Đề tài Tình hình đầu tư phát triển ngành Công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội

doc 105 trang nguyendu 4170
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Tình hình đầu tư phát triển ngành Công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_tinh_hinh_dau_tu_phat_trien_nganh_cong_nghiep_det_may.doc

Nội dung text: Đề tài Tình hình đầu tư phát triển ngành Công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội

  1. Lời nói đầu Công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam ít nhất là từ một thế kỷ nay, còn những hoạt động thủ công truyền thống như thêu thùa thì đã tồn tại từ lâu hơn nhiều. Theo một số tài liệu ghi chép thì sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp này bắt đầu từ khi Khu công nghiệp dệt Nam Định được thành lập vào năm 1889. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, ngành công nghiệp này phát triển nhanh hơn, đặc biệt là ở miền Nam, tại đây các hãng dệt có máy móc hiện đại của Châu Âu được thành lập. Trong thời kỳ này, tại miền Bắc, các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng thiết bị của Trung Quốc, Liên Xô cũ và Đông Âu cũng đã được thành lập. Mặc dù từ những năm 1970, ngành đã bắt đầu xuất khẩu nhưng từ đầu những năm 1990, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới thì thời kỳ phát triển quan trọng hướng về xuất khẩu mới bắt đầu. Công nghiệp Dệt May là ngành có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Dệt may cũng là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách định hướng xuất khẩu của đất nước, và một cách chung hơn, trong các nỗ lực của Việt Nam để hoà nhập vào nền kinh tế quốc tế. Công nghiệp Dệt May tất yếu là một trong các ngành chủ yếu xuất khẩu trong giai đoạn đầu phát triển của cả nước. Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược phát triển định hướng phát triển có cơ sở rộng hơn. Sự thất bại về xuất khẩu của ngành này bao giờ cũng là triệu chứng của sự trở ngại có tính thâm căn cố đế trong nước và của sự bất lực, không phát huy được lợi thế so sánh tiềm năng. Vì vậy đây là một ngành công nghiệp quan trọng không chỉ với tư cách là một nguồn xuất khẩu và tạo việc làm chính, mà còn vì sự tăng trưởng của ngành này cho thấy kết quả hoạt động kinh tế một cách tổng hợp hơn. Hà Nội là thủ đô của cả nước đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước mà Nghị quyết Trung Ương VII đã chỉ rõ: Công nghiệp hóa nhằm vào những ngành mũi nhọn theo hướng xuất khẩu. Với vai trò là 1
  2. ngành công nghiệp chủ lực trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội, ngành Công nghiệp Dệt May trên địa bàn Hà Nội cần khẳng định sự tồn tại và phát triển của mình trong thời gian tới góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội và sự phát triển chung của cả nước. Thách thức hiện nay đối với ngành công nghiêp Dệt May Việt Nam cũng như Công nghiệp Dệt May Hà Nội là phải sản xuất hướng về xuất khẩu, sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao hơn và phạm vi sản xuất lớn hơn để đương đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu á, để có thể cạnh tranh với các nước lánh giềng. Thêm vào đó là những biến đổi nhanh chóng của thị trường thế giới và khu vực cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ buộc ngành phải có hướng phát triển mới kết hợp được lợi thế của ngành cộng với tận dụng cơ hội của thế giới, của cả nước giành cho Hà Nội. Đó là vấn đề đặt ra cho ngành Dệt May Hà Nội trước thềm của thế kỷ 21. Chuyên đề: “Tình hình đầu tư phát triển ngành Công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội” nội dung gồm có ba chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư Chương II: Tình hình đầu tư phát triển vào ngành công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội Chương III: Phương hướng và giải pháp tiếp tục đầu tư phát triển ngành Dệt May quốc doanh Hà Nội thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội trong thời gian tới Mục đích nghiên cứu nhằm giới thiệu khái quát tình hình đầu tư phát triển ngành công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội trong những năm gần đây, từ đó thấy rõ được những tồn tại, vai trò của ngành trong sự phát triển kinh tế xã hội và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Phương pháp nghiên cứu: các vấn đề cần giải quyết trong chuyên đề sẽ được phân tích trên giác độ kinh tế là chủ yếu, sử dụng phương pháp sản phẩmso sánh nhằm phân tích một cách rõ ràng các vấn đề theo từng mục, trên cơ sở các số liệu thống kê, tổng hợp các nhận xét đánh giá có tính định tính để rút ra kết luận. 2
  3. Chương I Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển I. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển 1.Khái niệm về đầu tư Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hi sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra giá trị tài sản mới cho nền kinh tế. 2.Khái niệm về đầu tư phát triển Là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh dịch vụ, đời sống, tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới cũng như duy trì những tiềm lực sẵn có cho nền kinh tế. 3. Vai trò của đầu tư phát triển: vai trò của đầu tư phát triển được thể hiện ở hai mặt sau đây: Thứ nhất: Trên giác độ của nền kinh tế đất nước: a. Đầu tư tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu. Trong ngắn hạn, đầu tư tác động đến tổng cầu khi tổng cung chưa kịp thay đổi. Khi đầu tư tăng làm cho tổng cầu tăng kéo theo sản lượng cân bằng tăng và giá cả của các yếu tố đầu vào cũng tăng theo. Khi thành quả của đầu tư chưa phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng thêm, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 3
  4. b. Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nề kinh tế làm cho môĩ sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, gía công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác khi tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện phát triển nền kinh tế. Khi tăng đầu tư cũng dẫn đến các tác động hai mặt nhưng theo chiều hướng với các tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành kinh tế vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết các tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy được các tác động tốt, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. c. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Kết quả nghiên cứu của các nhà đầu tư cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15 – 25 % so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Mức tăng trưởng GDP = Vốn đầu tư /ICOR Nếu ICOR không đổi mức tăng trưởng hoàn toàn phụ thuộc vào mức đầu tư. Tại các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 – 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế lao động và sử dụng nhiều công nghệ có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 – 3 do thiếu 4
  5. vốn thừa lao động, sử dụng nhiều lao động để thay thế vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùnh lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của các chính sách kinh tế nói chung. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc nội dự kiến. Tại nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một cái huých ban đầu, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế ( các nước NICS, các nước Đông Nam á ) d. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9% – 10%) là tăng cường đầu tư tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông- ngư nghiệp do có hạn chế về đất đai và khả năng sinh học , để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% – 6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết các mất cân đối về phát triển giữa các vùng và lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển e. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên 5
  6. quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Việt Nam là một trong số 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển về công nghệ lâu dài, nhanh chóng và vững chắc. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu và phát minh ra cônh nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu hay nhập công nghệ từ nước ngoài cũng cần phải có tiền, cần có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư đều là những phương án không khả thi. Thứ hai: Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn để tạo dựng một cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này bị hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở vô vị lợi đang tồn tại, để duy trì hoạt động , ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí 6
  7. thường xuyên. Tất cả những hoạt động này đều là những hoạt động đầu tư. 4.Nguồn vốn đầu tư phát triển: gồm có nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài b. Nguồn vốn trong nước: Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ sở hoạt động xã hội phúc lợi công cộng vốn đầu tư do ngân sách cấp (tích luỹ qua ngân sách và viện trợ qua ngân sách) vốn viện trợ không hoàn lại trực tiếp cho cơ sở và vốn tự có của cơ sở ( bản chất cũng tích luỹ từ phần tiền thưà do dân đóng góp không dùng đến). Đối với doanh nghiệp quốc doanh, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn hơn bao gồm vốn ngân sách (lấy từ phần tích luỹ của ngân sách, vốn khấu hao cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách), vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, vốn phát hành trái phiếu, vốn góp liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước và các hình thức huy động vốn khác quy định theo điều 11 nghị định 56/CP ngày 3/10/1996. Đối với các doanh nghiệp ngoaì quốc doanh vốn đầu tư bao gồm vốn tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Đối với các công ty cổ phần, ngoài các nguồn vốn trên đây còn bao gồm tiền thu được do phát hành trái phiếu. c. Vốn huy động của nước ngoài: bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp Vốn đầu tư gián tiếp: là vốn của Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại và viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay dưới hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA – viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát 7
  8. triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về chính trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu không sử dụng có hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả vốn vay. Các nước Đông Nam á và NICS Đông á đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngắn hạn rất hạn chế và đặc biệt không vay thương mại. Vay dài hạn lãi suất thấp, việc trả nợ không khó khăn vì có thời gian hoạt động đủ để thu hồi vốn. Vốn đầu tư trực tiếp: là vốn của các doanh nghiệp và cánh ân nước ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra. Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên với vốn đầu tư trực tiếp, nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ (do người đầu tư đem vào góp vốn và sử dụng) trong đó có cả công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương vì lý do cạnh trang hay cấm vận các nước nhận đầu tư; học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với các nhà đầu tư. Nước nhận đầu tư phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư theo mức độ góp vốn của họ. II. Vai trò của công nghiệp dệt may đối với việc phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam 1.Vai trò của công nghiệp dệt may với tăng trưởng kinh tế Ngành công nghiệp Dệt May có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế và mang lại nhiều nguồn thu cho đất nước. Trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII của Đảng đã chỉ rõ “ Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu đa dạng ngày càng cao phục 8
  9. vụ tốt cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu” Điều đó chỉ ra rằng công nghiệp Dệt May có vai trò quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nó thể hiện ở những điểm sau: a. Cung cấp hàng hoá tiêu dùng Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ngành là cung cấp các sản phẩm cho thị trường trong nước. Trước hêt là đáp ứng được các nhu cầu về các mặt hàng như các loại quần áo, bít tất, vải vóc từ đơn giản đến phức tạp, từ bình dân đến cao cấp. Khi chất lượng cuộc sống được nâng cao thì nhu cầu về may mặc lại càng lớn. Các sản phẩm về quần áo thời trang trở thành nhu cầu của hầu hết các tầng lớp dân cư trong xã hội, đặc biệt là giới trẻ. Với một đất nước có tổng số dân khoảng 80 triệu người thì nhu cầu về may mặc lại càng lớn. Do vậy, đầu tư phát triển cho ngành Dệt May cần có định hướng vào thị trường trong nước, sản xuất nhiều mặt hàng phong phú về mẫu mã và kiểu cách để kích thích tiêu dùng trong nước, hướng dẫn khuynh hướng thời trang cho người tiêu dùng. Ngành dệt may được tổ chức trên phạm vi toàn quốc, có đủ sức giải quyết mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông trong một tổ chức thống nhất và có sự điều hành chặt chẽ từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, bán buôn và bán lẻ làm chủ thị trường trong nước trong mọi tình huống, tránh được hiện tượng bán quota giữa các đơn vị thành viên( nhất là các công ty may). Công nghiệp dệt may còn được coi là định hướng để cung cấp sản phẩm cho khoảng 100 triệu dân vào năm 2010. b. Cung cấp các sản phẩm xuất khẩu, mở rộng thương mại quốc tế Lợi thế so sánh là một trong những yếu tố thúc đẩy quan hệ ngoại thương, buôn bán trao đổi giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Nó góp phần nâng cao lợi ích của mỗi nước khi tham gia trao đổi. Trong điều kiện đặc thù, mỗi quốc gia tự tìm thấy lợi thế so sánh của mình với những quốc gia khác. Đặc trưng của Công nghiệp Dệt May là sử dụng rất nhiều nhân công, nên chi phí nhân công chiếm một tỷ lệ cao trong tổng giá thành. Việt Nam có chi phí lao động thấp, lao động dồi dào, cần cù khéo léo, đây chính là một lợi thế của 9
  10. Việt Nam. Việc tập trung vào lợi thế này sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên việc tận dụng lợi thế này còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam. Với đường lối mở cửa và hoà nhập thị trường thế giới nói chung và các nước trong khu vực nói riêng, cùng với sự chuyển dịch công nghệ đang diễn ra sôi nổi, ngành Dệt May đang có nhiều thuận lợi để phát triển. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước công nghiệp Dệt May đóng vai trò là ngành tích luỹ tư bản cho quá trình phát triển công nghiệp về sau. Dệt May Việt Nam cũng đã đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công hoặc phương thức thương mại thông thường với một số nước có nền công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Canada, các nước công nghiệp như Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore Gần đây khi Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, thì hàng Dệt May có thêm thị trường Mỹ. Quá trình tạo sự tin cậy về mặt chất lượng, số lượng, mẫu mã sản phẩm và thực hiện đúng hợp đồng là một phương thức nhằm duy trì ốn định và mở rộng thêm thị trường quốc tế. Cho đến nay ngành đã có quan hệ buôn bán với 200 công ty thuộc hơn 40 nước trên thế giới và khu vực. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, giá trị kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt May tăng lên mạnh mẽ. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 43 triệu USD năm 1988 lên khoảng 2 tỷ năm 2000. Ngành Dệt May là ngành chế tác có giá trị xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu thô) do lợi nhuận lớn, trong thời kỳ đầu xuất khẩu nó tạo ra trên 60% giá trị xuất khẩu. Tuy theo dự báo tỷ lệ này sẽ giảm dần xuống khi quá trình đa dạng hoá xuất khẩu bắt đầu có kết quả, nhưng ngành Dệt May vẫn giữ một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong năm 1996 ngành chiếm 1/5 tổng kim ngạch. Trong năm 2000 kim ngạch xuất khẩu là khoảng 2 tỷ USD, đây là ngành công nghiệp mang lại hiệu quả, kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Dự kiến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu là 4 tỷ USD, và 2010 là 7 tỷ USD. Biểu 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May của Việt Nam 10
  11. (Đơn vị: Triệu USD) Tỷ trọng % của Dệt May trong Dệt Năm Dệt May Tổng kim ngạch Xuất khẩu của May xuất khẩu ngành công nghiệp 1985 6,5 21,1 27,5 7,9 55 1986 11,1 36,0 47,1 11,9 54,4 1987 13,3 27,4 40,6 9,1 57,1 1988 15,8 27 42,8 7,9 53,5 1989 25,1 68,1 93,1 8,4 56,1 1990 27,8 90,7 118,5 7,9 56,4 1991 29,4 142,9 172,3 9,9 61,8 1992 36,9 357,2 396,8 15,6 62,2 1993 61,7 521,6 582,7 17,8 52,9 1994 107,8 691,6 799,4 17,8 49,3 1995 147,8 878,8 1026,6 18,2 49,3 1162, 1996 175,5 1338,5 19,8 41,3 7 1997 1300 1998 1380 1999 1500 2000 2000 Nguồn: Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam năm 1999; tổng cục thống kê & Bộ Kế hoạch và Đầu tư 11
  12. Với vai trò là ngành cung cấp sản phẩm xuất khẩu và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế ngành đã thu hút vào trong nước một lượng ngoại tệ đáng kể. Tuy nhiên, nguyên liệu phụ kiện sản xuất trong nước còn yếu kém lạc hậu chưa có mẫu mã phù hợp thị hiếu, sản phẩm sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, do đó ngành phải nhập khẩu nguyên vật liệu còn thiếu. Mặt khác để phát triển ngành Công nghiệp Dệt May, các đơn vị trong ngành hàng năm phải đầu tư thêm vốn để quá trình sản xuất được liên tục. Do đó đứng về phương diện sản xuất thì cán cân xuất nhập khẩu và vốn đầu tư cho ngành là một bộ phận góp phần tăng trưởng GDP của toàn ngành Dệt May dẫn đến tăng trưởng GDP toàn ngành Công nghiệp và GDP của cả nước. Như vậy, ngành Dệt May là ngành có năng lực cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập thương mại quốc tế, là ngành xuất khẩu chủ lực của ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm qua. 2.Vai trò của Công nghiệp Dệt May với việc góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam Ngành Công nghiệp Dệt May là một bộ phận cấu thành công nghiệp Việt Nam trong cơ cấu ngành (Công nghiệp - Xây dựng; Nông nghiệp; Dịch vụ) của cơ cấu nền kinh tế. Công nghiệp Dệt May là một bộ phận tích cực góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Công nghiệp Dệt May phát triển sẽ làm tăng tỷ trọng phần trăm (%) công nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Công nghiệp Dệt May là ngành sản xuất ra sản phẩm vật chất phục vụ cho tiêu dùng. Giá trị gia tăng của ngành được xác định dựa trên cơ sở hạch toán các khoản chi phí, các yếu tố sản xuất và lợi nhuận của các cơ sở sản xuất và dịch vụ trong ngành. Do vậy phát triển ngành Dệt May sẽ làm tăng thêm giá trị gia tăng của ngành công nghiệp, tăng tỷ trọng GDP của ngành công nghiệp. Công nghiệp Dệt May thúc đẩy các ngành ngược chiều phát triển. Ngành Công nghiệp Dệt May sử dụng nguyên liệu từ ngành nông nghiệp như đay, 12
  13. bông, tằm Do đó nó đòi hỏi ngành nông nghiệp cũng phải phát triển theo. Đơn cử như về diện tích trồng bông vải, trên cả nước có 226000 ha, năng suất bình quân 9 tạ/ 1ha. So với năm 1996 là 10100 ha tăng 2,24 lần; năng suất bình quân là 6,4 tạ/ha tăng 1,4 lần. Sản xuất bông trong 5 năm qua có tốc độ tăng bình quân của sản xuất bông là 16%/năm cả về diện tích và sản lượng. Công nghiệp Dệt May thúc đẩy các ngành xuôi chiều phát triển. Sản phẩm của ngành sản xuất ra được phân phối trong phạm vi trong và ngoài nước và làm nguyên liệu đầu vào cho các ngành khác. Trước hết sản phẩm của ngành Dệt là đầu vào của ngành May, ngoài ra nó còn cung cấp cho các ngành khác như trang trí nội thất, giày da, bao bọc bàn ghế Để có khả năng tái sản xuất ngành thì cần phải thông qua các ngành dịch vụ như thông tin quảng cáo, bưu điện, dịch vụ bán hàng, ngành vận tải Công nghiệp Dệt May thúc đẩy các ngành gián tiếp phát triển. Trong sản xuất kinh doanh, nếu ngành dệt may có nhu cầu sản xuất lớn thì kéo theo các ngành khác cũng phát triển, ví dụ như: ngành điện đảm bảo cho công suất máy hoạt động liên tục, ngành hoá chất phục vụ cho in vải thành phẩm, ngành chế tạo máy móc Chẳng hạn như ngành cơ khí chế tạo máy, để đáp ứng nhu cầu của ngành Dệt May, Nhà nước có chủ trương đầu tư phát triển cơ khí Dệt May. Từ 2001 – 2005, tập trung đầu tư cho hai công ty cơ khí Dệt May phía Bắc và phía Nam đủ năng lực sản xuất phần lớn phụ tùng cho ngành , tiến tới lắp ráp một số máy dệt; tiếp đó đầu tư để có thể chế tạo máy dệt cung cấp cho nội địa và xuất khẩu. Tóm lại, Công nghiệp Dệt May tác động tích cực đến cả ba ngành Công nghiệp, Nông nghiệp, Dịch vụ của cơ cấu nền kinh tế cả về mặt chất và mặt lượng. 3.Vai trò của Công nghiệp Dệt May với giải quyết các vấn đề xã hội Ngành Dệt May là ngành không cần nhiều vốn đầu tư so với các ngành 13
  14. công nghiệp khác. Như ngành may chỉ cần đầu tư khoảng 800000 – 1000000 USD cho một xí nghiệp công suất 1 triệu sản phẩm/năm. Trong quá trình sản xuất từ các yếu tố đầu vào cho đến khi đưa ra một sản phẩm Dệt May hoàn chỉnh có nhiều công đoạn thủ công đơn giản (đặc biệt là ngành May), do đó ngành dễ giành giải quyết và thu hút việc làm cho người lao động kể cả lao động xuất phát từ nông thôn, từ đó tăng thu nhập cho người lao động. Năm 2000 ngành Công nghiệp Dệt May sử dụng 1,6 triệu lao động và dự kiến năm 2005 con số này có thể lên đến 3 triệu lao động. GDP của ngành Dệt May là một bộ phận của tổng sản phẩm trong nước được xã hội tổ chức quản lý, bảo toàn và phân phối cho người lao động. Ngành càng phát triển thì GDP của ngành công nghiệp, của cả nước và bình quân đầu người cũng tăng thêm. Từ đó góp phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội, cải thiện quan hệ sản xuất, bảo đảm và tiến tới phân phối công bằng hơn về thu nhập, đồng thời bảo đảm ngày càng nhiều công ăn việc làm cho xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn. 4. Vai trò của Công nghiệp Dệt May trong phát triển kinh tế xã hội ở thành phố Hà Nội Tăng trưởng và phát triển kinh tế Hà Nội: Thành phố Hà Nội đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Hà Nội cùng với những thành phố lớn khác trong cả nước đảm nhận vai trò là trung tâm phát triển, có ý nghĩa động lực lôi kéo sự phát triển chung của đất nước. Nghị quyết hội nghị Trung Ương VII đã chỉ rõ: Công nghiệp hoá nhằm vào những ngành mũi nhọn theo hướng xuất khẩu. Hà Nội đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá đòi hỏi công nghiệp Dệt May phải phát triển. Dệt May Hà Nội được coi là nghề truyền thống của người dân phương Bắc từ rất lâu đời nay, cùng với thời gian đã phát triển thành một ngành công nghiệp quy mô lớn đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của thành phố. Ngành công nghiệp Dệt May là một bộ phận cấu thành của công nghiệp Hà Nội. Hàng năm ngành đã góp 14
  15. phần quan trọng vào việc tạo gia tốc và tăng giá trị cho ngành công nghiệp. Hiện nay nhóm ngành này đóng góp khoảng 14,3 % gía trị của toàn ngành công nghiệp Hà Nội. Cung cấp hàng hoá: Với vai trò là ngành sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng, ngành Dệt May Hà Nội đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho người dân thủ đô và một số tỉnh khác. Hà Nội có dân số trẻ, dự tính đến năm 2005 có khoảng 2,85 triệu người, trong đó dân số thành thị chiếm 65% khoảng 1,852 triệu người; vào 2010 dân số Hà Nội là 3,2 triệu người và dân số thành thị là 2.56 triệu chiếm 80%. Đây là nhu cầu rất lớn và sẽ tăng theo thời gian về các sản phẩm may mặc. Vì vậy ngành Dệt May Hà Nội gánh vác vai trò quan trọng cung cấp các sản phẩm phong phú về kiểu dáng và mẫu mã đáp ứng cho người dân thành phố và một số tỉnh khác trong cả nước. Hơn 60% sản phẩm dệt đưa ra khỏi Hà Nội cung cấp phần lớn cho các tỉnh phía Bắc và một phần cho các tỉnh phía Nam, một ít hàng Dệt kim cho xuất khẩu. Dự báo trong thời gian tới ngành Dệt May Hà Nội sẽ cung cấp nhiều sản phẩm hơn nữa cho thị trường trong nước và xuất khẩu xứng đáng với vị trí quan trọng của mình. Công nghiệp Dệt May Hà Nội góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hà Nội. Ngành dệt may có tốc độ tăng trưởng khá cao. Tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành là 6,2% trong tổng giá trị sản xuất của Công nghiệp Dệt May cả nước, kim ngạch xuất khẩu năm 2000 là 26625883 USD.Tỷ trọng ngành Dệt May trong tổng giá trị gia tăng GDP của Hà Nội năm 1999 là 11,8%; tỷ trọng của công nghiệp xây dựng trong tổng sản phẩm quốc nội là: năm 1991 là 26,2%; năm 1997 là 33,1%; năm 1998 là 36,2%; năm 2000 là 39%. Dự báo tỷ trọng GDP trong cơ cấu kinh tế sẽ tăng lên theo ngành công nghiệp xây dựng vào năm 2005 là 42,5% và 2010 là 48,9% trong tổng GDP của Hà Nội. Thêm vào đó cơ cấu các thành phần kinh tế cũng thay đổi đáng kể. Với vai trò nằm trong 5 nhóm ngành then chốt của thành phố Hà Nội (cơ - kim khí; Dệt May; giầy da; lương thực thực phẩm; điện, điện tử), sản phẩm 15
  16. Dệt May của ngành được coi như là sản phẩm chủ lực của thành phố góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành hàng và mặt hàng xuất khẩu của thủ đô. Ngành Công nghiệp Dệt May Hà Nội góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho mọi người dân. Ngành đã giải quyết được khoảng 6184 lao động. Hà Nội tập trung đông dân cư, tốc độ phát triển dân số nhanh đặc biệt là đang trong tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hoá ngày càng cao. Nó tạo ra các dòng di chuyển dân đến Hà Nội ngày một lớn. Tốc độ tăng cơ học từ 0,5% (thời kỳ 1975 – 1980) lên đến 1,5% (thời kỳ 1991 – 1995). Đây là sức ép lớn về mọi mặt cho phát triển kinh tế xã hội. Phát triển ngành Dệt May theo chiều rộng và chiều sấu sẽ có khả năng thu hút nhiều lao động thủ công, kể cả lao động từ các vùng khác đến. Từ đó nâng cao thu nhập cho người lao động giải quyết được những bất cập do sức ép về mọi mặt của sự ra tăng dân số trong quá trình phát triển kinh tế Hà Nội. Nói tóm lại phát triển Công nghiệp Dệt May Hà Nội là rất cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội, đóng góp vào công cuộc đổi mới công nghiệp hóa hiện đại hoá thủ đô. III. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến ngành Công nghiệp Dệt May Hà Nội Công nghiệp Dệt May Hà Nội chịu sự tác động đan xen của nhiều nhân tố khác nhau, có thể phân ra làm hai nhóm nhân tố là nhóm nhân tố khách quan và chủ quan. 1. Nhóm nhân tố khách quan Ngành Công nghiệp Dệt May cả nước nói chung và trên phạm vi nền kinh tế Hà Nội đều chịu ảnh hưởng của ba nhân tố khách quan đó là: địa lý tự nhiên, xã hội và nguồn lực. 16
  17. a. Nhân tố địa lý tự nhiên Mọi ngành sản xuất nói chung và ngành Dệt May nói riêng đều chịu sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Khí hậu và đất đai thuận lợi sẽ tạo điều kiện phát triển các cây công nghiệp như Bông, Đay, trồng dâu nuôi tằm Nước ta nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa rất phù hợp với phát triển cây công nghiệp là một yếu tố đầu vào của ngành Dệt May. Khi sợi, bông có năng suất, chất lượng cao thì sản phẩm Dệt May sản xuất ra cũng có chất lượng cao hơn cạnh tranh dễ dàng trên thị trường, nó là yếu tố nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó Việt Nam nằm trên tuyến giao thông quốc tế, nằm ở khu vực đang phát triển sôi động nên rất thuận lợi cho việc trao đổi thương mại về sản phẩm, nguyên liệu, máy móc, công nghệ khoa học kỹ thuật trong khu vực và trên thế giới. Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới ngành. Tuy nhiên trong điều kiện khoa học- kỹ thuật phát triển như hiện nay việc đánh giá vai trò của các nhân tố cần phải tránh cả hai khuynh hướng đối lập nhau: hoặc là quá lệ thuộc hoặc quá coi nhẹ vai trò của điều kiện tự nhiên, cả hai khuynh hướng đó đều không đúng. Dưới sự thống trị của khoa học kỹ thuật hiện đại đã nghiên cứu và sản xuất ra các sản phẩm nhân tạo như các loại sợi tổng hợp, sợi tơ nhân tạo, sợi hoá học, thì tài nguyên thiên nhiên không phải là nguyên liệu duy nhất quyết định cho sự phát triển của ngành. Ngược lại nếu xem nhẹ yếu tố điều kiện tự nhiên sẽ không khai thác được đầy đủ lợi thế để thúc đẩy phát triển ngành hoặc khai thác tự nhiên một cách lãng phí không hiệu quả. Hà Nội là trung tâm kinh tế lớn nhất quan trọng nhất trong cả nước có vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển toàn diện các mối quan hệ kinh tế – xã hội liên vùng với miền núi và miền biển. Đồng thời được bao xung quanh là đồng bằng phì nhiêu, trù phú, đông dân cư. Đó chính là nơi cung cấp các nguyên liệu đầu vào như bông tơ tằm đay phục vụ sản xuất của ngành. Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu là vùng cung cấp nguyên liệu đạt chất lượng cao và điều kiện giao thông thuận lợi. Tuy vậy vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về 17
  18. nguyên liệu cho Dệt May trên địa bàn. Do đó ngành phải nhập từ các tỉnh khác như bông ở Đồng Nai, Đắc Lắc; tơ ở Lâm Đồng và một số nước bên ngoài như Trung Quốc, Thái Lan b.Nhân tố xã hội: bao gồm các yếu tố như: Yếu tố dân cư: dân cư và cơ cấu dân cư ảnh hưởng rất quan trọng trong ngành dệt may. Với số lượng dân cư dồi dào sẽ góp phần thúc đẩy nguồn nhân lực phát triển. Dân số tăng lên nhu cầu về hàng Dệt May cũng tăng lên. Do đó ngành Dệt May phải phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu để đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng và giải quyêt việc làm. Cơ cấu dân cư được chia làm ba loại: cơ cấu dân cư theo độ tuổi, theo nhóm tuổi, theo vùng. Căn cứ vào đó ngành có định hướng phát triển về sản phẩm phù hợp cho từng đối tượng khác nhau. Yếu tố thị trường: Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh quyết liệt, chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngành. Nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của thị trường đòi hỏi ngành phải vươn lên và nhờ đó Công nghiệp Dệt May phát triển có hiệu quả. Không có thị trường tiêu thụ thì ngành không thể thu hồi vốn chứ chưa nói đến tái sản xuất mở rộng, dẫn đến phải thu hẹp sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng không thể phát triển được. Mở rộng thị trường là vừa tăng thêm thị phần vừa học hỏi được kinh nghiệm trong sản xuất và chuyển giao công nghệ hiện đại và từ đó làm tăng khẳ năng sản xuất và cung cấp của ngành Dệt May. Trong xã hội ngày nay nhu cầu “ăn ngon mặc đẹp” ngày càng thể hiện rõ đặc biệt là giới trẻ, đây cũng là một thị trường tiêu thụ hàng Dệt May rất lớn. Ngoài ra, do lợi thế về giá lao động thấp nên nếu ngành Dệt May được đầu tư thích đáng thì sản phẩm Dệt May Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Yếu tố truyền thống: Văn hoá lịch sử truyền thống, phong tục tập quán, con người ảnh hưởng trực tiếp đến cách sống, cách ăn mặc, phương thức sản xuất của ngành. Dệt May là một ngành truyền thống đã phát triển từ rất lâu đời. Qua thời gian đúc kết kinh nghiệm và đầu tư phát triển nó đã trở thành 18
  19. một ngành công nghiệp độc lập và rất có thế mạnh. Hà Nội có văn hoá truyền thống lâu đời về Dệt May, con người Hà Nội cần cù sáng tạo, năng động nhanh nhạy trong việc học hỏi nắm bắt cái mới là những nhân tố thuận lợi cho phát triển ngành Dệt May. c. Nhân tố nguồn lực: Yếu tố nguồn lực là yếu tố chính của bất kỳ hoạt động sản xuất nào. Trong hoạt động sản xuất của ngành Dệt May nhân tố nguồn lực bao gồm các yếu tố chủ yếu sau: máy móc thiết bị công nghệ, lao động và vốn. Yếu tố thiết bị công nghệ: công nghệ là yếu tố cơ bản đảm bảo cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả cao. Máy móc thiết bị công nghệ làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm; giảm chi phí sản xuất từ đó làm giảm giá thành sản phẩm Máy móc thiết bị của ngành Dệt May là máy dệt thoi, dệt kim tròn, dệt kim đan dọc, máy in nhuộm sản phẩm, máy may từ đơn giản đến phức tạp. Nếu máy móc thiết bị hiện đại phù hợp với trình độ của người sử dụng thì máy được sử dụng hết công suất, sản phẩm làm ra vừa có chất lượng cao, mẫu mã phong phú được thị trường chấp nhận. Yếu tố nguồn nhân lực: đây là một trong những yếu tố chính của hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong ngành Dệt May. Nó được biểu hiện trên hai mặt là số lượng và chất lượng. Về số lượng là những người trong độ tuổi lao động và thời gian của họ có thể huy động vào làm việc. Về mặt chất được thể hiện ở trình độ khéo léo của công nhân, trình độ quản lý Ngành Dệt May có đặc trưng là sử dụng nhiều lao động, quy trình nhiều công đoạn thủ công. Vì thế lao động là yếu tố quan trọng trong ngành. Nguồn nhân lực dồi dào với giá rẻ là một lợi thế so sánh của ngành Dệt May Việt Nam. Nhưng lao động cũng phải đạt đến một trình độ nhất định, có trình độ chuyên môn cao, sáng tạo, nhanh nhạy với cái mới thì mới thực sự trở thành lợi thế của ngành, ngược lại người lao động kém năng động, kém khéo léo thì kìm hãm sự phát triển của ngành. 19
  20. Yếu tố vốn: Nếu lao động và công nghệ được coi là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thì vốn sản xuất vừa được coi là yếu tố đầu vào, vừa được coi là sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Vốn đầu tư có vai trò quan trọng đến sự phát triển của ngành.Tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất từ đó tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập của người lao động có ý nghĩa quan trọng trong tình hình hiện nay của nước ta. Để Dệt May phát triển trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn thì phải cần vốn đầu tư cải tạo, nâng cấp, đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ, nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, cạnh tranh được trên thị trường. Hà Nội là hạt nhân nằm trong vùng công nghiệp phía Bắc có nhiều tiềm năng phát triển, nằm trong khu vực kinh tế sôi động nhất (vùng Đông á và Đông Bắc á). Tình hình chính trị kinh tế-xã hội ổn định, mối quan hệ nhiều mặt đang được cải thiện trong khu vực và trên thế giới nên có điều kiện khai thác khả năng về vốn trong và ngoài nước, thuận lợi trong việc chuyền giao công nghệ từ nước ngoài vào hoặc các vùng trong cả nước, thu hút được đầu tư nước ngoài phát triển ngành Dệt May trong tương lai. 2. Nhóm nhân tố chủ quan Bên cạnh các nhân tố khách quan, các nhân tố chủ quan cũng ảnh hưởng đến sự đan xen đến sự phát triển của ngành. Các nhân tố chủ quan như đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong từng thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển của ngành. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước là nhân tố mang tính chủ quan của chủ thể quản lý cấp vĩ mô như: chính sách thuế, chính sách về giá, chính sách về xuất nhập khẩu, hạn ngạch, chính sách về đầu tư Nếu Nhà 20
  21. nước có sự can thiệp vừa phải tới ngành, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, môi trường chính trị ổn định sẽ giúp ngành có điều kiện phát triển. Trái lại sự can thiệp quá sâu của Nhà nước sẽ kìm hãm sự phát triển của ngành. Thêm vào đó những định hướng phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, của vùng, của địa phương cũng ảnh hưởng đến quy hoạch tổng thể phát triển ngành Dệt May trên cả nước, từng khu vực, từng địa phương. Dưới sự quản lý của các cơ quan đoàn thể Trung Ương và địa phương, ngành Dệt May Hà Nội chịu sự tác động của các chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của thành phố Hà Nội. Tóm lại, Hà Nội thực sự là trung tâm giao dịch của cả nước, là trung tâm giao lưu quốc tế quan trọng. Dệt May Hà Nội có điều kiện thúc đẩy ngành kinh tế ngược chiều, xuôi chiều và gián tiếp phát triển. Hà Nội là hạt nhân của vùng công nghiệp phía Băc, trung tâm đầu não khoa học kỹ thuật, có đủ các điều kiện cho sự phát triển của công nghiệp Dệt May Hà Nội. Cơ sở hạ tầng tương đối tốt, Hà Nội có khả năng thu hút vốn trong và nước ngoài. Hà Nội có truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời, người dân gắn bó với nghề kéo tơ dệt vải, tạo ra đặc thù riêng biệt mà ít đô thị trên thế giới có được. Yếu tố quan trọng là Hà Nội có nền tảng chính trị ổn định, chính sách đối ngoại mở cửa linh hoạt, quan hệ kinh tế đối ngoại trong những năm qua có nhiều cải thiện tích cực. Hà Nội có quỹ đất cho phát triển các Khu công nghiệp và mở rộng quy mô sản xuất trong ngành. Những nhân tố trên là tác nhân ảnh hưởng đến định hướng phát triển của công nghiệp Dệt May Hà Nội. Nghiên cứu về sự tác động của nhân tố chủ quan và khách quan cho thấy những tiềm năng lợi thế và cơ sở cho đầu tư phát triển công nghiệp Dệt May trong thời gian tới. 21
  22. IV. những xu hướng và kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp Dệt May trên thế giới 1.Xu hướng phát triển ngành công nghiệp Dệt May trên thế giới Biểu 2: Một số chỉ tiêu kinh tế Dệt May thế giới Lượng lao động Dệt Tiêu dùng GDP/người Các nước May (USD/Giờ) (kg/Người) (USD/người) 1 Việt Nam 0,18 0,8 220 2 Thái Lan 0,87 3,0 2315 3 Philipin 0,67 1,8 1010 4 Inđônêxia 0,23 1,9 780 5 Malaixia 0,95 6,5 3530 6 Singapore 3,16 29 22,52 7 Đài Loan 5 11236 8 Trung Quốc 0,34 5,7 435 9 Hồng Kông 3,39 12,8 21,558 10 ấn Độ 0,54 2,5 310 11 Hàn Quốc 3,6 14 8520 12 Nhật 16,37 20 38750 13 Mỹ 10,33 27 25900 14 Anh 10,16 18,5 16600 15 Pháp 12,63 25 24150 Bình quân toàn thế giới 7,2 22
  23. (Nguồn: Bản tin công nghiệp Dệt- số 113/1993) Từ lâu trên thế giới ngành công nghiệp Dệt May được hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản, vì ngành thu hút nhiều lao động với kỹ năng không quá cao, vốn đầu tư ban đầu không quá lớn, có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Do vậy trong quá trình công nghiệp hoá tư bản từ rất sớm ở các nước tư bản như Anh, Italia, Pháp và cho đến nay các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngành Dệt May đều có vị trí quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá của họ. Biểu 3: Trả lương theo lao động (Đơn vị: USD/năm) Việt Trung Hàn Đài Năm Inđônêsia Malaixia Singapore Nam Quốc Quốc Loan 1992 210 720 2970 8730 10380 8610 1993 340 740 3100 9590 10710 8820 1994 370 420 760 3440 10550 10960 9990 1995 450 500 930 3810 12930 11620 11190 1996 550 540 940 3990 1270 11460 11430 1997 650 550 890 3840 11230 11120 10890 1998 690 570 330 2870 7820 10260 10210 Nguồn: Tổng quan về cạnh tranh Công nghiệp Việt Năm năm 1999 23
  24. Biểu 4: Giá trị gia tăng theo lao động (Giá so sánh- USD) Việt Trung Hàn Đài Năm Inđônêsia Malaixia Singapore Nam Quốc Quốc Loan 1992 520 1400 3000 6800 24100 21600 14060 1993 870 2260 3600 7260 27090 22300 13960 1994 990 1580 4600 8750 29900 20000 14840 1995 1380 1490 3900 9890 37870 20300 16230 1996 1720 1490 4000 10450 37210 22500 16270 1997 1720 1650 3700 10700 33160 22900 16190 1998 1770 1760 1100 7980 20510 21100 15560 Nguồn: Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam 1999 Nhìn vào các bảng biểu cho thấycác nước công nghiệp phát triển: Nhật, Anh, Mỹ có giá trị nhân công lao động cao còn những nước đang phát triển như Việt Nam, ấn độ có giá trị nhân công lao động rất thấp. Trên thế giới đang có xu hướng phát triển ngành công nghiệp Dệt May như sau: Chuyển ngành công nghiệp Dệt May sang các nước đang phát triển có giá lao động thấp. Trước đây, ngành công nghiệp Dệt May gắn liền với công nghiệp hoá chất và chế tạo máy. Vì thế mà công nghiệp Dệt May chỉ phát triển được ở các nước công nghiệp phát triển. Đến thập kỷ 60 thu nhập của người lao động đã tăng lên rất cao, công nghiệp Dệt May đã đạt đến trình độ tự động hoá. Sang đầu thập kỷ 70 ngành Dệt May các nước này dừng lại do phát hiện ra được kho nhân lực vô tận và rẻ mạt tại một số nước, nhất là vùng Đông Nam á. Hơn nữa đầu tư vào ngành Dệt May không cần nhiều vốn, thu 24
  25. lãi lại nhanh, do đó có sự dịch chuyển ngành Dệt May sang các nước NICs. Đến thập kỷ 70 một số nước NICs đã vượt trong danh sách 5 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Sang thập kỷ 80 các nước NICS đã trở nên lớn mạnh về ngành Dệt May, có gía trị kim ngạch xuất khẩu lớn. Các nước này đã dùng Công nghiệp Dệt May làm đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Những nước đang phát triển là những nước có thu nhập bình quân đầu người thấp, cần giải quyết các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống trong đó có nhu cầu ăn mặc. Xu hướng chuyển dịch như vậy là một tất yếu khách quan. Ngày nay các nước NICs Châu á như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo cũng đang chuyển sản xuất ngành Dệt May sang các nước có lao động dồi dào và mức lương thấp hơn như ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Inđônêxia Như vậy đây cũng là một cơ hội tốt cho Việt Nam và cho thủ đô Hà Nội nói riêng. Phân công lao động và chuyên môn hoá ngành Dệt và May tuỳ thuộc vào thực lực của từng quốc gia. Những quốc qia không có lợi thế cơ bản về nguồn nguyên liệu thô cung cấp cho đầu vào sẽ chuyên môn hóa theo hình thức “ mua đứt bán đoạn”, tức là mua nguyên liệu từ bên ngoài về tiến hành sản xuất và bán sản phẩm về ngành Dệt ( bao gồm kéo sợi, dệt thoi, dệt kim). Những quốc gia có giá lao động rẻ, có máy móc thiết bị tương đối hiện đại, trình độ tay nghề khéo léo sẽ chuyên môn hóa ngành May theo hình thức may xuất khẩu, may gia công. Như vậy thông qua tìm hiểu về xu thế phát triển của Công nghiệp Dệt May của thế giới cho thấy những thuận lợi cũng như thách thức để có thể nhanh chóng phát triển ngành Dệt May cả nước và ở Hà Nội. Ngành Dệt May cần phải được đầu tư thích đáng, chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước. 25
  26. 2. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới a. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc là nước rất phát triển về ngành Dệt May, và được coi là ngành nghề truyền thống. Qua tìm hiểu về ngành Dệt May Trung Quốc có thể đưa ra những bài học kinh nghiệm cho phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam và Hà Nội như sau: - Phát triển công nghiệp Dệt May xuất phát từ lợi thế của mình về nguồn nhân lực, nguồn nguyên liệu, nguồn vốn đầu tư, thiết bị công nghệ để lựa chọn hình thức tự sản xuất, gia công hay liên doanh của từng vùng từng địa phương. - Từng bước hiện đại hóa máy móc, trang thiết bị công nghệ tại các trung tâm công nghiệp. Đồng thời chuyển giao, thải loại thanh lý các công nghệ cũ lạc hậu còn sử dụng được cho các vùng có trình độ công nghệ yếu kém. Chuyển giao công nghệ từ thành phần kinh tế quốc doanh sang thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Sử dụng đồng thời cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại để giải quyết và thu hút lao động có trình độ từ đơn giản đến phức tạp. - Phát triển các doanh nghiệp Dệt May với nhiều thành phần: quốc doanh, ngoài quốc doanh, liên doanh, liên kết, 100% vốn nước ngoài. Nhưng trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới Trung Quốc sẽ phát triển ngành Dệt May của thành phần quốc doanh. Đây là thành phần có lợi thế hơn về xuất khẩu do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Để phát triển khu vực này Trung Quốc đã thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: + Đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp Nhà nước. Với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì tổ chức sát nhập liên kết để phát huy sức mạnh tổng hợp. Nhữ ng doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn thì tiến hành ký kết hợp đồng gia công sản phẩm với đối tác bên ngoài. 26
  27. + Tổ chức hoạt động theo hình thức “ công ty mẹ, công ty con”. Công ty mẹ là những công ty có uy tín trên thị trường, sản phẩm được thị trường trong và nước ngoài tín nhiệm về chất lượng, chủng loại, tính thẩm mỹ cao. Công ty mẹ đứng ra ký kết hợp đồng kinh tế, sau đó hợp đồng được phân nhỏ cho các công ty con hay cho những công ty thành viên thực hiện. Bên cạnh đó trong thời gian gần đây, khi nắm bắt được xu thế doanh nghiệp thế giới, Trung Quốc đã đầu tư xây dựng thêm các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn thu hút và giải quyết việc làm tại các khu trung tâm thành phố như: Bắc Kinh, Thượng Hải Trung Quốc có chiến lược phát triển đa dạng hoá sản phẩm, đầu tư máy móc thiết bị công nghệ nâng cao chất lượng hạ gía thành sản phẩm, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao, trình độ quản lý vững vàng để phát triển ngành Dệt May. Yếu tố Trung Quốc Công nghiệp Dệt May Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam như nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công thấp Nhưng chính Trung Quốc là một thách thức lớn đối với Công nghiệp Dệt May Việt Nam . ấn tượng rõ rệt thấy được ở Việt Nam là ngành Dệt May Trung Quốc đang tạo ra cách thức cạnh tranh chính cho các doanh nghiệp Việt Nam. Theo thống kê thương mại, rõ ràng Trung Quốc là nước xuất khẩu sản phẩm Dệt May chính ở Đông á. Hàng xuất khẩu của nước này vượt xa hàng Việt Nam, thậm chí xuất khẩu hàng Dệt May trên đầu người của Trung Quốc cũng cao hơn. Việc buôn lậu hàng Trung Quốc vào Việt Nam tràn lan và chiến dịch chống buôn lậu cũng không thành công. Sự cạnh tranh liên quan tới Trung Quốc ở một khía cạnh nào đó là một nhân tố tích cực khích lệ sự cố gắng của Việt Nam phát triển một ngành Công nghiệp Dệt May hiệu quả mang tính quốc tế. Nhưng thực tế không theo ý muốn bởi vì hậu quả lại là sự thâm hụt thu nhập quốc gia, mặc dù người tiêu dùng được lợi khi họ mua được rẻ hơn. Chính phủ cố gắng ngăn cấm cũng 27
  28. không hiệu quả vì Việt Nam có đường bờ biển quốc tế dài và mặt hành chính yếu kém của các cơ quan hải quan. Thách thức của Trung Quốc đối với Dệt May Việt Nam là rất lớn. Vấn đề đối với Trung Quốc chính là ở chỗ phải làm sao nganh sức được với họ chứ không phải làm ngơ trước tính cạng tranh của họ. Việt Nam cần phải có những chiến lược phát triển lâu dài, các doanh nghiệp phải tự mình vươn lên để tự khẳng định mình. Một số điểm cần so sánh Trung quốc với Việt Nam Một là Trung Quốc có quá trình công nghiệp hoá lâu đời hơn so với Việt Nam và họ bắt đầu quá trình xuất khẩu công nghiệp ít nhất là trước Việt Nam một thập kỷ. Hai là: hạn ngạch xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho Trung Quốc. Ba là: Trung Quốc được hưởng những ưu thế đặc biệt do sự có mặt của Hồng Kông và Đài Loan và hai lãnh thổ này bị mất ưu thế tương đối trong các ngành đó. Tất nhiên Việt Nam không thể giống Hồng Kông nhưng có bài học về chiến lực phát triển: Việt Nam năm kề cận với Hồng Kông và Đài Loan có thuận lợi hơn so với nước khác về góc độ thương mại với vị trí địa lý này. Một điểm nữa có lẽ là bài học chính, là Việt Nam có khả năng thu hút kinh nghiệm quốc tế trong khu vực bằng việc tạo môi trường thương mại thuận lợi . Điều đó sẽ kéo theo một cuộc cải tổ để đạt được hiệu quả cao hơn và hệ thống cơ sở hạ tầng hấp dẫn với các thiết bị có chi phí cạnh tranh và một mạng lưới chính sách rõ ràng đơn giản. Bốn là: Trung Quốc so với Việt Nam được hưởng ưu thế so qua sự phá giá lớn năm 1994 cùng với tỷ lệ lạm phát nhỏ , giảm đáng kể tiêu dùng trong nước so với giá quốc tế. Cuối cùng có lẽ là chi phí kinh doanh ở Trung Quốc thấp hơn. Mức lương trung bình của các ngành Trung Quốc hiện nay thấp hơn Việt Nam. Mặt khác mức tiêu dùng và mức thuế hầu như thấp hơn ở Việt Nam. Ngoài ra các doanh 28
  29. nghiệp Trung Quốc (đặc biệt là doanh nghiệp Hương Trấn) có thể hoạt động trong môi trường tự do hơn, ít bị hạn chế hơn so với Việt Nam. Nhiều ý kiến cho rằng Trung Quốc có ưu thế cạnh tranh hàng may mặc là do nước này có nền công nghiệp Dệt đồng bộ, vì vậy các nhà xuất khẩu may mặc có thể tìm nguồn nguyên liệu vải trong nước. Rõ ràng nguồn cung cấp trong nước là thuận lợi lớn, nhân tố nay quan trọng. Trong thực tế nghiên cứu mới đây về nền công nghiệp Trung Quốc cho thấy rằng có một vấn đề tìm thấy ở Việt Nam là một ngành công nghiệp May đầy cạnh tranh đứng cạnh một ngành Dệt kém hiệu quả cũng xuất hiện ở Trung Quốc với một mức độ nào đó. Từ những nghiên cứu trên về ngành Dệt May Trung Quốc, chúng ta có thể đúc kết được những kinh nghiệm làm bài học bổ ích cho hướng phát triển ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam và thành phố Hà Nội. b. Kinh nghiệm của các nước NICs Đông á (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore) Vào cuối những năm 80 các nước này đã có lượng hàng Dệt May xuất khẩu rất lớn, chủ yếu sang các nước công nghiệp phát triển. Có thể nói đây là những nước có thế mạnh về mặt hàng này và dẫn đầu về mặt hàng này, giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhưng đang chững lại và có hướng suy giảm. Trong thời gian tới sẽ có xu hướng dịch chuyển sang các nước đang phát triển như Việt Nam, thay thế vào đó là các ngành công nghiệp kỹ thuật cao như điện tử, linh kiện máy móc, công nghệ sạch Với những thành tựu đạt được đầu những năm 90 trở về trước Công nghiệp Dệt May ở các nước này cho nước ta những kinh nghiệm sau: - Phát triển chiều sâu, tăng cường máy móc thiết bị hiện đại nâng cao chất lượng các sản phẩm cao cấp. Tổ chức các viện nghiên cứu thời trang và mẫu mốt. Các viện mẫu thời trang chỉ đóng vai trò nghiên cứu thiết kế các mẫu sản phẩm. Tiếp đó các mẫu thời trang được đưa vào Catalloge và đưa về cho các 29
  30. doanh nghiệp sản xuất Dệt May có yêu cầu trong từng vùng của cả nước. - Tiến hành chuyên môn hoá ngành Dệt May. Trước hết vào cuối những năm 70, những nước này tiến hành chuyên môn hoá ngành Dệt. Ngành Dệt thoi được đầu tư mạnh mẽ nhất do sản phẩm của ngành chủ yếu là vải thành phẩm cung cấp nguyên liệu cho ngành May và các ngành khác có sử dụng như trang trí nội thất, bao bọc đệm ga gối Đến đầu những năm 80 thì ngành May đã được chuyên môn hoá sâu. Các nước NICs tiến hành chuyên môn hoá sản phẩm của ngành May cho từng khu vực, địa phương và cả nước. Như vậy, từ các kinh nghiêm trên cho thấy ngành Dệt May Việt Nam đang mới chỉ ở giai đoạn đầu của thời kỳ đầu của sự phát triển, là một mảnh đất mầu mỡ chưa được khai phá hết. Với xu thế chuyển dịch thuận lợi như trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi phát triển ngành Dệt May Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đạt kết quả khả quan trong thời gian tới. 30
  31. Chương II Thực trạng đầu tư phát triển ngành công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc sở công nghiệp Hà Nội I. Khái quát tình hình phát triển ngành Dệt May quốc doanh thuộc sở công nghiệp hà nội trong những năm gần đây 1. Các đơn vị Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, việc thực hiện giao nộp sản phẩm đã làm cho ngành Công nghiệp Dệt May kém phát triển. Các doanh nghiệp thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh từ trên xuống theo từng năm, sản phẩm sản xuất ra chỉ đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, do đó việc kinh doanh sản phẩm Dệt May rất yếu kém khi có sự thay đổi môi trường kinh doanh. Trong quá trình đổi mới kinh tế đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ. Do đó ngành Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội (gọi tắt là Dệt May Hà Nội) ngày càng có vai trò quan trọng. Các doanh nghiệp Dệt May Hà Nội được quyền lựa chọn sản xuất kinh doanh các mặt hàng mà Nhà nước cho phép mà doanh nghiệp có khả năng. Các doanh nghiệp thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội bao gồm 8 doanh nghiệp dệt và 2 doanh nghiệp may trong đó có công ty dệt 10/10 là công ty cổ phần. Các doanh nghiệp này cung cấp các sản phẩm chủ yếu như: vải khổ rộng, quần áo dệt kim, vải bạt bít tất, khăn bông, áo len, áo sơ mi Nhìn chung, mạng lưới sản xuất hoạt động rời rạc, manh núm và tự phát, chưa có sự liên kết giữa các doanh nghiệp các bộ phận với nhau trong mạng 31
  32. lưới. Chính vì những hạn chế phát sinh đó liên quan đến vấn đề thị trường, cập nhật thông tin, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, thiếu hẳn một tầm nhìn chiến lược, thiếu sự cân nhắc đến lợi ích chung, và chưa tạo được môi trường đồng bộ cho sự vận động trên phương diện toàn ngành. 2. Thực trạng về thiết bị và công nghệ của ngành công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội. Máy móc thiết bị ngành Dệt May rất lạc hậu, đặc biệt là ngành Dệt, rất ít máy móc đủ chất lượng sản xuất, nhiều máy móc cần phải sửa chữa và thay thế. Thực trạng về thiết bị công nghệ kéo sợi - Về thiết bị Toàn ngành vào những thập kỷ 80, tình hình máy móc thiết bị công nghệ còn rất lạc hậu, trải qua nhiều biến đổi và sự cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường, dần dần một số thiết bị đã quá lạc hậu, cũ kỹ, sản xuất ra sợi có chất lượng kém, không có khả năng tiêu thụ trên thị trường, buộc các công ty trong ngành phải thanh lý, thải loại hoặc tự cải tạo nâng cấp - Về công nghệ Công nghệ kéo sợi của ngành vẫn ở tình trạng lạc hậu mức tự động hoá còn rất thấp, công nghệ kéo sợi chảy thô chiếm phần lớn, sản xuất các loại vải sợi chỉ số thấp. Sợi chải kỹ chỉ có 3% sản lượng, công nghệ kéo sợi pha PE không vượt quá 16% trong suốt cả thập kỷ 80. Đại bộ phận là máy dệt thoi khổ hẹp chỉ có thể sản xuất được loại vải khổ hẹp chất lượng thấp. Bước vào kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đã đầu tư một số dây truyền mới, sử dụng công nghệ bông chải liên hợp tự động cao, sử dụng máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng rộng rãi các kỹ thuật 32
  33. tiến bộ về vi mạch điện tử vào hệ thống điều kiển tự động và khống chế chất lượng sợi để có sản phẩm sợi đạt chất lượng cao. Thực trạng về công nghệ thiết bị dệt kim Chất lượng trong ngành may được đánh giá là hiện đại hơn, vì đây là ngành sử dụng nhiều lao động. Trước năm 1986, toàn bộ máy Dệt máy may ở Hà Nội là của Trung Quốc, Tiệp Khắc và Đông Đức cũ. Trong những năm gần đây, phần lớn thiết bị đã thanh lý hoặc chuyển giao cho các doanh nghiệp của Nhà nước địa phương, các hợp tác xã, tổ sản xuất Sau năm 1986, một số thiết bị công nghệ được đầu tư mới. Máy dệt kim chủ yếu nhập từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đều thuộc thế hệ mới, trong đó nhiều chủng loại đã được trang bị máy vi tính nên đã đạt được năng suất, chất lượng cao, tính năng sử dụng rộng, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng, nên mới chỉ đạt 30% số máy phù hợp, số còn lại thuộc thế hệ cũ lạc hậu. Chất lượng sợi trong nội địa chất lượng thấp, không đủ tiêu chuẩn để làm ra sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao, đặc biệt là sợi cottông chải kỹ chất lượng cao. Do đó phần lớn các doanh nghiệp đầu tư mới trong giai đoạn này đều lựa chọn phương án sản phẩm dệt kim từ sợi PE/Co- do ổn định được kích thước vải trên máy định hình. Máy dệt kim đan dọc. Cho mãi tới năm 1994 một số máy dệt kim đan dọc mới được đầu tư bổ xung. Tuy nhiên mặt hàng của máy mới nhập cũng chỉ là màn Tuyn, vải valide (của công ty dệt 10/10, công ty dệt Minh Khai, công ty dệt Hà Nội ) trong khi mặt hàng của nhóm máy này là vải trang trí, thảm vải bọc đệm ô tô, vải xây dựng, lưới thì chưa được quan tâm. Biểu 5 dưới đây cho thấy số, nếu chưa xét đến chất lượng của máy móc, chỉ xét về số lượng thì năng lực của ngành công nghiệp Dệt May quốc doanh còn quá nhỏ bé. Với thực trạng này thì ngành Dệt May không thể trở thành một ngành có năng lực cạnh tranh cao trong thị trường trong nước cũng như 33
  34. nước ngoài. Trong xu hướng hội nhập như hiện nay thì ngành cần thiết phải được đầu tư thoả đáng với tiềm năng phát triển của ngành. Biểu 5: Một số thiết bị công nghệ dệt kim (Đơn vị: chiếc) Máy dệt Máy Máy dệt kim Máy dệt Máy dệt Tên công ty kim tròn dệt đan dọc (màn bít tất đan len dệt vải cổ áo tuyn, màn) DK Hà Nội 43 27 DK Thăng Long 33 4 Mùa Đông 447 Dệt 10/10 21 Dệt Minh Khai 17 Tổng số 228 43 38 285 447 Nguồn: Sở Công nghiệp Hà Nội Thực trạng về công nghệ thiết bị in nhuộm Tình hình thiết bị máy móc công nghệ in nhuộm ở các nhà máy tuyệt đại đa số là thiết bị của Trung Quốc, tất cả đều là thiết bị cổ điển, lạc hậu khổ hẹp, gia công vải 100 % cottong. Từ năm 1986 đến nay là thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường nên các doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu, nâng cao chất lượng và sản xuất nhiều mặt hàng phong phú. Điểm nổi bật trong thời kỳ này là các nhà máy đã đạt được trình độ in nhuộm vượt bậc so với cũ do đã đầu tư đổi mới, xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại. Trong sản xuất có nhiều máy tối tân như các máy nhuộm cao cấp, chống co, chống nhàu, cào lông, láng cán nên đã sản xuất được nhiều mặt hàng in nhuộm vải PE/Co, Petex và sử lý sau khi đã hoàn tất mà trước kia không làm được. 34
  35. Đối với ngành in nhuộm, chất lượng sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào máy móc thiết bị mà còn phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ như: hóa chất , thuốc nhuộm, quy trình công nghệ Không có máy móc tốt thì không có sản phẩm tốt , nhưng không có công nghệ cao thì không có vải in nhuộm tốt được. Có thể nói máy móc tốt chỉ chiếm 50% còn công nghệ và bí quyết nghề in nhuộm chiếm tới 50% nữa trong chất lượng sản phẩm. Tại Hà Nội, các thiết bị và công nghệ in nhuộm và hoàn tất chủ yếu nằm ở các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và địa phương, và hầu như 100% phải nhập ngoại. Các thiết bị đầu tư trong giai đoạn 1959 – 1969 đã qua 40 năm sử dụng, đến nay chỉ còn dùng để gia công một số mặt hàng thông thường, cấp thấp và cần phải thay thế từ nay đến năm 2010. Các loại thiết bị đầu tư trong giai đoạn 1970 – 1985 hầu hết vẫn đang sử dụng nhưng đã qua 30 năm sản xuất trong điều kiện thiếu phụ tùng thay thế nên cũng đã xuống cấp nghiêm trọng, cần được khôi phục, hiện đại hóa thay thế các máy có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Loại thiết bị đầu tư sau năm 1986 đến nay đều thuộc thế hệ A2, A3 còn tốt, sử dụng ổn định đến năm 2010. Thực trạng thiết bị công nghệ may Thủa sơ khai ngành công nghiệp may toàn quốc nói chung và công nghiệp may Hà Nội nói riêng tổ chức may dây truyền bằng các may may đạp chân, dần thay thế bằng các máy may công nghiệp của Trung Quốc, Liên Xô, CHLB Đức đồng thời bổ xung máy Nhật để đáp ứng yêu cầu chất lượng của thị trường trong và nước ngoài. 3. Tình hình về vốn của ngành công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội Từ khi chuyển sang cơ chế mới, doanh nghiệp phải tự bươn trải trên thị trường, giữa lúc đứng giữa tồn tại và gục ngã trên thị trường thì bài toán về vốn đầu tư chính là phương thức doanh nghiệp khẳng định vị trí của mình. Trước năm 1986, công tác đầu tư không được quan tâm gì đến thì đến những năm đầu thập kỷ 90 đầu tư mới được chú trọng. Kết quả quan trọng của vốn 35
  36. đó là tăng đầu tư phát triển, mở rộng năng lực sản xuất. Để tồn tại trên thị trường, cách lựa chọn duy nhất của các doanh nghiệp Dệt May Hà Nội là phải đầu tư cải tạo, đổi mới thiết bị cũ kỹ, lạc hậu. Ngành Dệt May đã được đầu tư cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. II. Thực trạng đầu tư phát triển ngành công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc sở công nghiệp hà nội trong những năm gần đây 1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển ngành Dệt May Thực trạng cho thấy ngành dệt và ngành may là những ngành có rất nhiều điều kiện và cơ hội phát triển nhưng chưa được đầu tư đúng mức nên còn nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây, nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng của ngành dệt may đối với phát triển của kinh tế Hà Nội cũng như cả nước nên ngành đã được chú trọng đầu tư phát triển. Tình hình đầu tư cho ngành được thể hiện trong bảng sau đây: Biểu 6: tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển ngành Dệt May (Đơn vị:Triệu đồng) Năm Tổng Tỷ May Tỷ Dệt Tỷ VĐT trọng trọng trọng 1996 16008 100% 1273 12,95% 13935 87,05% 1997 19900 100% 4890 24,57% 15010 75,43% 1998 23833 100% 5075 21,29% 18758 78,71% 1999 24200 100% 4727 20% 19473 80% 2000 45130 100% 13749 26,41% 38320 73,59% 36
  37. VĐT 5 129071 100% 29714 23,02% 105496 76,98% năm Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội Trong năm 1996 tổng vốn đầu tư cho toàn ngành là 16 tỷ đồng thì sang năm 1998 tổng vốn đầu tư tăng gấp 1,5 lần. Đến năm 2000 thì vốn đầu tư đã tăng rất cao 45 tỷ đồng, tăng gấp hơn 2,8 lần. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm là 129 tỷ đồng, chiếm 16,07% tổng vốn đầu tư cho các doanh nghiệp thuộc Sở Công nghiệp, đứng thứ hai sau ngành cơ kim khí (48,77%) và lớn hơn cả ngành giầy da. Vốn đầu tư cho ngành dệt qua các năm chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng vốn đầu tư cho toàn ngành. Ngành dệt vốn là một ngành rất yếu kém và lạc hậu về thiết bị và công nghệ và không có khả năng sản xuất ra các sản phẩm đạt chất lượng tốt phục vụ cho ngành may, ngành dệt chủ yếu sản xuất ra các sản phẩm như khăn bông các loại, áo len, bít tất, sản phẩm dệt bạt các loại, sản phẩm vải sản xuất ra chỉ tiêu thụ được trong nước không thể xuất khẩu. Vì sự yéu kém đó nên ngành dệt là ngành cần nhiều vốn đầu tư phát triển, trong suốt 5 năm qua ngành dệt luôn là ngành có tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư. Trong năm 1996 tỷ trọng này là 1287,05% cao nhất trong 5 năm qua; và các năm sau tỷ trọng này luôn cao và ở mức khoảng 78%. Ngành may là ngành có khá hơn so với ngành dệt vì ngành may là ngành sử dụng nhiều nhân công, vốn đầu tư cho ngành may không cần lớn như ngành dệt. Các sản phẩm may cung cấp cho thị trường chủ yếu là của hai công ty may là công ty may 40 và công ty may Thăng Long. Các công ty dệt khác sản phẩm may không phải là sản phẩm chủ yếu. Trong các công ty dệt, công ty Phương Nam và công ty dệt Minh Khai là có hoạt động may với số lượng lớn hơn các công ty khác, nhưng nhìn chung, sản phẩm may của các công ty là không đáng kể. Công ty Phương Nam chủ yếu là may gia công xuất khẩu cho nước ngoài, trong những năm gần đây chủ yếu là may gia công cho Hàn Quốc. Năm 1996, ngành may chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư của ngành: 12,95%. Đến năm 1998 tỷ trọng này là 21,29%; năm 1999 là 20%; năm 2000 37
  38. là 26,41%. Giai đoạn 1996-2000 ngành đã có một số dự án lớn như: đầu tư thiết bị dệt kiếm của công ty dệt Minh Khai, dự án đầu tư dây truyền kéo sợi của công ty dệt len Mùa Đông, dự án đầu tư thiết bị chuyên dùng hiện đại (giác mẫu, trải cắt vải ) của công ty may 40 đã đạt được những thành công. Các doanh nghiệp đã có những kinh nghiệm trong việc lập dự án, tìm nguồn vay vốn đầu tư, tổ chức đấu thầu giải ngân, để triển khai nhanh , các dự án đưa công trình đầu tư vào khai thác, không lỡ đầu tư để đạt hiệu quả cao sau đầu tư: - Kinh nghiệm về tìm nguồn vốn thích hợp, triển khai nhanh dự án đầu tư, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của đơn vị (công ty dệt 19/5 ) -Kinh nghiệm về chuyển đổi dự án sản xuất kinh doanh, thực hiện dự án đầu tư mới nhằm đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đẩy nhanh mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp (công ty Tô Châu ) - Kinh nghiệm về tổ chức thực hiện đấu thầu để quyết định phương án mua sắm thiết bị và đầu tư xây lắp nhà xưởng tối ưu nhất (công ty dệt 19/5, công ty may 40 ) Kinh nghiệp về lựa chọn thiết bị công nghệ để đầu tư nhằm đáp ứng xu thế hội nhập khu vực và toàn cầu (công ty dệt Minh Khai ) 2. Vốn và cơ cấu kỹ thuật của vốn Trong tổng vốn đầu tư luôn có ba phần: phần cho mua sắm máy móc thiết bị, phần cho xây lắp và một phần cho xây dựng cơ bản. Vốn cho mua sắm máy móc thiết bị và xây lắp là vốn liên quan trực tiếp đến chất lượng công trình, còn vốn kiến thiết cơ bản khác không liên quan trực tiếp đến công trình nhưng nó có một vai trò quan trọng không thể thiếu được trong quá trình đầu tư. Ngành Dệt May là ngành còn rất yếu kém về công nghệ và thiết bị vì thế trong những năm qua, ngành Dệt May chủ yếu đầu tư thay thế các máy móc thiết bị đã quá cũ và lạc hậu. 38
  39. Tỷ trọng dành cho mua sắm máy móc thiết bị chiếm khoảng 72% tổng vốn đầu tư của toàn ngành; vốn cho xây lắp chiếm 16,48% và vốn kiến thiết cơ bản khác là 6,42%. Trong năm 1996 tỷ trọng vốn cho mua sắm máy móc thiết bị là 74,8%; năm 1997 là 18,66%; năm 1998 tăng lên tới 79%; năm 1999 là 72,09% và năm 2000 là 75,38%. Nhìn chung vốn thiết bị là rất lớn trong tổng vốn đầu tư của toàn ngành, vốn xây lắp chiếm một tỷ lệ nhỏ và vốn kiến thiết cơ bản khác chỉ có 6,42%. Nhìn vào tỷ lệ này cho thấy, ngành có ít các dự án xây dựng những nhà máy hay những phân xưởng sản xuất mới mà chủ yếu là mua sắm máy móc thiết bị và lắp đặt hay gia cố trên nền bệ. Ngành Dệt May là ngành cần ít vốn đầu tư cho phát triển so với các ngành khác, để xây dựng nhà máy mới chỉ cần khoảng từ 800 000 đến 1 000 000 USD cho một xí nghiệp công suất 1 triệu sản phẩm / năm, mà ngành lại có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Trong 5 năm qua, ngành đã đầu tư phát triển được thể hiện trong bảng tổng kết sau: Biểu 7: Cơ cấu kỹ thuật của vốn Đơn vị: triệu đồng Năm Tổng Mua % Xây lắp Tỷ KTCB % VĐT sắm trọng (100%) MMTB 1996 16008 11973 74,79 2871 17,93 1164 7,27 1997 19900 15654 78,66 2707 13,6 1539 7,73 1998 23833 18828 79 3556 14,92 1449 6,08 1999 24200 17445 72,09 4962 20,5 1793 6,58 2000 45130 34019 75,38 8323 18,44 2788 6,18 VĐT 136010 97919 71.99 22419 16.48 8733 6.42 5 năm 39
  40. Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội 3. Nguồn vốn đầu tư phát triển ngành Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội Vốn tín dụng ưu đãi là vốn do ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp vay với lãi suất ưu đãi hoặc với lãi suất rất thấp để các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Trước đây trong thời kỳ kế hoạch hoá, các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn không có hiệu quả, thua lỗ triền miên. Các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Bước sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không được sự bao cấp của Nhà nước, phải tự tìm kiếm nguồn vốn để tồn tại. Các doanh nghiệp huy động vốn bằng nhiều cách: vay thương mại hay đầu tư bằng nguồn vốn tự có. Nguồn vốn tự có càng lớn thì càng chứng tỏ doanh nghiệp lớn mạnh và hoạt động ngày cáng có hiệu quả. Nhìn chung các doanh nghiệp Dệt May quóc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội đã được cải cách cho phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường như hiện nay, nhò đó đã thúc đẩy ngành Dệt May từng bước được hoàn thiện, điều đó phù hợp Biểu 8: Vốm và cơ cấu Nguồn vốn đầu tư phát triển ngành Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Năm 1996 1997 1998 1999 2000 (96-96)  VĐT (100%) 16008 19900 23833 24200 45130 129071 Vốn TDƯĐ 8930 10262 10516 9311 10700 49719 % vốn TDƯĐ 55.78 51.57 44.12 38.48 23.71 38.52 Vốn vay TM 5336 6833 9916 10250 19430 51765 40
  41. Năm 1996 1997 1998 1999 2000 (96-96) % vốn vay TM 33.33 34.34 41.61 42.36 43.05 40.11 Vốn tự bổ sung 1742 2330 3071 4639 13570 25352 % vốn TBS 10.88 11.71 12.89 19.17 30.07 19.64 Vốn khác 0.00 475 330 0 1430 2235 % Vốn khác 0.00 2.39 1.38 0.00 3.17 1.73 (Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội) Biểu 9: Tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư Đơn vị: % Chỉ tiêu 97/96 98/96 99/96 00/96 Vốn tín dụng ưu đãi 14.92 17.76 4.27 19.82 Vốn vay thương mại 28.05 85.83 92.09 264.13 Vốn tự có 33.75 76.29 166.30 678.99 Vốn khác Tổng vốn đầu tư 24.31 48.88 51.17 181.92 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp dệt may gần như phụ thuộc vào 41
  42. nguồn vốn của Nhà nước cho đầu tư phát triển. Bước sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải tự mình vươn lên. Trong năm 1996, vốn đầu tư phát triển ngành chủ yếu là dựa vào nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước chiếm đến 55,78% tổng vốn đầu tư. Đến năm 1997 vốn tín dụng ưu đãi chỉ còn là 51,57%, năm 1998 là 44,12%; năm 1999 là 38,48%; đến năm 2000 chỉ còn 23,71%. Tuy số vốn tín dụng ưu đãi có tỷ trọng ngày càng giảm nhanh qua các năm nhưng về số tuyệt đối vẫn tăng nhanh. Đến năm 1998 vốn tín dụng ưu đãi tăng gấp hơn 1,1 lần so với năm 1996 và năm 2000 tăng gấp1,2 lần. Đứng thứ hai trong tỷ trọng vốn đầu tư là vốn vay thương mại (các doanh nghiệp vay thương mại của ngân hàng Đầu tư & Phát triển, ngân hàng Công Thương và ngân hàng Ngoại Thương). Năm 1996 vốn vay thương mại là khoảng 5,3 tỷ đồng chiếm 33,33% tổng vốn đầu tư thì đến năm 1998 là 9,9 tỷ đồng chiếm 41,61%; năm 1999 là 10,2 tỷ đồng chiếm 42,36%; năm 2000 là 19,4 tỷ đồng chiếm 43,05%. Như vậy năm 2000, vốn vay thương mại đã tăng nhanh gấp 3,6 lần năm 1996. Số vốn đầu tư bằng nguồn vốn tự bổ sung càng lớn thì càng chứng tỏ sự lớn mạnh của doanh nghiệp. Trong năm 1996, đầu tư bằng nguồn tự bổ xung chiếm tỷ trọng rất nhỏ chỉ có 10,88% trong tổng vốn đầu tư. Nhưng trong suốt ba năm qua, nhờ có chiến lược phát triển doanh nghiệp đúng đắn và mạnh dạn trong đầu tư mà các doanh nghiệp đã đạt được nhiều thành công trong sản xuất kinh doanh. Vốn tự có của doanh nghiệp dành cho đầu tư phát triển ngày càng lớn và tăng rất nhanh qua các năm, tốc độ tăng của vốn tự có tăng nhanh hơn cả tốc độ tăng của vốn vay thương mại. Năm 1997 tỷ trọng của vốn tự có trong tổng vốn đầu tư là 11,71% tăng gấp 1,33 lần năm 1996; năm 1998 chiếm 12,89% trong tổng vốn đầu tư tăng gấp 1,76 lần; năm 1999 chiếm 19,17% tăng gấp 2,7 lần; năm 2000 con số này là 30,34% và tăng gấp 7,7 lần năm 1996. Nguồn vốn khác là nguồn vốn như chuyển quyền sử dụng đất từ công ty này sang công ty khác, hay chuyển các máy móc thiết bị giữa các công ty với 42
  43. nhau. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ và không phản ánh xu hướng vận động của vốn mà chỉ lẻ tẻ trong một vài năm và ở một vài doanh nghiệp. Như vậy trong 5 năm qua, xu hướng phát triển của vốn và cơ cấu nguồn vốn là phù hợp với nền kinh tế thị trường. Nhìn chung, tỷ trọng vốn tín dụng ưu đãi trong 5 năm chiếm khoảng 38,52%; vốn vay thương mại chiếm 40,11%; vốn tự có chiếm 19,64% trong tổng vốn đầu tư của toàn ngành. Xu hướng này là hoàn toàn hợp lý và tiến tới Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự chủ trong kinh doanh, xoá bỏ các khoản trợ cấp đặc biệt và giảm vốn vay tín dụng ưu đãi xuống tới dưới mức 10%. 4. Vốn đầu tư của ngành Dệt May phân theo hình thức đầu tư Có thể phân chia ra thành ba hình thức đầu tư là: Đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng và đầu tư mới. Đầu tư chiều sâu là loại đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, thay thế các thiết bị hiện đại để nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Đầu tư chiều rộng là đầu tư mở rộng các cơ sở sản xuất dựa trên trình độ thiết bị và công nghệ ban đầu nhằm tăng sản lượng sản phẩm sản xuất ra. Đầu tư mới là đầu tư xây dựng một xí nghiệp hay một nhà máy mới có thể bao gồm cả xây dựng mới và đổi mới thiết bị công nghệ. Biểu 10: hình thức đầu tư phát triển ngành công nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội Đơn vị: Triệu đồng Năm VĐT Chiều % Chiều % ĐT % (100%) rộng sâu mới 1996 16008 3940 24.61% 12068 75.39% 0 0% 1997 19900 5380 27.04% 14520 72.96% 0 0% 1998 23833 8344 35.01% 15489 64.99% 0 0% 43
  44. 1999 24200 8463 34.97% 15737 65.03% 0 0% 2000 45130 13938 30.88% 31192 69.12% 0 0%  96-00 129071 40065 31.04% 89006 68.96% 0 0% Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội Giai đoạn 1996-2000, các dự án chủ yếu tập trung vào đầu tư chiều sâu nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư đổi mới, thay thế dần các máy móc thiết bị cũ kỹ đã quá hạn sử dụng. Trong 5 năm qua các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất rất ít, và không có dự án xây dựng nhà máy mới cho ngành. Vốn giành cho mở rộng sản xuất chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ khoảng 31,04% trong tổng vốn đầu tư của toàn ngành. Các dự án mở rộng sản xuất chỉ có các công ty phát triển mạnh như công ty dệt 19/5, công ty may 40 Năm 1996 đầu tư chiều rộng chiếm tỷ trọng là 24,61% trong tổng vốn đầu tư; năm 1997 là 27,04%; năm 1998 là 35.01%; năm 1999 là 34,97%; năm 2000 là 30,88%. Đầu tư cho chiều sâu chiếm một tỷ trọng lớn hơn trong khoảng từ 64% đến 75% và tính trong giai cả giai đoạn là khoảng68,96%. Tỷ lệ đổi mới thiết bị hàng năm ngày càng tăng. Thực tế trong ngành Dệt May là máy móc thiết bị đã quá lạc hậu để có thể có một khả năng cạnh tranh, vì thế để ngành Dệt May phát triển thì phải được đầu tư một cách thích đáng. Trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm, tỷ trọng dành cho đầu tư chiều sâu, thay thế đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng lớn vì thực tế ngành Dệt May trước hết cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Và dần dần máy móc thiết bị cũ dần được thay thế bằng các công nghệ hiện đại hơn. Sau khi đã đầu tư chiều sâu, sản phẩm được thị trường chấp nhận thì các doanh nghiệp bắt đầu mở rộng sản xuất để cung cấp nhiều sản phẩm Dệt May đáp ứnh nhu cầu trong nước và xuất khẩu. 5. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư qua các năm của các doanh nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội 44
  45. Ngành Dệt May Hà Nội trong thời gian qua đã mở rộng đầu tư theo chiều sâu, đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, mặt hàng phong phú, nâng cao kim ngạch xuất khẩu và giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Nhiều giám đốc doanh nghiệp đã năng động, tìm mọi biện pháp giữ vững, mở rộng thị trường trong và ngoài nước đồng thời chú trọng, quan tâm đến công tác thông tin quảng cáo, hội chợ mạnh dạn đổi mới phương thức bán hàng. Tập trung giải quyết các yếu tố làm tăng giá thành sản phẩm, đẩy mạnh khâu tiêu thụ, tránh tồn kho để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã tập trung ngiên cứu, tìm ra phương án cụ thể cho từng giai đoạn phát triển của đơn vị, từ đó tích cực đầu tư, mạnh dạn vay vốn thương mại và huy động mọi nguồn vốn khác để đưa các công trình đầu tư vào phục vụ sản xuất, bên cạnh đó đã đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật, tích cực đổi mới, cải tiến mẫu mã sản phẩm, năng động trong quá trình sản xuất kinh doanh và hoàn thiện trong quản lý. Tích cực đào tạo lại để công nhân bắt kịp với trình độ công nghệ hiện đại và thúc đẩy năng suất lao động tăng cao. Giai đoạn 1996 - 2000 tổng vốn đầu tư của toàn ngành là 129 tỷ đồng chiếm 16,07% vốn đầu tư cho tất cả các ngành kinh tế thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội, là ngành chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư chỉ đứng sau ngành cơ khí và da - giầy. Công ty dệt 19/5 có tổng vốn đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số các doanh nghiệp Dệt May (27,16%); thấp nhất là công ty Phương Nam. Công ty Phương Nam là công ty đẹt quy mô nhỏ, có hoạt động và chủ yếu là may gia công để xuất khẩu. Đối với công ty thì may xuất khẩu mang lại rất nhiều hiệu quả. Trong 5 năm qua công ty gần như không có dự án đầu tư nào lớn. Trong năm 2000, công ty đầu tư một số thiết bị phục vụ cho may xuất khẩu và vốn đầu tư chỉ chiếm 0.43% tổng vốn đầu tư toàn ngành trong 5 năm. Công ty dệt 19/5 có hoạt động đầu tư thường xuyên và nhiều nhất trong toàn ngành. Các dự án của công ty đều là các dự án lớn so với toàn ngành. Điển hình như năm 1998, công ty đã đầu tư xây dựng nhà xưởng với tổng vốn đầu tư là 5,6 tỷ đồng, đây là một dự án mở rộng nhà xưởng trong số rất ít các dự án xây dựng nhà xưởng trong toàn ngành. Năm 2000, vốn đầu tư 45
  46. phát triển đạt 19 tỷ đồng, lớn nhất trong tất cả các năm của toàn ngành. Trong 5 năm công ty đã giành 35 tỷ đồng cho đầu tư phát triển. Trong ngành may, công ty may 40 cũng có hoạt động đầu tư tương đối thường xuyên, tổng vốn đầu tư 5 nâm chiếm 10,6% của toàn ngành. Về cơ cấu nguồn vốn của từng công ty, tỷ trọng vốn tự có của toàn ngành là 19,64% trong tổng vốn đầu tư của toàn ngành. Nếu xét trong từng công ty thì công ty Phương Nam có tỷ trọng vốn tự có là lớn nhất nhưng công ty chỉ có một dự án duy nhất đầu tư bằng vốn tự có và số vốn này rất nhỏ chỉ có 0,5 tỷ đồng. Nếu không xét đến công ty Phương Nam thì công ty có tỷ trọng vốn tự có lớn nhất là công ty dệt 10/10 có tỷ trọng là 44,77%, tiếp theo là công ty may Thăng Long; thấp nhất là công ty dệt len Mùa Đông và công ty dệt kim Thăng Long. 46
  47. Công nghiệp dệt may của Sở Công nghiệp Hà Nội Biểu 11: vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp quốc doanh thuộc sở công nghiệp hà nội Đơn vị: Triệu đồng Vốn đầu tư qua các năm Tỷ trọng VĐT 5 năm của Công ty VĐT 96-00 1996 1997 1998 1999 2000 CT trong VĐT96-00 Dệt 19/5 660 6500 5600 2700 19590 35050 27.16% Nhuộm Tô Châu 0 0 2223 9299 9800 21322 16.52% Dệt 10/10 11720 0 4294 998 0 17012 13.18% May 40 0 4890 2544 1822 4430 13686 10.60% DK Hà Nội 355 0 4083 2402 4820 11660 9.03% Dệt Minh Khai 0 6710 800 2400 0 9910 7.68% Dệt len Mùa Đông 1200 1800 16 2759 3360 9135 7.08% May Thăng Long 2073 0 2531 705 1830 7139 5.53% DK Thăng Long 0 0 1742 1115 750 3607 2.79% Phương Nam 0 0 0 0 550 550 0.43%  VĐT 16008 19900 23833 24200 45130 129071 100% 47
  48. Công nghiệp dệt may của Sở Công nghiệp Hà Nội Biểu 12: cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư qua các năm của các doanh nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc sở công nghiệp hà nội Đơn vị: Triệu đồng Tổng Trong đó Tóm tắt Nội dung đầu tư chủ Công ty VĐT KTCB yếu của dự án TB % TB XL % XL % (100%) khác Năm 1996 Dệt 10/10 ĐTTBdệt tuyn hoa 11720 8834 75.38 1972 16.83 914 7.8 Dệt Mùa Đông ĐTTB dệt len XK 1200 948 79 180 15 72 6 DK Hà Nội XDPX SX tất 355 0 0 355 100 0 0 Dệt 19/5 ĐTTB SX vải bạt 660 584 88.48 53 8.03 23 3.48 May Thăng Long ĐTTB may 2073 1607 77.52 311 15 155 7.48 Tổng 16008 11973 74.79 2871 17.93 1164 7.27 Năm 1997 48
  49. Công nghiệp dệt may của Sở Công nghiệp Hà Nội Dệt Minh Khai ĐTTBSX khăn bông XK 6710 5600 83.46 978 14.58 132 1.97 Dệt Mùa Đông ĐT đổi mới công nghệ 1800 1350 75.00 352 19.56 98 5.44 Dệt 19/5 ĐTTB kéo sợi bông&dệt 6500 4730 72.77 656 10.09 1114 17.14 May 40 Bổ xung&đổi mới TBmay 4890 3974 81.27 721 14.74 195 3.99 Tổng 19900 15654 78.66 2707 13.60 1539 7.73 Năm 1998 Dệt 10/10 ĐT 2 máy dệt tuyn trơn 4294 3700 86.17 205 4.77 389 9.06 DK Hà Nội ĐT1máy thêu chuyên dụng 4083 3185 78.01 743 18.2 155 3.8 DK Thăng long ĐTTB 1742 970 55.68 637 36.57 135 7.75 Dệt 19/5 XD nhà xưởng 5600 4803 85.77 383 6.84 414 7.39 Tô Châu ĐTTB, cải tạo nhà xưởng 2223 1853 83.36 310 13.95 60 2.7 Dệt Minh Khai XD kho thành phẩm 800 590 73.75 88 11 122 15.25 May Thăng Long ĐTTB, XD nhà xưởng 2531 1730 68.35 801 31.65 0 0 May 40 ĐTTB may 2544 1981 77.87 389 15.29 174 6.84 49
  50. Công nghiệp dệt may của Sở Công nghiệp Hà Nội Dệt Mùa Đông ĐTTB 16 16 100 0 0 0 0 Tổng 23833 18828 79.00 3556 14.92 1449 6.08 Năm 1999 Mùa Đông ĐTTB dệt tất, TB kéo sợi 2759 1873 67.89 746 27.04 140 5.07 DK Hà Nội ĐT2 máy thêu tự động nhiều đầu 2402 1909 79.48 450 18.73 43 1.79 Dệt 10/10 ĐTTB máy mắc 998 823 82.46 140 14.03 35 3.51 Tô Châu ĐT d/c TB SX bông y tế 9299 6147 66.10 2247 24.16 905 9.73 Minh Khai ĐTTB phục vụ ngành may 2400 2050 85.42 174 7.25 176 7.33 May 40 ĐT máy dán, cải tạo PX cắt 1822 1143 62.73 535 29.36 144 7.90 Dệt 19/5 ĐT d/c dệt bạt 2700 2000 74.07 570 21.11 130 2.59 DK Thăng Long ĐTTB 1115 1015 91.03 100 8.97 0 0.00 May Thăng Long ĐTTB may 705 485 68.79 0 0.00 220 31.21 Tổng 24200 17445 72.09 4962 20.50 1793 6.58 Năm 2000 50
  51. Công nghiệp dệt may của Sở Công nghiệp Hà Nội May 40 XD nhà điều hàng SX, ĐTTB 4430 2970 67.04 1460 32.96 0 0.00 DK Thăng Long ĐTTB, cải tạo nhà xưởng 750 539 71.87 150 20.00 61 8.13 Dệt 19/5 ĐTTB SX sợi 19590 15500 79.12 2930 14.96 1160 5.92 Phương Nam ĐTTB may 550 550 100.00 0 0.00 0 0.00 Thăng Long ĐT d/c TB may SP dệt kim XK 1830 1200 65.57 483 26.39 147 8.03 Mùa Đông ĐTTBnâng cao chất lượngSP len 3360 2400 71.43 500 14.88 460 13.69 DK Hà Nội ĐTTB dệt tất sùi, tất RIB 4820 3560 73.86 800 16.60 460 9.54 Tô Châu ĐT d/c SX bông CS 150 tấn 9800 7300 74.49 2000 20.41 500 5.10 Tổng 45130 34019 75.38 8323 18.44 2788 6.18 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội 51
  52. Công nghiệp dệt may của Sở Công nghiệp Hà Nội Biểu 13: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc sở công nghiệp hà nội Đơn vị: Triệu đồng Công ty VĐT 96-00(100%) TDƯĐ % Vay T M % Tự có % Vốn % Dệt 19/5 35050 8960 25.56 19200 54.78 5149 14.69 Nhuộm Tô Châu 21322 7746 36.33 9052 42.45 4323 20.27 Dệt 10/10 17012 2700 15.87 6696 39.36 7616 44.77 May 40 13686 9020 65.91 3710 27.11 956 6.99 DK Hà Nội 11660 7410 63.55 1827 15.67 2423 20.78 Dệt Minh Khai 9910 3710 37.44 4200 42.38 2000 20.18 Dệt len Mùa Đông 9135 4900 53.64 4200 45.98 35 0.38 May Thăng Long 7139 2673 37.44 1930 27.03 2243 31.42 DK Thăng Long 3607 2600 72.08 950 26.34 57 1.58 Phương Nam 550 0 0.00 0 0.00 550 100.00  VĐT 129071 49719 38.52 51765 40.11 25352 19.64 2235 1.73 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội 52
  53. Công nghiệp dệt may của Sở Công nghiệp Hà Nội III. Đánh giá những kết quả đạt được trong quá trình đầu tư 1.Những kết quả đạt được Kết thúc kế hoạch 5 năm cuối cùng của thế kỷ 20, các doanh nghiệp thuộc Sở đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tốc độ phát triển chung toàn ngành tăng cao. Quy mô và năng lực tổ chức ngày càng đáp ứng tốt hơn với nhu cầu của nền kinh tế, nhiều sản phẩm đã khẳng định được vị trí trên thị trường trong nước và quốc tế, tăng nguồn thu ngân sách thu hút thêm lao động, nhìn chung đã phát huy được tác dụng đầu tư, sản phẩm xuất khẩu ngày một tăng và đã xuất đi nhiều nước trên thế giới. Trong bối cảnh khó khăn chung của toàn ngành Công nghiệp Dệt May thì ngành Dệt May Hà Nội đã không ngừng vươn lên, khắc phục khó khăn để tự mình vươn lên nhằm đạt mục tiêu đề ra. Có được kết quả đáng khích lệ này phải kể đến sự nỗ lực của bản thân mỗi doanh nghiệp, đồng thời là sự quan tâm của các cơ quan cấp trên. Mặt hàng sản xuất ra không ngừng nâng cao về chất lượng, giá thành hạ, sức cạnh tranh không ngừng được nâng cao, sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Những kết quả đó được thể hiện trong bảng tổng kết kết quả sản xuất của các doanh nghiệp sau: 53
  54. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii Biểu 14: Các chỉ tiêu kết quả chủ yếu của các doanh nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc sở công nghiệp hà nội Chỉ tiêu chủ yếu 1996 1997 1998 1999 2000 Giá trị tổng sản lượng (tr.đ)(Giá cố định năm 1994) 184318 203907 220799 249913 279875 Tổng doanh thu (tr.đ) 188803 221729 260766 286808 304444 Kim ngạch xuất khẩu (USD) 15603427 18475948 21245473 23787707 26625883 Khăn bông quy chuẩn (1000 cái) 19644 23000 21000 28574 26110 Trong đó xuất khẩu (1000 cái) 16392 19200 18500 24850 22596 Vải dệt thoi các loại (1000m) 1260 1680 2350 2347 2305 Vải tuyn (1000m) 8284 7353 9100 8509 9526 Sản phẩm chính Sản phẩm dệt kim (1000 SP) 741 329 330 748 797 Trong đó xuất khẩu (1000 SP) 330 329 330 468 728 Bít tất các loại (1000 đôi) 4831 6154 7245 7264 7679 Trong đó xuất khẩu (1000 đôi) 1816 2780 3700 3670 5548 Sản phẩm may (1000 SP) 943 2002 1635 2665 2369 Nộp ngân sách (tr.đồng) 7483 9912 10608 10920 11304 Lao động (người) 5333 5684 5805 6153 6184 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội 54
  55. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii Biểu 15: Tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kết quả chủ yếu Đơn vị: % Chỉ tiêu chủ yếu 97/96 98/96 99/96 00/96 T B 4 năm Giá trị tổng sản lượng 10.63 19.79 35.59 51.84 11.01 Tổng doanh thu 17.44 38.12 51.91 61.25 12.69 Kim ngạch xuất khẩu 18.41 36.16 52.45 70.64 14.29 Khăn bông quy chuẩn (1000 cái) 6.90 45.46 32.92 17.08 7.37 Trong đó xuất khẩu (1000 cái) 12.86 51.60 37.85 17.13 8.36 Vải dệt thoi các loại (1000m) 86.51 86.27 82.94 33.33 16.30 Sản Vải tuyn (1000m) 9.85 2.72 14.99 -11.24 3.55 phẩm Sản phẩm dệt kim (1000 SP) -55.47 0.94 7.56 -55.60 1.84 chính Trong đó xuất khẩu (1000 SP) 0.00 41.82 120.61 -0.30 21.87 Bít tất các loại (1000 đôi) 49.97 50.36 58.95 27.39 12.28 Trong đó xuất khẩu (1000 đôi) 103.74 102.09 205.51 53.08 32.21 55
  56. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii Sản phẩm may (1000 SP) 73.38 182.61 151.22 112.30 25.90 Nộp ngân sách (triệu đồng) 32.46 41.76 45.93 51.06 10.86 Lao động (người) 6.58 8.85 15.38 15.96 3.77 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội 56
  57. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii Về giá trị sản xuất công nghiệp Giá trị sản xuất công nghiệp được tính cho tất cả các sản phẩm được sản xuất ra trong năm và lấy giá cố định năm 1994. Biểu 16 dưới đây thể hiện được giá trị hàng hoá sản xuất ra quy về thơì điểm năm 1994 để so sánh, qua biểu có thể thấy rõ được quá trình phát triển của ngành. Biểu 16: Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội (Đơn vị: triệu đồng - Giá cố định năm 1994) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Dệt Minh Khai 43750 47320 42688 55000 57117 DK Thăng Long 6917 8910 10255 7349 10500 Dệt 19/5 16100 20023 23161 26790 33500 CT Phương Nam 13062 15750 11530 13198 14528 Dệt 10/10 29199 32492 37136 39308 40288 Dệt Mùa Đông 17302 21723 26036 28821 32508 Dệt kim Hà Nội 26165 34500 40726 41899 44000 Nhuộm Tô Châu 11540 10191 13093 20372 26000 Công ty may 40 9010 10996 13654 15616 18914 CT Thăng Long 1273 2002 2520 1560 2520 Tổng 184318 203907 220799 249913 279875 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội Căn cứ vào số liệu tổng hợp cho thấy tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định năm 1994) tăng đều qua các năm. Năm 1997 tốc độ tăng trưởng là 10,63%; năm 1998 tốc độ tăng trưởng là 19,79%; năm 1999 là 57
  58. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii 35,59%; năm 2000 tốc độ tăng trưởng là 51,84% so với năm 1996. Tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 1996-2000 là khoảng 11%/năm. Ngành dệt may là ngành có tốc độ tăng trưởng cao so với các ngành khác trong ngành thuộc Sở Công nghiệp quản lý, nó là ngành đứng thứ hai chỉ sau ngành da giầy trong số 12 ngành kinh tế kỹ thuật của Sở. Trong số các doanh nghiệp dệt may thì tiêu biểu có một số doanh nghiệp có mức tăng trưởng cao và là ngành có mức tăng trưởng đầu tư tương xứng như công ty dệt 19/5, mức tăng trưởng bình quân 5 năm 96-00 là 17,7%; và công ty may 40 tốc độ tăng trưởng trung bình 5 năm là 21,1%. Biểu 17: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp định gốc năm 1996 (Đơn vị: %) Chỉ tiêu 97/96 98/96 99/96 00/96 TB 4 năm Dệt Minh Khai 8.16 -2.43 25.71 30.55 6.89 DK Thăng Long 28.81 48.26 6.25 51.80 11.00 Dệt 19/5 24.37 43.86 66.40 108.07 20.10 Phương Nam 20.58 -9.73 1.18 11.11 2.69 Dệt 10/10 11.28 27.18 34.62 37.98 8.38 Dệt Mùa Đông 25.55 50.48 66.58 87.89 17.08 DK Hà Nội 31.86 55.65 60.13 68.16 13.88 Nhuộm Tô Châu -11.69 13.46 76.53 125.30 22.52 CT may 40 22.04 51.54 73.32 109.92 20.37 May Thăng Long 57.27 97.96 22.55 97.96 18.62 Tổng 10.63 19.79 35.59 51.84 6.89 Nguồn: Sở kế hoạch & Đầu tư Hà Nội 58
  59. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii Về doanh thu Doanh thu được tính là phần sản lượng tiêu thu được trong năm và lấy giá tại năm đó để tính. Tuy trong điều kiện khó khăn của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng hàng năm doanh thu của các công ty không ngừng tăng lên theo từng năm. Trong năm 1996 doanh thu của các công ty là 188 tỷ đồng thì đến năm 1998 là 260,7 tỷ đồng tăng 38,12%; năm 2000 doanh thu là 299 tỷ đồng tăng 48,24% so với năm 1996. Biểu 18: Doanh thu của các doanh nghiệp quốc doanh thuộc Sỏ Công nghiệp Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Dệt Minh Khai 50811 54606 53000 56000 60000 DK Thăng Long 2865 3826 4186 6376 7806 Dệt 19/5 22499 30000 34500 35200 33200 CT Phương Nam 14099 17000 18000 20828 21740 Dệt 10/10 28878 29459 35500 36202 39300 Dệt Mùa Đông 10156 14069 22000 24780 25060 Dệt kim Hà Nội 39684 50128 48000 49368 49346 Nhuộm Tô Châu 1563 2239 3500 4006 4026 Công ty may 40 17155 18900 38458 50399 60200 May Thăng Long 1093 1502 3622 3649 3766 Tổng 188803 221729 260766 286808 304444 (Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội) 59
  60. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii Biểu 19: Tốc độ tăng trưởng của doanh thu Đơn vị: % Công ty 97/96 98/96 99/96 00/96 TB 4 năm Dệt Minh Khai 7.47 4.31 10.21 18.08 4.24 DK Thăng Long 33.54 46.11 122.55 172.46 28.48 Dệt 19/5 33.34 53.34 56.45 47.56 10.22 CT Phương Nam 20.58 22.95 37.38 36.69 11.43 Dệt 10/10 2.01 22.93 25.36 36.09 8.01 Dệt Mùa Đông 38.53 116.62 143.99 146.75 25.33 Dệt kim Hà Nội 26.32 16.59 20.18 19.57 5.60 Nhuộm Tô Châu 43.25 123.93 156.30 157.58 26.69 Công ty may 40 10.17 112.71 86.44 85.41 36.87 May Thăng Long 37.42 231.38 233.85 244.56 36.24 Tổng 17.44 38.12 51.91 61.25 12.69 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội Chỉ tiêu doanh thu trên lao động phản ánh hiệu quả của hoạt động đầu tư, thể hiện doanh thu thu được của một lao động sản xuất ra trong 1 năm. Chỉ tiêu này trong toàn ngành năm 1996 là 35,4 triệu/lao động và tăng nhanh trong những năm sau. Năm 2000 là 49,23 triệu đồng/ lao động. Trong toàn ngành công ty dệt Mùa Đồng có chỉ tiêu này cao nhất và tăng nhanh qua các năm.là 165,69 triệu đồng/lao động trong năm 2000. công ty có tỷ lệ doanh thu/lao động thấp nhất là dệt kim Thăng Long 6,06 triệu đồng/lao động và luôn ở mức thấp nhất toàn ngành trong 5 năm qua. Nếu xét theo chỉ tiêu này thì công ty dệt Mùa Đông đầu tư có hiệu quả nhất trong toàn ngành. Và thấp nhất là công ty dệt kim Thăng Long. 60
  61. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii Biểu 20: doanh thu/ lao động của các doanh nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc sở công nghiệp hà nội Đơn vị: triệu đồng / 1 lao động Công ty 1996 1997 1998 1999 2000 Dệt Minh Khai 39.95 43.62 43.09 46.24 49.55 DK Thăng Long 2.48 3.26 3.54 4.93 6.06 Dệt 19/5 68.18 85.71 96.64 88.89 73.78 CT Phơng Nam 25.18 32.44 31.47 35.54 38.14 Dệt 10/10 41.31 40.52 47.72 43.05 46.67 Dệt Mùa Đông 135.41 80.39 130.18 164.11 165.96 Dệt kim Hà Nội 92.29 91.47 90.23 85.12 86.57 Nhuộm Tô Châu 3.66 4.98 7.95 8.94 8.85 Công ty may 40 80.16 63.42 124.86 136.95 164.48 May Thăng Long 6.39 7.99 13.41 13.03 13.45 Tổng 35.40 39.01 44.92 46.61 49.23 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội Về nộp ngân sách Qua quá trình đầu tư trong 5 năm qua, các doanh nghiệp đã đóng góp vào ngân sách ngày càng tăng. Tiêu biểu như công ty Phương Nam, trong năm 1996 không đóng góp vào ngân sách Nhà nước nhưng đến năm 1998 trở đi, công ty đã có mức nộp ngân sách và năm 2000 đạt 236 triệu đồng. Công ty có mức nộp ngân sách cao nhất trong ngành là công ty dệt kim Hà Nội, trong suốt 5 năm luôn đứng đầu trong ngành. Công ty dệt 19/5 đứng thứ hai với mức nộp ngân sách năm 1996 là 1376 triệu đồng; năm 2000 là 1922 triệu đồng. Trong ngành may 61
  62. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii ,chủ yếu là công ty may 40 đóng góp vào ngân sách rất lớn và tăng nhanh trong suốt 5 năm qua. Biểu 21: Đóng góp vào ngân sách nhà hước của các doanh nghiệp Dệt May quốc doanh hà nội Đơn vị: triệu đồng Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Dệt Minh Khai 1313 1385 1460 1422 1500 DK Thăng Long 50 103 142 210 240 Dệt 19/5 1376 1800 1901 1926 1922 CT Phương Nam 0 206 215 220 236 Dệt 10/10 1206 1559 1346 1374 1348 Dệt Mùa Đông 859 746 903 970 972 Dệt kim Hà Nội 1826 3081 2914 3102 3203 Nhuộm Tô Châu 192 161 429 451 463 Công ty may 40 565 811 1195 1126 1300 May Thăng Long 96 60 103 119 120 Tổng 7483 9912 10608 10920 11304 Nguồn: Sở Ké hoạch & Đầu tư Hà Nội Trong toàn ngành mức nộp ngân sách năm 1996 là 7,4 tỷ đồng; năm 199810,6 tỷ đồng; năm 2000 là 11,3 tỷ đồng tăng 10,86% so với năm 1996. Ngành dệt có mức nộp ngân sách chiếm 80,06% và ngành may chiếm 19,94% tổng nộp ngân sách trong 5 năm. Trong đó công ty may 40 chiếm phần lớn và công ty dệt Minh Khai, dệt Kim Hà Nội và dệt 19/5 có tổng mức nộp ngân sách lớn. Tốc độ tăng trưởng trung bình trong 4 năm của công ty dệt kim Thăng Long 62
  63. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii cao nhất với tốc độ tăng trung bình là 48,02%. Đứng thứ hai là công ty nhuộm Tô Châu và tiếp đến là công ty may 40. Biểu 22: Tốc độ tăng trưởng nộp ngân sách của các doanh nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội Đơn vị: % TB 4 Chỉ tiêu 97/96 98/96 99/96 00/96 năm Dệt Minh Khai 5.48 11.20 8.30 14.24 3.385 DK Thăng Long 106.00 184.00 320.00 380.00 48.02 Dệt 19/5 30.81 38.15 39.97 39.68 8.71 CT Phương Nam (định gốc năm 1997) 4.37 6.80 14.56 Dệt 10/10 29.27 11.61 13.93 11.77 2.82 Dệt Mùa Đông -13.15 5.12 12.92 13.15 3.14 Dệt kim Hà Nội 68.73 59.58 69.88 75.41 15.08 Nhuộm Tô Châu -16.15 123.44 134.90 141.15 24.61 Công ty may 40 43.54 47.35 -5.77 15.45 23.16 May Thăng Long -37.50 7.29 23.96 25.00 5.74 Tổng 32.46 41.76 45.93 51.06 10.86 Nguồn: Sở Ké hoạch & Đầu tư Hà Nội Về kim ngạch xuất khẩu Mục tiêu đã đề ra của các doanh nghiệp Dệt May là sản xuất hướng về xuất khẩu, trong những năm vừa qua ngành đã đạt được những kết quả tốt. 63
  64. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii Biểu 23: Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc Sở Công nghiệp hà nội Đơn vị: triệu đồng Công ty 1996 1997 1998 1999 2000 Dệt M.Khai 3174000 3528574 3288000 4068000 3723000 DK T.Long 240000 169917 142069 875317 507558 Dệt 19/5 84427 105000 135442 6100 46555 Dệt 10/10 0 0 581859 802100 1125349 DK Hà Nội 1088000 1963942 2330297 2688876 3348125 Phương Nam 2425000 2807865 1403960 1699894 1693456 Mùa Đông 313000 418445 933520 654553 966946 May-40 8000000 8977000 12000000 12690000 14850000 Thăng Long 279000 505205 430326 302867 365194 Tổng 15603427 18475948 21245473 23787707 26625883 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội Tuy trong những năm qua đầu tư còn thấp, song nhờ có đầu tư chiều sâu kết hợp với đầu tư mở rộng nên hàng năm số sản phẩm xuất khẩu truyền thống (bít tất, khăn bông, quần áo dệt kim, dệt thoi, sản phẩm từ len ) có mức tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu, giữ vững và mở rộng được thị trường quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng cả ngành dệt và ngành may, bước đầu đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của ngành và của thành phố. Sản phẩm của các doanh nghiệp đã được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới như Nhật, EU, Anh, Pháp, Canađa, Đan Mạch, Tiệp, Singapore Kim ngạch xuất khẩu năm 1996 khoảng 15,6 triệu USD thì đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu là 26,6 triệu USD, tăng 64
  65. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii hơn 1,7 lần. Đặc biệt công ty dệt 10/10 trong năm 96 và 97 đã không xuất khẩu nhưng từ khi trở thành công ty cổ phần (1999) và được chú ý đầu tư, công ty đã có xuất khẩu; và đến năm 2000 thì kim ngạch xuất khẩu của công ty đứng thứ 6 trong số 9 công ty có sản phẩm xuất khẩu. Một số đơn vị có đầu tư thường xuyên, liên tục, nên kim ngạch xuất khẩu tăng cao. Cụ thể và tiêu biểu là công ty dệt len Mùa Đông, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân 5 năm là 25,9%, đứng thứ nhất trong số các đơn vị thuộc Sở; tiếp đến là công ty dệt kim Hà Nội tốc độ tăng trưởng bình quân là 25,2% đứng thứ hai; công ty may 40 là 13,15% đứng thứ ba. Biểu 24: tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp Dệt May quốc doanh thuộc sở công nghiệp hà nội Đơn vị: % Công ty 97/96 98/96 99/96 00/96 TB 4 năm Dệt M.Khai 11.17 3.592 28.17 17.3 4.07 DK T.Long -29.20 -40.8 264.7 111.5 20.59 Dệt 19/5 24.37 60.42 -92.77 -44.86 -13.83 Dệt 10/10 (định gốc năm 1997) 137.9 140.3 DK Hà Nội 80.51 114.2 147.1 207.7 32.45 Phương Nam 15.79 -42.1 -29.9 -30.17 -8.59 Mùa Đông 33.69 198.2 109.1 208.9 32.58 May-40 12.21 50 58.63 85.63 16.72 Thăng Long 81.08 54.24 8.554 30.89 6.96 Tổng 18.41 36.16 52.45 70.64 14.29 65
  66. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội Về sản phẩm chủ yếu của ngành Ngoài các sản phẩm truyền thống các doanh nghiệp đã sản xuất ra nhiều sản phẩm mới cung cấp cho nhu cầu thị trường. Đặc biệt số lượng sản phẩm tăng nhanh, khả năng đa dạng hoá sản phẩm trong các doanh nghiệp ngày càng phát triển, chất lượng sản phẩm có giá trị hàm lượng công nghệ cao, phục vụ thoả đáng nhu cầu trong nước và tăng giá trị xuất khẩu chung của toàn ngành. Trong 5 năm qua công tác đầu tư phát triển đã gắn kết với công tác khoa học công nghệ, đưa các công nghệ mới, các dự án sản xuất thử nghiệp triển khai vào sản xuất đại trà thông qua các dự án đầu tư, nên chất lượng và số lượng sản phẩm nâng cao rõ rệt. Tính bình quân năm 1996 sản phẩm loại I chiếm 96,5% tổng sản phẩm sản xuất ra và năm 2000 đạt 98% tổng sản phẩm sản xuất ra. Công tác đầu tư phát triển đã tạo tiền đề cho các doanh nghiệp có điều kiện cải tiến hệ thống quản lý chất lượng và tổ chức quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Quốc tế. Trong 5 năm qua có công ty may 40 và công ty dệt 19/5 đã nhận chứng chỉ ISO 9002. Sản phẩm chủ yếu của ngành không những tăng nhanh về số lượng mà sản phẩm còn có chất lượng ngày càng cao, sản phẩm xuất khẩu ngày càng lớn và có uy tín trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Trong các sản phẩm chủ yếu thì sản phẩm dệt kim có tốc độ tăng trưởng rất chậm và bình quân 4 năm chỉ đạt 1,84% nhưng chủ yếu sản phẩm sản xuất ra là để xuất khẩu, tiêu thụ trong nước rất ít. Sản phẩm bít tất là sản phẩm có mức tăng trưởng xuất khẩu rất cao và sản phẩm sản xuất ra cũng chủ yếu là để xuất khẩu. Mức tăng trưởng xuất khẩu trong 5 năm qua tăng nhanh. Tốc độ tăng trưởng trung bình trong 4 năm cao nhất là sản phẩm may: 25,9%. Giá trị sản lượng của sản phẩm may mặc chủ yếu là của công ty may 40. Sản phẩm may được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu bằng hình thức gia công là chủ yếu. Tiếp theo là vải dệt thoi các loại các loại và thứ ba là bít tất các loại. Thị trường xuất khẩu tiêu thụ khăn bông rất ổn định qua các 66
  67. Công nghiiệp dệt may của Sở Công nghiiệp Hà Nộii năm, tốc độ tăng trung bình là 8,36% thấp nhất là năm 1998 (12,86%) và cao nhất là năm 2000 (51,6%). Đầu tư phát triển ngành công nghiệp Dệt May quốc doanh Hà Nội tạo công ăn việc làm cho người lao động Trong những năm qua, do triển khai đồng bộ cả hai hình thức đầu tư là đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu nên trong năm năm qua ngành đã thu hút hàng nghìn lao động ở các địa phương trong cả nước. Đặc biệt tại các công ty đầu tư có hiệu quả cao, số lao động không ngừng tăng trưởng như công ty Tô Châu năm 1996 số lao động trong doanh nghiệp là 75 người thì đến năm 2000 số lao động là 151 người. Trong năm 1997 số lao động của công ty tăng cao đến 175 người. Trong 5 năm tốc độ tăng trưởng lao động của nhuộm Tô Châu là 201,33%. Công ty dệt Minh Khai có số lao động ngày càng giảm qua các năm so công ty đã giảm biêm chế. Năm 1995, số lao động chưa sắp xếp được việc làm là 138 người, năm 1996 công ty có 1272 lao động trong đó số lao động chưa sắp xếp được việc làm là 147 người, năm 1997 số lao động chưa có việc làm là 174 người. Vì thế mà trong những năm qua số lao động trong công ty không ngừng giảm sút và đến năm 1999, số lao động đẫ ổn định và không có lao động chưa có việc làm. Tiếp đến là công ty dệt kim Thăng Long cũng tương tự như công ty dệt Minh Khai. Trong năm 1995, số lao động chưa sắp xếp được việc làm là 77 người thì đến năm 1996 chỉ còn 21 người. Sang năm 1998 thì toàn bộ số lao động trong doanh nghiệp đã có việc làm do giảm biên chế và có đầu tư. Và từ năm 1998, do đầu tư nên công ty đã thu hút thêm được 12 lao động, năm 1999 thu hút thêm 26 lao động, năm 2000 thu hút thêm 10 lao động so với năm 1996. Nếu xét trong toàn ngành thì số lao động mà ngành thu hút được tăng 851 lao động so với năm 1996. Số lao động làm việc trong ngành Dệt May chiếm 34,17% số lao động trong tất cả các ngành thuộc Sở Công nghiệp quản lý, mức độ thu hút lao động đứng thứ hai chỉ sau ngành giày - da. 67