Điều kiện và khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán - Thực tiễn ở Việt Nam

doc 36 trang nguyendu 11060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Điều kiện và khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán - Thực tiễn ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docdieu_kien_va_kha_nang_huy_dong_von_tren_thi_truong_chung_kho.doc

Nội dung text: Điều kiện và khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán - Thực tiễn ở Việt Nam

  1. Điều kiện và khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Thực tiễn ở Việt Nam Phần I: Tổng quan về thị trường chứng khoán (TTCK) 1. Thị trường chứng khoỏn là gỡ? Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp phát của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành, gồm: Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán, các loại chứng khoán khác theo quy định của pháp luật. Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần. Trỏi phiếu là một loại chứng khoỏn nợ do doanh nghiệp phỏt hành, xỏc nhận nghĩa vụ trả cả gốc và lói của doanh nghiệp phỏt hành đối với người sở hữu trỏi phiếu. 2. Chức năng của TTCK - Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, 1
  2. Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tần kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. - Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. - Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. - Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. - Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô: Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào 2
  3. TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 3. Cấu trúc và phân loại cơ bản thị trường chứng khoán - Căn cứ vào sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, TTCK có hai loại: + Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán là huy động vốn cho nhà đầu tư. Thị trường sơ cấp vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm nhỏ của từng hộ dân cư, vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài; các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, Chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức khác không thể làm được. Như vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. + Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Dù công ty có được niêm yết nhưng nếu không phát hành (thêm) cổ phiếu mới thì cũng không huy động được xu vốn nào. Thị trường thứ cấp là nơi mua đi bán lại cổ phiếu đã được phát hành (chủ sở hữu cũ bán cho chủ mới). Các sở giao dịch chứng khoán chủ yếu hoạt động như thị trường thứ cấp. Trên thị trường thứ cấp không có xu vốn nào được huy động (cho các công ty hay cho nền kinh tế), lời lãi của một người đúng bằng lỗ của một người khác. Vậy, thị trường thứ cấp có ích lợi gì? 3
  4. Thứ nhất, nó làm cho việc trao đổi quyền sở hữu công ty dễ dàng (dễ biến cổ phiếu thành tiền mặt). Điều này rất quan trọng vì nó chính là cơ chế để giúp biến tài sản thành vốn, thành tư bản. Nó tạo cho các chủ sở hữu một thủ tục đơn giản, văn minh để “ bỏ phiếu bằng chân”, để “rút khỏi” công ty (hay khoản đầu tư) mà không phải cãi cọ, tranh chấp với các chủ sở hữu khác hay với ban lãnh đạo. Như thế khuyến khích người ta bỏ tiền đầu tư (tạo vốn thật khi mua cổ phiếu được phát hành lần đầu) do kỳ vọng được chia cổ tức và giá cổ phiếu lên. Thứ hai, giá cổ phiếu gây áp lực cho ban điều hành các công ty phải kinh doanh cho có hiệu quả, vì về dài hạn, một công ty làm ăn kém thì giá cổ phiếu sẽ thấp, ban lãnh đạo sẽ bị cổ đông sa thải. Chính vì thế những người lãnh đạo có khuyến khích lớn để giữ cho giá cổ phiếu cao (cả bằng phương pháp giả mạo, chính vì thế nên cần có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước bằng các thủ tục minh bạch). Thị trường chứng khoán vừa như thị trường sơ cấp và thứ cấp là một phát minh vĩ đại của con người, chúng ta nên cố gắng học để sử dụng hữu hiệu nó. - Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, TTCK có: Thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán), thị trường phi tập trung (OTC) và thị trường thứ 3. Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất. Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán. Tại Sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tập trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này được hình thành theo phương thức thỏa thuận. 4
  5. - Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường, TTCK có: Thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. + Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. + Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ. + Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn 4. Các nguyên tắc hoạt động của TTCK - Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. - Nguyên tắc công bằng: Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những quy định đó. - Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là loại hàng hóa trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thông công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan. 5
  6. - Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. - Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức tự quản. 5. Các thành phần tham gia TTCK: - Nhà phát hành: Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK dưới hình thức phát hành các chứng khoán - Nhà đầu tư: Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành hai loại: + Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích kiếm lời. + Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán. - Các công ty chứng khoán: Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh. - Các tổ chức có liên quan đến TTCK: 6
  7. + Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với TTCK ở Việt Nam. + Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán. + Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng khoán. + Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Ngoài ra còn có: Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, các tổ chức tài trợ chứng khoán Phần II: Điều kiện và khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán Việt Nam Các doanh nghiệp có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán bằng cách phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu hoặc các chứng chỉ quỹ) ra công chúng. Phát hành ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn người đầu tư, trong tổng lượng phát hành phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối lượng phát hành phải đạt được một mức nhất định. Việc phát hành cổ phiếu sẽ giúp cho công ty có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các 7
  8. phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tuỳ từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp. I. Điều kiện huy động vốn trên thị trường chứng khoán Việc doanh nghiệp có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán hay không chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố: điều kiện về mặt pháp lý, điều kiện nền kinh tế, thị trường và bản thân doanh nghiệp. Để huy động vốn trên thị trường chứng khoán, về mặt pháp lý (theo Điều 12 Luật chứng khoán), các doanh nghiệp phải thoả mãn một số những điều kiện nhất định. Thông thường, điều kiện để phát hành chứng khoán ra công chúng gồm năm điều kiện sau: - Đảm bảo có quy mô vốn tối thiểu - Đảm bảo tính liên tục về hoạt động sản xuất kinh doanh - Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi (hoạt động có hiệu quả trong một số năm) - Có đội ngũ cán bộ đủ năng lực và trình độ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh - Có phương án khả thi về việc sử dụng số vốn huy động. Cụ thể, đối với Việt Nam: 1. Điều kiện để chào bán, phát hành cổ phiếu ra công chúng Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng: 8
  9. - Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán - Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán - Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội cổ đông thông qua. Điều kiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng: Theo quy định của Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán và Thông tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định 48/1998/NĐ-CP, tổ chức phát hành phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng được các điều kiện sau: - Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam - Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất - Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng Giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh. - Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu. - Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành. - Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc đợt phát hành. - Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành. 2. Điều kiện chào bán, phát hành trái phiếu ra công chúng Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng (Điều 12 Luật Chứng khoán) - Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán 9
  10. - Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm. - Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được Hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua (phương án khả thi) - Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác. Điều kiện phát hành trái phiếu ra công chúng: - Doanh nghiệp có quy mô vốn tối thiểu: 10 tỷ đồng - Doanh nghiệp có thời gian hoạt động tối thiểu là 01 năm kể từ ngày chính thức đi vào hoạt động. - Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi. - Có tổ chức bảo lãnh phát hành - Có dự án khả thi về việc sử dụng số vốn huy động 3. Điều kiện chào bán, phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng Điều kiện chào bán: - Tổng giá trị chứng chỉ đăng ký chào bán tối thiểu năm mươi tỷ đồng Việt Nam - Có phương án phát hành và phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt chào bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của luật chứng khoán. Điều kiện phát hành: - Việc phát hành chắng chỉ quỹ lần đầu ra công chúng được thực hiện đồng thời với thủ tục xin phép lập Quỹ đầu tư chứng khoán - Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán để tăng vốn của Quỹ đầu tư chứng khoán phải được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận. * Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán 1. Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm: - Giấy đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng 10
  11. - Bản cáo bạch - Điều lệ của tổ chức phát hành - Quyết định của Đại hội cổ đông thông qua đợt phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng. - Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có) 2. Hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng bao gồm: - Giấy đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng - Bản cáo bạch - Điều lệ của tổ chức phát hành - Quyết định của Hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán trái phiếu ra công chúng. - Cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác - Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có) 3. Hồ sơ đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng - Giấy đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng - Bản cáo bạch - Dự thảo điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán - Hợp đồng giám sát giữa ngân hàng giám sát và công ty quản lý đầu tư chứng khoán - Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có) * Thủ tục phát hành chứng khoán ra công chúng: Gồm 3 bước cơ bản: - Chuẩn bị phát hành: + Tổ chức họp đại hội đồng cổ đông: Thống nhất về chủ trương phát hành chứng khoán ra công chúng + Lựa chọn tổ chức bảo lãnh, tổ chức kiểm toán + Định giá chứng khoán + Xây dựng hồ sơ đăng ký phát hành: Hồ sơ gồm nhiều tài liệu khác nhau (Giấy đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng, bản cáo bạch (dự thảo): 11
  12. công khai những thông tin chính xác, trung thực, khách quan liên quan đến chứng khoán chào bán đã phát hành) - Đăng ký chứng khoán: Hồ sơ đăng ký bao gồm: + Giấy đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng + Điều lệ công ty + Nghị quyết của đại hội cổ đông thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng + Bản cáo bạch + Cam kết bảo lãnh phát hành (Nếu có) - Phân phối chứng khoán: + Sau khi có giấy phép phát hành, phải công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về đợt phát hành + Công bố công khai bản cáo bạch và thực hiện phân phối chứng khoán + Báo cáo Uỷ ban chứng khoán Nhà nước + Làm thủ tục niêm yết chứng khoán (nếu được yêu cầu) * Quy trình phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng: Thông thường gồm những bước sau: - Tổ chức đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của đại hội cổ đông về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, đồng thời thống nhất mục đích huy động vốn; số lượng vốn cần huy động; chủng loại và số lượng chứng khoán dự định phát hành; cơ cấu vốn phát hành dự tính phân phối cho các đối tượng: Hội đồng quản trị, cổ đông hiện tại, người lao động trong doanh nghiệp, người bên ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài - Hội đồng quản trị ra quyết định thành lập ban chuẩn bị cho việc xin phép phát hành chứng khoán ra công chúng. Chức năng chủ yếu của ban chuẩn bị là chuẩn bị các hồ sơ xin phép phát hành để nộp lên cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu cần), công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn và cùng với các tổ chức này xây dựng phương án phát hành và dự thảo bản cáo bạch để cung cấp cho các nhà đầu tư. - Ban chuẩn bị lựa chọn người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành. Trong phần lớn các trường hợp phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng, để đảm bảo 12
  13. sự thành công của đợt phát hành thì tổ chức phát hành phải chọn ra được một tổ chức bảo lãnh phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành với uy tín và mạng lưới rộng lớn của mình sẽ giúp cho việc phân phối chứng khoán của tổ chức phát hành diễn ra một cách suôn sẻ. Chính vì vậy, khi tiến hành phát hành chứng khoán ra công chúng thì việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành có ý nghĩa rất quan trọng, và mang tính quyết định đến sự thành bại của đợt phát hành. - Người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành lựa chọn các thành viên khác của tổ hợp. Trong trường hợp khối lượng chứng khoán phát hành là quá lớn, vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh phát hành thì tổ chức bảo lãnh phát hành chính (tổ chức bảo lãnh phát hành đã được lựa chọn) sẽ đứng ra lựa chọn các thành viên khác để cùng với mình tiến hành bảo lãnh cho toàn bộ đợt phát hành. - Ban chuẩn bị cùng với tổ hợp bảo lãnh phát hành, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn tiến hành định giá chứng khoán phát hành. Định giá chứng khoán là khâu khó khăn nhất và phức tạp nhất khi tiến hành phát hành chứng khoán ra công chúng. Nếu định giá chứng khoán quá cao thì sẽ khó khăn trong việc bán chứng khoán, còn nếu định giá chứng khoán quá thấp thì sẽ làm thiệt hại cho tổ chức phát hành. Vì thế, việc định giá chứng khoán một cách hợp lý sao cho người mua và người bán đều chấp nhận được là hết sức quan trọng và cần phải được phối hợp của tổ chức bảo lãnh, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn của công ty. - Chính thức thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh phát hành với tổ chức phát hành. - Công ty kiểm toán xác nhận các báo cáo tài chính trong hồ sơ xin phép phát hành. - Tổ chức phát hành nộp hồ sơ lên Uỷ ban chứng khoán. Thông thường tổ chức phát hành sẽ được trả lời về việc cấp hay từ chối cấp giấy phép trong một thời hạn nhất định kể từ ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành đầy đủ và hợp lệ. Trong thời gian chờ Uỷ ban chứng khoán Nhà nước xem xét hồ sơ, tổ chức phát hành có thể sử dụng nội dung trong bản cáo bạch sơ bộ để thăm dò thị trường. - Sau khi được cấp phép phát hành, tổ chức phát hành phải ra thông báo phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời công bố ra công chúng bản cáo bạch chính thức và việc thực hiện việc phân phối chứng khoán trong một thời gian nhất định kể từ khi được cấp giấy phép. Thời hạn phân phối được 13
  14. quy định khác nhau đối với mỗi nước. ở Việt Nam, theo quy định tại Nghị định 48/Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì thời hạn này là 90 ngày, trong trường hợp xét thấy hợp lý và cần thiết, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có thể gia hạn thêm. - Tiến hành đăng ký, lưu giữ, chuyển giao và thanh toán chứng khoán sau khi kết thúc đợt phân phối chứng khoán. - Sau khi hoàn thành việc phân phối chứng khoán, tổ chức phát hành cùng với tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt phát hành cho ủy ban chứng khoán và tiến hành đăng ký vốn với cơ quan có thẩm quyền. - Trường hợp tổ chức phát hành có đủ điều kiện niêm yết thì có thể làm đơn xin niêm yết gửi lên Uỷ ban chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán nơi công ty niêm yết. Ngoài ra, để có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp cần phải tạo dựng được uy tín, danh tiếng trên thị trường, tạo được hình ảnh đẹp trong mắt công chúng. Để đạt được điều đó, doanh nghiệp cần tuân thủ nguyên tắc công bố thông tin: đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin cần thiết cho người mua chứng khoán. Bản thân doanh nghiệp luôn phải tăng cường hiệu quả của chính mình, phải tăng cường việc quản trị công ty một cách minh bạch và phải bảo đảm yêu cầu niêm yết của thị trường vốn trong nước và quốc tế. Về thị trường: Doanh nghiệp có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông qua thị trường sơ cấp. Tuy nhiên, nếu không có thị trường thứ cấp (thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm một trong các mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhân một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá) thì không có thị trường sơ cấp: nếu chứng khoán phát hành ra mà không lưu chuyển được trên thị trường thứ cấp thì nhà đầu tư cũng không quan tâm đến việc mua, nắm giữ chứng khoán phát hành (nhất là cổ phiếu, một loại chứng khoán vô thời hạn). Cổ phiếu của một tổ chức niêm yết trên thị trường chứng khoán khi được 14
  15. mua bán nhiều là phản ánh lòng tin của người đầu tư vào tổ chức đó; do đó khi tổ chức niêm yết muốn tăng vốn, họ có thể tiếp tục phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu đợt mới. Vì vậy, thông thường, khi thị trường đang lên (chỉ số giá cổ phiếu đang ở xu hướng tăng), thì các công ty dễ dàng phát hành với khối lượng lớn. Khi thị trường đang xuống, thì các công ty rất khó phát hành chứng khoán. Ngược lại, nếu tổ chức phát hành các cổ phiếu có chất lượng cao ở thị trường sơ cấp thì việc mua bán trên thị trường thứ cấp mới sôi động, nếu phát hành cổ phiếu không có chất lượng thì cổ phiếu đó không giao dịch được trên thị trường thứ cấp. Nền kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Trong điều kiện nền kinh tế bao cấp, các doanh nghiệp chưa có sức ép để phát hành chứng khoán ra thị trường thu hút vốn. Nhưng đến nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sức ép đối với các doanh nghiệp là rất lớn, nhu cầu vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng tăng. Huy động vốn trên thị trường chứng khoán là trở thành kênh hữu hiệu giúp doanh nghiệp có thể giải quyết được nhu cầu vốn của mình. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những đổi mới nền kinh tế thị trường, phát triển nền kinh tế đa dạng với sự nỗ lực của các thành phần kinh tế, môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng, thông thoáng, thu hút mạnh vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. Đây là điều kiện tốt để các doanh nghiệp có thể huy động vốn trên TTCK. Đặc biệt, việc Việt Nam gia nhập WTO khiến các doanh nghiệp có điều kiện hơn, chú trọng hơn đến việc huy động vốn ở thị trường quốc tế nhằm đầu tư, đổi mới trang thiết bị sản xuất. Như vậy, đối với Việt Nam, mới có một số doanh nghiệp có thể đáp ứng được những yêu cầu trên để có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Rất nhiều các công ty chưa có đủ điều kiện pháp lý và tạo được lòng tin trong công chúng để có thể huy động vốn bằng kênh này. II. Khả năng huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam 15
  16. Trong nền kinh tế thị trường, do nhu cầu về vốn ngày càng tăng nên ngoài các kênh huy động vốn trước đây như vốn chủ sở hữu, tín dụng ngân hàng , các doanh nghiệp ngày càng có nhu cầu huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đây là kênh huy động mới giúp doanh nghiệp có vốn lớn để thành lập mới hoặc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Xây dựng và phát triển TTCK nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển cũng là mục tiêu được Chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90. Qua một thời gian nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị, ngày 20/7/2000 Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương. TTCK Việt Nam đã chính thức hoạt động. Như phần “Tổng quan về thị trường chứng khoán” đã trình bày ở trên, TTCK bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng. Thị trường sơ cấp thực sự là một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán, từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được giao dịch. Hai loại thị trường này có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Vậy, qua những năm qua, TTCK Việt Nam đã có vai trò như thế nào trong việc huy động vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là cho các doanh nghiệp? Và các doanh nghiệp đã huy động được vốn trên TTCK Việt Nam đến mức độ nào? 1. Những thành tựu đạt được Sau 6 năm hoạt động, TTCK Việt Nam bước đầu đã hình thành một kênh huy động và phân bổ các nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế và các doanh nghiệp. Việc huy động vốn trên TTCK cho các doanh nghiệp đã có những thành công đáng kể. - Về tổ chức và phát triển thị trường: TTCK có tổ chức phát triển nhanh về quy mô, thể hiện: + Trong năm 2002, số vốn huy động được qua TTCK là 0,035 nghìn tỷ đồng. 16
  17. + Đến ngày 30/6/2003 có 5 Công ty niêm yết phát hành thêm cổ phiếu mới để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng. + Tính đến tháng 11/2005: có 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng số vốn lên 1086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu Công ty (đều là của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam) với số vốn 157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu Chính phủ với 5.400 tỷ đồng, đã có tổng cộng 73 loại chứng khoán với tổng mức vốn hoá khoảng 6.600 tỷ đồng, gần 1,6% GDP. Tính đến ngày 30/6/2005 đã có 570 phiên giao dịch được tổ chức với tổng giá trị giao dịch đạt gần 3.700 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm khoảng 88% và giao dịch trái phiếu gần 12%. Có 12 Công ty chứng khoán với tổng vốn điều lệ là 465 tỷ đồng, thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng khoán. Có 28 công ty và chứng chỉ quỹ được niêm yết và giao dịch trên sàn chứng khoán. Có 7 tổ chức kiểm toán độc lập được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận, trong đó có 01 đơn vị nước ngoài. Có 5 ngân hàng lưu ký, 3 trong nước và 2 nước ngoài, và có 01 ngân hàng chỉ định thanh toán là Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Hơn 14.000 tài khoản giao dịch được mở tại các Công ty chứng khoán, trong đó có hơn 90 nhà đầu tư tổ chức, chiếm 0,6%, và 35 nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, khung pháp lý cho hoạt động của thị trường này đã hình thành tương đối đầy đủ. Cuối năm 2005 đã có hơn 20.000 tài khoản giao dịch chứng khoán tại các công ty chứng khoán. + Tính đến hết năm 2006 sẽ có khoảng 170 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ của các công ty và quỹ đầu tư được niêm yết và đăng ký giao dịch trên hai trung tâm giao dịch chứng khoán ở TPHCM và Hà Nội với tổng giá trị vốn hoá 10 tỷ USD bằng 17% GDP năm 2006 cộng khoảng 5 tỷ USD giá trị trái phiếu, con số này sẽ bẳng 25% GDP, 35% tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng và chiếm 1/5 tổng tài sản tài chính của cả nước. Tổng mức vốn huy động qua cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, đấu giá cổ phần hóa trên 2 thị trường giao dịch chứng khoán là khoảng 27,9 nghìn tỷ đồng năm 2006 tăng 3,93 lần so với năm 2005. 17
  18. Ngân hàng thế giới chỉ ra rằng mức vốn hóa của TTCK Việt Nam tăng mạnh từ dưới 0,5 tỷ USD vào tháng 12 năm 2005 lên 13,8 tỷ USD (22,7% GDP) vào tháng 12-2006, và tới mức hiện nay là 24,4 tỷ USD. Số lượng doanh nghiệp niêm yết tăng từ 40 lên đến gần 200. Tính đến tháng 3/2007 số vốn huy động được là trên 7 nghìn tỷ đồng với 193 công ty niêm yết. Cho đến nay, trên cả 2 Trung tâm giao dịch chứng khoán của Việt Nam là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã có gần 200 loại cổ phiếu được niêm yết giao dịch, với tổng mức vốn hóa toàn thị trường lên tới 14 tỷ USD. Tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài đã được nâng lên 49%, các định chế tài chính trung gian trên thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển mạnh và đa dạng. Đã có 55 công ty chứng khoán và 18 công ty quản lý quỹ được cấp phép và đang quản lý tài sản ủy thác, đầu tư khoảng 4 tỷ USD. - Hệ thống tổ chức trung gian đã hình thành và phát triển, cho đến nay đã có 55 công ty chứng khoán, 18 công ty quản lý quỹ, 6 ngân hàng hoạt động lưu ký chứng khoán. - Tính công khai, minh bạch của tổ chức niêm yết được tăng cường, hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức niêm yết có bước phát triển khá cả về quy mô, doanh số lợi nhuận. - Khung pháp lý, chính sách cho hoạt động và phát triển TTCK từng bước được hoàn thiện. Việc ra đời của Nghị định 52/2006/NĐ - CP về Phát hành trái phiếu doanh nghiệp là một bước kiện toàn về hệ thống chính sách quản lý của Nhà nước, đảm bảo cho hệ thống chính sách toàn diện hơn, hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện công khai, minh bạch hơn. Xu hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Giới đầu tư nước ngoài đang ngày càng quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngân hàng đầu tư thế giới Merrill Lynch đã đánh giá cơ hội đầu tư vào chứng khoán Việt Nam rất cao. Theo Merril Lynch, các nhà đầu tư nên dành 3% danh mục đầu tư vào Châu á cho chứng khoán Việt Nam. Với đánh giá 18
  19. tích cực này, có thể kỳ vọng một làn sóng đầu tư gián tiếp từ Mỹ và Châu âu vào TTCK Việt Nam trong năm nay. Nhiều sàn giao dịch nước ngoài và đại diện của các quỹ đầu tư tầm cỡ như Morgan Stanley, Goldman Sachs, JP Morgan Chase đã nhiều lần tới Việt Nam để thu thập thông tin và khảo sát thị trường. Lòng tin vào TTCK Việt Nam ngày càng tăng. Bộ Tài chính đã ban hành Kế hoạch phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2006- 2010. Theo đó, phấn đấu đến năm 2010 tổng giá trị vốn hóa trên thị trường có tổ chức đạt 10-15% GDP (bao gồm cả trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ). Để đạt mục tiêu trên, Việt Nam sẽ đẩy mạnh việc gắn kết cổ phần hóa của doanh nghiệp Nhà nước với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần và niêm yết. Bộ Tài chính cũng khuyến khích các tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thành lập các công ty quản lý quỹ và đầu tư chứng khoán, đạt tỷ trọng đầu tư vào TTCK của tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là 20-25% tổng giá trị TTCK niêm yết vào năm 2010. Cũng theo bản kế hoạch này, Việt Nam sẽ phấn đấu để có doanh nghiệp tham gia danh sách 100 công ty niêm yết hàng đầu của các nước ASEAN. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thêm một cơ hội huy động vốn tại thị trường nước ngoài khi mà mới đây, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (Hastc) đã ký kết biên bản ghi nhớ về việc xây dựng cơ chế hợp tác giữa hai bên trong quá trình phát triển của TTCK Malaysia và Việt Nam. Thêm vào đó, Việt Nam đã gia nhập WTO. Trong xu thế hội nhập thì các sàn giao dịch sẽ phải có những bước cải tiến, nâng cấp hệ thống, quản lý để khuyến khích các doanh nghiệp niêm yết. 19
  20. Cần khẳng định, Việt Nam có không ít cơ hội đối với TTCK trong tiến trình hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế giúp chúng ta trong việc thiết lập và quản trị vận hành TTCK; tiếp nhận những chương trình hợp tác kinh tế – kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quản lý và phát triển các định chế tài chính trung gian để bồi dưỡng nguồn nhân lực và tiếp cận công nghệ mới trong quá trình xây dựng và tổ chức để TTCK hoạt động hiệu quả hơn. Tiến trình hội nhập quốc tế cũng sẽ buộc các tổ chức kinh doanh chứng khoán và các định chế tài chính khác tham gia thị trường phải chuyên môn hoá sâu hơn các nghiệp vụ liên quan đến sản phẩm và dịch vụ chứng khoán. Việc mở cửa TTCK Việt Nam với sự tham gia của nước ngoài sẽ mang lại sự cạnh tranh giữa các tổ chức kinh doanh trong nước với nước ngoài, làm gia tăng tính sáng tạo trong việc xây dựng các sản phẩm đầu tư hiện có. Điều này tạo sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia TTCK tích cực hơn, góp phần huy động nguồn vốn nhà rỗi trong dân chúng; giúp các nhà hoạch định chính sách về TTCK có khả năng trao đổi, hợp tác cũng như hoạch định chính sách phát triển thị trường theo những chuẩn mực quốc tế và thông lệ tốt nhất, đồng thời đề ra những biện pháp phòng tránh rủi ro có hiệu quả. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam với sự non trẻ cũng tiềm ẩn những nguy cơ mang tính chất tiềm tàng. Một trong những vấn đề đáng quan tâm khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đó là mất “chủ quyền”. Trong nhiều trường hợp, các nước mạnh đã áp đặt những nguyên tắc của mình đối với các nước yếu hơn. Nhiều khi, do bị ràng buộc bởi các điều kiện mà các chế thể tài chính quốc tế quy định và do sức ép của các nước tiên tiến mà các nước yếu, nghèo phải thực hiện những hoạt động kinh tế bất lợi. Một nguy cơ khác, đó là tình trạng biến dạng thị trường. Khi hội nhập quốc tế, các nước lớn thường áp đặt những nguyên tắc của họ vào các nước nhỏ, làm cho những nước này phải thay đổi những nguyên tắc, chuẩn mực ban đầu của họ và thị trường của những nước này. Thị trường của những nước nhỏ dễ dàng trở thành “sân sau” của một nước mạnh do những quy luật nghiệt ngã của cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Đã có nhiều nhận định cho rằng, sự hội nhập kinh tế đã phân chia các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi thành những nước tận dụng được những lợi ích từ các cơ hội toàn cầu và các 20
  21. nước không được hưởng lợi ích gì từ tiến trình đó, đồng thời sự biến dạng thị trường là hậu quả tất yếu mà các nước này phải gánh chịu. Khi tham gia vào quá trình hội nhập, thị trường chứng khoán cũng có nguy cơ đối đầu với sự biến dạng này nếu không có được những biện pháp phòng ngừa và điều chỉnh hợp lý. Biến động của TTCK cũng có thể tạo ra khả năng lan tỏa lớn làm ảnh hưởng đến thị trường tài chính, tiền tệ của các nước. Những biến động lây lan từ thị trường tiền tệ sang TTCK, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Sự thua lỗ của các công ty dẫn đến hiện tượng giảm giá cổ phiếu và ngay lập tức trở thành trào lưu rút vốn ồ ạt ra khỏi TTCK của một nước, rồi cả một khu vực – sự đổ vỡ của TTCK. Rõ ràng đây là những vấn đề liên quan đến hệ thống kinh tế toàn cầu và sự hội nhập của các TTCK. TTCK đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư phát triển, vì vậy, khi tham gia hội nhập, chúng ta cần hết sức thận trọng để tránh những rủi ro lây lan biến động tài chính cho thị trường chứng khoán và cho toàn bộ nền kinh tế. 2. Những hạn chế trong việc huy động vốn trên TTCK và các nguyên nhân Những hạn chế: Kể từ năm 2000, TTCK Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động, bước đầu đã hình thành một kênh huy động nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, so với TTCK quốc tế thì TTCK Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển và phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trước yêu cầu của toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Tồn tại lớn nhất là TTCK Việt Nam chưa thực sự là một kênh huy động vốn. Các doanh nghiệp mới huy động được rất ít vốn qua TTCK: Số vốn các doanh nghiệp huy động được qua TTCK còn quá nhỏ. Năm 2000 và 2001, số huy động vốn qua kênh này bằng 0, năm 2002 là 0,035 nghìn tỷ đồng. Nếu so sánh với dư nợ cho vay trung và dài hạn, đó là con số không đáng kể, so với tổng dư nợ cho vay của cả hệ thông ngân hàng thì con số là không có ý nghĩa gì. Hoạt động của thị trường sơ cấp rất mờ nhạt. Trong hai năm đầu đi vào hoạt động có duy nhất Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) phát hành 21
  22. thêm 01 triệu cổ phiếu mới (tương đương với số vốn 35 tỷ đồng) để huy động vốn cho dự án giấy kraft. Điều đáng quan tâm nhất là tỷ trọng tích lũy đầu tư vào TTCK còn thấp, tổng giá trị thị trường cổ phiếu mới chiếm khoảng 8% GDP năm 2005, trong khi đó mức thông lệ quốc tế là 30-34% GDP. Bởi vậy, TTCK vẫn chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển. Trong khi đó, khu vực hoạt động của doanh nghiệp lại chưa thực sự hiệu quả. Theo kết quả điều tra về nguồn huy động vốn hiện nay của doanh nghiệp, điều đáng lưu ý là trong tất cả số doanh nghiệp được hỏi không có doanh nghiệp nào huy động vốn qua phát hành trái phiếu và liên quan với nước ngoài. 60,9% số doanh nghiệp được hỏi hiện huy động vốn cho sản xuất và kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn vay từ ngân hàng. Trong khi đó, số doanh nghiệp có huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu chiếm 54,8% số doanh nghiệp được điều tra, chủ yếu là các công ty cổ phần Nhà nước. Ngoài ra, có 38,3% số doanh nghiệp có huy động vốn qua vay từ công nhân viên, 38,3% số doanh nghiệp huy động từ các nguồn khác như mua bán chịu, sử dụng vốn của đối tác Số doanh nghiệp huy động vốn qua nguồn ngân sách Nhà nước trong tổng số doanh nghiệp điều tra có 62 doanh nghiệp, chiếm 25% và điều này chứng tỏ rằng Nhà nước vẫn là một nguồn tài trợ quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay. Hiện tại, đã đến lúc phải “báo động đỏ” với thị trường OTC ở Việt Nam. Hiện chưa có bất cứ sự kiểm soát nào đối với việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp chưa niêm yết. Thậm chí, một số công ty đã tự ý chia nhỏ mệnh giá để thu hút nhà đầu tư. Các công ty cổ phần đăng ký đại chúng là rất ít. Bản thân các ngân hàng và các công ty chứng khoán cũng chưa đăng ký, trong khi, công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại cổ phần chính là các công ty đại chúng. Việc mua bán cổ phiếu trên thị trường OTC chỉ được giao dịch bằng miệng nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Theo đánh giá của các nhà phân tích thị trường, thị trường OTC có sức ảnh hưởng rất lớn đến thị trường niêm yết. Một khi giá cổ phiếu trên sàn OTC được đẩy lên cao, sẽ kích thích giá cổ phiếu trên sàn niêm yết chính thức. Sự tác 22
  23. động qua lại giữa hai thị trường này sẽ tạo ra những cơn sốt “nóng”, tạo “bong bang” cho thị trường. Do vậy, nếu Uỷ ban chứng khoán Nhà nước không sớm đưa ra một quy định cụ thể cho thị trường OTC, sẽ rất nguy hiểm cho thị trường chính thức. Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn tự có, vốn tài trợ từ Nhà nước, tín dụng ngân hàng Khả năng huy động vốn từ chứng khoán chỉ trở nên sôi động từ hai năm qua, mà sự sôi động ấy lại ẩn chứa những điều kiện chưa thật bền vững. Ngoài ra, việc huy động vốn trên TTCK còn có những hạn chế như: - Cổ phiếu niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) có số lượng và chất lượng rất hạn chế: Sau hơn 3 năm hoạt động, với 22 công ty được niêm yết vào thời điểm hiện tại, quy mô của Trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Tất cả các công ty niêm yết đều là các công ty quy mô nhỏ với số vốn khoảng vài choc tỷ đồng, chưa đủ gây ra sức hút đối với các nhà đầu tư. Cho đến nay, chưa có doanh nghiệp Nhà nước lớn nào được Nhà nước cho phép bán cổ phần ra công chúng và niêm yết trên Thị trường giao dịch chứng khoán. Số lượng công ty tư nhân đạt tiêu chuẩn niêm yết cũng rất hạn chế. Hơn nữa, các công ty niêm yết trên thị trường hiện nay đều đã được cổ phần hóa trước khi niêm yết; chưa công ty nào được thành lập bằng cách huy động vốn qua TTCK (IPO). Nhiều nhà đầu tư cho rằng sự hạn chế từ phía cung này khiến thị trường không có sức hấp dẫn đối với họ. - Thiếu vắng sự tham gia tích cực của những nhà đầu tư tổ chức trên thị trường Về phía cầu, những nhà đầu tư cổ phiếu trên TTGDCK Việt Nam hầu hết là cá nhân mang tính đầu cơ hơn là đầu tư, góp phần tạo tính bất ổn định của thị trường. Điều này làm cho chính các doanh nghiệp ngần ngại khi quyết định huy động vốn qua TTGDCK. Những nhà đầu tư tổ chức Việt Nam cũng như nước ngoài chưa tham gia nhiều vào mua cổ phiếu của các công ty niêm yết, một phần là do tính kém hấp dẫn của các cổ phiếu trên thị trường, nhưng cũng một phần do tính kém hấp dẫn của các cổ phiếu trên thị trường, nhưng cũng một 23
  24. phần do những khó khăn, phức tạp liên quan đến khuôn khổ pháp lý. Những khó khăn đó là khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số chưa đầy đủ, thiếu các chuẩn mực về công khai minh bạch thông tin, các quy định chưa rõ ràng về chế độ thuế đối với nhà đầu tư, quỹ đầu tư nước ngoài, các hạn chế về hạn mức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài,v.v - Hoạt động của thị trường phi chính thức lớn hơn nhiều lần so với thị trường chính thức và không được kiểm soát thích đáng. Việc bán cổ phiếu cho công chúng ở bên ngoài TTGDCK (thị trường phi tập trung OTC) diễn ra khá sôi động, nhưng hiện nay chưa có quy định pháp luật nào kiểm soát hoạt động này. Theo ước tính, số lượng doanh nghiệp huy động vốn cổ đông từ công chúng trên thị trường không chính thức này gấp khoảng 30 lần số doanh nghiệp niêm yết chính thức. Trong số khoảng 1.000 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa, chỉ có chưa tới 3% đã niêm yết, như vậy có thể cho rằng một số lượng lớn cổ phiếu của các doanh nghiệp này đang được mua bán trên thị trường không chính thức. ở các nền kinh tế phát triển, thị trường OTC thường cũng có quy mô lớn hơn gấp nhiều lần thị trường tập trung, song thị trường này được kiểm soát bởi các luật lệ khá chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Các luật lệ này vẫn chưa được thiết lập ở Việt Nam. Lo lắng chung từ phía quản lý Nhà nước cũng như giới doanh nghiệp là thị trường phi chính thức không được kiểm soát này có nguy cơ sụp đổ cao và có thể gián tiếp làm tổn hại cho thị trường chính thức mới manh nha phát triển. - Chiến lược phát triển thị trường vốn của Chính phủ và khuôn khổ pháp lý liên quan còn có nhiều bất cập Mặc dù Chính phủ đã thể hiện quyết tâm phát triển TTCK Việt Nam (qua Quyết định số 163/2003/QD-TTg ra ngày 5/8/2003 định ra các mục tiêu chiến lược như đưa tổng giá trị thị trường chứng khoán đạt 2-3% GDP vào năm 2005 và 10- 15%GDP vào năm 2010), nhưng các quy định pháp lý hiện hành cũng như những biện pháp triển khai dường như lại không thống nhất với chiến lược này. - Các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và mức độ công khai thông tin thấp 24
  25. Các công ty tư nhân của Việt Nam mới phát triển trong vòng hơn một thập kỷ qua, đặc biệt là từ năm 2000. Vì vậy, hầu hết các công ty tư nhân đều ở một quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ và thường được quản lý theo kiểu gia đình. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp tư nhân Việt Nam thường tìm cách duy trì chế độ nhiều sổ sách và không công khai thông tin. Ví dụ, số doanh nghiệp báo cáo tài chính theo quy định của Luật Doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 15-20%. Nguyên nhân của tình hình này không chỉ do ý định chủ quan, thói quen của doanh nghiệp mà còn do sự thiếu vắng khung pháp lý và các chuẩn mực về công khai thông tin, kiểm toán, kế toán của Việt Nam. Các vấn đề này tiếp tục là trở ngại đối với nhà đầu tư và không khuyến khích được hoạt động huy động vốn cổ đông. - Việc rửa tiền tham nhũng và mua bán nội gian trong thị trường chứng khoán cũng gây những ảnh hưởng không nhỏ đến việc huy động vốn của các doanh nghiệp. Có lẽ chưa một nơi nào mà các đại gia chứng khoán có thể thao tong và điều khiển thị trường dễ dàng như ở ta trong thời gian qua. Tuy quy mô thị trường đã tăng cao, song quan hệ cung và cầu chứng khoán nhiều lúc mất cân đối gây nên những biến động cho thị trường, do vậy, TTCK hoạt động chưa thực sự ổn định vững chắc, vẫn thể hiện một sự không ổn định trong hoạt động giao dịch của thị trường mà nguyên nhân chính vẫn phụ thuộc vào tâm lý đầu tư ngắn hạn. - Mặc dù mức vốn hóa thị trường tăng nhanh vào những tháng cuối năm, nhưng nhìn chung quy mô thị trường của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các nước. Mức tăng vốn hóa thị trường trong thời gian qua ngoài yếu tố do đưa thêm một lượng cổ phiếu niêm yết mới còn có yếu tố tăng giá. Chỉ số VN-Index chưa thực sự trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế. - Hoạt động của thị trường tự do còn rộng trong khi chưa có sự kiểm soát thích đáng. - Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt về hệ thông công nghệ thông tin của các TTGDCK, công ty chứng khoán cho thấy có bất cập trước sự phát triển quá nhanh của thị trường đòi hỏi cần phải có sự đầu tư, nâng cấp hệ thống theo hướng trước mắt và lâu dài. 25
  26. - TTCK Việt Nam mới ở giai đoạn đầu phát triển, khả năng giám sát, cưỡng chế thực thi còn hạn chế một phần do công nghệ tin học, một phần do cơ sở pháp lý và lực lượng cán bộ còn mỏng. Sự phối hợp giữa tài chính, chứng khoán, ngân hàng trong chính sách điều hành quản lý thị trường còn hạn chế. Đặc biệt, nếu thị trường chứng khoán OTC không được quản lý tốt để giá cổ phiếu giảm nhanh thì sẽ gây tác động tiêu cực cho nền kinh tế. Một trong những nỗi lo là lượng vón khá lớn do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ. Nếu như nguồn vốn này bị rút nhanh thì có thể khiến giá cổ phiếu bị giảm giá nhanh. Đó là chưa nói đến việc hoạt động của thị trường tự do hiện nay khá sôi nổi nhưng cũng thiếu tính công khai minh bạch và thiếu sự quản lý của Nhà nước, nhất là các cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần, công ty chứng khoán của bảo hiểm, các doanh nghiệp cổ phần hóa mà chưa niêm yết (hiện mới có 193/3.550 doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa niêm yết trên thị trường). Nếu thị trường này không được quản lý tốt sẽ tác động đến thị trường chính thức, thậm chí còn có thể xảy ra những hiện tượng lừa đảo hoặc tự đánh bóng doanh nghiệp của mình lên để nâng giá trị cổ phiếu một cách không thực - Nhiều công ty chứng khoán tăng vốn ồ ạt song sử dụng phần vốn tăng thêm đó chưa hiệu quả, dẫn đến tình trạng là họ cầm vốn đó đi đầu tư tài chính vào nhiều doanh nghiệp khác lẫn nhau trên thị trường. - Trên thị trường OTC, người ta vẫn đua nhau mua bán trao tay, thậm chí mua cả cổ phiếu chưa phát hành. - Quá trình hội nhập tạo ra áp lực cạnh tranh khắc nghiệt, trong bối cảnh các công ty chứng khoán trong nước chưa đủ mạnh, khả năng dẫn đến bị thâu tóm, sáp nhập, giải thể. - Thị trường mất cân đối về cung – cầu: Cầu quá lớn so với cung, lượng cổ phiếu đem bán nhìn chung quá ít so với khả năng mua. Mặc dù có sự cảnh báo và kiểm tra thường xuyên, song vẫn chưa rõ nguồn tiền từ các ngân hàng thương mại được huy động tham gia TTCK đến mức nào. Trong bối cảnh các công ty chứng khoán hiện nay đều quá tải, đã xuất hiện hiện tượng các công ty ưu tiên nhập lệnh tự doanh của mình trước khi nhập lệnh khách hàng. - Nhân sự tin học cho Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và cả các trung tâm cũng khó khăn vì cơ chế trả lương hạn chế. 26
  27. - Doanh nghiệp khó huy động vốn lớn trên TTCK từ các nhà đầu tư nước ngoài bởi những quy định về mặt pháp lý của Việt Nam còn nhiều bất cập - Tuy quy mô của thị trường đã tăng cao, song quan hệ cung cầu chứng khoán còn nhiều lúc mất cân đối gây nên những biến động cho thị trường. Do vậy, TTCK hoạt động chưa thực sự ổn định vững chắc, vẫn thể hiện một sự không ổn định trong hoạt động giao dịch của thị trường mà nguyên nhân chính vẫn phụ thuộc vào tâm lý đầu tư ngắn hạn. - Mặc dù mức vốn hóa thị trường tăng nhanh vào những tháng cuối năm nhưng nhìn chung quy mô thị trường của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các nước. Mức tăng vốn hóa thị trường trong thời gian qua ngoài yếu tố do đưa thêm một lượng cổ phiếu niêm yết mới còn có yếu tố tăng giá. - Hoạt động của thị trường tự do còn rộng trong khi đó chưa có sự kiểm soát thích đáng - Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt về hệ thống công nghệ thông tin của các trung tâm giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán cho thấy có bất cập trước sự phát triển quá nhanh của thị trường đòi hỏi cần có sự đầu tư, nâng cấp hệ thống theo hướng trước mắt và lâu dài. - Khả năng giám sát, cưỡng chế thực thi còn hạn chế một phần do cơ sở pháp lý và lực lượng cán bộ còn mỏng. Sự phối hợp giữa tài chính, chứng khoán, ngân hàng trong chính sách điều hành quản lý thị trường còn hạn chế. Đứng ở góc độ là doanh nghiệp để huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông qua phát hành thêm chứng khoán mới (thị trường sơ cấp). Tuy nhiên trên thị trường Việt Nam, thị trường thứ cấp hoạt động mạnh mẽ hơn rất nhiều so với thị trường sơ cấp. - Chiến lược phát triển thị trường vốn của Chính phủ và khuôn khổ pháp lý liên quan còn nhiều bất cập. Tình trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau: - Những vướng mắc từ cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng, chẳng hạn, điều kiện phát hành còn cao, thủ tục phát hành phức tạp, thiếu cơ sở pháp lý cho những vấn đề nảy sinh trong quá 27
  28. trình phát hành chứng khoán. Hệ thống pháp lý chưa thực sự hoàn thiện và đồng bộ, giữa các quy định pháp luật về TTCK và với các văn bản liên quan, các chính sách khuyến khích về thuế, phí và lệ phí cũng như quản lý ngoại hối chưa thực sự khuyến khích các đối tượng tham gia thị trường. Công tác quản lý, giám sát về chứng khoán và TTCK chưa đáp ứng đòi hỏi và tiến kịp với những sự thay đổi nhanh chóng của thị trường. - Mặt bằng lãi suất từ ngân hàng hiện nay khoảng 10,8%/năm, lợi tức kỳ vọng của các cổ đông hiện tại khoảng 15% năm, đó là số kỳ vọng quá cao. Do đó, huy động vốn trên thị trường chứng khoán là “khá đắt” và khó thực hiện. - Để huy động vốn trên TTCK, các doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng, chẳng hạn, các doanh nghiệp phải xây dựng bản cáo bạch để công khai hóa tài chính, phương án kinh doanh hơn nữa, nhiều doanh nghiệp không muốn tiết lộ những thông tin quan trọng cho đối thủ cạnh tranh nên không mặn mà với hình thức huy động vốn trên TTCK. - Thị trường thứ cấp hoạt động trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao là nguyên nhân sâu xa dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong thời gian gần đây. Nguyên nhân là do việc công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trong một số trường hợp không trung thực, đánh mất lòng tin của công chúng đầu tư đối với thị trường. Một điều dễ nhận thấy ở hầu hết doanh nghiệp Việt Nam là thói quen về quản trị công ty và văn hóa công bố thông tin, tính minh bạch hóa hoạt động sản xuất kinh doanh còn chưa tạo dựng được một cách chuyên nghiệp. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa quen với việc huy động vốn qua TTCK. Việc huy động vốn đầu tư của các doanh nghiệp chủ yếu vẫn trông vào kênh ngân hàng thương mại. - Mặt khác, hiểu biết về TTCK của nhà đầu tư còn hạn chế. Chủ yếu vẫn là các nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu vắng các nhà đầu tư chuyên nghiệp với những kiến thức chuyên sâu, có kinh nghiệm và am hiểu về luật pháp trong lĩnh vực chứng khoán. Vì vậy, hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ ngắn hạn và có các chiến lược đầu tư dài hạn, chịu sự chi phối của tâm lý đầu tư theo kiểu “đám đông” gây nên những bất ổn về giá trên thị trường. 28
  29. - Trong thời gian qua, thị trường thứ cấp đã hoạt động sôi động hơn, tuy nhiên các giao dịch trên thị trường mang tính phong trào, sự tăng giảm thất thường của các cổ phiếu niêm yết đã làm nhiều nhà đầu tư thua lỗ. Từ đó gây ra sự khó khăn cho việc phát hành trên thị trường sơ cấp. - Sự hạn chế về kiến thức nghiệp vụ chứng khoán của đội ngũ nhân viên tại các công ty chứng khoán và của các nhà đầu tư khiến thị trường chứng khoán thiếu tính chuyên nghiệp. - Quy mô nhỏ và mức độ công khai thông tin thấp của các doanh nghiệp Việt Nam. - Chiến lược phát triển thị trường vốn của chính phủ còn nhiều bất cập. - Chưa có chiến lược thích hợp để tận dụng, thu hút được nguồn đầu tư nước ngoài vào TTCK thể hiện ở chính sách thuế, quản lý ngoại hối, việc quảng bá hình ảnh TTCK Việt Nam ra thế giới còn mờ nhạt, những thông tin cơ bản chưa được cung cấp đầy đủ bằng tiếng Anh, - Đặc biệt, việc huy động vốn bằng cổ phiếu chưa phải là ưu tiên của doanh nghiệp: Theo kết quả điều tra của UBCKNN, các doanh nghiệp đều mong muốn có một phương thức huy động vốn mới để cải thiện tình hình tài chính và đáp ứng được các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp chưa xác định được rõ phương án kinh doanh cũng như nhu cầu vốn ngắn hạn vẫn là yêu cầu chủ yếu. Do đó việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn chưa phải là ưu tiên hàng đầu của các doanh nghiệp khi có nhu cầu huy động vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Điều này càng chứng tỏ doanh nghiệp huy động nguồn vốn dưới hình thức này còn rất hạn chế do các doanh nghiệp chưa thực sự có uy tín trên thị trường, chưa thu hút được đông đảo các nhà đầu tư. Hơn nữa, sức ép phải kinh doanh có hiệu quả khi phát hành cổ phiếu để huy động vốn hơn các hình thức huy động vốn khác là một trở ngại khiến các doanh nghiệp chưa mặn mà với việc huy động vốn trên TTCK. Với rất nhiều những tồn tại nêu trên, TTCK thực sự chưa trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp và các doanh nghiệp cũng chưa sử dụng được tốt kênh huy động này để đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. 29
  30. Để có thể huy động vốn trên TTCK, chắc chắn các doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan cần có những giải pháp để giải quyết những tồn tại nêu trên. Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán Việt Nam Để có thể nâng cao khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho các doanh nghiệp, cần có sự kết hợp của cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp và những đơn vị liên quan khác để thực hiện một số giải pháp sau: 1. Tăng cường cơ chế quản lý, giám sát công bố thông tin trên thị trường, có chế tài đủ mạnh đối với các công ty cổ phần tham gia TTCK để tạo ra một thị trường minh bạch giúp các nhà đầu tư có thể ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ, chính xác. Song hành với đó là tăng cường năng lực quản lý, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước, tiến tới thành lập một uỷ ban giám sát trong lĩnh vực này. 2. Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường, thiết lập một môi trường ổn định, đồng bộ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm. 3. Thực hiện các giải pháp “tăng cung – kích cầu”: Cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty Nhà nước, ngân hàng thương mại Nhà nước; đẩy mạnh huy động vốn dưới hình thức trái phiếu, Về cầu đầu tư: xây dựng cơ sở nhà đầu tư trong đó các nhà đầu tư có tổ chức làm nòng cốt đảm bảo tính ổn định cho TTCK, xây dựng và công bố lịch trình mở cửa đối với nhà đầu tư nước ngoài tham gia TTCK phù hợp với Luật đầu tư và các cam kết của WTO. Ngoài ra, cần xây dựng và mở rộng hoạt động của các trung gian tài chính, các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường. 4. Thiết lập một môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của các thành viên trên thị 30
  31. trường, nên thực hiện phương châm “các thành viên của thị trường được thực hiện tất cả các hoạt động mà pháp luật không cấm” 5. Để khắc phục tình trạng nhà đầu tư quá tập trung vào thị trường phi tập trung, cần nhanh chóng tái cấu trúc lại TTCK theo hướng phát triển thị trường niêm yết chính thống, thu hẹp thị trường tự do bằng cách: Để thu hẹp thị trường tự do: - Yêu cầu tất cả công ty đại chúng (dù chưa niêm yết) phải đăng ký lại với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và sẽ bị xử phạt theo quy định mới đối với trường hợp cố tình không đăng ký, không tuân thủ quy định hiện hành. Các công ty này cũng sẽ phải thực hiện kiểm toán khi chào bán cổ phiếu qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời, các giao dịch trên thị trường OTC vẫn được tiến hành nhưng kết quả giao dịch phải chuyển qua trung tâm lưu ký để tránh xảy ra tình trạng lừa đảo. - Thực hiện lưu ký, đăng ký tập trung đối với các công ty đại chúng để giảm thiểu rủi ro thanh toán trên thị trường tự do. - Triển khai đưa vào áp dụng đề án giao dịch chứng khoán chưa niêm yết, sử dụng công ty chứng khoán làm đầu mối, chuyển giao dịch về TTGDCK Hà Nội và thực hiện lưu ký qua Trung tâm lưu ký chứng khoán. Từng bước công khai hóa hoạt động thị trường tự do và thu hút dần vào thị trường chính thức. - Cần sớm ban hành Nghị định của Chính phủ về quản lý việc phát hành chứng khoán riêng lẻ của các công ty cổ phần. Mở rộng thị trường tập trung bằng cách như chấn chỉnh hoạt động phát hành chứng khoán, quản lý công ty đại chúng theo Luật chứng khoán Việc tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho các sàn giao dịch chứng khoán tập trung, đáp ứng yêu cầu phục vụ cũng là một việc làm cần thiết để kéo nhà đầu tư về với thị trường này. 31
  32. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu. Tuy nhiên, khi tham gia vào quá trình này, khả năng lây lan rủi ro và những ảnh hưởng của sự biến động tài chính do sự liên kết của các thị trường trên toàn cầu là rất dễ xảy ra TTCK đóng vai trò là kênh huy động vốn và là hàn thử biểu của toàn bộ nền kinh tế, là nơi rất có khả năng lây lan rủi ro và chịu biến động. Chính vì lẽ đó, khi hội nhập phải hết sức thận trọng để tránh những biến động tài chính cho TTCK và cho cả nền kinh tế. TTCK Việt Nam mới được hình thành, do đó, việc hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách và hạ tầng công nghệ là một điều quan trọng hàng đầu. Một trong những điều quan trọng nữa là phải xây dựng được một lô trình hội nhập phù hợp thông qua việc mở của từng bước, có chọn lọc và cân nhắc trong từng giai đoạn và từng đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, quá trình hội nhập vốn phải đặt trong tổng thể quá trình hội nhập cũng như quá trình cải cách thị trường tài chính, hệ thống tài chính ngân hàng và cải cách nền kinh tế nói chung bởi nếu thiếu sự gắn kết này, thị trường vốn (trong đó có TTCK) sẽ khó lòng phát triển và đủ sức chống đỡ các bất ổn từ bên ngoài. 6. Tạo dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn thông qua các chính sách khuyến khích có hiệu quả. Các quy định liên quan đến tham gia TTCK có yếu tố nước ngoài cần được giảm thiểu các thủ tục hành chính không đáng có, nhưng vẫn đảm bảo được khả năng quản lý, giám sát như quy trình cấp mã số đầu tư nước ngoài; chuyển ngoại tệ vào và ra khỏi Việt Nam; cơ chế cho doanh nghiệp Việt Nam được chào bán cổ phiếu và niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài; nước ngoài niêm yết trên TTCK Việt Nam. 7. Tăng cường minh bạch hóa và công khai các hoạt động doanh nghiệp, áp dụng các chuẩn mực về thông lệ tốt nhất trong quản trị công ty; kế toán, kiểm toán cho các doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng và khuyến khích hơn nữa nhiều doanh nghiệp tham gia TTCK. Ban hành và áp dụng quy chế về quản trị doanh nghiệp niêm yết trên TTCK; hệ thống công bố thông tin công khai với các chuẩn mực kế toán, kiểm toán hướng tới theo thông lệ quốc tế. - Để TTCK Việt Nam phát triển tốt, cần tạo thêm nhiều hàng hóa có chất lượng cho thị trường. Chính phủ Việt Nam nên có các hình thức khuyến khích để giúp các công ty lên sàn. Để phát triển cung chứng khoán, cần cổ phần hóa các doanh 32
  33. nghiệp lớn, các tổng công ty Nhà nước, các Ngân hàng Thương mại Nhà nước, mở rộng việc chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần kết hợp với việc chào bán ra công chúng, đẩy mạnh việc huy động vốn dưới hình thức trái phiếu, mở rộng các hình thức phát hành, cải tiến phương thức phát hành trái phiếu theo lô lớn, tăng cường hình thức phát hành thông qua đấu thầu, bảo lãnh để niêm yết trên TTCK. Đối với việc phát triển cầu chứng khoán, cần xây dựng cơ sở nhà đầu tư mà trong đó các nhà đầu tư có tổ chức làm nòng cốt đảm bảo tính ổn định cho TTCK, xây dựng và công bố lộ trình mở cửa đối với nhà đầu tư nước ngoài tham gia TTCK phù hợp với Luật Đầu tư và các cam kết của WTO. Lộ trình hội nhập của TTCK Việt Nam cần được thực hiện trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa cam kết và thực hiện và thông nhất giữa các văn bản pháp quy khi có sự thay đổi cần thiết. Xây dựng được một lộ trình hội nhập phù hợp thông qua việc mở cửa từng bước, có chọn lọc và cân nhắc trong từng giai đoạn trước mắt như: ký kết các biên bản ghi nhớ về hợp tác với các cơ quan quản lý thị trường vốn quốc tế, các hiệp định song phương với các tổ chức về thị trường vốn, có thể phân cấp cho các sở giao dịch ký kết với nhau, các viện nghiên cứu, đào tạo chứng khoán, mở dần các dịch vụ theo quy định trong Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và các cam kết hội nhập thị trường vốn trong khuôn khổ các hiệp đinh song phương, tổ chức Thương mại Thế giới. - Đảm bảo phát triển thị trường tài chính một cách cân đối, toàn diện và hiệu quả với sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa các khu vực cấu thành thị trường, việc xây dựng TTCK cần được thực hiện trong mối liên kết chặt chẽ với thị trường bảo hiểm, thị trường tiền tệ và các thị trường có liên quan khác. Đây cũng là điều kiện đảm bảo luồng vốn chảy vào sẽ được sử dụng có hiệu quả, đảm bảo sự phát triển bền vững kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. 8. Quy trình kiểm soát nội bộ, cách thức quản lý tài sản cho khách hàng, nhân sự thực hiện của một số Công ty chứng khoán còn yếu và có thể gây khó khăn cho việc huy động vốn của doanh nghiệp qua TTCK. Đây là một thực tế. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có giải pháp để có đội ngũ chuyên môn phù hợp. 33
  34. 9. Trong bối cảnh phát triển của TTCK Việt Nam hiện nay thì việc tăng cung hàng hóa cho thị trường là biện pháp hữu hiệu về chính sách. Còn các biện pháp khác như quản lý vốn, thuế/lợi nhuận, nếu thực hiện đúng đắn và phù hợp thì thị trường sẽ không quá nóng hay quá lạnh. 10. Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt về hệ thống công nghệ thông tin của các TTGDCK, công ty chứng khoán cho thấy có bất cập trước sự phát triển quá nhanh của thị trường đòi hỏi cần phải có sự đầu tư, nâng cấp theo các bước trước mắt và lâu dài. Cụ thể, cần phải thực hiện những giải pháp sau: - Trước mắt, hoàn thiện nâng cấp công nghệ thông tin hiện có tại các TTGDCK (nâng cấp máy chủ hệ thống, tăng thêm trạm đầu cuối nhập lệnh); cải tiến phương thức giao dịch tiến tới tổ chức giao dịch từ xa. Trong thời gian chờ đợi việc có thể thực hiện giao dịch từ xa, tạm thời mở rộng sàn giao dịch tăng thêm màn hình nhập lệnh tại TTGDCK. Hoàn thiện việc nâng cấp phần mềm cho TTGDCK. - Tích cực triển khai thực hiện dự án hiện đại hóa công nghệ thông tin ngành chứng khoán, tiến tới tự động hóa toàn bộ các hoạt động giao dịch, thanh toán, công bố thông tin, giám sát thị trường theo các chuẩn mực quốc tế. - Các hoạt động nâng cấp công nghệ thông tin tại Sở giao dịch chứng khoán, TTGDCK, Trung tâm lưu ký chứng khoán phải gắn kết với nâng cấp công nghệ thông tin tại các công ty chứng khoán, thành viên lưu ký. Trong thời gian trước khi tự động hóa toàn bộ thị trường, khuyến khích các công ty chứng khoán nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin. - Các công ty chứng khoán không được ưu tiên lệnh của công ty trước lệnh của khách hàng và phải tách bạch tài sản của công ty với tài sản của khách hàng. Đây là những quy định bắt buộc những công ty chứng khoán phải thực hiện. Trước sức ép của thị trường, cần mở thêm các chi nhánh chứng khoán: mở thêm sàn, các trung tâm tin học, gắn camera tại sàn, kiểm soát nhân viên, các quy định trong sử dụng điện thoại và sẵn sàng mở các lớp cho nhân viên chứng khoán. - Cần có những quy định cụ thể liên quan đến việc thao túng thị trường giao dịch, nội gián, rửa tiền Cần có sự phối hợp giữa Uỷ ban chứng khoán với ngân hàng Nhà nước, công an cũng như các cơ quan chức năng khác. Tiếp đó, trong 34
  35. những quy định về lĩnh vực này cần phải bổ sung để có thể nắm bắt nguồn gốc tiền, sự luân chuyển tiền Mặc dù theo nhận định của các chuyên gia phân tích tài chính, TTCK Việt Nam sẽ còn lên, xuống thất thường một thời gian nữa mới đi vào quỹ đạo ổn định, nhưng hy vọng những giải pháp nêu trên sẽ giúp thị trường sớm ổn định, tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn có hiệu quả cho nền kinh tế. 35
  36. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo điện tử: - Báo Lao động - Đảng Cộng sản Việt Nam - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Văn phòng quốc hội - Vietfund Management 2. Nghị định 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều luật của Luật Chứng khoán 3. Nghị định số 52/06/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/5/06 về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp 4. Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/06 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư. 5. Luật Chứng khoán 6. Quyết định số 301/QĐ-UBCK: quy chế xét duyệt đăng ký phát hành chứng khoán ra công chúng, cấp phép niêm yết chứng khoán 7. Thông tư số 38/2007/TT-BTC về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán 8. Website: - www.hastc.org.vn - www.vse.org.vn - www.bsc.com.vn - www.vinastock.com.vn - www.vneconomy.vn - www.vir.com.vn 36