Luận văn Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ở công ty Donimex

doc 52 trang nguyendu 3830
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ở công ty Donimex", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_van_cac_bien_phap_nham_day_manh_hoat_dong_kinh_doanh_xu.doc

Nội dung text: Luận văn Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ở công ty Donimex

  1. Phần I Lý luận cơ bản về kInh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường I.-Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu Hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. 1. khái niệm của thương mại Quốc tế: Ngày nay khi quá trình phân công lao động Quốc tế đang diễn ra hết sức sâu sắc thì thương mại Quốc tế trở thành một qui luật tất yếu khác quan và được xem như là một điều kiện Tiền đề cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu tự cô lập mình không quan hệ với kinh tế thế giới. Thương mại quốc tế trở thành vấn đề sống còn vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao khả năng tiêu dùng của dân cư một quốc gia. Thương mại quốc tế là hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia với nhau. Hoạt động đó là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt giữa các quốc gia. 2. Vai trò của kinh doanh xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân. 2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hóa đất nước. Để thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhậo khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là, nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng tăng theo. Ngược lại, nếu nhập nhiều hơn xuất làm cho
  2. thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân. 2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khó học - công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu cũng có thể kép theo sự phát triển của ngành công nghiệp bao bì phục vụ nó. - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. 2.3. Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị trường mà ngày càng cạnh tranh . Sự tồn tại và phát triển của hàng hóa xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả do đó phụ thuộc rất lớn vào kỹ thuật công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải luôn luôn tìm tòi sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu trong nền kinh tế cạnh tranh còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh, đòi hỏi phải nâng cao tay nghề người lao động.
  3. 2.4.Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Thông qua hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động với thu nhập không thấp. Giải quyết được vấn đề bức xũ nhất trong xã hội hiện nay. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những vật liệu tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày một phong phú hơn của nhân dân. 2.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế , xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta vừa kể trên lại tạo Tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu. Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như: vốn, kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị trường Đối với nước ta, hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, qua đó tranh thủ đón bắt thơòI cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, bất cứ một nước nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩu thì nền kinh tế nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao. để thấy rõ vấn đề này, chúng ta có thể nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế của các nước trong khu vực cũng như thế giới trong mối quan hệ với tăng trưởng xuất khẩu. Bảng 1.Kim Ngạch Xuất Khẩu với tăng trưởng GDP của các nước trong khu vực (1999) Nước Tăng GDP (%) GDP (PPP,triệu USD) Kim ngạch XK(triệu USD) XK/GDP(%) Nhật Bản 2,6 2.953.440 411.000 0,139 Singapore 7,8 76.291 125.000 1,638 Đài Loan 6,5 333.745 122.000 0,366
  4. Malaysia 8,4 208.502 78.000 0,375 Thái Lan 6,4 501.331 56.900 0,113 Bảng 2. Xuất Khẩu với tăng trưởng GDP của Mỹ và các nước khác (1999). GDP Kim ngạch XK XK/GDP Nước Tăng GDP (%) (PPP,triệu USD) (triệu USD) (%) Mỹ 3,6 7.633.465 633.000 0,083 Anh 3,4 1.181.962 251.000 0,212 Canada 3,7 1.660.540 201.000 0,304 Pháp 2,2 1.284.182 275.000 0,214 Đức 2,8 1.723.366 521.000 0,302 Italy 1,7 1.179.283 244.000 0,207 Như vậy qua số liệu trên cho thấy, đa số các nước có nền kinh tế phát triển thì xuất khẩu đóng góp vào khoảng 10 - 30% GDP. Còn những nước có tốc độ phát triển cao, tỷ lệ này cũng có xu hướng cao hơn. Điển hình là trường hợp của Hồng Kông và Singapore, tỷ lệ này là trên 100%. Điều này phản ánh vai trò của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế. Tóm lại là, thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước. 3. ý nghĩa của việc đẩy mạnh xuất khẩu đối với doanh nghiệp. Đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu giúp cho mỗi doanh nghiệp giải quyết được vấn đề về công ăn việc làm cho nhân viên, tăng nguồn ngoại tệ để phục vụ cho các hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh đổi mới trang thiết bị, mở rộng quy mô kinh doanh, và giải quyết các vấn đề về lợi nhuận. Ngoài ra, việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tìm hiểu vả nắm bắt được phong tục, tập quán kinh doanh của các bạn hàng ở nước ngoài, là động lực để doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường ra thế giới.
  5. II/ NHữNG NộI DUNG Và HìNH THứC KINH DOANH XUấT KHẩU CHủ YếU. 1. Các hình thức kinh doanh xuất khẩu chủ yếu Xuất khẩu hàng hoá là một bộ phận rất quan trọng của thương mại quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay thì lĩnh vực hoạt động này được biểu hiện dưới nhiều hình thức rất khác nhau. Theo quy định của nghị định 33CP (19/4/1994) lĩnh vực kinh doanh này bao gồm các hình thức chủ yếu sau: -Xuất khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế. -Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ và vật tư phụ tùng cho sản xuất. -Chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất -Làm các dịch vụ như đại lý, nhận uỷ thác xuất khẩu cho các tổ chức kinh tế nước ngoài. -Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài hợp tác sản xuất và gia công quốc tế. 2. Nội dung của kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. 2.1 Nghiên cứu thị trường Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước là nghiên cứu kháI quát và nghiên cứu chi tiết thị trường.Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trường chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua hàng, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp chính. Phương pháp nghiên cứu tại văn phòng là thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai hay bán công khai, xử lý các thông tin đã tìm kiếm được.Phương pháp nghiên cứu tại chỗ thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp hay điều tra chọn mẫu bằng các câu hỏi Hoặc kết hơp cả hai phương pháp trên.
  6. 2.2. Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. Thanh toán quốc tế là một khâu hết sức quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này một phần lớn nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Thanh toán là bước đảm bảo cho người xuất khẩu thu được tiền về và người nhập khẩu nhận được hàng hoá. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương có thể hiểu đó là việc chi trả những khoản tiền tệ, tín dụng có liên đến nhập khẩu hàng hoá và đã được thoả thuận quy định trong hợp đồng kinh tế. Trong xuất khẩu hàng hoá, thanh toán phải xem xét đến các vấn đề sau đây: Trả trước bằng tiền mặt hoặc trả tiền mặt theo lệnh. Nhà xuất khẩu có quan điểm thích sử dụng quy tắc thanh toán này nhất vì họ không bị rủi ro về nhờ thu và không chịu chi phí lãi cho giấy đòi nợ. Người nước ngoài mua hàng hiếm khi chấp nhận quy tắc này (trừ các đơn vị đặt hàng rất nhỏ) bởi quy tắc này ràng buộc vốn của người mua và họ không yên tâm có nhận được hàng hay không. Ghi sổ: đây là hình thức tín dụng hào phóng nhất và nguy hiểm nhất. Chỉ sau khi điều tra mức tiền gửi ở ngân hàng của khách hàng thì cách thanh toán này mới được giành cho khách hàng lâu năm có khoản tiền gửi lớn nhưng chỉ giành cho những nước không có vấn đề ngoại hối. Gửi bán: Việc thanh toán phải được thực hiện một khi hàng gửi ra nước ngoài đã được khách hàng nước ngoài bán xong. Cho đến khi hàng gửi ra nước ngoài thì sở hữu hàng hóa vẫn thuộc nhà xuất khẩu. Nhưng rủi ro rất nhiều. Việc bán hàng không được báo cáo, hàng bán không được thanh toán đúng thời gian hoặc việc thanh toán có thể không thực hiện được do những diễn biến chính trị, hành hóa có thể bị mất hoặc tổn hại trước khi bán. Hối phiếu trả ngay. Hàng gửi đi với vận đơn đường biển có thể giao dịch được và người mua sẽ nhận được các chứng từ, gửi hàng và chuyển chứng từ cho ngân hàng nước ngoài. Rủi ro vẫn còn, chủ yếu bởi vì tình hình tài chính của người mua có thể thay đổi giữa lúc hàng gửi đi và hàng đến và người mua có thể không có khả năng hoặc không sẵn lòng chấp nhận tờ hối phiếu khi nó được xuất trình. Hối phiếu kỳ hạn: Người mua sẽ có quyền sở hữu hàng hóa khi họ chấp nhận ký vào một hay vài hối phiếu mà việc thanh toán chúng sẽ xảy ra khi học chấp
  7. nhận ký vào một hay vài hối phiếu mà việc thanh toán chúng sẽ xảy ra sau khi nó được chấp nhận khoảng 30, 60, 90 ngày. Đây là một hình thức tín dụng mà rủi ro sẽ cao hơn so với hối phiếu trả ngay. Thư tín dụng: Theo nhiều khía cạnh thì đây là hình thức thanh toán lý tưởng - quan điểm của nhà xuất khẩu cũng như khách hàng của họ ở nước ngoài đều cho thấy như vậy. Thư tín dụng là một chứng từ do ngân hàng của khách hàng mua phát hành có hứa hẹn trả cho người cung cấp một số Tiền đã được thỏa thuận nếu như ngân hàng này nhận được các chứng từ đã được quy định rõ (thông thường là hóa đơn thương mại, vận đơn và chứng từ bảo hiểm) trong một thời hạn cũng đã được quy định rõ. 2.3 Lập phương án kinh doanh. Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm: * Đánh giá thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn. * Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan. *Đề ra mục tiêu cụ thể như: sẽ bán bao nhiêu hàng? Với giá bao nhiêu? Sẽ thâm nhập vào thị trường nào. *Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt mục tiêu đề ra. 2.4. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng. Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nghiệp được thể hiện qua nội dung sau: *Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu. Muốn tạo được nguồn hàng ổn định, nhằm củng cố phát triển các nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương phải nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu nhằm xác định chủng loại mặt hàng, kích cỡ, mẫu mã và công dụng, chất lượng, giá cả, thời vụ (nếu là hàng nông lâm, thủy sản) những đặc tính, đặc điểm riêng của từng loại hàng hóa. *Kí kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu, việc kí kết hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu, đây là
  8. cơ sở vững chắc đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra bình thường. *Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.Sau khi kí kết hợp đồng với các chủ hàng xuất khẩu, doanh nghiệp thương mại phải lập được kế hoach thu mua, tiến hành xắp xếp những phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận theo kế hoạch. 2.5 Định giá hàng xuất khẩu. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, giá cả luôn gắn với thị trường và chịu tác động của các nhân tố khác nhau. Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường càng trở nên phức tạp do buôn bán diễn ra trên các khu vực khác nhau. Để thích ứng với sự biến động trên thị trường, tốt nhất là các nhà kinh doanh nên thực hiện định giá linh hoạt phù hợp với mục đích cơ bản của doanh nghiệp.Công việc đánh giá được thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Xây dựng giá thành xuất khẩu cơ sở. Bước 2: Xác định các chi phí cố định và chi phí biến đổi của xuất khẩu. Bước 3: Khảo sát mức giá và phạm vi biến động giá trên thị trường nước ngoài Bước 4: Quyết định chiến lược đánh giá và xây dựng mức giá xuất khẩu. Bước 5: Soạn thảo các văn bản chào hàng và báo giá xuất khẩu. 2.6. Giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu. Thông thường có các hình thức giao dịch sau: * Giao dịch qua thư tín. Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín. Ngay cả sau khi hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư tín. Sử dụng thư tín để giao dịch đàm phán phải luôn nhớ rằng thư từ là "sứ giả" của mình đến với khách. Bởi vậy, cách viết thư, gửi thư cần đặc biệt chú ý. Những nhà kinh doanh khi giao dịch phải đảm bảo các điều kiện lịch sử, chính xác, khẩn trương.
  9. * Giao dịch qua điện thoại. Việc giao dịch qua điện thoại giúp nhà kinh doanh đàm phán một cách khẩn trương, đúng thời cơ cần thiết. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thỏa thuận quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, hình thức đàm phán này chỉ nên dùng trong những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận một cách chi tiết. Khi phải trao đổi bằng điện thoại cần chuẩn bị nội dung chu đáo. Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán. * Giao dịch bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Là việc gặp gỡ giữa hai bên để trao đổi về các điều kiện buôn bán. Đây là hình thức hết sức quan trọng, đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Hình thức này thường được dùng khi có nhiều vấn đề cần phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc là những hợp đồng lớn, phức tạp. Đối vớí quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì phải thực hiện lập và kí kết hợp đồng. Hợp đồng bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta.Đây là hình thức tốt nhất để đảm bảo cho quyền lợi của cả hai bên.Hợp đồng xác định rõ ràng trách nhiệm của cả bên mua và bên bán hàng hoá, tránh được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ hay quan nIệm. 2.7. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nội dung trình tự thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất khẩu như sau : 2.7.1 KIểm tra L/C: Sau khi ký kết hợp đồng, nhà nhập khẩu ở nước ngoài sẽ mởi L/C tại một ngân hàng có ngân hàng thông báo tại Việt Nam. Nhà xuất khẩu sau khi nhận được giấy báo xin mở L/C của đối tác thì cần kiểm tra lại nội dung thật chặt chẽ xem đã đúng như hợp đồng đã ký kết hay chưa. Nếu có gì chưa hợp lý cần báo lại cho phía nước ngoài để hai bên cùng thống nhất sửa lại. 2.7.2 Xin giấy phép xuất khẩu. Sau khi xem xét nội dung L/C đã hợp lý, nhà kinh doanh cần làm thủ tục xin giấy phép xuất khẩu. Tư cách để được xuất khẩu trực tiếp là doanh nghiệp phải có giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu do Bộ Thương mại cấp với các điều kiện như sau:
  10. - Doanh nghiệp được thành lập hợp pháp. - Mức vốn lưu động tối thiểu là 200.000 USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh xuất khẩu (riêng một số trường hợp đặc biệt mức vốn tối thiểu là 100.000 USD). - Hoạt động theo đúng ngành hàng đã đăng ký khi thành lập doanh nghiệp. - Có đội ngũ cán bộ đủ trình độ kinh doanh, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương. Ngoài 3 mặt hàng xuất khẩu theo hạn ngạch là: dầu thô, gạo, đồ gỗ và song mây; các mặt hàng cấm nhập, cấm xuất, còn lại đối với các mặt hàng khác doanh nghiệp chỉ cần làm tờ khai hải quan và gửi cho Bộ Thương mại theo dõi. 2.7.3 Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu. Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu. Khâu này bao gồm công việc thu gom hàng hóa, đưa vào gia công chế biến, đóng gói hàng hóa, kẻ ký mã hiệu, dán nhãn hiệu, đóng thành bao kiện hoặc container để sẵn sàng xuất khẩu. Doanh nghiệp cần chuẩn bị hàng hóa thật tốt, đảm bảo về số lượng, chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, bao bì như hợp đồng đã qui định. 2.7.4 Thuê tàu và mua bảo hiểm hàng hoá. Tùy theo các thỏa thuận trong hợp đồng mà người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu có trách nhiệm thuê tàu và mua bảo hiểm cho hàng hóa. Trong trường hợp trách nhiệm thuê tàu là thuộc nhà xuất khẩu, cần cân nhắc các khả năng sau: - Nếu hàng hóa có khối lượng nhỏ, không cồng kềnh, có thời gian không quá gấp thì nên thuê tàu chợ. Tàu chợ là loại tàu để chở hàng chạy thường xuyên theo một tuyến nhất định, ghé vào các cảng qui định theo lịch trình định trước. - Nếu hàng hóa có khối lượng lớn, cồng kềnh đòi hỏi những điều kiện đặc biệt nào đó về vận chuyển thì nên thuê tàu chuyến. Tàu chuyến là tàu chuyên chở hàng hóa trên biển không theo một lịch trình định trước. Mặc dù thuê tàu chuyến đòi hỏi chi phí khá cao so với tàu chợ nhưng có thể vận chuyển với khối lượng lớn, công tác bảo quản, bảo vệ hàng trong vận chuyển bốc dỡ cũng dễ hơn, hiệu quả hơn. 2.7.5 Làm thủ tục hải quan.
  11. Thủ tục hải quan là một cách thức để Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Đối với nhà xuất khẩu cần thực hiện. - Khai báo hải quan. - Xuất trình hàng hóa để kiểm tra. - Thực hiện các quyết định của hải quan. 2.7.6 Giao hàng lên tàu. Tùy theo thảo thuận về điều kiện giao hàng mà việc giao hàng lên tàu là thuộc trách nhiệm của bên bán hay bên mua. Nếu việc giao hàng là thuộc trách nhiệm của nhà xuất khẩu thì cần thiết phải theo dõi bốc xếp hàng qua cơ quan điều độ cảng để tổ chức vận chuyển hàng hóa, bố trí lực lượng xếp hàng lên tàu. Sau khi bốc xếp thì thực hiện thanh toán phí bốc xếp và lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển nên là vận đơn hoàn hảo đã bốc hàng và có thể chuyển nhượng được. 2.7.7 Làm thủ tục thanh toán. Sau khi đã thực hiện chuyển giao hàng hóa lên tàu, nhà xuất khẩu cần lấy đầy đủ các giấy tờ như hóa đơn thương mại, vận đơn đường biển v.v Đến thời hạn giao hàng nhà xuất khẩu xuất trình các chứng từ theo qui định trong L/C tại ngân hàng thông báo để nhận tiền từ ngân hàng này hoặc từ ngân hàng thanh toán. 2.7.8 Khiếu nại trọng tài nếu có. Tóm lại, việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là hết sức quan trọng. Thông qua hợp đồng này, nó đưa lại kết quả phản ánh hiệu quả hoạt động của công ty. Thực hiện tốt các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu là cơ sở nâng cao uy tín, đặt quan hệ kinh doanh lâu dài với bạn hàng, tạo điều kiện mở rộng phạm vi và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. III. những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá. 1. Các chính sách và quy định của Nhà nước Có thể nói các chính sách và quy định của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Thông qua việc đề ra các chính sách và quy định, Nhà nước thiết lập môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các doanh nghiệp. Chúng ta có thể xem xét tác động của các chính sách đó dưới các khía cạnh sau :
  12. a. Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là giá cả tại đó ngoại hối được mua và bán. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Một tỷ giá hối đoái chính thức (HĐCT) được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái thực tế (HĐTT). Nếu tỷ giá hối đoái chính thức là không đổi và tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên thì, các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế, là người bán theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán lại với HĐCT cố định không được tăng lên để bù lại chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm chế tạo có thể làm tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù đắp lại chi phí nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ chỉ có thể giữ nguyên mức giá tính theo ngoại hối và lợi nhuận thấp. Nếu tình trạng ngược lại là tỉ giá HĐTT giảm so với tỷ giá HĐCT, khi đó sẽ có lợi hơn cho các nhà xuất khẩu. b. Thuế quan và quota :Khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước tại thị trường xuất khẩu cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuế xuất khẩu và quota. Thuế xuất khẩu có xu thế làm giảm xuất khẩu và do đó làm giảm nguồn thu ngoại tệ của đất nứơc. Còn quota là hình thức hạn chế về số lượng xuất khẩu có tác động một mặt làm giảm số đầu mối tham gia xuất khẩu trực tiếp, mặt khác tạo cơ hội thuận lợi cho những người xin được quota xuất khẩu. c. Các chính sách khác của nhà nước. Các chính sách khác của nhà nước như xây dựng các mặt hàng chủ lực, trực tiếp gia công xuất khẩu , đầu tư cho xuất khẩu, lập các khu chế xuất , các chính sách tín dụng xuất khẩu, chính sách trợ cấp xuất khẩu cũng góp phần to lớn tác đọng tới tình hình xuất của một quốc gia. Tùy theo mức độ can thiệp, tính chất và phương pháp sử dụng các chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của nó tới lĩnh vực xuất khẩu sẽ như thế nào. Bên cạnh các chính sách trên, nhóm các chính sách hỗ trợ mang tính thể chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành chính cũng là một trong các nhân tố tác động trực tiếp tới họat động xuất khẩu của các doanh nghiệp.
  13. 2. Nhân tố con người. Con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá phải nhấn mạnh tới nhân tố con người bởi vì nó là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động, ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu chủ yếu nhất. Đó là tinh thần làm việc và năng lực công tác. TInh thần làm việc được biểu hiện bởi bầu không khí trong doanh nghiệp, tình đoàn kết và ý chí phấn đấu cho mục tiêu chung. Năng lực của nhân viên lại biểu hiện qua kỹ năng điều hành, công tác các nghiệp cụ cụ thể và qua kết quả của hoạt động. Để nâng cao vai trò nhân tố con người, các doanh nghiệp một mặt phải chú trọng đào tạo cán bộ, công nhân viên, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ của họ, mặt khác, phải quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân, bao gồm cả lợi ích vật chất lẫn tinh thần. 3. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ngoại thương phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó.một mạng lưới kinh doanh rộng lớn, với các điểm kinh doanh được bố trí hợp lý là điều kiện để các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động như tạo nguồn hàng, vận chuyển , làm đại lý xuất khẩu một cách thuận tiện hơn và do đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Nếu mạng lưới kinh doanh là quá thiếu, hoặc bố trí ở các điểm không hợp lý sẽ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh làm triệt tiêu tính năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. 4. Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp như vốn cố định bao gồm các máy móc, thiết bị chế biến, hệ thống kho hàng, hệ thống phương tiện vận tải, các điểm thu mua hàng , đại lý, chi nhánh và trang thiết bị của nó cùng với vốn lưu động là cơ sở cho hoạt động kinh doanh.các khả năng này quy định quy mô và tính chất của hoạt động kinh doanh xuất khẩu, và vì vậy cũng góp phần quyết định tới hiệu quả kinh doanh. Rõ ràng là, một doanh nghiệp có hệ thống kho hàng hợp lý, các phương tiện vận tải đầy đủ và cơ động, các máy móc chế biến hiện đại sẽ góp phần nâng cao chất lượng hàng hóa và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu một cách có
  14. tính khả thi và hiệu quả hơn. Trong kinh doanh xuất khẩu, thông thường các doanh nghiệp ngoại thương có cơ cấu vốn lưu động và cố định theo tỷ lệ 8:2 hoặc 7:3 là hợp lý. Tuy vậy, việc tăng vốn cố định là cần thiết nhằm góp phần mở rộng qui mô kinh doanh, cho phép xâm nhập và cạnh tranh trên thị trường lớn hơn.
  15. phần II PHÂN TíCH THựC TRạNG HOạT ĐộNG KINH DOANH XUấT KHẩU HàNG HóA ở CÔNG TY DONIMEX THờI GIAN QUA. I. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty. 1. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Công ty. Quyết định số 545/QĐ-UBT ký ngày 31/10/1992 ủa UBND tỉnh Đồng Nai quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước Công ty Xuất nhập khẩu Đồng Nai. Công ty đặt trụ sở tại thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai. - Tên gọi: Công ty Xuất nhập khẩu Đồng Nai. - Tên giao dịch quốc tế: DONG NAI - IMPORT - EXPORT COMPANY. - Trụ sở chính: 73 - 75 - Đường 30/4 - Thanh Bình - Biên Hòa. - Vốn kinh doanh: 32,388 tỉ đồng. * Chức năng hoạt động của Công ty. - Trực tiếp xuất khẩu và nhận ủy thác xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thổ, thủy hải sản, thực phẩm chế biến, hàng thủ công mĩ nghệ, hàng tiểu thủ công nghiệp do Công ty thu mua, gia công chế biến hoặc do liên doanh, liên kết tạo ra. - Trực tiếp nhập khẩu và nhận ủy thác nhập khẩu các mặt hàng công cụ sản xuất, vật tư, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng kể cả chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất. - Tổ chức sản xuất, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài để sản xuất chế biến hàng cuất nhập khẩu và hàng tiêu dùng. * Nhiệm vụ của Công ty: - Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn về sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, gia công, lắp ráp theo đúng luật pháp hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của Sở Thương mại Đồng Nai.
  16. - Tổ chức nghiên cứu nâng cao năng suất lao động, đổi mới trang thiết bị, tổ chức tiếp thị tốt để nâng cao năng lực kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao. - Chấp hành pháp luật Nhà nước, thực hiện các chế độ, chính sách về quản lí và sử dụng Tiền vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, thực hiện hạch toán kinh tế, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. - Thực hiện báo cáo theo ngành và chịu sự thanh tra của pháp luật. - Tổ chức tốt bộ máy doanh nghiệp, quản lí toàn dIện, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ công nhân viên chức theo pháp luật, chính sách của Nhà nước và sự phân cấp quản lí của Sở Thương mại để thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của Công ty. Chăm lo đời sống, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động làm việc, thực hiện phân phối công bằng. - Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh chính trị và an toàn xã hội trong phạm vi quản lí của Công ty theo quy định của pháp luật. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty. Công ty Xuất nhập khẩu Đồng Nai gồm có 69 cán bộ công nhân viên được biên chế thành 04 phòng ban và 02 chi nhánh. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty. Giám Đốc Kế toán trưởng P.Giám Đốc P.KD P. P.Kế CH Trạm KD TT TC-HC toán DONIMEX Hàng XK Vi tính
  17. 4. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty Xuất nhập khẩu Đồng Nai là một Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp bao gồm hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu, thiết bị máy móc đáp ứng nhu cầu khác nhau của sản xuất và đời sống. Bên cạnh đó, Công ty còn thực hiện các dịch vụ gia công sản xuất, tái sản xuất hàng hóa, nhận ủy thác xuất nhập khẩu, chuyển khẩu. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu của Công ty bao gồm: - Về xuất khẩu: Đối với xuất khẩu, Công ty sau khi thực hiện giao dịch và ký kết hợp đồng thành công thì tiến hành thu gom hàng hóa trong nước, chuẩn bị hàng hóa để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Công ty trực tiếp sản xuất các mặt hàng sau: + Cà phê. + Cao su. + Tiêu đen. + Phụ tùng máy nông nghiệp. + Trang thiết bị thể thao. + Hàng thủ công mỹ nghệ. + Đệm bố thắng. - Về nhập khẩu: Đối với hàng nhập khẩu, căn cứ vào nhu cầu tiêu dùng cụ thể của từng đơn vị sản xuất trong nước và hợp đồng đã ký mà Công ty lên đơn hàng nhập khẩu. Công ty trực tiếp nhập khẩu các mặt hàng sau: + Hàng tiêu dùng: hàng điện tử, điện lạnh, các linh kiện điện, xe gắn máy, xe hơi, vải, thực phẩn + Hàng vật tư thiết bị phục vụ sản xuất: phân bón, xăng dầu, hóa chất, hạt nhựa, phụ tùng ô tô, máy nông ngư nghiệp
  18. II. tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm qua 1. Vài nét về tình hình xuất khẩu ở nước ta. 1.1. Kim ngạch xuất khẩu Từ năm 1986 đến nay, dưới sự khởi xướng của Đảng và Nhà nước, con đường đổi mới của Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu đáng kể, nền kinh tế đã đi vào thế ổn định và đang phát triển đi lên, quan hệ quốc tế mở rộng.Trong giai đoạn này, Kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng gia tăng, đónh góp một phần đáng kể cho GDP. Với chính sách hướng về xuất khẩu, xuất khẩu đã và đang trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua, thành tựu của xuất khẩu hàng hóa ở nước ta không chỉ thể hiện ở tổng kim ngạch mà còn ở sự chuyển đổi cơ cấu hàng hóa, cơ cấu ngành. Điều đó nói lên sự phát triển của sản xuất hàng hóa xuất khẩu theo xu hướng tiến bộ hơn. Bảng 3 : Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam giai đoạn (1990-1999). Đơn vị: Triệu USD Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng kim ngạch 1815 2081.7 2475 3000 3600 5500 7100 8700 9361 11535 % Tăng 14.7 18.9 21.2 20.0 52.8 29.0 22.5 7.6 12.3 Nguồn : Niên giám Thống kê năm 1999. 1. 2. Cơ cấu hàng xuất khẩu. Thời kỳ từ năm 1986 đến năm 1990, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có nhiều thay đổi, nhiều mặt hàng giá trị đã được nâng cao thông qua chế biến.Chúng ta đã xây dựng được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như:Dầu thô, than , thuỷ sản , lâm sản. cơ cấu hàng xuất khẩu thời kỳ này như sau: - Hàng nông , lâm, thuỷ sản , nguyên liệu và chế biến chiếm 56, 6% - Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 30, 7% - Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 12, 7% Như vậy, hàng nông , lâm , thuỷ sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong Kim ngạch xuất khẩu. Điều đó phản ánh tính chất và trình độ nền kinh tế nước ta còn lạc
  19. hậu.Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao (20%-25% năm) nhưng do điểm xuất phát của chúng ta thấp nên giá trị xuất khẩu thu về mỗi năm còn rất khiêm tốn. 1.3. Thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nhờ thực hiện chính sách đối ngoại , đa dạng hoá, đa phương hoá, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, hợp tác bình đẳng , các bên cùng có lợi nên đến cuối năm 1997, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 152 nước và tổ chức quốc tế, trong đó đã ký hiệp định thương maị với 60 nước. Thị trường xuất khẩu thời kỳ 1991-1997 được mở rộng hơn. Bảng 6: Thị trường xuất khẩu theo Châu lục Châu Phi- Tây Nam Châu Lục Châu á TBD Châu Âu Châu Mỹ á % trong tổng Kim 80 15 3 2 ngạch Xét theo châu lục-thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu diễn ra trên Châu á Thái Bình Dương (chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam). Trong đó , xuất khẩu sang các nước Đông Nam á là 34% (chủ yếu là Singapoor), sang các nước Đông Bắc á là 31.5%( gồm Nhật Bản, Đài Loan, Hong Kong và Hàn Quốc), xuất sang Trung Quốc chiếm 3.9%. Sau thị trường Châu á là thị trường Châu Âu, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này chiếm 15%, trong đó xuất sang EU là 13.8%. Các thị trường Châu Mỹ và Châu Phi đang có nhiều hứa hẹn tuy vậy hàng hoá của ta xuất sang các thị trường này còn ở mức khiêm tốn. Xét riêng từng nước, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang 10 nước lớn nhất cho ở bảng sau: Bảng 7 : Kim ngạch xuất khẩu sang một số nước Đài Hồng Thái Hàn Nước Nhật Singapore T.Quốc Đức Pháp Nga Loan kông Lan Quốc % Tổng Kim 28,5 14,6 7,4 5,4 4,9 4,6 2,2 2,9 2,2 2,2 ngạch XK Nguồn: tạp chí Thương mại số 3-4/1998
  20. Trong các nước trên, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Tài chính Nhật Bản, kim ngạch xuất khẩu mậu dịch giữa hai nước năm 1996 đạt 3,4 tỷ USD, tăng 40% so với năm 1997, trong đó Việt Nam xuất sang Nhật Bản 2,2 tỷ USD. Thị trường thứ hai sau Nhật Bản là Singapore. Năm 1998, kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 2,2 tỷ USD, năm 1997 là 33,44 tỷ USD. Điều đáng mừng là ngoài các sản phẩm truyền thống như dầu thô, may mặc, hàng nông sản chế biến, năm 1997 ta đã xuất sang Singapore được hàng điệnt ử (tivi), dù giá trị mới ở mức khiêm tốn 5,2 triệu USD. Tuy nhiên, đây sẽ là bước khởi đầu đầy tốt đẹp để hàng công nghiệp cao cấp của ta xâm nhập thị trường này. Sau Nhật Bản và Singapore có thể kể đến các thị trường như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Thái Lan, Đức, Pháp, Nga. Qua phân tích trên ta thấy, thị trường xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu là các nước Châu á - Thái Bình Dương (chiếm 80%). Mặc dù đã có hàng dệt sang EU từ năm 1992 nhưng tháng 7/1995 Việt Nam mới ký kết Hiệp định Thương mại và tháng 7/1996 mới ký Hiệp định xuất khẩu hàng dệt sang EU. Tuy đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, nhưng Việt Nam chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và chưa ký Hiệp định Thương mại với họ nên thị trường Châu Mỹ mới trong quá trình thử nghiệm. Thị trường Châu Phi và Trung Đông do cách biệt về địa lý, nhu cầu nhập khẩu hàng ta chưa lớn nên kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang các nước này còn nhỏ bé. 1. 4.Những hạn chế khó khăn trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Hiệu quả thấp trong hoạt động xuất khẩu của ta thể hiện rõ trên nhiều mặt, đáng chú ý là những mặt sau: Thứ nhất: Hoạt động xuất khẩu của ta diễn ra không đều, chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Các địa phương chỉ chiếm 40% giá trị xuất khẩu cả nước và đang có nguy cơ giảm dần. Một số tỉnh phải thông qua các thành phố lớn mới xuất khẩu được, bởi họ chưa định hình nổi các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, sản lượng thấp, thất thường, vì thế hiệu quả đạt được rất thấp.
  21. Thứ hai: Chất lượng của hàng hoá Việt Nam chưa cao, chủ yếu là hàng thô hoăc sơ chế làm cho nguồn hàng giảm 50% giá trị. Đây được coi là hạn chế lớn nhất của hàng xuất khẩu Việt Nam.Do hạn hẹp về vốn, thấp kém về trình độ công nghệ, chúng ta đã bán rẻ tài nguyên thiên nhiên, các loại nông lâm hải sản, không tận dụng hết nguồn lao động rẻ, dồi dào. Thứ ba: Trong hoạt động xuất khẩu , chưa giải quyết mối quan hệ thoả đáng giữa các mặt hàng chủ đạo với các nhóm hàng khác, quá chú trọng và ưu tiên cho một số mặt hàng mà lại không biết tận dụng và bỏ qua nhiều loại hàng hoá khác rất có triển vọng, tiềm năng như: các loại máy động lực, mật ong, và nhiều sản phẩm về rừng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng mặt hàng kim ngạch lớn, chủ đạo thì việc đa dạng hóa các sản phẩm khác phải trở thành nội dung then chốt trong chiến lược xuất khẩu của ta sau này. Thứ tư: Những hạn chế, mất cân đối, bất cập trên thị trường xuất khẩu. Xu hướng chính của Việt Nam là đa dạng hoá hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thế nhưng, cho đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ chủ yếu diễn ra trên Châu á (chiếm 80%) còn ở các châu lục khác thì rất ít và hạn chế. Châu Âu 12 - 15%, Châu Mỹ 3 - 3,5%. Đặc biệt xuất khẩu Việt Nam còn chưa vươn tới các thị trường Châu Phi mênh mông, đầy tiềm năng. Thứ năm: Trong thời gian qua, quan hệ tỷ giá hối đoái chỉ khuyến khích nhập khẩu, các chuyên gia cho rằng Việt Nam mới chỉ lo quản lí người xuất khẩu mà chưa lo quản lý nguồn ngoại tệ, để cho các doanh nghiệp dùng ngoại tệ tràn lan. Dưới tác động của tỷ giá hối đoái, năm 1996 một số doanh nghiệp đã lợi dụng sự giảm giá tỷ giá hối đoái USD - VND để nhập hàng thông qua bảo lãnh L/C trả chậm khiến nhập khẩu tăng vọt. Do vậy cần điều chỉnh lãi suất vay vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ, rút bớt khoảng cách chênh lệch giữa hai loại lãi suất này. Thứ sáu: Đó là vấn đề thông tin thương mại phục vụ xuất khẩu còn rất hạn chế. Đối tác của các doanh nghiệp hiểu rất rõ tình hình xuất khẩu và các nhu cầu của ta. Thậm chí giá cả thu gom hàng, phí mua quota, xuất nhập ủy thác họ đều rành. Nhưng chúng ta nắm được rất ít thông tin về bạn hàng. Chưa kể các doanh nghiệp nội địa cùng cạnh tranh lẫn nhau xuất phá giá để hưởng lợi một mình. Cuối
  22. cùng chỉ có phía bạn hàng được lợi, cả Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam đều thiệt. Thứ bảy: Cơ chế quản lý kinh tế nói chung và cơ chế quản lí xuất nhập khẩu nói riêng thay đổi thường xuyên làm cho doanh nghiệp khong kịp xoay xở, bị động , lúng túng trong hoạt động kinh doanh. Một số doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm đầu tư vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty thời gian qua. 2.1. Kết quả hoạt động kinh doanh. Có thể phân tích kết quả kinh doanh của Công ty qua một số chỉ tiêu sau: Bảng 8 : Kim ngạch xuất nhập khẩu (1992 - 1999) Đơn vị:USD Chỉ tiêu 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 1, Kim 6.732.695 11.530.740 20.362.318 24.371.952 26.385.876 20 691.062 25 263.714 28.805.969 ngạch XK 2. Kim 1352.805 8.761.395 23.810.420 9.445.024 14.035.098 11 581.257 9.125.401 12.406.483 ngạch NK 3.Tổng kim 8085500 20.292.135 44.172.738 34.116.976 40.420.944 32 272.319 34 389.115 41 212.452 ngạch XNK 4.Tốc độ tăng(%) 250,97 217,68 77,235 118,48 87 103 113 kim ngạch XK Năm 1992 là năm đánh dấu bước phát triển mới ở Công ty. Đây là thời kỳ mà Công ty từng bước mở rộng thị trường từ các nước Châu á, Đông Âu sang thị trường các nước Tây Âu và sang cả Châu Phi và Châu Mỹ Do có những bước đi trong phương án kinh doanh linh động và phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế quốc dân nên Công ty đã đẩy mạnh được hoạt động xuất nhập khẩu với những kết quả rất khả quan. Nếu năm 1992, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 6.732.695 USD thì chỉ đến năm 1999, giá trị xuất khẩu của Công ty đã đạt 28.805.969 USD, tăng hơn 4 lần so với năm 1992. Riêng năm 1994 kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã đạt con số kỉ lục là 44.172.738 USD gấp 5,46 lần so với năm 1992, đây là một kết quả đáng ghi nhớ. Trong những năm từ 1992 trở lại đây, nhịp độ tăng xuất nhập khẩu của Công ty trung bình là 20 - 35% năm.
  23. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu thì hoạt động xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng cao hơn, với mức tăng bình quân hàng năm khá vững chắc là 30 - 35% năm. Trong khi đó, hoạt động nhập khẩu có những biểu hiện bất thường, năm 1993 tăng 6,48 lần so với năm 1992 thì đến năm 1994 kim ngạch nhập khẩu tăng gấp 17,6 lần so với năm 1992. Đến năm 1995 kim ngạch nhập khẩu chỉ tăng gấp 7,2 lần so với năm 1992. Tuy vậy, Công ty đang phấn đấu để giữ vững đẩy mạnh hơn nữa kim ngạch xuất khẩu, còn Kim ngạch nhập khẩu có thể giữ xu hướng của những năm qua. Hiệu quả xuất nhập khẩu được coi là nhân tố quan trọng nhất quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Trong những năm qua, kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty như sau: Bảng 9: Kết quả kinh doanh của Công ty (1996 - 1999). Đơn vị:VNĐ Năm 1996 1997 1998 1999 Chỉ tiêu 1, Kết quả HĐSXKD chính 2.767.033.099 622.945.755 3.182.975.477 3.745.213.930 2, Kết quả hoạt động tài chính 222.057.783 122.554.824 375.341.626 3.Kết quả hoạt động SXKD 38.734.904 4.626.240.437 1.712.035.590 1.982.726.557 phụ 4, Kết quả khác -17.856.319 -1.135.815.038 -116.164.767 -1.485.279.563 5.Phân phối kết quả 3.009.969.467 4.113.511.151 4.901.401.124 4.609.002.550 (1+2+3+4) 6.Thuế lợi tức 1.559.016.030 2.125.922.413 2.543.024.381 2.479.362.101 7. Trích lập quỹ công ty 1.386.316.893 1.987.628.741 2.134.822.813 2.341.799.791 8.Khoản trừ vào lợi nhuận 64.638.544 232.553.930 137.562.310 9. Thu nhập chưa phân phối 0 0 0 0 Từ bảng trên ta thấy, trong 04 năm liên tục từ 1996 đến 1999, lợi nhuận trước thuế của Công ty liên tục tăng. Năm 1996, lợi nhuận trước thuế của Công ty là 3.009.969.476 VNĐ , sang năm 1997 lợi nhuận trước thuế của Công ty là 4.113.511.151VNĐ. Năm 1998 lợi nhuận trước thuế của Công ty đạt 4.901.401.124 VNĐ, năm 1999 lợi nhuận trước thuế của Công ty đạt 4.609.002.550 VNĐ. Có được kết quả như này là do Công ty đã đẩy mạnh được mọi hoạt động kinh doanh, luôn luôn đổi mới phương thức kinh doanh, tìm kiếm cơ hội mới.
  24. Trong thời gian này kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chính đã đem lại kết quả khá cao, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận. Năm 1996 con số này là 2.767.033.099,năm 1997 con số này là 622.945.755VNĐ, tới năm 1999 con số này tăng lên 3.754.213.930VNĐ. Cũng trong thời gian này, kết quả hoạt động khác của Công ty đáng được lưu tâm. Từ năm 1996 đến 1999 kết quả hoạt động khác luôn bị âm và đang có xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 1996 kết quả hoạt động khác là (-17.856.319) VNĐ, sang năm 1997 con số này là (-1.135.815.038) VNĐ,năm 1998 là (116.164.767) VNĐ và năm 1999 con số này là (-1.485.279.563) VNĐ. Kết quả hoạt động tài chính cũng có biểu hiện thất thường, năm 1996 là 222.057.738 VNĐ nhưng sang năm 1997 hoạt động tài chính không đem lại kết quả, đến năm 1998 con số này là 122.554.824 VNĐ. Qua các kết quả của hoạt động kinh doanh Công ty cần phải xem xét, nghiên cứu kĩ lưỡng để đề ra phương pháp giải quyết vấn đề. Các kết quả cuối cùng từ lợi nhuận sau thuế đã được trích lập các quỹ Công ty và đang có xu hướng tăng lên qua các năm từ 1997 tới nay. Kết quả này đã giúp cải thiện tình hình vốn của Công ty và cơ sở vật chất kĩ thuật. a) Bối cảnh. Hoạt động kinh doanh của Công ty diễn ra trong bối cảnh môi trường kinh doanh có nhiều diễn biến phức tạp. - Có chế độ, chánh sách của Nhà nước và các ngành có liên quan có nhiều thay đổi và chưa được đầy đủ, toàn dIện. - Tình hình thị trường, đặc biệt là thị trường tiêu thụ có những biến động bất ngờ. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu á nổ ra vào tháng 7/1997 và kéo dài cho đến bây giờ đã ảnh hưởng tiêu cực tới tình hình hoạt động xuất khẩu của Công ty. - Sự chuẩn bị các mặt của Công ty còn nhiều lúng túng và bất cập, nhiều vấn đề chưa tháo gỡ được, đặc biệt là vấn đề tổ chức và quản lí khi chuyển từ cơ chế bao cấp sang. Bên cạnh những khó khăn trên cũng cần nhận thấy những tiềm năng và cơ hội mới một cách đầy đủ và toàn diện nhằm củng cố và phát triển, đó là tình hình môi trướng pháp lý đã được cải thiện hơn, quan hệ thương mại quốc tế của quốc gia được mở rộng. Đội ngũ cán bộ của Công ty qua các năm kinh doanh đã tích lũy
  25. được nhiều kinh nghiệm. Công ty hoạt động trên địa bàn rộng đã xây dựng được uy tín nhất định đối với nhiều bạn hàng. Hoạt động của Công ty được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các cấp, các ngành, đặc biệt là Sở Thương mại. b) Kết quả. Từ bối cảnh trên, Ban lãnh đạo Công ty đã xác định được phương hướng kinh doanh là tiếp tục đổi mới về tổ chức, về phương thức kinh doanh, không ngừng tìm kiếm cơ hội và mở rộng thị trường. Qua đó đã đạt được một số kết quả nhất định. * Về nhận thức tư tưởng: Mặc dù, còn mang nặng tính chất kinh doanh theo thời vụ và chưa có kế hoạch kinh doanh ổn định trong dài hạn song tập thể cán bộ công nhân viên cũng như Ban lãnh đạo Công ty đã xác nhận những điều kiện kinh doanh hiện nay là rất khó khăn và phức tạp, Công ty đã nhận thất vấn đề bức xúc là phải đổi mới phương pháp tư duy và hành động trong sản xuất kinh doanh. Từ đó tập thể cán bộ công nhân viên đã không ngừng chủ động và sáng tạo trong kinh doanh, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động, lấy chỉ tiêu kinh tế làm tiêu chí hàng động. * Về tổ chức: Trong những năm qua, tổ chức lao động của Công ty đã có nhiều cải cách đáng kể. Một mặt, cùng với việc duy trì và phát triển các cơ sở kinh doanh có hiệu quả, mặt khác là rà soát và giải thể các cơ sở làm ăn kém hiệu quả, Công ty đã thực hiện giảm biên chế và tổ chức lao động theo hướng gọn nhẹ, linh động, với phương châm một nhân viên thực hiện nhiều chức năng. Bên cạnh đó, Công ty chỉ ký hợp đồng ngắn hạn với các nhân viên khác khi công việc yêu cầu. Chính vì vậy, tổ chức lao động của Công ty rất linh hoạt và làm ăn có hiệu quả (ngày càng cao). Phương pháp quản lí lao động Công ty là tự chủ, sáng tạo, nghĩa là cán bộ lãnh đạo chức năng lập kế hoạch kinh doanh và giao cho các nhân viên cấp dưới tự hoàn thành các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của mình theo các phương án phù hợp. * Kết quả kinh doanh: Những cố gắng về nhận thức cũng như tổ chức đã đưa lại kết quả khả quan cho Công ty như sau: Bảng 12: Kết quả kinh doanh (1996 - 1999) Đơn vị:Tỷ VNĐ
  26. Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Chỉ tiêu 1. Lợi nhuận trước thuế 3,010 4,114 4,901 4,609 2.Doanh thu 553,691 507,540 522,028 576,834 3. Vốn hoạt động 15,729 25,436 29.582 32.388 4. Tỷ suất lợi nhuận/doanh 0,5436 0,811 0,93884 0,8 thu (%) 5.Tỷ suất lợi nhuận/vốn 19,14 16,174 16,568 14,231 (%) 6. Số vòng quay vốn/năm 35,2 19,954 17,647 17,81 Từ bảng trên cho thấy, mặc dù số vòng quay của vốn giảm dần qua các năm nhưng doanh thu và lợi nhuận của Công ty liên tục tăng từ năm 1997 cho đến 1999. Dù rằng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn chưa dị hẳn. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn trong 3 năm gần đây đã dần dần đi vào ổn định và tăng lên, cũng như vậy, tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu cũng đang từng bước được phục hồi, điều này chứng tỏ Công ty đã nghiên cứu và cân nhắc kĩ các cơ hội kinh doanh, thực hiện tốt các nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả. Mặc dù cơ hội kinh doanh của Công ty không nhiều nhưng hiệu quả của nói là điều đáng mừng. Tuy nhiên số vòng quay vốn có xu hướng giảm, Công ty cần có biện pháp thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, góp phần tăng nhanh vòng quay của vốn hơn. Nhiệm vụ của nghiệp vụ này là lựa chọn nguồn hàng, thị trường và nhà cung cấp, giao dịch, kí kết hợp đồng và tiến hành vận chuyển, bảo quản hàng hóa. Trong những năm gần đây, Công ty đã sử dụng các hình thức tạo nguồn hàng sau: - Mua đứt bán đoạn: đây là hình thức thu mua chủ yếu của Công ty, chiếm gần 80% giá trị hàng hóa thu mua. Sau khi Công ty và người bán đã đạt được thỏa thuận về mặt số lượng, chất lượng mẫu mã, phương thức thanh toán, điều kiện và cơ sở giao hàng thì hai bên mới tiến hành kí kết hợp đồng kinh tế. Hợp đồng này là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thông thường người kí kết hợp đồng là Giám đốc Công ty hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền.
  27. - Phương thức ủy thác: Là phương thức mà Công ty dùng danh nghĩa của mình để giao dịch với khách hàng nước ngoài nhằm thỏa thuận với họ về các điều khoản: số lượng, chất lượng, mẫu mã, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng và tổ chức bán hộ hàng cho người ủy thác. Phương thức thu mua này chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong hoạt động kinh doanh của Công ty. - Phương thức đầu tư, liên doanh liên kết sản xuất hàng xuất khẩu. Theo phương thức này, Công ty sẽ bỏ vốn ra đầu tư vào các đơn vị sản xuất chế biến hàng xuất khẩu theo các hợp đồng ngắn hạn, trong đó Công ty chịu trách nhiệm tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra. Thông thường Công ty chỉ ứng vốn trước cho các cơ sở chức không tham gia trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất. Hình thức này chỉ được Công ty áp dụng khi đã kí được hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài mà nguồn hàng trong nước chưa có sẵn. Công tác thu mua tạo nguồn hàng của Công ty được thực hiện theo quy trình sau; - Xác định nhu cầu: Căn cứ vào các đơn đặt hàng của nước ngoài và các hợp đồng đã kí kết. - Xây dựng đơn hàng: Dựa trên các điều kiện về số lượng, chất lượng, giá cả biến đơn hàng nước ngoài thành đơn hàng của mình. - Lựa chọn khu vực thị trường: Căn cứ vào tính chất yêu cầu của hàng hóa xuất khẩu theo từng hợp đồng. Thông thường, thị trường khai thác hàng của Công ty là các tỉnh phía Nam vì nơi đây tập trung các mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản là những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của Công ty. - Tìm kiếm và lựa chọn người cung cấp: Căn cứ vào khu vực thị trường đã lựa chọn, Công ty tiến hành tìm kiếm người cung cấp. Bước đầu là tập hợp các nhà cung cấp có thể có, sau đó tiến hành phân loại nhà cung cấp theo các chỉ tiêu ưu tiên và dùng phương pháp loại trừ dần để chọn nhà cung cấp có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu của đơn hàng. - Tiếp cận và đàm phán với nhà cung cấp: Trên cơ sở đã xác định được nhà cung cấp, Công ty tiếp cận đàm phán về các điều kiện của đơn hàng, kí kết hợp đồng thu mua nếu đạt được các thỏa thuận với nhà cung cấp.
  28. - Tổ chức thực hiện hợp đồng mua bán. Trong khâu này vận chuyển là khâu quan trọng nhất. Công ty đã sử dụng các hình thức tiếp nhận, vận chuyển sau: + Giao hàng tại cảng xuất khẩu. + Giao hàng tại kho của Công ty. + Giao hàng lên phương tiệnvận chuyển của Công ty tại kho người bán. Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà Công ty lựa chọn các điều kiện cơ sở giao hàng phù hợp. Bảng VI: Mô hình tổ chức công tác thu mua tạo nguồn hàng. Tổ chức thực Thanh lý Xử lí tranh Xác định Xây dựng Lựa chọn Tiếp cận, đàm Hợp đồng chấp nhu cầu đơn hàng Thị trường phán, Ký kết hợp hiện hợp đồng đồng Tìm kiếm Lựa chọn Kiểm Tiếp Vận Nhà cung Nhà cung Tra Nhận Chuyển Thanh Bảo Cấp Cấp Hàng Hàng Hàng Toán Quản Hóa Hóa Hóa b) Nghiệp vụ giao hàng xuất khẩu. Nghiệp vụ này bao gồm các khâu sau: - Chuẩn bị hàng: Sau khi Công ty đã đưa hàng về kho thì tiến hành các khâu chuẩn bị như đóng gói hàng hóa, ghi mã kí hiệu để hoàn thiện hàng theo đơn hàng của nước nhập khẩu. - Thuê tàu và kí kết hợp đồng vận chuyển: Thông thường, Công ty sử dụng điều kiện cơ sở giao hàng theo điều kiện FOB trong Incoterm 1990 với nước ngoài do vậy ở khâu này, Công ty chỉ kí kết hợp đồng vận chuyển với các tổ chức vận tải, thuê các tổ chức này đem phương tiện tới tận kho hàng của Công ty để chuyển hàng hóa ra cảng xuất khẩu, sau đó tiến hành bốc dỡ hàng xuống cảng để hải quan kiểm định hàng hóa. - Hoàn thiện thu tục giấy tờ: Làm thủ tục giấy phép xuất khẩu Công ty thường phải chuẩn bị các loại giấy tờ sau: + Hợp đồng thương mại (bản chính và bản sao). + Bản dịch hợp đồng.
  29. + Hạn ngạch, quota nếu xuất hàng hạn ngạch. + Giấy chứng nhận xuất xứ. + Giấy kiểm dịch vệ sinh hàng. + Các giấy tờ hải quan. - Tổ chức khai báo và giám định hải quan. Khâu này Công ty có trách nhiệm xuất trình đầy đủ giấy tờ, mở hàng hóa để hải quan kiểm tra. - Giao hàng lên tàu và lập vận đơn. Thông thường, Công ty ủy thác toàn phần cho hãng vận tải. Sau khi giao hàng lên tàu thì đại diện của Công ty và cơ quan bảo hiểm xác nhận hàng vào biên bản để Công ty tiến hành mua bảo hiểm. Cũng trong khâu này, đại diện của Công ty phải lấy xác nhận thuyền phó và sau đó đổi lấy vận đơn thuyền trưởng. c) Nghiệp vụ thanh toán bao gồm các khâu vay vốn thanh toán nguồn hàng và nhận tiền thanh toán của bên nhập khẩu: Đối với thanh toán đầu vào, các phòng hoặc đơn vị thực hiện nhiệm vụ trực tiếp thì được Công ty ủy quyền giao vốn để thanh toán. Sau khi nhận được tiền hàng bên nhập khẩu thanh toán, đơn vị sẽ giao lại Công ty toàn bộ doanh thu và các chi phí hợp lí. Hình thức thanh toán nguồn hàng chủ yếu bằng Tiền mặt. Nguồn vốn để thanh toán đầu vào của Công ty một phần là vốn tự có, nhưng do điều kiện còn rất thiếu vốn nên Công ty thường chủ động vay ngắn hạn Ngân hàng. Việc thanh toán của đơn vị nhập khẩu là khâu ấn định kết quả cuối cùng cả quá trình nghiệp vụ xuất khẩu hàng hóa. Số tiền thanh toán căn cứ vào trị giá hàng hóa và thời hạn thanh toán đã được quy định trong hợp đồng. Phương thức thanh toán trong xuất khẩu của Công ty rất nhiều, chẳng hạn, thanh toán bằng thư tín dụng (L/C), thanh toán bằng phương thức nhờ thu, thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán trao tay tiền mặt. Ngoại trừ phương pháp mở L/C, còn các phương pháp khác rủi ro là khá lớn, vì vậy, Công ty chủ trương tạo điều kiện để bên đối tác mở L/C. d) Nghiệp vụ xử lí thông tin thị trường hàng xuất khẩu. Trên cơ sở thông tin thu thập được qua niên giám thống kê Việt Nam, qua các bản tin nhanh về thị trường, giá cả, Tạp chí Thương mại, qua các cơ quan Nhà nước có liên quan, qua tiếp xúc trực tiếp với bạn hàng trong và ngoài nước Cán bộ Phòng Kinh doanh xác định từng thị trường phù hợp với những mặt hàng nào, số
  30. lượng, chất lượng, giá cả có thể đáp ứng. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng chủ yếu là thống kê kinh nghiệm. Trong những năm qua, thị trường thế giới có nhiều biến đổi thất thường, đặc biệt là thị trường hàng nông sản. Trong khi đó, hệ thống cung cấp thông tin của nước ta còn rất kém, chưa kịp thời với xu hướng phát triển của thế giới. Do đó, công tác thu thập và xử lí thông tin của Công ty gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ kinh doanh của Công ty chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cần thiết về nghiên cứu thị trường, chưa có các phương án nghiên cứu mang tính hệ thống. Vì vậy, có nhiều trường hợp Công ty đã gặp những lúng túng về định hướng các thị trường trọng điểm để tiến hành giao dịch xuất khẩu. Còn nữa, do yếu kém về dự đoán xu hướng của cung cầu và giá cả trong tương lai nên Công ty chưa xác định được các chiến lược xuất khẩu hợp lí. Nhiều khi giá cả chưa lên cao đã tiến hành bán ồ ạt hàng hóa, khi giá cả đã lên cao rồi thì không còn hàng hóa để bán. Hoặc có tình trạng chọn sai đối tượng buôn bán, họ không đủ khả năng tài chính để thanh toán Tiền hàng hoặc chây ì thực hiện hợp đồng gây ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu và nhiều khi còn dẫn đến thất thu, thua lỗ. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu ở nước ta. Có thể nói nghiệp vụ xử lí thông tin là cực kì quan trọng, nhất là đối với mặt hàng xuất khẩu của Công ty đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng, giá cả. Công ty phải rất linh hoạt và tính toán kịp thời mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu thị trường, đảm bảo làm ăn lâu dài, tránh được lối hoạt động kinh tế theo kiểu "phi vụ" hiện vẫn còn phổ biến ở các doanh nghiệp thương mại của nước ta. II. Tổng quát kết quả xuất khẩu của Công ty. 1- Tình hình kinh doanh theo mặt hàng. Bảng 13: Kết quả xuất khẩu theo mặt hàng (1996 - 1999). Đơn vị:USD Mặt hàng 1996 1997 1998 1999 Cà phê 16.436.633 14.711.011 16.634.111 17.532.749 Tiêu đen 2.198.222 3.362.961 177.756 2.602.220 Cao su 2.429.000 2.493.754 1.397.000 2.671.000 Ngô 3.136.725
  31. Gốm mỹ nghệ 117.177 40.570 Dụng cụ thể thao 9817 10.723 Phụ tùng máy NN 33.738 44.121 áo thun 9.312 áo sơ mi nam 15.252 Đệm bố thắng 27.922 54.847 Qua bảng trên cho thấy, đa số các mặt hàng xuất khẩu của Công ty là hàng nông - lâm - thổ sản. Đặc điểm của mặt hàng này là tình hình sản xuất phù hợp với điều kiện nước ta, có nguồn cung cấp khá dồi dào, được Nhà nước khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên mặt hàng này đang gặp khó khăn trên thị trường thế giới do giá cả biến động thất thường và là mặt hàng tương đồng với hàng hóa các nước trong khu vực. Vì vậy, để đẩy mạnh được kim ngạch xuất khẩu đòi hỏi Công ty phải nỗ lực rất nhiều. Trong các mặt hàng trên thì mặt hàng chủ lực của Công ty có giá trị xuất khẩu mỗi năm trên 6 triệu USD đó là: cà phê. Mặt hàng này chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 1996, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên chiếm tỉ trọng bằng 61% tổng giá trị hàng xuất khẩu. Năm 1997 chiếm 83%, năm 1998 chiếm 46,51%, năm 1999 chiếm 45%.Con số này cho thấy mặt hàng cà phê là mặt hàng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù vậy, mặt hàng cà phê đang có xu hướng giảm là do trong hai năm gần đây giá cả cà phê trên thị trường thế giới diễn biến thất thường, khách hàng lớn nhất mua cà phê là Mỹ đã giảm nhu cầu vì cà phê dự trữ của Mỹ khá lớn, do đó đã làm cho giá cà phê tụt xuống một cách thảm hại, mặt nữa là sản lượng cà phê của Brazin trong mấy vụ qua luôn đạt sản lượng lớn. Hai nguyên nhân đó dẫn tới cung cà phê tăng nhưng cầu cà phê giảm dẫn đến giảm giá. Tương tự như cà phê mặt hàng cao su cũng liên tục giảm giá Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, Công ty đã không ngừng mở rộng và tăng cường xuất khẩu các mặt hàng khác. Có thể kể đến một số mặt hàng như trang thiết bị thể thao, quần áo, ngô, đậu, lạc Các mặt hàng này tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng nó đã phản ánh được sự cố gắng vươn lên của cán bộ Công ty và đây sẽ là tiền đề của sự phát triển trong các năm sắp tới.
  32. Trong những năm qua, Công ty cũng chú trọng đầu tư phát triển mặt hàng theo chiều sâu, thông qua các hoạt động liên doanh, liên kết, khai thác các nguồn hàng chế biến cao. Tỉ trọng xuất khẩu hàng thô qua các năm đã giảm dần và hàng chế biến tinh đang có xu hướng tăng lên. Năm 1996 tỉ trọng chế biến của các mặt hàng xuất khâu là 30%, năm 1997 là 32%, năm 1998 là 34%, năm 1999 là 35%. Mặt hàng có tỉ trọng chế biến cao nhất phải kể đến là cà phê, năm 1991 và 1992 Công ty chỉ xuất khẩu cà phê thô, các năm 1994 trở đi Công ty chủ yếu xuất khẩu cà phê nhân, cà phê thành phẩm. Đây là hướng kinh doanh rất đúng đắn, góp phần tạo công ăn việc làm, tăng giá trị hàng xuất khẩu. Để phát huy điều này, Công ty cần thiết phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các nguồn hàng, có phương án kinh doanh rõ ràng, đặc biệt là tăng cường đầu tư, hỗ trợ cho các đơn vị sản xuất, chế biến để nâng cao chất lượng hàng hóa. 2- Tình hình kinh doanh xuất khẩu theo thị trường. Hòa chung với quá trình đa dạng hóa và đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế của đất nước, trong những năm qua Công ty DONIMEX đã không ngừng mở rộng thị trường xuất khẩu của mình. Có thể nói, thị trường xuất khẩu chủ yếu của DONIMEX là các nước Châu á và Châu Âu, trong đó năm 1998, các nước Châu á chiếm thị phần là 2,02%, Châu Âu chiếm 26,25%, còn lại các Châu khác là 71,73%. Xét thị trường Châu á, đây là thị trường gần gũi về địa lý, phong tục, tập quán, có mối quan hệ làm ăn lâu dài với Công ty. Trong các nước Châu á thì Singapore và Trung quốc là bạn hàng tiêu thụ lớn nhất của DONIMEX. Năm 1994, xuất khẩu của DONIMEX sang thị trường Singapore và Trung Quốc đạt 15.429.168,83 USD chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 1997 là 6.235.739 USD chiếm 49,5% tổng kim ngạch Thị trường Singapore là thị trường trung chuyển hàng hóa của Công ty, hàng hóa được xuất sang đây, qua một số công đoạn chế biến thêm, họ sẽ tái xuất sang nước khác. Đứng sau thị trường Singapore và Trung Quốc là thị trường Mỹ và Thái Lan, Anh, Pháp Kim ngạch xuất khẩu sang các nước này thường đạt con số xấp xỉ 1 triệu đô la, tuy tốc độ phát triển chưa cao nhưng tương đối ổn định.
  33. Có thể nói, quan hệ của DONIMEX ở thị trường Châu á, Châu Âu là rất rộng lớn, có truyền thống lâu dài và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong những năm qua Công ty đã chú trọng tăng cường mối quan hệ hợp tác với các bạn hàng ở thị trường này. Đến nay Công ty đã thiết lập được mối quan hệ hợp tác làm ăn với hơn 100 Công ty nước ngoài tập trung ở gần 40 quốc gia. Hiện nay, Công ty đang đẩy mạnh việc mở rộng hơn nữa thị trường ở Trung Quốc, đây là thị trường tiêu thụ lớn, gần gũi về địa lí, chi phí vận chuyển thấp và đang hứa hẹn nhiều tiềm năng. Xét về thị trường Châu Âu. Các bạn hàng lớn ở Tây Âu và Bắc Âu tiêu thụ hàng hóa của Công ty DONIMEX là Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đức Từ những năm đầu của thập kỉ 90, Công ty đã vươn ra và thâm nhập thị trường này. Đến nay Công ty đã tạo được những uy tín nhất định và có được chỗ đứng khá vững chắc ở thị trường này. Trong các nước Tây Âu thì Bỉ là bạn hàng tiêu thụ lớn nhất. Năm 1994 hàng của Công ty xuất sang Bỉ trị giá 733.320 USD thì sang năm 1995 là 2.108.385 USD, năm 1997 con số này là 1.194.820 USD. Trong những năm sắp tới con số này có thể sẽ tăng cao hơn nữa. Bên cạnh đó, giá trị hàng xuất khẩu sang thị trường Đức, Pháp, Anh cũng có xu hướng tăng đáng kể Trong các nước Bắc Âu thì Hà Lan là thị trường lớn nhất, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này cũng ở mức tương đối, trong những năm tới thị trường này là cơ hội lớn cho Công ty. Năm 1997, Công ty đã mở rộng thị trường Đông Âu mà trước đây đã bị gián đoạn như Ba Lan, Cộng hòa Séc , ở thị trường Tây Âu và Bắc Âu Công ty mở rộng sang ý, Tây Ban Nha, Rumania, Pakistan Tuy kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này chưa cao, nhưng nó cũng hứa hẹn một triển vọng sáng sủa hơn. Thị trường Mỹ đặc biệt được Công ty chú trọng. Tuy chỉ mới xâm nhập vào thị trường này trong những năm gần đây, song tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Công ty tăng rất cao. Năm 1996, Công ty xuất được một lô hàng cà phê vào thị trường Mỹ với giá trị 387.185 USD, năm 1997 con số trên đã lên tới 3.066.940 USD, năm 1998 là 1.194.565 USD. Năm 1999 là 2.666.605 USD. Thị trường Mỹ có sức tiêu thụ rất lớn, quan hệ Việt - Mỹ gần đây đã được cải thiện đáng kể, điều đó đang mở ra cho Công ty DONIMEX một triển vọng mới trong kinh doanh. Công ty
  34. cần nhanh chóng xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này vì đây là điểm mạnh tương đối của Công ty. 3- Phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng hóa của Công ty. Để phân tích được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng hóa của Công ty DONIMEX, trước hết ta phải nắm được chỉ tiêu kinh tế kế hoạch và thực hiện mà Công ty đề ra đối với hoạt động xuất khẩu năm 1999. Bảng 15 : Chỉ tiêu kế hoạch và thực hiện về xuất khẩu năm 1999 Đơn vị : Tỷ VNĐ CHỉ TIÊU Kế HOạCH THựC HIệN Tỷ Lệ % 1.Tổng doanh thu 557.469,362 576.834 103,474 2.Tổng chi phí (cả thuế) 553,234 572,226 103,433 a.Định phí 11,375246 15,634712 137,443 b.Biến phí 541,858574 556,631288 102,726 3.Tổng vốn kinh doanh 32,388.000 32,388.000 100 a.Vốn cố định 3,478.000 3,478.000 100 b. Vốn lưu động 28,910.000 28,910.000 100 4. Lãi gộp (1-2b) 4,235 4,609 108,831 5. Lãiròng (1-2) 1,9385 2,129638 109,86 Qua các chỉ tiêu trên ta có thể đánh giá được hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ở Công ty DONIMEX năm 1999 vừa qua như sau: a. Lợi nhuận thực tế mà Công ty đạt được qua hoạt động xuất khẩu. Lợi nhuận thực tế = Tổng doanh thu - Tổng chi phí. LNTT = TRTT - TCTT = 576,834 – 572,226 = 4,609 Trong khi đó, kế hoạch Công ty phải đạt được mức lợi nhuận là LNKH = TRKH - TCKH = 4,235 Như vậy Công ty đã đạt vượt mức kế hoạch là: LNTT 4,609-4,235 = 100% = 8,83112% LNKH 4,235 b. Hiệu quả xuất khẩu hàng hóa: TX 576,834 HX = = = 1,008 CX 572,226
  35. Như vậy H = 1,008 > 1 nên hoạt động xuất khẩu của Công ty đã đem lại hiệu quả trong kinh doanh. Tuy nhiên, hệ số H còn thấp vì vậy Công ty cần tìm cách nâng cao hệ số H hơn nữa. c. Tỷ suất doanh lợi (P'). Tổng lợi nhuận Tỷ suất doanh lợi của hoạt động xuất khẩu = Tổng vốn kinh doanh P 2,129638 P' = = x 100% = 6,5754% V 32.388.000 Chỉ tiêu này cho ta biết một đồng vốn đầu tư vào kinh doanh xuất khẩu thì Công ty sẽ thu được là 0,065754 đồng lợi nhuận. Đây là một mức tỉ suất doanh lợi thấp, Công ty cần phải cố gắng hơn nữa. Nguyên nhân là do tốc độ quay của đồng vốn. Trong đó: Tổng lợi nhuận Mức sinh lợi của vốn cố định = Vốn cố định bình quân 2,129638 = x 100% = 61,2317% 3,478 Tổng lợi nhuận Mức sinh lợi của vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân 2,129638 = x 100% = 7,366% 28,91 d. Thời gian hòa vốn (TH) TH 12 tháng x Tổng định phí 15,634712 11,57 (tháng) = = = Tổng số lãi gộp cả năm 4,609 Như vậy, trong vòng 11 tháng 17 ngày, Công ty đã đủ thời gian để hòa vốn, tức là doanh thu đủ trang trải mọi chi phí, không lỗ, không lãi, hay nói cách khác, Công ty có mức lãi gộp bằng tổng định phí. Do đó các tháng sau, mọi doanh thu trừ chi phí biến đổi đều trở thành lãi của Công ty. Qua phân tích trên đây ta thấy rằng, hoạt động kinh doanh của Công ty có kết quả chưa cao, điều này phản ảnh Công ty cần phải cố gắng nhiều hơn nữa trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu bằng mọi cách
  36. nâng cao tốc độ quay của đồng vốn, tăng doanh thu và giảm bớt các khoản chi phí không cần thiết. III- Những thành tựu, tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động xuẩt khẩu của Công ty. 1. Thành tựu: Có thể đánh giá thành tựu về hoạt động xuất khẩu của Công ty DONIMEX như sau: - Trong những năm qua, cán bộ công nhân viên Công ty đã có nhiều cố gắng bám sát thị trường trong và ngoài nước, khai thác được nhiều nguồn hàng xuất khẩu và thực hiện tốt các chỉ tiêu, quy định đề ra. - Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xuất khẩu, Công ty đã chú trọng, quan tâm đến công tác tiếp thị, khai thác mặt hàng mở rộng thị trường trong và ngoài nước nên đã xuất khẩu được những mặt hàng chính là nông,. lâm, thổ sản và thêm nhiều loại hàng khác như may mặc, dụng cụ thể thao, máy móc tận dụng nguyên liệu có sẳn trong nước, gián tiếp giải quyết được nhiều lao động làm ra sản phẩm xuất khẩu nên giá trị xuất khẩu của Công ty ngày một nâng cao. - Trong quá trình kinh doanh mua bán hàng hóa có sự cạnh tranh gay gắt, Nhà nước mở rộng cơ chế xuất nhập khẩu, cho thành lập nhiều công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn, liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế. Được xuất nhập khẩu trực tiếp, các văn phòng đại diện ở nước ngoài cũng tham gia mua bán trực tiếp đến tận cơ sở thu mua, sản xuất, chế biến nên làm cho giá cả lên xuống thất thường. Sự biến động về tiền tệ trong khu vực và trên thế giới, tỉ giá USD lên xuống cũng ảnh hưởng đến việc tính toán và gây khó khăn trong kinh doanh xuất nhập khẩu nhất là những tháng cuối năm 1997. Trước tình hình như vậy, Công ty đã áp dụng nhiều phương án kinh doanh, tìm kiếm khách hàng, bán tận gốc (không qua trung gian), tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, giao hàng đúng hạn, đảm bảo chất lượng hàng hóa, thanh toán sòng phẳng, đã thực sự gây được lòng tin, lôi cuốn khách hàng đến hợp tác lâu dài nên vừa tạo được nguồn hàng ổn định vừa có khách hàng tiêu thụ.
  37. - Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu nhanh chóng, chính xác, đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nộp thuế xuất nhập khẩu đầy đủ, đúng hạn. - Thực hành tiết kiệm, giảm chi phí trong kinh doanh như: vận tải, bốc dỡ, giám định, bảo quản hàng hóa - Tổ chức lao động, bộ máy quản lí gọn nhẹ, mỗi người đều kiêm nhiệm hai, ba việc nên làm việc có hiệu quả, năng suất lao động cao hơn các năm trước. - Quan tâm tới việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên đi học bổ túc thêm ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ ngoại thương, tiếp cận thị trường nước ngoài, tham dự các buổi hội thảo chuyên đề về các mặt quản lí của doanh nghiệp do thành phố, tỉnh và Sở Thương mại tổ chức. 2. Những tồn tại: Bên cạnh các thành tựu đạt được, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty còn những tồn tại sau: - Công ty chưa thiết lập được kế hoạch kinh doanh dài hạn, chưa có phương hướng cụ thể đối phó với sự biến động thất thường của thị trường có thể xảy ra. Hoạt động xuất khẩu của Công ty có tăng về kim ngạch nhưng nhìn chung phương thức kinh doanh còn mang tính "phi vụ", "chộp giựt" là chính. Hàng xuất khẩu của Công ty còn manh mún, nhỏ lẻ. - Chất lượng hàng của Công ty chưa ổn định, tỉ trọng hàng thô vẫn còn chiếm khá lớn. - Thị trường hàng tiêu thụ của Công ty tuy có được mở rộng song vẫn chưa ổn định. Một số bạn hàng chưa đủ tin cậy để tiến hành làm ăn lớn. Đa số các bạn hàng của Công ty chỉ tiêu thụ theo kiểu mùa vụ. - Trong hoạt động tạo nguồn hàng, Công ty chưa thiết lập được mối quan hệ với các cơ sở, đơn vị sản xuất kinh doanh. Thu mua hàng của Công ty phần nhiều còn theo kiểu gom hàng từng hộ gia đình, từng cơ sở nhỏ lẻ khi khách hàng có nhu cầu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, Công ty bị động về nguồn hàng hoặc việc tạo hàng không đảm bảo chất lượng.
  38. - Từ trước đến nay, Công ty chưa được đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất, Công ty còn phải đi thuê đất, nhà xưởng, kho bãi với giá cả ngày càng tăng thêm nên làm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. - Công ty chuyên mua bán kinh doanh xuất nhập khẩu, chưa có cơ sở sản xuất, thu mua, chế biến nên nhiều lúc bị động về nguồn hàng chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, giá cả lên xuống thất thường cũng gặp không ít khó khăn trong việc tính toán kinh doanh. - Do thiếu vốn, Công ty phải tự cân đối, giữ uy tín với ngân hàng, có vay có trả đầy đủ, sòng phẳng nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn, bị động. - Trình độ cán bộ, công nhân viên có nghiệp vụ ngoại thương ít, hầu hết trái ngành nghề nên chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường cạnh tranh sôi động hiện nay. 3. Nguyên nhân: Công ty chưa có bộ phận chuyên trách về marketing riêng biệt mà chỉ ở mức độ tư pháp, chưa đi sâu. Cơ cấu tổ chức mới đã làm cho cán bộ công nhân viên bị động, chưa thích ứng được với cơ cấu tổ chức, công việc mới đã làm giảm chất lượng của công việc. Do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Hiện nay trên địa bàn Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Lâm Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu có rất nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu dẫn tới tình trạng phá giá, ép giá gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty chưa có văn phòng đại diện ở nước ngoài, do đó Công ty gặp khó khăn trong việc giao dịch,tiếp xúc, chào hàng với các bạn hàng nước ngoài.
  39. phần Iii Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 1.Chính sách xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Đại hội lần thứ VII của Đảng (cuối 1991) đã khẳn g định "Đa phương hóa quan hệ đối ngoại", "đa dạng hóa hoạt động kinh tế đối ngoại" lấy "Hiệu quả kinh tế đối ngoại" là mục tiêu, là động lực trực tiếp, phát huy mọi khả năng của các thành phần kinh tế. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3 (khóa VIII) đã đề ra một Nghị quyết riêng về chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, tạo điều kiện cho đất nước tiếp tục phát triển. Trong bối cảnh này, Trung ương đánh giá vừa là "thời cơ" vừa là "nguy cơ" cho đất nước. Năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 114/HĐBT ngày 07/4/1992 về quản lý Nhà nước đối với xuất nhập khẩu, đó là một bước sửa đổi các chính sách văn bản trong quản lý xuất nhập khẩu. Ngày 19/4/1994, Thủ tướng Chính Phủ ban hành Nghị định 33/CP về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Ngày 13/1/1997, Thủ tướng Chính Phủ ra Quyết định số 28/TTg về chính sách mặt hàng và điều hành công tác xuất nhập khẩu.
  40. 2. Hệ thống quan điểm cơ bản đổi mới chính sách ngoại thương , đẩy mạnh xuất khẩu ở nước ta. 2.1- Đẩy mạnh xuất khẩu, bao gồm xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về nhập khẩu, về ngoại tệ cần thiết cho kinh tế quốc dân.Thông qua nhập khẩu tranh thủ thiết bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước , đổi mới cơ cấu kinh tế góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng cường khoa học và kỹ thuật của đất nước. 2.2- Phấn đấu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, mở rộng quy mô xuất khẩu, đa dạng hàng hoá xuất khẩu, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, góp phần cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế. 2.3- Khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu và nhữnh sản phẩm thay hàng nhập khẩu thiết yếu mà sản xuất trong nước có hiêụ quả hơn nhập khẩu. 2.4- Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, thị trường nhập khẩu phù hợp với cơ chế thị trường trên cơ sở gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa Việt Nam và nước ngoài. 2.5- Mở rộng quyền hoạt động ngoại thương cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đi đôi với sự quản lý thống nhất của Nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương bằng luật pháp và các đòn bẩy kinh tế. 2.6- Xoá bỏ bao cấp và bù lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu , nhập khẩu kinh doanh phải có hiệu quả (bao gồm hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế- xã hội đồng thời phải thực hiện trách nhiệm xã hội do pháp luật quy định. Khi phục vụ lợi ích chung, trong trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu bị thua thiệt, Nhà nước có chính sách hỗ trợ thích đáng. Chính sách ngoại thương đã và đang hình thành ở nước ta hoàn toàn xuất phát từ đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Nhà nước Việt Nam, đồng thời có tính đến xu hướng phát triển của thị trường thế giới, khả năng phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
  41. Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/CP cho phép các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu không phải xin giấy phép xuất nhập khẩu khi tham gia các hoạt động xuất khẩu,các doanh nghiệp chỉ cần khai báo mã số hải quan với các cơ quan hải quan. Ngoài ra, Nghị định còn mở rộng thêm các đối tượng tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, bao gồm các cá nhân và các pháp nhân có đăng ký kinh doanh đều được tham gia xuất khẩu các loại hàng hoá nằm trong danh sách các hàng hoá được Nhà nước cho phép xuất khẩu. 3. Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu. a). Chính sách gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào mục đích khai thác và sản xuất hàng nhập khẩu. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia. Trong những năm trước mắt , khi mà nguồn vốn tích luỹ nội bộ còn hạn hẹp, thì đầu tư trực tiếp chiếm vị trí quan trọng, nó góp phần cải biến dần cơ cấu kinh tế quốc dân. Thông qua đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chúng ta sẽ tranh thủ vốn , kỹ thuật và công nghệ mới, mở rộng thị trường nước ngoài , tiếp thu các kinh nghiệm tiên tiến, trên cơ sở đó xây dựng những cơ sở kinh tế mới, hiện đại hoá một số cơ sở hiện có nhằm tạo điều kiện việc làm cho người lao động khai thác một phần những tiềm năng sẵn có của đất nước để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng giao lưu với thế giới bên ngoài, góp phần tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thực tế đã chỉ rằng, bất cứ sự hợp tác nào cũng chỉ có thể hình thành và phát triển vững chắc và lâu dài, nếu như lợi ích của các bên liên quan đều được đảm bảo. Xuất phát từ những quan niệm nói trên, Nhà nước ta cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống Luật (trong đó có Luật đầu tư nước ngoài) nhằm tạo ra những điều kiện, môi trường đầu tư thuận lợi cho các bạn hàng quốc tế tham gia đầu tư, liên doanh liên kết. Đồng thời, họ có thể thực hiện một cách thuận tiện việc chuyển lợi nhuận, chuyển vốn về nước, được tham gia vào quản lý xí nghiệp, được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phương tiện sản xuất đưa vào Việt Nam dưới hình thức góp vốn, có ưu đãi nhất định về tài chính
  42. b) Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các nhà sản xuất hàng xuất khẩu trong lĩnh vực thuế như. - Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu. - Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu dùng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng xuất khâủ được giảm thuế lợi tức. Các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị , vật tư tiêu dùng cho hàng gia công. Tiền gia công hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu. - Vật tư nhập khẩu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn thuế nhập khẩu đã nộp. c) Tăng cường sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái tiền tệ trong việc định hướng vĩ mô cho xuất-nhập khẩu. Không nên để tỷ giá đồng Việt Nam và đồng tiền nước ngoài chênh lệch quá xa so với tỷ giá trên thị trường. Không nên thi hành chính sách tỷ giá thả nổi do thị trường tự do ấn định. Nhà nước cần tìm cách ổn định tỷ giá hối đoái, coi nó như là một công cụ, chính sách. d) Nhà nước cần trực tiếp tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tham gia các hoạt động xuất khẩu. Cụ thể là cần đơn giản hoá các điều kiện đối với các doanh nghiệp trong việc xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.Họ được ưu tiên cấp giấy phép ra nước ngoài để tiếp cận thị trường thế giới, tìm hiểu nhu cầu hoặc giới thiệu, quảng cáo mẫu mã hàng hoá. Nhà nước không nên quan niệm "Nhà nước độc quyền ngoại thương" như đã từng có trong nhiều thập niên trước đây, bằng luật pháp, chính sách cơ chế Nhà nước vẫn có thể quản lý chặt chẽ hoạt động ngoại thương mà không cần giữ độc quyền. e) Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội , vừa là điều kiện , vừa là giải pháp không thể thiếu được của việc khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu ở nước ta hiện nay. Thực trạng của kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội ở nước ta còn rất thấp kém. Do vậy, nếu thiếu hoặc đầu tư không tương xứng thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường, đến khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc tế.
  43. Trong điều kiện nguồn vốn trong nước còn có hạn, cần phải sử dụng tổng hợp sức mạnh trong nước và quốc tế thông qua nhiều hình thức liên doanh liên kết khác nhau để nâng cấp, mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh và phục vụ các nhu cầu khác của dân cư và thay đổi bộ mặt đất nước. II. Các phương hướng và biện pháp phát triển xuất khẩu ở công ty donImex. 1. Phương hướng phát triển hoạt động xuất khẩu ở Công ty trong thời gian tới. Trên cơ sở những kết quả hoạt động kinh doanh đã đạt được trong những năm qua.Xuất phát từ thực trạng tổ chức của Công ty cũng như bối cảnh chung của đất nước và thế giới. Căn cứ vào Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển một số doanh nghiêp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Căn cứ Thông tư 50-TC/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ Tài chính về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần theo Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 của Chính phủ. Công ty Xuất nhập khẩu Đồng Nai đang chủ trương tiến hành chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần. Đây là chủ trương lớn phù hợp với tình hình chung của xã hội và cũng phù hợp với mục tiêu đổi mới và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Chuyển sang hình thức Công ty cổ phần hóa, ngoài chức năng kinh doanh xuất khẩu tổng hợp, Công ty sẽ mở rộng thêm lĩnh vực kinh doanh xây dựng dân dụng, công nghiệp địa ốc và tổ chức các cơ sở gia công chế biến hàng xuất khẩu. Mục tiêu về hoạt động kinh doanh của Công ty trong ba năm 1999, 2000, 2001 được thể hiện bằng các chỉ tiêu cho ở bảng sau: Bảng 16 : Chỉ tiêu kinh tế 1999 - 2002 Chỉ tiêu năm Đơn vị tính Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Vốn điều lệ Tr.đồng 14.160 14.160 14.160 14.160 2. Doanh thu Tỷ đồng 576,834 590,241 610,769 650,372 3. Tổng chi phí Tỷ đồng 572,226 594,804 604,696 643,993 4. Lợi nhuận trước thuế Tỷ đồng 4,609 5,437 6,073 6,379 5. Lợi nhuận sau thuế Tỷ đồng 2,129638 2,371426 2,542627 2,719324
  44. Chỉ tiêu năm Đơn vị tính Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 6. Nộp ngân sách Nhà Tỷ đồng 13,194531 14,728936 16,021579 17,452369 nước 7.Tỷ suất lợi nhuận/vốn % 32,54 38,397 42,888 45,05 điều lệ Để đạt được những mục tiêu nói trên, Công ty DONIMEX tiếp tục định hướng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các năm qua, khắc phục những khó khăn còn tồn tại. Nhằm đạt được những hiệu quả xuất khẩu cao, Công ty xác định phương hướng phát triển xuất khẩu sau: * Củng cố và phát triển thị trường tiêu thụ. Tăng cường các mối quan hệ hợp tác cùng với bạn hàng, tạo lập uy tín trong kinh doanh xuất khẩu. * Nâng cao hiệu quả nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng danh mục mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả kinh tế. Cải biến cơ cấu hàng hóa theo hướng tiên tiến. * Nâng cao hiệu quả của các hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu đặc biệt là nghiệp vụ giao dịch và đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng. Mục tiêu xuất khẩu năm 2000 phải đạt được chỉ tiêu kế hoạch sau: - Doanh số bán: 41,6837 triệu USD - Giá vốn hàng bán: 41,2997 triệu USD. - Lãi gộp: 0,384 triệu USD. 2. Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Công ty trong thời gian tới. 2.1. Hoạt động thị trường: Theo như điều kiện kinh doanh và mặt hàng của Công ty, trong những năm trước mắt Công ty cần tập trung khai thác các thị trường sau: - Thị trường ASEAN và Đông Bắc á. Đây là thị trường rộng lớn có nhiều tiềm năng xuất khẩu. Công ty đã có mối quan hệ lâu dài với các bạn hàng ở nước này. Trong những năm tới, ảnh hưỏng của cuộc khủng hoảng kinh tế nên các bạn có thể gặp nhiều khó khăn, vì vậy phương châm kinh doanh là tiếp tục củng cố và duy trì các mối quan hệ truyền thống này. - Thị trường Trung Quốc. Đây là thị trường gần gũi của Công ty. Tuy vậy kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này chưa lớn và cũng chưa ổn định, giá cả ở thị trường này biến động thất thường, phương thức giao dịch và thực
  45. hiện hợp đồng rất đa dạng, uy tín các bạn hàng không được đảm bảo. Vì thế, phương châm kinh doanh ở thị trường này nên thực hiện theo kiểu cuốn gói, trong đó vấn đề đảm bảo an toàn thanh toán cho Công ty phải được xem xét thật thận trọng. - Thị trường EU. Đây là thị trường mạnh, dân số đông, sức tiêu thụ lớn. Nhìn chung quan điểm của thị trường này khá cởi mở, thông thoáng. Trong những năm qua quan hệ giữa Công ty và thị trường này đã có những bước tiến tích cực. Mặt khác, do cuộc khủng hoảng kinh tế đã nổ ra ở Châu á nên Công ty cần tìm cách chuyển hướng sang khai thác thị trường này. Vấn đề quan trọng nhất ở thị trường này là Công ty phải đảm bảo được uy tín về chất lượng, hàng hóa, các yêu cầu về kỹ thuật. - Thị trường Mỹ: Sức tiêu thụ của thị trường Mỹ rất lớn và rất phong phú. Gần đây Công ty đã xâm nhập một phần vào thị trường này. Trong những năm tới, để phát triển thị trường này Công ty cần xúc tiến mạnh việc giới thiệu sản phẩm thông qua các hình thức khác nhau. Công ty nên cử người trực tiếp đến thị trường này tìm hiểu để có các phương án kinh doanh phù hợp. 2.2. Nâng cao hiệu quả công tác thu mua, tạo nguồn hàng. Một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của hoạt động xuất khẩu là công tác tạo nguồn hàng. Việc tạo nguồn hàng tốt với chất lượng cao, giá rẻ, điều kiện giao hàng nhanh sẽ cho phép Công ty thực hiện hợp đồng xuất khẩu thuận tiện, đảm bảo uy tín đối với khách hàng. Trong thu mua hàng hóa, vấn đề lựa chọn nguồn hàng đối với Công ty được coi trọng nhất, bởi vì qua đây nó đáp ứng được những yêu cầu về hàng hóa, cách thức mua của Công ty. Để lựa chọn nguồn hàng phù hợp, Công ty cần căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của mình, tình hình thị trường, yêu cầu của hách hàng. Trong những năm tới, Công ty chủ yếu khai thác ba nguồn hàng chính: - Nguồn hàng thu mua qua các đại lý. - Nguồn hàng ở các Công ty, cơ sở xuất chế biến. - Nguồn hàng liên doanh liên kết. Nguồn hàng thu mua qua các đại lý có đặc điểm cơ động, phù hợp với việc thực hiện hợp đồng với lô hàng nhỏ. Nguồn hàng này thường được đảm bảo về số
  46. lượng, thời hạn giao hàng, giá cả tương đối rẻ. Tuy nhiên, chất lượng hàng hóa thường biến động thất thường. Nguồn hàng ở các Công ty, cơ sở sản xuất, chế biến có đặc điềmla đảm bảo cả về số lượng, chất lượng. Tuy nhiên giá cả thị trường cao hơn các nguồn hàng đại lý và việc ký kết hợp đồng mua hàng thường gắn với nhiều điều kiện do phía nguồn hàng đưa ra vì thế nó chỉ phù hợp với những hợp đồng có khối lượng lớn, thời hạn giao hàng dài. Nguồn hàng liên doanh, liên kết có nhiều thuận lợi hơn cả. Do Công ty chủ động đầu tư nên nó vừa đảm bảo cả khối lượng, chất lượng, bao bì, mẫu mã lẫn giá cả, thời hạn giao hàng. Nhằm tạo điều kiện cho Công ty chủ động có được các nguồn hàng đảm bảo về số lượng, chất lượng mẫu mã, tăng cường khai thác các nguồn hàng có tỷ lệ chế biến cao, hạ thấp hàng chế biến thô, Công ty cần có chính sách đầu tư liên doanh, liên kết với các đơn vị, cơ sở sản xuất chế biến một cách thỏa đáng. Để nâng cao công tác tạo nguồn hàng, Công ty cần chú trọng mấy vấn đề sau: - Lựa chọn các nguồn hàng hợp lý, có khả năng về tài chính và năng lực Sản xuất, đảm bảo uy tín thực hiện đầy đủ hợp đồng mua hàng đã được ký kết. - Thiết lập mạng lưới thu mua hàng cơ động, thuận tiện. Bố trí các kho hàng hợp lý. - Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác thu mua, đặc biệt cần bổ sung thêm các phương tiện vận chuyển, các thiết bị nhà kho, thiết bị kiểm nghiệm hàng hóa. - Nâng cao hiệu quả công tác kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa. Muốn vậy cần nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ thu mua, nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện cho người mua hoàn thành tốt nhiệm vụ. 2.4. Về tổ chức bộ máy kinh doanh: * Hiện tại, Công ty có 55 cán bộ trong đó chỉ có 30 cán bộ có trình độ đại học. Như vậy đa số cán bộ khác đều chưa có bằng cấp hay bằng cấp thấp. Để làm ăn có hiệu quả với khách hàng nước ngoài, Công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi bởi con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công
  47. hay thất bại của hoạt động xuất nhập khẩu. Yêu cầu đối với cán bộ là phải giỏi nghiệp vụ ngoại thương, có đầu óc tư duy tốt, linh hoạt, phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, đọc thông viết thạo và hiểu rõ được những nội dung của thư chào hàng, thư hỏi giá, nội dung hợp đồng, làm hợp đồng, thư chào hàng Để nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên, Công ty phải có kế hoạch đào tạo lại cán bộ thông qua các hình thức: - Gửi cán bộ đi học ở các trung tâm đào tạo. - Mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày. - Tạo điều kiện cho cán bộ đi tham quan ở nước ngoài. Nhằm nâng cao chất lượng của quá trình hạch toán, Công ty thường xuyên đôn đốc, kiểm tra công việc này ở từng bộ phận có trách nhiệm, đồng thời bố trí hợp lý những người có trình độ chuyên môn thực hiện ghi chép đầy đủ, chính xác các nghiệp vụ, báo cáo kịp thời những thay đổi bất thường lên Ban Giám đốc hoặc trưởng phòng kinh doanh để đưa ra các phương án đối phó kịp thời. III. một số kiến nghị khác nhằm khai thác nâng cao hiệu quả hoạt động Xuất khẩu ở công ty. 1. Công tác đàm phán, giao dịch và ký kết hợp đồng: Công tác này rất quan trọng nên cán bộ thực hiện đòi hỏi phải có trình độ nghịệp vụ giỏi, nhất là yêu cầu về ngoại ngữ. Trước khi đàm phán, Công ty phải chuẩn bị đầy đủ các chi tiết có liên quan đến hợp đồng để trả lời những câu hỏi của khách hàng một cách rõ ràng. Mặt khác, phải hiểu rõ về khách hàng để tranh thủ những mặt yếu của họ, từ đó đề ra những quyết định đúng đắn và thích hợp. Trong quá trình ký kết hợp đồng còn quy định nhiều loại chứng từ kèm theo, các loại chứng từ này thường là kết quả xác nhận các bước thực hiện của hợp đồng nên rất có ý nghĩa trong việc thanh toán, giải quyết các loại tranh chấp, khiếu nại Công ty phải thận trọng đối với từng loại chứng từ, trong ghi chép yêu cầu phải rõ ràng, không tẩy xóa. Trong quá trình ký kết các hợp đồng xuất khẩu của Công ty, điều kiện giao hàng thường áp dụng hình thức FOB, tức là hàng giao tại cảng Hải Phòng, Thành
  48. phố Hồ Chí Minh , xuất khẩu theo hình thức này tránh cho người bán khỏi những rủi ro về hàng hóa không được đảm bảo trong khi vận chuyển. Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế như : Công ty không chủ động, giá xuất bán hàng không cao nếu không muốn nói là thấp. Công ty không tham gia vào được các tổ chức bảo hiểm quốc tế nên lợi nhuận thu dược thấp. Thời gian tới Công ty xem xét xuất theo hai hình thức : Với khách hàng ở thị trường xa như ở Châu âu, Châu Mỹ thì cần tiếp tục xuất theo hình thức FOB. Còn đối với các bạn hàng ở thị trường gần trong khu vực Châu á thì công ty nên xuất theo điều kiện CIF . Ngoài ra trong nội dung hợp đồng, Công ty cần chọn phương pháp thanh toán an toàn nhất, đảm bảo cho công ty thu về đủ số Tiền đúng thời hạn. Tốt nhất là lựa chọn hình thức L/C không thể hủy ngang có xác nhận bảo lãnh của Ngân hàng Trung ương . Bên cạnh đó, Công ty xem xét các hình thức thuê tàu và cước phí vận chuyển nếu xuất theo CIF, thời gian giao hàng Cần dự đoán trước những nhu cầu thị trường và xác định chính xác thời điểm ký hợp đồng có lợi nhất, chẳng hạn như khi mặt hàng có giá quốc tế lên cao hoặc tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt nam và ngoại tệ tăng thì nên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu . Các điều kiện của hợp đồng nên quy định ngắn gọn, chặt chẽ và dễ hiểu. 2. Một số vấn đề trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu . * Khâu chuẩn bị hàng hóa cần được thực hiện chu đáo và nhanh chóng hơn. Công ty cần biết chính xác ngày giao hàng ra cảng và ngày tàu vào nhận hàng để bến có hàng kịp thời . * Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện vận tải, đội ngũ cán bộ vận chuyển để thực hiện chuyển hàng hóa từ kho ra cảng một cách kịp thời. * Thực hiện phân loại rủi ro thị trường, bạn hàng để thực hiện mua các loại bảo hiểm phù hợp theo qui đinh như trong hợp đồng . * Luôn luôn rà soát lại các nghiệp vụ xuất khẩu, phát hiện và có biện pháp sửa chữa kịp thời những sai sót có thể xảy ra .
  49. * Chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ cần thiết để tạo điều kiện làm nhanh thủ tục hải quan. Thực hiện bóc hàng lên tàu an toàn, kịp thời, lấy đầy đủ các chứng từ như trong L/C quy định . Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhất thiết phải tạo điều kiện cho phía bạn hàng nhận hàng thuận tiện, an toàn, đúng như hợp đồng ký kết. Việc đảm bảo uy tín với khách hàng là vấn đề then chốt của quá trình xuất khẩu nhằm duy trì và thúc đẩy các mối quan hệ kinh doanh lâu dài .
  50. Kết luận Hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong cơ chế thị trường diễn ra hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Trong khi đó, môi trường kinh doanh lại luôn luôn biến động và có nhiều bất cập. Chính vì vậy, kinh doanh xuất khẩu đòi hỏi nhà thương mại phải luôn tìm tòi, đổi mới và sáng tạo để đạt được cái đích là lợi nhuận. Trước những đòi hỏi của xu thế thương mại hoá toàn cầu và trước mắt là việc ra nhập vào tổ chức AFTA, các chính sách thương mại càng trở nên quan trọng và bức thiết. Do những đòi hỏi đó thì việc nghiên cứu những đề tài về chính sách thương mại nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt nam là vấn đề cần phải làm ngay từ lúc này để sẵn sàng trước việc ra nhập vào tổ chức AFTA của Việt Nam. Qua quá trình thực tập tại Công ty DONIMEX, xuất phát từ bối cảnh trong và ngoài Công ty, tác giả đã trình bày hoạt động xuất khẩu của công ty từ những cái chung nhất và nổi bật nhất, đồng thời cố gắng tiếp cận tính tối đa toàn diện. Những nội dung đã được đề tài làm rõ bao gồm : 1-Các hoạt động nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty 2-Đánh giá kết quả xuất khẩu ở Công ty 3-Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ở Công ty DONIMEX. Trong quá trình nghiên cứu và viết đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của thầy giáo PGS - TS. Nguyễn Duy Bột và các cán bộ, Phòng Ban trong Công ty DONIMEX, đặc biệt là giám đốc Công ty DONIMEX Nguyễn Hữu Nghĩa và chị Phạm Thị Tố Nga Trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Xin chân thành cảm ơn!
  51. Biên Hòa, tháng 7 năm 2000
  52. Tài liệu tham khảo 1. “Kinh tế thương mại dịch vụ”-NXB Thống Kê, Hà Nội 1997. 2. “Giáo trình thương mại quốc tế”PGS.TS Nguyễn Duy Bột NXB Thống Kê, Hà Nội 1996. 3.”Tình hình kinh tế xã hội năm 1997”-Tổng Cục Thống Kê, Số 38/TCTK-TH. 4. “Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thương mại 1997”-Bộ TMại. 5.”Báo cáo tình hình hoạt động xuất nhập khẩu năm 1998 của thành phố Hà Nội”-Sở TMại Hà Nội, tháng 2/1998. 6.Vũ Phạm Quyết Thắng “Kinh tế đối ngoại Việt Nam -nội dung-giải pháp –hiệu quả” NXB Thống Kê 1994. 7.G.A Schomll” Cẩm nang nghiệp vụ quản lý xuất nhập khẩu”- Trung tâm thương mại Việt Nam 1990. 8. Các tài liệu báo chí có liên quan. 9. Nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu -Trường Đại học ngoại thương. 10. Tạp chí thương mại số ra năm 1998,1999, 2000