh với tổng nguồn vốn huy động, vốn huy động từ các quỹ tại chi nhánh chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Tuy nhiên nguồn vốn này đang ngày càng gia tăng với tốc độ khá nhanh. Năm 2002, nguồn vốn huy động từ cac quỹ tăng hơn gấp đôi năm 2000 (khoảng 113,17%) . Năm 2002, vốn huy động từ các quỹ lại tăng gấp rưỡi so với năm 2001. ở đây ta chưa xét đến khía cạnh tuyệt đối mà chỉ nói đến khía cạnh tương đối. Nó chứng tỏ một điều rằng NHCT Hoàn Kiếm đang kinh doanh rất có lãi. Bởi nguồn của các quỹ này là từ lợi nhuận sau thuế, Ngân hàng dùng khoản này để kinh doanh vừa kinh tế lại vừa an toàn cho chính Ngân hàng. Hơn nữa ta thấy tốc độ gia tăng của các quỹ khác này rất đáng kể. Điều này chứng tỏ ngoài việc cố gắng hết sức việc huy động vốn từ bên ngoài, Ngân hàng cũng hết sức chú ý việc phát huy nội lực của chính mình. Đây là một điều đúng với tất cả các doanh nghiệp. Đặc biệt với Ngân hàng, việc kinh doanh gặp nhiều rủi ro không lường trước được thì lại càng quan trọng. 2.2.2.2. Huy động vốn từ các khoản tiền gửi a. Tiền gửi thanh toán Đứng ở cấp độ một chi nhánh, có thể nói NHCT Hoàn Kiếm là một chi nhánh đứng hàng đầu trong việc quan hệ với các khách hàng lớn. Đây không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của một chiến lược huy động vốn lâu dài, trong đó rất coi trọng đến các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Các khách hàng lớn là những tổng công ty, các tổ chức kinh tế có tình hình tài chính lành
  44. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D mạnh, quy mô làm ăn lớn. Có thể kể ra như: Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, các tổng công ty 90, 91, công ty đầu tư và phát triển Nhà Hà Nội, Điện lực Hà Nội Ngoài ra số lượng khách hàng là các công ty vừa và nhỏ rất nhiều: Công ty thương mại và dịch vụ Thái Dương, HTX bốc xếp Đồng Xuân, Công ty Quyết Thắng CCB, Công ty TNHH Liên Thao Đây là những tổ chức kinh tế đóng góp phần lớn nguồn tiền gửi không kỳ hạn cho Ngân hàng. Ta xem bảng sau: Bảng 2.6. Nguồn tiền gửi thanh toán theo đối tượng (đơn vị: triệu đồng) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tỷ Tỷ Tỷ Chỉ tiêu Số dư trọng Số dư trọng Số dư trọng (%) (%) (%) Tiền gửi thanh toán của các tổ 158.391 95,36 344.273 97,42 455.168 98 chức kinh tế Tiền gửi thanh 7.717 4,64 9.143 2,58 9.317 2 toán của dân cư Cộng 166.108 100 353.416 100 464.485 100 Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Qua bảng ta có thể thấy được nguồn tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng hầu như là của các tổ chức kinh tế. Điều này là phù hợp với đặc điểm của nguônd. Các tổ chức kinh tế trong quá trình kinh doanh của mình, nguồn tiền đến và đi rất bất chợt, khó đoán trước. Các tổ chức kinh tế thay vì giữu tiền tại cơ quan, họ mang đến gửi Ngân hàng. Tại đây họ thực hiện các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng, tiết kiệm thời gian cho mình. Đồng thời họ vẫn được hưởng một khoản lãi nhỏ (hiện nay Ngân Hàng quy định lãi suất không kỳ hạn đối vơí VND là 0,2%/tháng). Điều này giải thích vì sao nguồn tiền gửi thanh toán chủ yếu là của các tổ chức kinh tế. Tiền gửi thanh toán của dân cư chủ yếu là của một số ít hộ dân buôn bán cá thể (các hộ buôn bán ở chợ Đồng Xuân, một số cửa hàng vàng, bạc trên địa bàn quận). Các hộ này cũng có nhu
  45. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D cầu như các tổ chức kinh tế song qua ccác năm, số này nhỏ dần trong tỷ trọng. Năm 2000 chiếm 4,64% nhưng đến năm 2002 chỉ còn 2%. Trong khi đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế ngày càng tăng, đến năm 2002, chiếm 98% tổng tiền gửi thanh toán. Đây có lẽ là xu hướng chung cho một nền kinh tế mở cửa, khi mà quá trình lưu thông hàng hoá giữa các vùng, giữa các nước ngày càng được mở rộng, thúc đẩy mạnh mẽ. Trong cơ cấu tiền gửi thanh toán chủ yếu là đồng nội tệ, đồng ngoại tệ chiếm một tỷ trọng nhỏ: Bảng 2.7. Nguồn tiền gửi thanh toán theo loạI tiền (đơn vị: triệu đồng) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Chỉ tiêu Tỷ trọng Tỷ trọng Tỷ trọng Số dư Số dư Số dư (%) (%) (%) 1.VND 156.221 94.04 344.485 97,47 455.631 98,09 2.Ngoại tệ 9.887 5,96 8.931 2,53 8.854 1,91 Tổng 166.108 100 353.416 100 464.485 100 Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Đồng nội tệ trong tiền gửi thanh toán có xu hướng tăng qua các năm. Về số tuyệt đối thì tăng khoảng gấp rưỡi, còn về tỷ trọng thì tăng từ 94,04% năm 2000 lên 98,09% vào năm 2002. Đồng ngoại tệ thì ngày càng giảm đi về tỷ trọng từ 5,96% năm 2000 xuống còn 1.91% vào năm 2002. Điều này đặt ra cho Ngân Hàng một vấn đề lớn: Ngân Hàng phải tăng cường quan hệ với các công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài Ngân Hàng cũng phải tìm kiếm, thu hút những doanh nghiệp XNK. Bởi nếu khách hàng là những người làm ăn với nước ngoài nhiều thì Ngân Hàng sẽ có một số lượng lớn ngoại tệ trong tay, sử dụng vào các mục đích của mình. Đây là cách huy động ngoại tệ rấy hay lại đỡ tốn kém hơn các hình thức khác. Nguồn tiền gửi thanh toán của chi nhánh ngày càng có vai trò quan trọng. Số lượng tăng lên rất nhanh. Đó là do các dịch vụ của Ngân Hàng được
  46. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D thực hiện rất tốt. Việc thanh toán được thực hiện theo phương châm: Nhanh- chính xác- an toàn. Để nguồn tiền gửi thanh toán tăng trưởng một cách vững chắc , trong thời gian tới Ngân Hàng cần quan tâm nhiều đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoàn thiện mọi dịch vụ để thực sự trở thành: "Kho giữ tiền" của mọi doanh nghiệp trên điạ bàn quận. b. Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội Nguồn tiền gửi này xét về mặt tiện ích thì không bằng tiền gửi thanh toán, song lại có lãi cao hơn hẳn. Người gửi tiền ở đây khôngđược quyền rút tiền bất cứ lúc nào mà chỉ được rút tiền khi đến hạn. Các doanh nghiệp, tổ chức xã hội có nhu cầu chi trả tiền theo một chu kỳ xác định: 1 tháng, 2 tháng Họ có thể gửi vào khoản mục này vừa đáp ứng cho nhu cầu của mình vừa có lãi cao. Ngày nay các doanh nghiệp chuyển bớt từ khoản mục tiền gửi thanh toán sang tiền gửi ngắn hạn ngaỳ càng nhiều. Kết quả là các Ngân Hàng thu được nguồn này rất lớn, cụ thể tại chi nhánh như sau: Bảng 2.8. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế theo kỳ hạn (đơn vị: triệu đồng) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tỷ Tỷ Tỷ Chỉ tiêu Số dư trọng Số dư trong Số dư trọng (%) (%) (%) 1.Ngắn hạn 213.171 99,85 720.538 99,95 1.000.463 99,95 (dưới12 tháng) 2.Trung, dài hạn 285 0,14 347 0,05 571 0,05 (trên12tháng) Tổng 213.456 100 720.885 100 1.001.034 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Tiền gửi có kỳ hạn, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao song trong cơ cấu của nguồn này thì gần như toàn bộ là ngắn hạn. Đây là một điều dễ giải thích. Doanh nghiệp là doanh nghiệp, có nghĩa là vốn có được phải được dùng để sản xuất kinh doanh chứ không đơn thuần là chỉ để gửi Ngân Hàng lấy lãi.
  47. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong kinh doanh lớn hơn lãi suất của Ngân Hàng. Các khách hàng của chi nhánh, ví dụ như tổng công ty Điện Lực Việt Nam gửi ngắn hạn sau đó họ lấy từng tháng để trả lương. Đây lầ một hình thức vô cùng thuận tiện. Với hình thức này Ngân hàng đã khắc phục được yếu điểm của tiền gửi thanh toán. Đó là nguyên nhân vì sao chỉ sau một năm, từ 2000 đến 2001, nguồn tiền gửi ngắn hạn của doanh nghiệp đã tăng 3,38 lần từ 213 tỷ lên 720 tỷ đồng. Năm 2002 nguồn này đạt hơn 1000 tỷ đồng. Có thể khẳng địng đây sẽ là xu hướng trong thời gian tới. Các doanh nghiệp sẽ vừa kinh doanh, vừa tính toán sao cho đạt được lợi nhuận tối đa với nguồn vốn của mình. Đây cũng khẳng định uy tín của chi nhánh với các doanh nghiệp trên địa bàn. Trên quận Hoàn Kiếm, trụ sở của các Ngân Hàng, các chi nhánh Ngân Hàng khác rất nhiều nhưng các doanh nghiệp vẫn tìm đến với Ngân Hàng thể hiện qua số dư tiền gửi của doanh nghiệp ngày càng tăng. Năm 2002 so với năm 2001 tăng 38,86% và so với năm 2000 tăng hơn 5 lần. Quả thật là một con số trong mơ đối với nhiều chi nhánh, đơn vị khác. Số dư tiền gửi trung và dài hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội không lớn. Số dư này chủ yếu là của một số công ty do trong năm không tìm được hướng đầu tư, để tránh tìng trạng ứ đọng vốn, đã gửi vào Ngân Hàng. Nguồn này tuy cũng tăng qua các năm song tỷ trọng ngày càng nhỏ dần. Năm 2000 chiếm 0,14% nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Năm 2001 chiếm 0,05% và năm 2002 cũng vậy. Đứng ở địa vị Ngân Hàng thì Ngân Hàng mong ngày càng có nhiều nguồn này. Bởi vì Ngân Hàng có thể sử dụng một cách dễ dàng do kỳ hạn cố định. Hơn nữa số tiền nay lại ở trong một số ít các công ty, không phức tạp nhỏ lẻ như tiền gửi tiết kiệm nên có điều kiện làm giảm các chi phí khác trong chi phí huy động. Trong các năm qua Ngân Hàng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp. Tiền gửi có kỳ hạn có lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán. các doanh nghiệp đã tận dụng điều này và đã nghiên cứu, tính toán chu kỳ kinh doanh của mình để chuyển một phần tiền gửi thanh toán
  48. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D sang tiền gửi có kỳ hạn. Ngân hàng có một lượng tiền để có thể sử dụng một cách ổn định hơn và doanh nghiệp có lãi hơn. Đây là một trong nhiều cách thức nhằm đa dạng hoá hình thức huy động, thu hút thật nhiều nguồn vốn của chi nhánh. Tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong tổng nguồn vốn huy động tăng lên rất nhanh. Năm 2000 trong tổng nguồn vốn huy động 2.335.896 triệu đồng thì tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp chiếm 9,13%. Năm 2001 con số này là 16,77%, năm 2002 là 19,78%. điều đáng nói ở đây là trong khi tổng nguồn vốn huy động tăng lên gấp hơn hai lần tử năm 2000 đến năm 2002 thì tỷ trọng cũng tăng lên hơn hai lần. Điều này càng khẳng định tầm quan trọng của nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Tuy nhiên cũng như tiền gửi thanh toán, nguồn tiền gửi này lại có sự chênh lệch rất lớn giữa các loại tiền. Bảng 2.9. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội theo loại tiền (đơn vị: triệu đồng) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tỷ Tỷ Tỷ Chỉ tiêu Số dư trọng Số dư trong Số dư trong (%) (%) (%) 1.VND 188.368 88,24 690.873 95,84 962.916 96,20 2.Ngoại tệ 25.088 11,76 30.012 4,16 38.118 3,8 Tổng 213.456 100 720.885 100 1.001.034 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Trong số khách hàng- doanh nghiệp của chi nhánh, hầu hết là các doanh nghiệp có môi trường làm ăn ở trong nước. Các khách hàng lớn như tổng công ty Điện lực Việt Nam cũng ít làm ăn với nước ngoài. Điều này được thể hiện qua tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp chủ yếu là nội tệ. Tỷ trọng này tăng nhanh trong năm 2001 và dần ổn định ở mức cao trong năm 2002 (96,2%). Ngoại tệ thì ngày càng nhỏ đi từ 11,76% năm 2000 đến 4,16% năm 2001 và 3,8% năm 2002. Để thu hút nguồn ngoại tệ nhiều hơn nữa, Ngân Hàng phải chú ý đến các đối tượng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Một điều thuận tiện cho Ngân Hàng là trên địa bàn có rất nhiều cửa
  49. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D hàng vàng bạc, rất nhiều khách du lịch nước ngoài. Ngân Hàng nếu lôi cuốn đựoc hầu hêt số khách này thì chắc hẳn sẽ có một nguồn ngoại tệ dồi dào dư sức đáp ứng cho các khách hàng là những đơn vị XNK. Đi đôi với tăng nguồn ngoại tệ thu hút mạnh hơn nữa nguồn nội tệ cũng rất quan trọng. Ngân Hàng phải đề ra các chính sách về giao tiếp khuếch trương, chính sách về Marketing ngân hàng. ít nhất Ngân Hàng cũng phải thắng trên sân nhà, tức là phải thu hút được hầu hết các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn làm khách hàng của chi nhánh. Làm được điều này trong một môi trường có đọ cạnh tranh rất cao như địa bàn Hoàn Kiếm là rất khó. Song có như vậy Ngân Hàng mới thu hút được khoản tiền gửi có kỳ hạn của một lượng doanh nghiệp, tổ chức xã hội rất lớn trên địa bàn. Từ đó chi nhánh có một nguồn vốn dồi dào để thực hiện các hoạt động đầu tư, cho vay, gia tăng mức lợi nhuận cho mình. c. Tiền gửi tiết kiệm Có thể nói nghiệp vụ huy động tiền gửi tiết kiệm là nghiệp vụ có đầu tiên của bất cứ Ngân hàng nào từ xưa đến nay. Các tầng lớp dân cư đều có khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các Ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng ). Chính vì vậy đây là khu vực có mức độ cạnh tranh cao nhất giữa các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Hiện nay, NHCT Hoàn Kiếm có 11 quỹ tiết kiệm, các quỹ này trực thuộc phòng Nguồn vốn và được phân bố dải rác trên địa bàn. Ngay từ đầu chi nhánh đã hết sức coi trọng công tác đặc biệt này. Nó được thể hiện qua việc các quỹ tiết kiệm đều được ưu tiên trang bị các máy móc thiết bị, môi trường
  50. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D sạch đẹp, khang trang Ngay trong phòng Nguồn vốn về mặt nhân sự có 54 người thì chỉ có 6 người làm trên phòng, còn lại tất cả đều xuống các quỹ tiết kiệm. Ngân hàng thường xuyên tổ chức tập huấn, đào tạo trình độ nghiệp vụ cho các nhân viên ở các quỹ tiết kiệm. Về các mặt lương thưởng, trợ cấp chi nhánh cũng đều hết sức quan tâm, chú ý. Kết quả của những việc làm trên là nguồn tiền gửi tiết kiệm ngày càng tăng, phát triển với một sự vững chắc ổn định qua từng năm. Bảng 2.10. Tiền gửi tiết kiệm (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Tiền gửi tiết kiệm 358.717 530.686 602.946 625.621 2.Lượng TGTK gia + 171.969 + 72.260 + 22.675 tăng giữa các năm 3.Tỷ lệ gia tăng giữa 47,94 13,61 3,71 các năm Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Nguồn tiền gửi tiết kiệm của Ngân hàng là rất quan trọng. Nguồn này đáp ứng phần lớn cho hoạt động tín dụng. Qua các năm nguồn tiền gửi tiết kiệm của Ngân Hàng đều tăng song tốc độ tăng chậm dần. Nếu như năm 2000 so với năm 1999 tăng đến 47,94% thì năm 2002 so với năm 2001 chỉ tăng 3,76%. Điều này phản ánh môi trường huy động tiền gửi tiết kiệm ngày càng khó khăn. Những năm 2000 đổ về trước việc huy động tiền gửi tiết kiệm của Ngân Hàng tương đối dễ dàng, đối thủ cạnh tranh của Ngân Hàng còn ít. Càng về sau với sự tham gia của nhiều tổ chức tín dụng trên địa bàn như: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông Nghiệp, chi nhánh Citibank đã làm cho sự cạnh tranh ngày càng tăng. Tốc độ gia tăng tiền gửi tiết kiệm của chi nhánh có giảm song về số tuyệt đối thì vẫn ở mức cao. Ngân hàng vẫn khẳng định được vị thế vững chắc của mình trên địa bàn quận Hoàn Kiếm. Nếu xét về tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi tiết kiệm có xu hướng ngày càng giảm dần. Năm 2000, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm trong tổng nguồn vốn là 22,71%. Năm 2001, tỷ lệ này còn 14,02% và năm
  51. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 2002 là12,36%. Như vậy tốc độ tăng của tiền gửi tiết kiệm không tăng nhanh hơn tốc độ của nguồn vốn huy động. Đây là một vấn đề cần xem xét lại. Để rõ hơn ta tìm hiểu về tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn: Bảng 2.11. Tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn (đơn vị: triệu đồng) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tỷ Tỷ Tỷ Chỉ tiêu Số dư trọng Số dư trọng Số dư trọng (%) (%) (%) 1.TGTK không kỳ 7.717 1,46 9.143 1,53 9.317 1,5 hạn 2.TGTK từ 1 đến 6 74.882 14,11 104.670 17,35 117.552 18,79 tháng 3.TGTK từ 6 đến 9 223.498 42,11 223.337 37,04 219.196 35,03 tháng 4.TGTK từ 12 224.589 42,32 265.796 44,08 279.556 44,68 tháng trở lên Tổng 530.686 100 602.946 100 625.621 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Kỳ hạn của các khoản tiền gửi mà Ngân hàng đưa ra khá phong phú. Hiện nay tại chi nhánh có các kỳ hạn sau: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng. Về tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, thực chất đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Nguồn này có số dư không lớn và ít biến động qua các năm ( khoảng 1,5% tiền gửi tiết kiệm). Hầu hết mục đích của người gửi tiền vào đây là để lấy lãi nên họ gửi với kỳ hạn dài (thời hạn càng dài lãi suất càng cao). Tiền gửi tiết kiệm từ 1- 3 tháng có xu hướng tăng qua các năm. Năm 2000 đạt 14,11% tổng số tiền gửi tiết kiệm. Năm 2002 đạt khoảng 18,7%. Điều này là kết quả của việc đa dạng các kỳ hạn gửi tiền. Năm 2001, tiền gửi tiết kiệm không có kỳ hạn 2 tháng. Năm 2002, Ngân hàng mở thêm kỳ hạn này và đã được khách hàng rất hoan nghênh. Nhờ đó nguồn tiền gửi tiết kiệm đã tăng lên. Ta thấy tốc độ tăng khá đều đã khẳng định xu thế
  52. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D của nguồn này sẽ tăng trong tương lai. Đối với tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 6- 9 tháng thì lại ngược lại, đang có xu hướng giảm dần trong thời gian gần đây. Từ 42,115 trong tổng số tiền gửi tiết kiệm năm 2000 xuống còn 37,04% năm 2001 và 35,03% năm 2002. Tuy vậy số dư của nguồn này vẫn lớn. Hình thức này vẫn đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng. Chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn quan trọng nhất trong tiền gửi tiết kiệm là nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn. Đây là nguồn chủ yếu dể dùng cho vay trung và dài hạn, mang lại lợi nhuận cao. Nguồn này có xu hướng ngày càng tăng. Huy động được nhiều nguồn này chứng tỏ chi nhánh đã có uy tín cao đối với khách hàng. Người dân có tin tưởng Ngân Hàng thì họ mới gửi vốn trung và dài hạn, một bộ phận rất không an toàn do yếu tố làm phát. Để gia tăng nguồn trung và dài hạn này đòi hỏi Ngân hàng phải phục vụ tốt hơn nữa, mở rộng tuyên truyền, quảng cáo đến từng người dân để thu hút sự chú ý, lòng tin của họ. Đây là cơ sở cho sự phát triển vững chắc sau này. Một trong những sáng tạo của chi nhánh là trong năm qua chi nhánh đã đưa ra hình thức tiết kiệm dự thưởng. Đây là một hình thức mới đối với ngay cả nhân viên trong Ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng đem lại những thành quả bước đầu: Tiết kiệm dự thưởng bằng VND (đơn vị: triệu đồng) + Kỳ hạn 6 tháng: 20.717 + Kỳ hạn9 tháng: 447 + Kỳ hạn 12 tháng: 7.178 Nguồn vốn thu được tuy không nhiều song quan trọng là qua đó, khách hàng biết đến Ngân hàng nhiều hơn, một hình thức quảng cáo rất tốt. Nhưng trong loại hình tiết kiệm dự thưởng, kỳ hạn Ngân hàng đưa ra còn chưa đa dạng. Ngay cả đợt tiết kiệm dự thưởng hiện tại mà Ngân hàng đang mở ra từ 1/4/2003 đến 30/6/2003 cũng chỉ có kỳ hạn 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng. Ngân hàng có thể mở thêm kỳ hạn hơn nữa để thu hút khách hàng. Đồng thời với việc tăng thêm kỳ hạn, Ngân hàng có thể nghiên cứu đưa ra hình thức tiết kiệm dự thưởng bằng USD. Có như vậy mới thu hút được nhiều nhất tiền gửi
  53. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D tiết kiệm có thể. Về loại tiền gửi tiết kiệm, năm 2000 chi nhánh đã có một bước đột phá là nhận tiền gửi bằng EUR. Tiền gửi tiết kiệm bằng EUR có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng. Đây là một bước tiến tới đa dạng các đồng tiền Ngân hàng huy động. Bảng 2.12. TGTK bằng EUR theo thời hạn (đơn vị: triệu đồng) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tỷ Tỷ Tỷ Chỉ tiêu Số dư trọng Số dư trọng Số dư trọng (%) (%) (%) 1.TGTK không kỳ hạn 2.TGTK ngắn 75.059 33,85 97.004 37,72 102.161 39,29 hạn 3.TGTK trung 146.665 66,15 160.104 62,28 157.848 60,71 và dài hạn Tổng 221.714 100 257.108 100 260.009 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Có thể thấy mục đích chủ yếu của người gửi tiền là để hưởng lãi nên số dư tiền gửi trung và dài hạn lớn hơn hẳn nguồn ngắn hạn. Thường là gần gấp đôi. Nguồn tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn bằng ngoại tệ có xu hướng tăng dần, năm 2000 chiếm 33,85% thì năm 2002 là 39,29%. Ngược lại nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn bằng ngoại tệ lại có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên vẫn còn ở mức cao. Trong số tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ , nguồn tiền gửi không kỳ hạn là không có. Do vậy nguồn tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ có tính ổn định rất cao. Trong tổng số 268949 tỷ đồng thu được thì nguồn tiền gửi do dân cư chiếm phần lớn (khoảng 82,43%). Tỷ lệ này luôn ở mức cao và chiếm tỷ trọng 86,84% vào năm 2001 và 84,69% vào năm 2002. Đặc biệt hình thức tiết kiệm bằng EUR, tuy chỉ mới bắt đầu thực hiện vào tháng 2/2002, nhưng đã thể hiện đây là một hình thức huy động đầy tiềm năng trong tương lai.
  54. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D Bảng 2.13. tgtk bằng EUR (đơn vị: EUR) Năm 2002 TGTK bằng EUR Số dư Tỷ trọng (%) 1.Kỳ hạn 3 tháng 22.734,69 19,55 2.Kỳ hạn 6 tháng 53.825 46,24 3.Kỳ hạn 12 tháng 39.820 34,21 Tổng 116.379,69 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Tiền gửi tiết kiệm bằng EUR tập trung nhiều nhất ở kỳ hạn 6 tháng, chiếm 46,24%, còn lại là kỳ hạn 3 tháng và 12 tháng. Chỉ có 3 loại kỳ hạn nhưng chi nhánh đã huy động được116379,69 EUR với tỷ giá 1EUR =16034 đồng thì tương đương với 1866 triệu đồng. Con số này tuy ban đầu còn nhỏ nhưng hứa hẹn sẽ tăng mạnh hơn nếu kỳ hạn huy động được đa dạng thêm. Có một điều thú vị tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm là số dư tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ chiếm tỷ lệ khá lớn. Ta xem bảng sau: Bảng 2.14. tgtk bằng ngoại tệ (đơn vị: triệu đồng) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tỷ Tỷ Tỷ Chỉ tiêu Số dư trọng Số dư trọng Số dư trọng (%) (%) (%) 1.TGTK bằng 308.972 58,22 345.838 57,35 365.621 58,43 VND 2.TGTK bằng 221.714 41,18 257.108 42,65 260.009 41,57 ngoại tệ Tổng 530.686 100 602.946 100 625.621 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ luôn chiếm khoảng 41- 42%, còn lại là tiết kiệm bằng USD. So sánh với các chi nhánh khác thì NHCT Hoàn Kiếm có một tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ là rất cao. Tỷ trọng các nguồn
  55. Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D này có xu hướng ổn định qua các năm trong khi nguồn tiền gửi tiết kiệm liên tục tăng. Để giữ được điều này chi nhánh đã có một chiến lược huy động vốn khá đa dạng, đã biết đánh giá đúng tầm quan trọng của nguồn ngoại tệ trong một nền kinh tế đang phát triển, luôn nhập siêu như nước ta hiện nay. Nguồn tiền gửi bằng ngoại tệ là khá lớn, chiếm phân nửa trong tiền gửi tiết kiệm. Hoàn Kiếm là quận trung tâm, nơi tập trung rất nhiều các cửa hàng vàng bạc, đồ lưu niệm bán cho người nước ngoài.Để tăng cường hơn nữa việc huy động nguồn ngoại tệ thì vấn đề đặt ra cho chi nhánh là phải làm thế nào để thu hút được các nguồn ngoại tệ ở từng gia đình, từng cửa hàng. Có như vậy chi nhánh mới khai thác được lợi thế địa bàn hoạt động của mình, nâng cao sức cạnh tranh so với các đơn vị chi nhánh khác. 2.2.2.3. Huy động vốn qua đi vay Cần phải khẳng định một điều nguồn vốn huy động của chi nhánh luôn dồi dào. Số tiền gọi là đi vay ở đây thực chất là do các chi nhánh khác trong hệ thống chuyển đến. Huy động vốn qua đi vay từ 3 nguồn: từ Ngân hàng Nhà nước, từ các tổ chức tín dụng khác và phát hành các công cụ nợ. Trong đó vay từ các tổ chức tín dụng khác trong năm 2000 và năm 2001 đã đóng góp phần lớn tạo nên tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Năm 2000 nguồn này chiếm 54,8% trong tổng số 2335 tỷ đồng huy động được. Năm 2001, nguồn này chiếm 58,16% trong tổng nguồn vốn huy động. Và đến năm 2002 thì nguồn này lại không đáng kể ( chỉ có 30 triệu vay từ Ngân hàng Nhà nước). Đây không phải là do trực tiếp chi nhánh vay mà do NHCT Việt Nam vay và chuyển xuống. Nguồn vay từ các tổ chức tín dụng khác trong năm 2000 và năm 2001 rất lớn, như thế đã phản ánh quy mô và năng lực kinh doanh của chi nhánh. Trong khi các chi nhánh khác trong hệ thống gặp khó khăn trong việc cho vay, đầu tư, thì chi nhánh Hoàn Kiếm lại có một nguồn đầu ra hết sức lớn. Tuy nhiên có ý nghĩa nhất trong huy động vốn qua đi vay chính là việc