Đề tài Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty XNK và kỹ thuật bao bì

doc 90 trang nguyendu 4040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty XNK và kỹ thuật bao bì", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_thuc_trang_va_mot_so_giai_phap_hoan_thien_hoat_dong_n.doc

Nội dung text: Đề tài Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty XNK và kỹ thuật bao bì

  1. Lời nói đầu Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh và sâu sắc. Đó là xu thế tất yếu khách quan và là một quy luật mà mọi quốc gia trong khu vực và trên thế giới đều phải tuân theo. Biểu hiện rõ nét nhất của xu thế này là quá trình tự do hoá buôn bán trong khu vực và phạm vi toàn cầu. Thực hiện đường lối chuyển đổi nền kinh tế của đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế. Trong đó,Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng để Việt Nam dần có chỗ đứng trong khu vực và trên phạm vi thế giới, thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng VIII đề ra: “Mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới ”* Hoạt động Thương mại quốc tế bao gồm nội dung chủ yếu và quan trọng là các hoạt động xuất nhập khâủ. Nếu xuất khẩu đem lại nguồn ngoại tệ tích luỹ cho đất nước thì hoạt động nhập khẩu tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, tài nguyên và khoa học kỹ thuật. Xuất khẩu nhằm bảo đảm nguồn vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu Định hướng cho mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ sự cần thiết: “ Đẩy mạnh xuất khẩu, huy động các nguồn ngoại tệ để nhập khẩu các vật tư hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống, tích cực cân đối cán cân thanh toán quốc tế góp phần duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế.” * Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB sự thật. Nghị quyết đại hội đại Toàn quốc lần thứ VII. NXB sự thật Trang 1
  2. Thực hiện tốt công tác xuất nhập khẩu sẽ góp phần tích cực đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay của nền kinh tế. Vì vậy, nghiên cứu thực trạng hoạt động Xuất - Nhập khẩu của các doanh nghiệp để tìm ra biện pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh Xuất - Nhập khẩu là vấn đề quan trọng hiện nay. Xuất phát từ quan điểm trên, đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty XNK và kỹ thuật bao bì” đã được chọn làm nội dung nghiên cứu. Mục tiêu của đề tài này là thông qua việc xem xét và phân tích tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu, để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, và những hạn chế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT nhằm đưa ra một số giải pháp để góp phần hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT. Kết cấu của bài luận văn gồm 3 phần: Phần thứ nhất: Hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu là yêu cầu bức thiết ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần thứ hai: Phân tích thực trạng hoạt động Nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu và Kỹ thuật Bao bì. Phần thứ ba: Những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu đối với Công ty Xuất nhập khẩu và Kỹ thuật Bao bì Trang 2
  3. Phần thứ nhất : Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu là yêu cầu bức thiết ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. I. Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu. 1. Khái niệm. Lịch sử phát triển nền kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng không một quốc gia nào có thể duy trì được nền kinh tế tự túc khép kín. Bởi để duy trì nó thì phải bỏ ra rất nhiều nguồn lực song hiệu quả lại không cao. Trong khi đó yếu tố nguồn lực thì có hạn, đối lập hẳn với thực tế nhu cầu của con người là vô hạn và rất đa dạng. Lý thuyết về thương mại quốc tế giúp chúng ta nhận thấy các quốc gia đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế và lợi ích rõ nhất mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được từ thương mại quốc tế mà nó có thể bù đắp và bù đắp một cách hiệu quả những nhu cầu của con người ta về một loaị hàng hoá nào đó mà nội địa chưa hoặc không có khả năng đáp ứng được. Với ý nghĩa ấy, Nhập khẩu được hiểu là hoạt động mua hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước từ nước ngoài nhằm mục tiêu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất trong nước và là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc gia. Nhập khẩu là một trong những hoạt động cốt lõi của thương mại quốc tế 2. Vai trò nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Ngày nay, dưới tác động của xu thế tự do hoá thương mại, hầu hết các quốc gia đều nỗ lực tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, đều hướng các chính sách kinh tế, thương mại của quốc gia mình theo khuôn khổ các khối mậu dịch mà họ sẽ tham gia ở tầm khu vực như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ( NAFTA), ở cấp độ liên lúc địa như Trang 3
  4. ASEM, và cao hơn nữa là cấp độ toàn cầu như tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong bối cảnh ấy hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh ở phạm vi quốc tế. Không phải là những hành vi buôn bán lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong nước và bên ngoài nước nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy, hoạt động nhập khẩu tác động trực tiếp lẫn gián tiếp tới sản xuất và đời sống trong nước, nó có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao cũng như gây thiệt hại cho nền kinh tế trong nước do tính chất phức tạp của nó khi có yếu tố quốc tế tham gia vào. Nhập khẩu với tư cách là một trong hai hoạt động chủ yếu của thương mại quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như sự phát triển của thương mại quốc tế. Trước hết, nhập khẩu có vai trò to lớn trong việc bù đắp những thiếu hụt về cầu do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Không những thế, nhập khẩu còn tạo ra những nhu cầu mới cho xã hội, tạo nên sự phong phú về chủng loại, mẫu mã, chất lượng cho thị trường. Điều đó có nghĩa là nhập khẩu góp phần tạo nên sự cân đối tích cực giữa cung và cầu trên thị trường trong nước. Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối ổn định. Thứ hai, nhập khẩu giúp quốc gia khai thác được lợi thế so sánh của mình, khai thác được tính lợi thế kinh tế nhờ quy mô khi tham gia vào thương mại quốc tế. Không chỉ tạo thêm hàng tiêu dùng trong nước, nhập khẩu còn tạo nên nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước, tạo ra chuyển giao công nghệ. Nhờ đó nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, tiết kiệm đựơc chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, góp phần xoá bỏ tình trạng độc quyền trong nước. Trang 4
  5. Thứ ba, với những sản phẩm nhập ngoại có tính cạnh tranh cao, nhập khẩu làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường, tạo ra năng lực mới trong sản xuất. Các doanh nghiệp nội địa phải chịu một sức cạnh tranh lớn, để tồn tại họ buộc phải năng động hơn, vươn lên chiến thắng trong cạnh tranh. Qua đó, hiệu quả sản xuất trong nước được nâng cao, hàng hoá nội địa trở nên có tính cạnh tranh hơn, người lao động có nhiều cơ hội tìm việc làm hơn góp phần nâng cao đời sống kinh tế - xã hội. Thứ tư, kết hợp với xuất khẩu, nhập khẩu tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước và nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế phát triển. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh quốc tế hoá diễn ra mạnh mẽ ngày nay. Nó mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nền kinh tế,.v.v. Đất nước từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế đã có thêm sức mạnh mới, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với nhiều nhược điểm từng bước được thay thế bằng tính năng động, tự chủ của cơ chế thị trường. Ngoại thương của Việt Nam không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi nội khối xã hội - chủ nghĩa qua các khoản viện trợ hoặc qua các nghị định thư mà được mở rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Chính sách phát triển kinh tế, thương mại Việt Nam từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới. Vai trò của nhập khẩu ngày trở nên rõ rệt: Không chỉ là nhân tố giúp Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới mà còn là nhân tố làm thay đổi diện mạo của các doanh nghiệp Việt Nam. Để tiếp tục phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu, Nhà nước ta xác định: Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động kinh doanh nhập khẩu, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần chú ý tạo uy tín và quan hệ lâu dài với bạn hàng, coi trọng tính hiệu quả kinh tế trong nhập khẩu, biết kết hợp hài hoà giữa các mặt lợi ích. 3. Các hình thức nhập khẩu. Không phải ngẫu nhiên ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động thương maị quốc tế mà là do kinh doanh quốc tế có sự phong phú đa dạng về các phương thức hoạt động. Chính sự đa dạng này cho phép các doanh Trang 5
  6. nghiệp tìm thấy được lợi ích thông qua việc lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của mình nhất. Trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đến nay có một số phương thức nhập khẩu chủ yếu sau mà các doanh nghiệp thường lựa chọn: a/ Nhập khẩu uỷ thác. Trong giao dịch quốc tế, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia một cách trực tiếp do các yếu tố về nguồn nhân lực, trong khi đó họ lại muốn được giao dịch. Từ nhu cầu ấy làm hình thành nên phương thức nhập khẩu uỷ thác. Đó là phương thức mà doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng giao dịch trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác. Đặc điểm: - Theo phương thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra làm đại diện cho bên uỷ thác giao dịch, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại, bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. - Các doanh nghiệp được uỷ thác nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch nhập khẩu chứ không được tính doanh số, doanh thu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải lập hai hợp đồng: 1. Hợp đồng mua bán hàng hoá với người nước ngoài. 2. Hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác. b/ Nhập khẩu tự doanh (Nhập khẩu trực tiếp). Đây là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp. Khi tiến hành nhập khẩu theo phương thức này, doanh nghiệp cần phải tiến Trang 6
  7. hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng chính sách luật pháp quốc gia cũng như quốc tế. Đặc điểm: - Do phải đứng ra tiến hành các khâu nên doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro, tổn thất cũng như lợi nhuận thu được. Vì vậy, để có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải thận trọng trong từng bước từ việc nghiên cứu thị trường cho đến khi bán hàng và thu tiền. - ở phương thức này, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với đối tác nước ngoài, còn các hợp đồng liên quan đến khâu tiêu thụ thì có thể lập sau. c/ Nhập khẩu liên doanh. Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi cho các bên tham gia, lãi cùng hưởng rủi ro cùng gánh chịu. Đặc điểm: - Các bên tham gia chỉ phải góp một phần vốn nhất định và tỷ lệ phân chia lãi lỗ phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp giữa các bên. - Theo phương thức này, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số bán hàng trên số hàng theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu phải lập hai hợp đồng: 1. Một hợp đồng với đối tác nước ngoài. 2. Một hợp đồng với đối tác liên doanh. Cách phân chia các hình thức nhập khẩu trên dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán bằng tiền và mua thanh toán Trang 7
  8. bằng hàng (còn gọi là mua bán đối lưu) là một hình thức còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiêp Việt Nam, tìm hiểu kỹ phương thức này có thể cho phép các doanh nghiệp có được một phương thức nhập khẩu có hiệu quả. d/ Nhập khẩu hàng đổi hàng. Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, phương tiện thanh toán trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích nhập khẩu ở đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu được hàng và thu lợi từ hoạt động xuất khẩu nữa. Đặc điểm: - Phương thức này mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên tham gia hợp đồng, mặt khác có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập khẩu. - Hàng hoá xuất và nhập cũng là bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu. - Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim nghạch nhập khẩu trực tiếp và kim nghạch xuất khẩu, doanh số tiêu thụ trên cả hai loại mặt hàng. - Để đảm bảo thực hiện hợp đồng, các bên thường sử dụng biện pháp sau: + Dùng thư tín dụng đối ứng: Là một loại thư tín dụng mà trong nội dung của nó có các điều khoản quy định chung. Thư tín dụng chỉ có hiệu lực khi người mở một thư tín dụng khác có kim ngạch tương đương. + Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá. Người này sẽ chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương. e/ Nhập khẩu tái xuất. Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá song không phải để tiêu thụ ở nội địa mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, phương Trang 8
  9. thức nhập khẩu này được thực hiện thông qua 3 nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất. Đặc điểm: - Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập khẩu, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. - Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất và nhập khẩu. Doanh số bán trên trị giá hàng xuất khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh. - Doanh nghiệp tái xuất lập hai bản hợp đồng: 1. Hợp đồng xuất khẩu 2. Hợp đồng nhập khẩu và không chịu thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh. - Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lưng. - Hàng hoá không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể nhập thẳng về nước thứ ba (các hoạt động giao dịch thì vẫn liên quan đến nước tái xuất). Doanh nghiệp tái xuất còn có thể có được những khoản lợi do được thanh toán tiền hàng song lại có thể trả chậm cho bên xuất khẩu. Với nhiều phương thức nhập khẩu như vậy, các doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng môi trường kinh doanh để từ đó ứng dụng các phương thức này một cách linh hoạt với thị trường này, với bạn hàng này, ta có thể dùng phương thức này là có lợi hơn, song với thị trường, với bạn hàng khác và vào một thời điểm khác thì phương thức ấy chưa chắc đã có lợi bằng các phương thức khác. Không nên chỉ áp dụng một hay một vài phương pháp cho mọi thị trường, mọi đối tác. Trang 9
  10. II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu. 1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu. Thị trường có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại của một doanh nghiệp, bởi thị trường là tổng thể các mối quan hệ về lưu thông hàng hoá và tiền tệ. Qua thị trường, doanh nghiệp sẽ biết được lượng cung, lượng cầu từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh cho thích hợp. Có nhiều doanh nghiệp nhờ năng động, nắm bắt phản ứng nhanh nhạy với thị trường mà việc kinh doanh thành đạt, song không ít doanh nghiệp vì khả năng hiểu biết về thị trường hạn chế mà dẫn đến phá sản. Chính vì vậy, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng phải nắm vững các yếu tố của thị trường, hiểu biết quy luật vận động của thị trường, từ đó phản ứng kịp thời trước những thay đổi của của thị trường. Công việc nghiên cứu thị trường của một doanh nghiệp nhập khẩu gồm có: + Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu. + Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng tới dung lượng thị trường. + Nghiên cứu quan hệ cung cầu hàng hoá và sự biến động của chúng. + Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu. + Xác định mức giá thấp nhập khẩu đối với thị ttrường có quan hệ giao dịch. Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của nhân tố tới giá cả, ta sẽ nắm được xu hướng biến động của chúng, từ đó xác định mức giá cho mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập khẩu đối với thị trường mà ta sẽ giao dịch. Nếu mặt hàng này thuộc về đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có những trung tâm giao dịch trên thế giới thì nhất định phải tham khảo giá thị trường thế giới về mặt hàng đó. Và phải chú ý khi định giá cần tính đến yếu tố cước phí vận tải và cũng có thể dựa vào chào hàng của hãng, dựa vào giá nhập khẩu của thời kỳ trước, vào giá của lô hàng trước, tính đến những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để tăng hay giảm giá thành nhập khẩu khi giao dịch. Trang 10
  11. 2. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu. a/ Giao dịch thông thường. Là phương thức giao dịch được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, người bán và người mua trực tiếp quan hệ bằng cách gặp gỡ trực tiếp hoặc qua thư từ để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Những nội dung của lần giao dịch này được thực hiện một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn với việc bán. b/ Giao dịch qua trung gian. Trong hình thức giao dịch này có người thứ ba làm trung gian giữa người bán và người mua. Các trung gian phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới. Đại lý là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác và đại lý là hợp đồng đại lý. Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán nhận sự uỷ thác của họ. Những người môi giới khi thực hiện nghiệp vụ không đứng tên mình, không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm pháp nhân trước người uỷ thác về việc khách hàng có thực hiện hợp đồng hay không. Quan hệ giữa người uỷ thác và người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng lần chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn, Sử dụng đại lý, người môi giới có nhiều thuận lợi hơn do họ có nhiều hiểu biết về thị trường, luật pháp, tập quán của địa phương, và ta cũng có tận dụng được những cơ sở vật chất của họ, song nó có nhược điểm là ta không có sự liên hệ trực tiếp với khách hàng, với thị trường, và lợi nhuận bị chia sẻ. c/ Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá. Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loạt, có phẩm chất có thể thay thế được nhau. Giá công bố ở sở giao dịch có thể là giá tham khảo trong việc xác định giá quốc tế. d/ Giao dịch tại hội trợ triển lãm. Trang 11
  12. Hội trợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời hạn nhất định, tại đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng. Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu thành tựu của một nền kinh tế hoặc tổ chức một nghành nào đó. Ngày nay, triển lãm không phải là nơi trưng bày mà còn là nơi thương nhân hoặc tổ chức kinh doanh tiếp xúc giao dịch ký kết hợp đồng mua bán cụ thể. 3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu. Trong hoạt động xuất nhập khẩu sau khi chọn các bên tiến hành giao dịch đàm phán có kết quả phải đi đến ký kết hợp đồng kinh tế ngoại thương. a/ Khái niệm về hợp đồng kinh tế ngoại thương. Hợp đồng nói chung là sự thoả thuận giữa hai bên hay nhiều bên nhằm mục đích tạo lập, chuyển dịch, biến đổi hay chấm dứt một nghĩa vụ. Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của những đương sự có quốc tịch khác nhau trong đó một bên là bên bán (xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên mua (nhập khẩu) một khối lượng hàng hoá nhất định, bên mua có nghĩa vụ trả tiền và nhận hàng. Hợp đồng kinh tế ngoại thương có những điểm khác so với hợp đồng kinh tế trong nước, đó là: - Chủ thể của hợp đồng kinh tế ngoại thương là các pháp nhân có quốc tịch khác nhau. - Hàng hoá được di chuyển từ nước này sang nước khác. - Đồng tiền dùng trong thanh toán ngoại thương là ngoại tệ hay có nguồn gốc ngoại tệ đối với ít nhất một bên ký kết hợp đồng. Trong tập quán thương mại quốc tế phần lớn các hợp đồng được thành lập thành văn bản, đó là một chứng từ cần thiết của sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán. Trang 12
  13. b/ Những điều khoản cơ bản của một hợp đồng ngoại thương. Về nội dung của hợp đồng theo nguyên tắc tự do ký hợp đồng hai bên được tuỳ ý quyết định những nghĩa vụ của họ sao cho phù hợp với quyền lợi của cả hai bên. Tuy nhiên, việc ký kết hợp đồng kinh tế ngoại thương thường khó khăn hơp hợp đồng trong nước do các chủ thể hợp đồng thường không có sự tương đồng về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán, Do vậy, để tránh sự tranh chấp có thể xảy ra, để đảm bảo sự thi hành hợp đồng được suôn sẻ, nội dung hợp đồng xuất nhập khẩu cần có một số điều căn bản, ngoài ra hai bên có thể ghi thêm các điều khoản khác mà họ thấy cần thiết. Một số điều khoản căn bản trong hợp đồng kinh tế ngoại thương. - Điều khoản về đối tượng hợp đồng: + Điều khoản tên hàng: Cần ghi tên thông dụng, tên thương mại và tên khoa học (nếu có). + Điều khoản chất lượng: Hợp đồng cần ghi rõ tiêu chuẩn quy định phẩm chất của hàng hoá. Có thể căn cứ vào mẫu hàng, vào các tài liệu kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá, hay căn cứ vào một tiêu chuẩn được tập quán thương mại quốc tế công nhận. + Điều khoản số lượng: Hợp đồng phải ghi rõ đơn vị đo lường đươc hai bên lựa chọn, quy định cụ thể số lượng hàng giao dịch. Nếu số lượng quy định phỏng chừng phải dự liệu một số có thể chấp nhận được. + Điều khoản trọng lượng của hàng hoá: Có thể tính theo trọng lượng cả bì hay không có bì. Người ta tính theo trọng lượng thương mại tức là trọng lượng của hàng hoá có độ ẩm tiêu chuẩn. - Điều khoản về giá cả hàng hoá: Điều khoản về giá cả hàng hoá trong buôn bán ngoại thương là điều kiện cơ bản, điều kiện giá cả bao gồm: Đồng tiền tính giá, mức giá, phương pháp quy định và giảm giá. Trang 13
  14. + Đồng tiền tính giá: Có thể dùng đồng tiền của nước xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc của nước thứ ba, nhưng phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được. + Mức giá: Thường là mức giá quốc tế. + Phương pháp quy định giá: Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng, giá có thể được quy định theo các loại sau: * Giá cố định: Là loại giá được quy định lúc ký kết hợp đồng và không thay đổi trong cả quá trình hiệu lực. Giá cố định dùng trong các hợp đồng giao hàng ngay hay giao trong thời hạn ngắn, có khi giao hàng trong thời gian dài cũng dùng giá cố định và thường có quy ước trong hợp đồng giá cố định, không thay đổi. * Giá quy định sau: Là giá được quy định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong hợp đồng xác định thời điểm định giá và nguyên tắc xác định mức giá để hai bên tính toán. Ví dụ: một tháng trước khi giao hàng, người mua có thể được quyền lựa chọn thời điểm định giá trong quá trình thực hiện hợp đồng, có cam kết về nguồn tài liệu thông tin giá cả. * Giá có thể điều chỉnh lại: Giá được xác định trong hợp đồng lúc ký kết, nhưng trong hợp đồng có quy ước: Nếu lúc thực hiện hợp đồng giá thị trường tăng hay giảm thì giá đã ghi trong hợp đồng sẽ thay đôỉ theo quy ước tăng hay giảm. Thường mức chênh lệch thấp nhất giữa giá hợp đồng so với giá thị trường là 2- 5% thì không được tính lại. * Giá di động: Giá chỉ tính dứt khoát lúc thực hiện hợp đồng bằng điều chỉnh giá cả cơ sở đã ghi trong hợp đồng tính đến thay đổi về chi phí sản xuất trong quá trình chuẩn bị hàng. Giá sản xuất bao gồm giá nguyên vật liệu, tiền lương. Thường áp dụng cho hàng phải sản xuất dài hạn. + Giảm giá: Giá công bố và giá thật chênh lệch nhau vì người mua được giảm giá khi ký kết hợp đồng. Giảm giá có thể vì tiền được trả ngay, mua khối lượng lớn hay vì khách quen, Các loại giảm giá: Trang 14
  15. * Giảm giá đơn: Giảm giá so với thời giá thường tới 20 - 30% có khi tới 30 - 40%. Giảm giá như vậy thường gặp ở các hợp đồng mua bán thiết bị, nhất là loại máy có tiêu chuẩn, giảm giá so với giá tham khảo về hàng nguyên liệu công nghiệp giảm trung bình 2- 5%. Mặt khác giảm giá đơn cũng thường gặp khi trả tiền mặt vì thường bán hàng theo tín dụng ngắn hạn, nhưng người mua trả tiền mặt nên được giảm giá 2- 3% giá tham khảo nghĩa là tương ứng với phần trăm vay lãi. * Giảm giá đoạt doanh số: Giảm giá cho người mua trái vụ để khuyến khích mua hàng lúc khó tiêu thụ. * Giảm giá kép: Giảm giá khi mua hàng với số lượng lớn với mức tăng dần theo số lượng mua. - Điều khoản giao hàng. Nội dung cơ bản là xác định thời hạn, thời điểm, phương thức và việc thông báo giao hàng. + Trong hợp đồng cần ghi rõ thời hạn giao hàng: Giao hàng không đúng thời hạn quy định có thể gây thiệt hại lớn và chịu trách nhiệm, có thể phải trả tiền phạt. + Điểm giao hàng: Trên thực tế người nhập khẩu thường chỉ định bến đi và bến đến cho hàng hoá. Nơi giao hàng có thể là đầu mối vận tải để mang tiếp hàng đi nơi khác hoặc là nơi họ đã nắm vững tập quán giao hàng, khả năng bốc dỡ, khả năng về kho tàng, trình độ trang thiết bị bảo quản hàng hoá, + Phương thức giao hàng: Về sơ bộ cuối cùng hay giao nhận về số lượng, chất lượng. + Thông báo giao hàng: Quy định số lần thông báo và nội dung thông báo khi người bán giao hàng xong. - Điều khoản về thanh toán trả tiền. + Đồng tiền thanh toán: Phải là đồng tiền ổn định, tự do chuyển đổi trên thị trường tiền tệ quốc tế, có thể là đồng tiền của bên xuất hoặc bên nhập hoặc là của nước thứ ba. Trang 15
  16. Đồng tiền thanh toán có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp với đồng tiền tính giá. Trong trường hợp không trùng hợp thì trong hợp đồng quy định rõ tỷ giá chuyển đổi từ đơn vị tiền tính giá sang đơn vị tiền thanh toán được thực hiện theo tỷ giá hiện hành ở nước tiến hành thanh toán. Khi chọn tỷ giá ngoại tệ, người ta không chỉ quan tâm đến lợi thế của tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ mà còn tính đến cả khả năng chuyển đổi của ngoại tệ. + Thời hạn thanh toán: Có thể trả ngay, trả trước hay trả sau hoặc có thể kết hợp các loại hình đó với nhau trong một hợp đồng. + Phương thức thanh toán: Có nhiều phương thức trả tiền nhưng chủ yếu trong thanh toán quốc tế dùng hai phương thức sau: * Phương thức nhờ thu: Là phương thức thanh toán trong đó người bán hàng sau khi giao hàng hoá - dịch vụ uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền của người mua hàng hoá - dịch vụ. * Phương thức tín dụng chứng từ: Là sự thoả thuận mà một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua sẽ trả tiền cho bên bán hoặc cho bất cứ người mua này theo lệnh của bên bán, khi bên bán xuất trình đầy đủ các loại chứng từ và thực hiện đầy đủ các yêu cầu được quy định trong một văn bản gọi là thư tín dụng ( letter of credit).Có cá loại thư tín dụng sau đây: # Thư tín dụng huỷ ngang (revocable L/C): Là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở (tức ngân hàng phát hành thư tín dụng) có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ vào bất cứ lúc nào mà không phải báo trước cho người hưởng (bên bán). # Thư tín dụng không huỷ ngang: Là loại thư tín dụng mà trong một thời hạn hiệu lực của nó, ngân hàng mở không có quyền huỷ bỏ hay sửa đổi nội dung thư tín dụng nếu không có sự đồng ý của người hưởng, ngay cả khi người yêu cầu mở thư tín dụng (bên mua) ra lệnh huỷ bỏ hay sửa đổi thư tín dụng đó. Như vậy, thư tín dụng không huỷ ngang là cam kết chắc chắn đối với người bán trong việc thanh toán tiền hàng. # Thư tín dụng huỷ ngang có xác nhận (Confirmed irrvocable L/C): Là thư tín dụng huỷ ngang nhưng lại có thể được xác nhận bởi một ngân hàng nào đó theo Trang 16
  17. yêu cầu của một ngân hàng mở. Xác nhận ở đây có nghĩa cam kết trực tiếp trả tiền cho người hưởng. Thông thường ngân hàng xác nhận là ngân hàng thông báo thư tín dụng tại nước người bán. Xét về mặt thực hiện, thư tín dụng có thể là trả tiền ngay (At Sight), hoặc trả tiền sau (With deferrer Payment) hoặc có thể chuyển nhượng được (Transferable) cho người thứ ba. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có nhiều ưu điểm hơn so với phương thức nhờ thu. Đối với người bán, nó đảm bảo chắc chắn thu được tiền hàng. Đối với người mua, nó đảm bảo rằng việc trả tiền cho người bán chỉ được thực hiện khi người bán đã xuất trình đầy đủ bộ chứng từ hợp lệ và ngân hàng đã kiểm tra bộ chứng từ đó. c/ Phương pháp ký hợp đồng. Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. ở các nước tư bản, hợp đồng có thể được thành lập dưới hình thức văn bản hoặc dưới hình thức miệng, hoặc hình thức mặc nhiên. ở các nước xã hội chủ nghĩa, hợp đồng phải được ký kết dưới hình thức văn bản. Hợp đồng dưới hình thức văn bản có thể được thành lập dưới nhiều cách như: - Hợp đồng gồm một văn bản, trong đó ghi rõ nội dung buôn bán, mọi điều kiện giao dịch đã thoả thuận và có chữ ký của hai bên. - Hợp đồng gồm nhiều văn bản như: điện báo, thư từ giao dịch, chẳng hạn hợp đồng gồm hai văn bản như đơn chào hàng cố định của người bán, chấp nhận của người mua và chấp nhận của người bán. Hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu của ta trong quan hệ với các nước. Hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của hai bên, nó xác định mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, tránh được những hiểu lầm do không thống nhất được quan niệm. Ngoài ra hình thức văn bản còn tạo thuận lợi cho thống kê, kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Trang 17
  18. */ Khi ký kết hợp đồng, các bên cần chú ý một số đặc điểm sau: - Cần có sự thoả thuận thống nhất với tất cả mọi điều khoản cần thiết trước khi ký kết. Một khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một số điều khoản nào đó rất khó khăn và bất lợi. - Văn bản hợp đồng thường do một bên dự thảo. Trước khi ký kết bên kia xem xét lại kĩ lưỡng, cẩn thận, đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được trong đàm phán, tránh việc đối phương có thể thêm vào hợp đồng một cách khéo léo những điểm chưa thoả thuận và bỏ qua không ghi vào những điều đã thống nhất. - Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sáng sủa, cách trình bày phải phản ánh nội dung đã thoả thuận, không để tình trạng mập mờ có thể suy luận ra nhiều cách. - Hợp đồng nên đề cập đến mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán để giải quyết những điểm hai bên không đề cập đến. - Những điều khoản trong hợp đồng phải xuất phát từ những đặc tính của hàng hoá định mua bán, từ những điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, xã hội của nước người bán, người mua, từ đặc điểm và quan hệ giữa hai bên. - Trong hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người bán hoặc nước người mua. - Người đứng ra ký kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền ký kết. - Ngôn ngữ dùng để xây dựng hợp đồng nên là thứ ngôn ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo. */ Có nhiều cách ký kết hợp đồng đó là: - Hai bên ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản). - Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đồng ý với các điều khoản của thư chào hàng tự do. Nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết và gửi trong thời hạn quy định cho người bán. - Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua. Trường hợp này hợp đồng thể hiện bằng hai văn bản: đơn đặt hàng của người mua và văn bản xác nhận của người bán. Trang 18
  19. - Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được thoả thuận giữa các bên (nêu rõ các thoả thuận đã thoả thuận). 4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Sau khi hợp đồng đã được ký kết nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đã được xác lập. Các bên cần phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Bên nhập khẩu cần phải xắp xếp các việc phải làm, ghi thành biểu bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời ghi lại các diễn biến của các bước thực hiện. Quá trình thực hiện hợp đồng là rất phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời phải đảm bảo quyền lợi của quốc gia, uy tín của doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện cố gắng không để xảy ra những sai sót dẫn đến khiếu nại, đồng thời phải tính toán, tiết kiệm các khoản chi phí lưu thông, và điều quan trọng là phải giám sát và yêu cầu đối tác thực hiện đúng các nghĩa vụ của họ trong hợp đồng. Nếu có những vấn đề phức tạp phát sing các bên phải kịp thời bàn bạc trao đổi, giải quyết kịp thời. Các bước thực hiện hợp đồng gồm có: Xin giấy Mở thư tín dụng Thuê phương tiện Mua BH phép NK L/C ( nếu thanh chuyên chở hàng hoá toán bằng L/C) Khiếu nại và Làm thử tục Nhận hàng Làm thủ tục xử lý khiếu nại thanh toán hải quan ( nếu có ) a/ Xin giấy phép nhập khẩu: Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy Trang 19
  20. phép nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó. Giấy phép do Bộ Thương mại cấp. Thủ tục xin giấy phép nhập khẩu khác nhau đối với hàng hoá thuộc các nhóm hàng khác nhau. Để được cấp giấy phép nhập khẩu, doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có điều kiện: - Thành luật theo đúng luật pháp và cam kết tuân thủ các quy định của luật pháp hiện hành. - Doanh nghiệp có mức vốn lưu động tối thiểu tính bằng đồng Việt Nam tương đương với 200.000 USD tới thời điểm đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu. - Hoạt động theo đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp. Doanh nghiệp được cấp giấy phép nhập khẩu phải có nghĩa vụ nộp lệ phí (một lần) bằng tiền Việt Nam. Mức lệ phí cũng như việc nộp và sử dụng lệ phí do Bộ Tài chính và Bộ Thương mại quy định. b/ Mở thư tín dụng L/C. Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng phương thức thư tín dụng chứng từ thì bên mua phải mở L/C ở ngân hàng khi có thông báo từ bên bán. Thời gian mở L/C phụ thuộc vào thời hạn giao hàng. Để cho chặt chẽ, hợp đồng thường quy định cụ thể ngày giao hàng, ngày mở L/C. Nếu như hợp đồng không quy định cụ thể thì thông thường thời gian này là khoảng 15 - 20 ngày trước khi đến thời hạn giao hàng. Cơ sở mở L/C là các điều khoản của hợp đồng. Đơn vị hợp đồng dựa vào cơ sở đó, làm đơn xin mở L/C theo mẫu của ngân hàng. c/ Thuê tàu chở hàng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, việc ai thuê tàu, thuê tàu theo hình thức nào được tiến hành dựa vào ba căn cứ: điều khoản của hợp đồng, đặc điểm của hàng hoá, điều kiện vận tải. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì bên nhập khẩu phải thuê tàu để chở hàng, nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì bên nhập khẩu không phải thuê tàu mà nghĩa vụ đó thuộc về người mua. Trang 20
  21. Tuỳ theo đặc điểm hàng hoá kinh doanh, doanh nghiệp lựa chọn phương thức thuê tàu cho phù hợp: thuê tàu chợ, tàu chuyến hay tàu bao. Nếu nhập khẩu thường xuyên với khối lượng lớn thì nên thuê bao. Nếu nhập khẩu không thường xuyên, nhưng khối lượng lớn thì nên thuê tàu chuyến. Nếu nhập khẩu với khối lượng nhỏ thì thuê tàu chợ. d/ Mua bảo hiểm hàng hoá. Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao hoặc là hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm bao, doanh nghiệp ký kết hợp đồng từ đầu năm, mỗi khi giao hàng xuống để vận chuyển chỉ cần gửi đến Công ty bảo hiểm một thông báo một văn bản gọi là: “Giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Khi mua bảo hiểm chuyến, doanh nghiệp gửi đến công ty bảo hiểm một băn bản gọi là: “Giấy yêu cầu bảo hiểm”. Trên cơ sở giấy yêu cầu này, doanh nghiệp và Công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm. Bên cạnh hình thức bảo hiểm, doanh nghiệp cần lựa chọn điều kiện bảo hiểm: Loại A hay B hay C. Để lựa chọn điều kiện bảo hiểm thích hợp cần căn cứ vào: Tính chất, đặc điểm của hàng hoá, thời tiết, khả năng vận chuyển bốc dỡ, đặc điểm quãng đường, e/ Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá đi ngang qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau: + Khai báo hải quan: Chủ hàng phải khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan một cách trung thực và chính xác. Tờ khai phải được xuất trình cùng một số chứng từ khác: Giấy phép nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bản kê khai chi tiết, vận đơn, Trang 21
  22. + Xuất trình hàng hoá: Hải quan được phép kiểm tra hàng hoá nếu thấy cần thiết. Hàng hoá nhập khẩu phải được xắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm tra. Chủ hàng chịu chi phí, nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng. + Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiển tra các giấy tờ và hàng hoá, hải quan đưa ra quyết định: cho hàng được phép qua biên giới (thông quan), hoặc cho hàng qua với một số điều kiện kèm theo hoặc hàng không được nhận, Chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của hải quan. f/ Nhận hàng. Để nhận hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài về, đơn vị nhập khẩu phải làm các công việc sau: - Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về việc giao hàng. - Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu từng quý, từng năm, cơ cấu hàng hoá, lịch tàu, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển, giao nhận. - Cung cấp tài liệu cần thiết cho việc nhận hàng (vận đơn, lệnh giao hàng, ) nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải. - Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản (nếu cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong việc giao nhận. - Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp, bảo quản và vận chuyển hàng hoá nhập khẩu. - Thông báo cho đơn vị đặt hàng chuẩn bị tiếp nhận hàng hoá. - Chuyển hàng hoá về kho của doanh nghiệp hoặc giao trực tiếp cho các đơn vị đặt hàng. - Kiểm tra hàng hoá: Hàng hoá nhập khẩu về qua cửa khẩu phải được kiểm tra. Mỗi cơ quan tiến hành kiểm tra theo chức năng, quyền hạn của mình. Nếu phát hiện dấu hiệu không bình thường thì mời bên giám định đến lập biên bản giám định. Cơ quan giao thông kiểm tra niêm phong, kẹp chì trước khi dỡ hàng ra phương tiện vận tải. Đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trong vận Trang 22
  23. đơn cũng phải kiểm tra hàng hoá và lập thư dự kháng nếu thấy nghi ngờ hoặc thật sự hàng hoá có tổn thất, thiếu hụt hoặc không đúng như hợp đồng. g/ Làm thủ tục thanh toán. Thanh toán là khâu quan trọng trong thương mại quốc tế. Do đặc điểm buôn bán với nước ngoài rất phức tạp nên thanh toán trong thương mại quốc tế phải thận trọng, tránh để xảy ra tổn thất. Có nhiều phương thức thanh toán như: Thư tín dụng (L/C), phương thức nhờ thu, chuyển tiền, Việc thực hiện theo phương thức nào phải quy định cụ thể trong hợp đồng. Doanh nghiệp phải tiến hành thanh toán theo đúng điều kiện quy định của hợp đồng. h/ Khiếu nại và xử lý khiếu nại (nếu có). Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại. Đối tượng khiếu nại có thể là bên bán, người vận tải, Công ty bảo hiểm, tuỳ theo tính chất của tổn thất. Bên nhập khẩu chỉ viết đơn khiếu nại và gửi cho bên bị khiếu nại trong điều kiện quy định. Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất như: biên bản giám định, hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại Công ty bảo hiểm), Tuỳ theo nội dung khiếu nại mà người nhập khẩu và bên bị khiếu nại có các cách giải quyết khác nhau. Nếu không tự giải quyết được thì làm đơn kiện gửi trọng tài kinh tế hoặc toà án kinh tế trong hợp đồng. i/ Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu. Sau khi nhập hàng từ nước ngoài về, doanh nghiệp giao hàng cho đơn vị đặt hàng hoặc tổ chức tiêu thụ tốt trên thị trường nội địa. Doanh nghiệp nhập khẩu cần tiến hành tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp, tạo điều kiện tái nhập cư và quá trình nhập khẩu tiếp theo. Để tiêu thụ hàng hoá có kết quả cao, doanh nghiệp cần phải: Trang 23
  24. - Nghiên cứu thị trường trong nước và tâm lý khách hàng trong việc mua hàng hoá, nhất là đối với hàng hóa doanh nghiệp cần kinh doanh. - Xác đinh các kênh phân phối hàng hoá và các hình thức bán. - Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng. - Xác định mức giá cụ thể trên cơ sở cung cầu thị trường và chi phí của doanh nghiệp. - Tổ chức nghiệp vụ bán hàng cụ thể tại các cửa hàng. III. Các nhân tố tác động tới hoạt động nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu của một doanh nghiệp liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều lĩnh vực trong thương mại quốc tế. Do vậy, những thay đổi trong cơ chế, chính sách của các quốc gia có liên quan, của luật pháp quốc tế, đều tác động lớn tới hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp. Để hoạt động nhập khẩu diễn ra một cách suôn sẻ, các doanh nghiệp buộc phải nghiên cứu các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh. 1. Hệ thống luật pháp trong nước và quốc tế. Kinh doanh quốc tế nói chung và kinh doanh trong lĩnh vực nhập khẩu nói riêng là một hoạt động đa dạng và phức tạp, nó chịu sự chi phối của nhiều nguồn luật: luật nước nhập khẩu, luật nước xuất khẩu, luật của nước thứ ba, đồng thời còn chịu tác động của luật pháp - tập quán quốc tế. Hệ thống luật pháp này tạo hành lang bảo vệ quyền lợi của các bên khi tham gia vào thương mại quốc tế. Và để hoạt động một cách có hiệu quả, đương nhiên các doanh nghiệp nhập khẩu cần nắm vững được hệ thống luật pháp, phong tục tập quán trong nước cũng như quốc tế và cả luật pháp của nước có liên quan. 2. Sự thay đổi của thị trường trong nước và nước ngoài. Chúng ta biết rằng cung cầu là yếu tố quan trọng bậc nhất đối với các nhà kinh doanh. Sự thay đổi cung - cầu trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng kinh doanh của doanh nghiệp. Việc làm của các doanh nghiệp là xác định Trang 24
  25. được lượng cung và cầu hiện tại, đồng thời cần phải dự báo được những xu hướng thay đổi của nó trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Với các doanh nghiệp nhập khẩu, việc làm này không chỉ dừng lại ở thị trường nội địa mà phải trên các thị trường khác và cả thị trường quốc tế. Đặc biệt với các doanh nghiệp vừa nhập khẩu thành phẩm vừa nhập khẩu bán thành phẩm và nguyên liệu như Công ty XNK và kỹ thuật bao bì thì hoạt động của họ còn phải chịu chi phối của nền sản xuất và từng thời kỳ phát triển của đất nước. 3. Chính sách quản lý vĩ mô và quan hệ kinh tế quốc tế của Nhà nước. Ngoài hệ thống luật pháp, tuỳ từng thời kỳ phát triển của đất nước mà chính phủ ban hành các chính sách vĩ mô quản lí hoạt động nhập khẩu. Các chính sách mà các chính phủ thường đưa ra và tác động trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu là việc dựng nên các hàng rào nhằm bảo hộ nền sản xuất còn yếu sức cạnh tranh trong nước. Các công cụ mà thường sử dụng là công cụ thuế quan và công cụ phi thuế quan (hạn nghạch, giấy phép nhập khẩu, biện pháp quản lí ngoại tệ và các tiêu chuẩn địa phương). a/ Chính sách tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn tới hoạt động nhập khẩu vì nó là cơ sở để so sánh giá cả của hàng hoá trong nước với thế giới, đồng thời phục vụ cho sự vận động của tiền tệ và hàng hoá giữa các quốc gia, các doanh nghiệp nhập khẩu theo dõi và căn cứ vào tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ để đẩy mạnh hay hạn chế hoạt động của mình. Khi đồng nội tệ bị mất giá thì hoạt động nhập khẩu là không có lợi và so với trước doanh nghiệp phải trả nhiều tiền hơn cho một đơn vị hàng hoá và ngược lại khi đồng nội tệ tăng giá thì hoạt động nhập khẩu là có lợi và so với trước doanh nghiệp phải trả ít tiền hơn cho một đơn vị hàng hoá. Sự điều tiết tỷ giá của Nhà nước: cố định, thả nổi, hay thả nổi có quản lý vì thế có tác động rất mạnh tới hoạt động của doanh nghiệp. Trang 25
  26. b/ Quan hệ kinh tế quốc tế. Các quan hệ này có tác động tương hỗ tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Thông thường một doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thấy thuận lợi hơn trong suốt quá trình giao dịch nếu đối tác là một nước láng giềng, trong cùng một khu vực hay cùng một khối. Họ cũng cảm thấy dễ chịu hơn khi các chính phủ dành cho nhau quy chế đặc biệt (quy chế tối huệ quốc, cho hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan, ) và đến lượt nó, nhập khẩu lại củng cố mối quan hệ ấy giữa các quốc gia. 4. Các nhân tố khác. a/ Cơ sở hạ tầng. Hoạt động nhập khẩu diễn ra có thuận lợi hay không phụ thuộc nhiều vào điều kiện cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Hệ thống cơ sở hạ tầng gồm có: Hệ thống giao thông vận tải, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc và hệ thống tài chính ngân hàng. Một nước có cơ sở hạ tầng phát triển là cơ sở để phát triển các hoạt động nhập khẩu bởi cùng với sự phát triển của cơ sở hạ tầng là việc giảm thiểu các chi phí trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. b/ Hoạt động xuất khẩu của quốc gia. Tuy là một mặt đối lập, song xuất khẩu lại có tác động to lớn và trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu. Đó là cỗ máy chính tạo nguồn ngoại tệ an toàn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu nguồn nguyên liệu nhằm nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên thiên nhiên khai thác của nội địa phục vụ cho các đơn vị sản xuất thì điều này càng có ý nghĩa hơn. Xuất khẩu được đồng nghĩa với việc thị trường được mở rộng, tiêu thụ được nhiều hơn nên sản xuất phát triển và lại càng nhiều nguyên liệu hơn. Thực tế phát triển kinh tế của nhiều nước như: Nhật Bản, Singapore, đã chứng minh rằng nhập khẩu chỉ phát triển khi xuất khẩu phát triển và ngược lại. Trang 26
  27. IV. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với Công ty PACKEXPORT. Khoa học kỹ thuật là cơ sở để phát triển sản xuất, hiện đại hoá nền kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật sẽ làm tiền đề cho công cuộc hiện đại hoá - công nghiệp hoá đất nước. Nâng cao không ngừng trình độ khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội, đó là mục tiêu đề ra của mọi quốc gia. Vấn đề chuyển giao thiết bị và kỹ thuật sản xuất bao bì - hoàn thiện sản phẩm trong thị trường quốc tế được tiến hành như là một công cụ góp phần thay đổi, hoàn thiện hơn trình độ khoa học kỹ thuật nền kinh tế của mọi quốc gia, vì thế nó có tầm quan trọng rất lớn. ở đây chúng ta chỉ xem xét vấn đề nhập khẩu vật tư, nguyên liệu để sản xuất bao bì phục vụ xuất khẩu hàng hoá trong quan hệ buôn bán trao đổi giữa các quốc gia với nhau. Vì mỗi quốc gia, nhất là những nước phát triển luôn luôn có những đầu tư thích đáng trong vấn đề thiết kế cải tiến mẫu mã bao bì, chú ý tới sở thích của người tiêu dùng để tiêu thụ được nhiều sản phẩm - hàng hoá. Thông thường các nước nhập khẩu là những nước đang phát triến do đó thường phải nhập khẩu các loại nguyên liệu, vật tư làm bao bì cao cấp và các dây chuyền thiết bị sản xuất bao bì đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu hàng hoá và tiêu dùng nội địa. Do đó, không tránh khỏi những bất lợi khi quan hệ với các nước phát triển ở chỗ: nhập phải loại vật tư kém phẩm chất, thiết bị và công nghệ đã qua sử dụng, phụ thuộc vào người bán, Với ý nghĩa to lớn trong thực tiễn phát triển kinh tế, nhiệm vụ đề ra với công tác nhập khẩu vật tư nguyên liệu sản xuất bao bì đối với các nước đang phát triển như Việt Nam nói chung và đối với Công ty PACKEXPORT nói riêng là: Đảm bảo góp phần nâng cao trình độ sản xuất trong nước, tăng số lượng, chất lượng của sản phẩm sản xuất trong nước; nhập khẩu vật tư, nguyên liệu sản xuất hàng cao cấp trong khi trong nước chưa sản xuất được Trang 27
  28. Phần thứ hai: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì. i. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. 1. Quá trình hình thành và phát triển. a/ Quá trình hình thành. Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì được thành lập theo quyết định năm 1976 với tên gọi là Công ty bao bì xuất nhập khẩu. Đến năm 1982 Công ty được đặt tên thành Công ty vật tư bao bì và bao bì xuất khẩu. Tháng 12/1989 do những biến đổi mạnh mẽ trong nền kinh tế nước nhà và nền kinh tế các nước trong khối xã hội chủ nghĩa một lần nữa Công ty lại đổi tên thành Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì được giữ nguyên cho đến bây giờ. Năm 1993 căn cứ theo nội dung nghị định số 388 - HĐBT ngày 20/11/1991 và nghị định số 156 - HĐBT ngày 7/5/1992 về việc thành lập lại các doanh nghiệp Nhà nước, Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì được thành lập được thành lập theo: - Thông bao số 163/ TB ngày 21/5/1993 và công văn số 2999/ KTN ngày 19/6/ 1993 của văn phòng Chính phủ. - Quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước số 738/ TM - TCCB ngày 28/6/1993 của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Theo quyết định số 738/TM - TCCB của Bộ trưởng Bộ thương mại Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì có tên giao dịch đối ngoại là Vietnam National packaging technology and import - export corporation. Điện tín: PACKEXPORT. Trụ sở chính: 31 phố hàng Thùng - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì gồm một số đơn vị trực thuộc: - Trung tâm nghiên cứu và phát triển và ứng dụng kĩ thuật bao bì 139 Lò Đúc - Hà Nội. Trang 28
  29. - Xưởng in thực nghiệm và phát triển bao bì hợp đồng tại 139- Lò Đúc Hà Nội. - Xí nghiệp sản xuất bao bì carton 251 Minh Khai- Hà Nội. - Chi nhánh Công ty XNK và kĩ thuật bao bì tại Hải Phòng - 105 Điên Biên Phủ. - Chi nhánh Công ty XNK tại 82 Hoàng Diệu- Đà Nẵng . Công ty XNKvà kĩ thuật bao bì là doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Thương mại, thực hiện việc sản xuất kinh doanh và nghiên cứu phát triển bao bì. Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân, thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản tại ngân hàng nhà nước có con dấu theo qui định của của Nhà nước. Công ty là hội viên của liên đoàn bao bì châu Âu (APF) và tổ chức bao bì thế giới (WPO). Theo quyết định số 7381/TM - TCCB mục đích hoạt động của công ty XNK và kĩ thuật bao bì là thông qua hoạt động xản xuất kinh doanh của Công ty nhằm khai thác một cách có hiệu quả các nguồn vật tư nhân lực và tài nguyên của đất nước đồng thời tiến hành nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật trong sản xuất để không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng bao bì hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu hàng xuất khẩu và nhu cầu hàng tiêu dùng trong nước. * Mục tiêu ngành nghề kinh doanh của Công ty: - Trực tiếp và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu các loại thiết bị, vật tư bao bì và các mặt hàng khác phục vụ sản xuất kinh doanh. - Tổ chức sản suất và gia công, liên doanh liên kết sản xuất các loại bao bì, hàng hoá khác cho sản xuất tiêu dùng trong nước theo qui định hiện hành của Nhà nước và của Bộ Thương mại. - Nghiên cứu phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật về bao bì, làm dịch vụ tư vấn về bao bì. - In nhãn hiệu, in bao bì và các ấn phẩm khác theo quyết định của Nhà nước. * Nội dung hoạt động của Công ty bao gồm: Trang 29
  30. - Trực tiếp sản xuất các sản phẩm bao bì và các sản phẩm hàng hoá khác do Công ty sản xuất khai thác, hoặc do liên doanh liên kết và đầu tư sản xuất tạo ra. - Trực tiếp nhập khẩu vật tư nguyên liệu, máy móc phục vụ cho ngành sản xuất và kinh doanh bao bì của Công ty. Được nhập khẩu một số hàng tiêu dùng thiết yếu để phục vụ sản xuất kinh doanh của Công ty khi Bộ Thương mại cho phép. - Tổ chức sản xuất gia công, liên doanh liên kết sản xuất các loại bao bì hàng hoá khác cho xuất khẩu tiêu dùng trong nước theo quy định hiện hành của Nhà nước và của Bộ Thương mại. - Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu và thực hiện các dịch vụ bao bì theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. - Nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về bao bì . - Được in nhãn hiệu bao bì và các ấn phẩm khác theo quy định của Nhà nước, của Bộ Thương mại và của Bộ quản lý ngành cho phép. - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật về bao bì. - Hợp tác trao đổi kỹ thuật về bao bì với các tổ chức hữu quan trong và ngoài nước. b) Quá trình phát triển. Quá trình phát triển của công ty XNK và kĩ thuật bao bì được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn 1(từ năm 1973-1990): Giai đoạn vừa hoàn chỉnh vừa xây dựng bộ máy quản lý. Thời kì này sản xuất ở trong tình trạng thủ công lạc hậu với mấy cỗ máy tự chế trong một địa điểm lụp xụp đường xá lầy lội. Sản phẩm mà Công ty làm ra là những bao bì đơn giản, bởi lẽ dây truyền sản xuất thời kì đó đều là thủ công. Bao bì sản phẩm ra đời của công ty PACKEXPORT sản xuất ra với nhiệm vụ để đóng góp hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Trong những năm đầu mới thành lập, trình độ sản xuất còn thấp nên sản phẩm của công ty chỉ xếp loại 3 so với đơn vị sản suất bao bì khác. Cũng như các đơn vị Trang 30
  31. khác dưới thời bao cấp, xí nghiệp bao bì xuất khẩu Hà Nội sản xuất theo chỉ tiêu phân cấp của Bộ Thương mại. Nhà nước bảo hộ đầu vào và bao tiêu đầu ra. Do vậy, hoạt động sản xuất kém hiệu quả. ở giai đoạn này tất cả các mặt hàng vật tư nguyên vật liệu phục vụ công tác kinh doanh và sản xuất bao bì chủ yếu Công ty phải nhập khẩu bằng hợp đồng thương mại theo nghị định thư của Việt Nam và các nước nhập khẩu. Bạn hàng chủ yếu lúc bấy giờ là các nước xã hội chủ nghĩa trong đó lớn nhất là Liên Xô. Ngoài ra còn một số bạn hàng khác như Nhật Bản, Thụy Điển, Triều Tiên, nhưng không thường xuyên và lâu dài bởi thường do các nước này có viện trợ hoặc là mình phải nhập do các bạn hàng XHCN không có khả năng cung cấp. Lượng hàng mà Công ty nhập về chủ yếu bán cho các xí nghiệp sản xuất gia công trực thuộc Công ty chiếm 80%, 20% còn lại bán cho các đơn vị khác nhưng được điều tiết theo kế hoạch định hướng của Bộ Ngoại Thương, số lượng bán ra và giá cả theo định hướng kế hoạch và không nhận uỷ thác.Vì vậy thời kỳ này Công ty không hề có khái niệm thị trường và việc tìm hiểu thăm dò thị trường để thúc đẩy công tác bán hàng là không cần thiết. Giai đoạn 2 (Từ 1990 đến nay). Cùng với sự chuyển mình của nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Cũng như nhiều doanh nghiệp quốc doanh khác ban đầu công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì cũng gặp phải những khó khăn lúng túng. Những nhược điểm trong cơ chế quản lý cũ đã bộc lộ rõ nét: sản xuất đình trệ, Công nhân không có việc làm, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng giảm sút, Nhưng với tinh thần quyết tâm cao, cán bộ công nhân trong Công ty đã phấn đấu đổi mới, tự thích nghi và tìm được chỗ đứng của mình trong cơ chế thị trường. Công ty đã nhanh chóng thoát ra khỏi thời kỳ đình trệ, từng bước phát triển sản xuất và phát triển đi lên. Để đáp ứng nhu cầu thị trường Công ty mạnh dạn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nghiên cứu sản xuất, Công ty đã vận dụng các kiến thức mới về kinh tế thị trường, áp Trang 31
  32. dụng các hình thức tiếp thị đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Công ty đã chú trọng tới việc đào tạo lại cán bộ công nhân viên, thực hiện sàng lọc trong nội bộ, bố trí sản xuất phụ, thực hiện chế độ hoạch toán trong nội bộ, giao quyền chủ động cho các xí nghiệp thành viên, Do đó mà, trong khi một số doanh nghiệp quốc doanh khác lao đao phá sản thì Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì vẫn vững vàng và khẳng định sức sống của mình. Tóm lại, với truyền thống 26 năm xây dựng và trưởng thành, tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì đã trải qua nhiều bước thăng trầm cùng với sự biến đổi của cơ chế quản lý của Nhà nước. Để đứng vững trong cơ chế thị trường và góp phần đưa nước ta ra nhập thị trường thế giới Công ty đã luôn phát huy truyền thống lao động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh, vượt qua những thử thách gay go của nền kinh tế thị trường từng bước khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế đất nước, góp phần tích cực trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 2. Một số đặc điểm chủ yếu của Công ty XNK và kỹ thuật Bao bì. 2.1 Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động bộ máy của Công ty. a. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty. Theo quy định của Bộ Thương mại và căn cứ tình hình thực tiễn của Công ty, bộ máy quản lý được tổ chức như sau: Trang 32
  33. Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty XNK và kỹ thuật Bao bì. Tổng Giám Đốc Phó giám đốc XNK Phó giám đốc SX - Tiêu thụ Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Tổng Trung XNK KD XNK KT kế tổ chức kho tâm 1+ 2 vật tư 3 tài vụ hoạch HC Cổ NCPT tổng Loa ƯDKT hợp Bao bì Xí Xí Xí Xí Xí Chi Chi nghiệp nghiệp nghiệp nghiệp nghiệp nhánh nhánh bao bì bao bì in 139 bao bì bao bì Đà Hải chất dẻo carton Lò Đúc Hùng Đà Nẵng Phòng Hải Phòng Pháp Vân Vương Nẵng Đứng đầu Công ty là Giám đốc Công ty do Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Giám đốc Công ty tổ chức điều hành mọi hoạt động của Công ty theo chế độ thủ trưởng và đại diện cho mọi quyền lợi - nghĩa vụ của Công ty trước pháp luật và các cơ quan quản lý của Nhà nước. Giúp việc cho Giám đốc Công ty là phó Giám đốc Công ty do Giám đốc Công ty đề nghị và được Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Mỗi Trang 33
  34. phó giám đốc được phân công phụ trách một hay một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về công việc được giao. Giám đốc Công ty quy định cơ cấu, tổ chức bộ máy, nhiệm vụ cụ thể, quyền hạn và mối quan hệ của các đơn vị trực thuộc Công ty theo quy định hiện hành của Nhà nước. * Chức năng của các phòng ban được quy định như sau: + Phòng kế hoạch tổng hợp. - Có chức năng xây dựng và tổng hợp các loại kế hoạch, giúp Giám đốc kiểm tra đôn đốc về sản xuất kinh doanh, liên doanh liên kết, xây dựng cơ bản, - Nghiên cứu, tổng hợp và xử lý thông tin thị trường trong và ngoài nước kịp thời báo cáo, đáp ứng cho sản xuất kinh doanh. - Xây dựng các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch dự trữ, kế hoạch kiến thiết cơ bản, tổng hợp và lập báo cáo thực hiện kế hoạch. + Phòng kinh doanh vật tư bao bì: - Thực hiện mua bán, liên doanh liên kết sản xuất các loại vật tư nguyên liệu, thiết bị, sản phẩm bao bì và các hàng hoá khác. - Giao dịch ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán gia công, vận chuyển, theo dõi tình hình buôn bán vật tư. - Khai thác nguyên vật liệu thay thế nhập khẩu và khai thác nguồn hàng xuất khẩu cho Công ty. Nghiên cứu tình hình thị trường, mức giá cả để có thể thông báo kịp thời cho các phòng ban chi nhánh liên quan. + Phòng xuất nhập khẩu 1+2+3: - Phòng XNK bao gồm phòng XNK 1, 2 và 3. Ba phòng này thực hiện các chức năng kinh tế đối ngoại theo điều lệ của Công ty và theo quy định của Nhà nước. Được phép XNK các loại bao bì và sản phẩm liên quan đến bao bì + Tổng kho Cổ Loa: Trang 34
  35. - Có chức năng bảo quản, xuất nhập, tái chế hàng của Công ty đặt tại khu vực. Xuất nhập hàng hoá kịp thời và đúng trình tự. Mở sổ sách theo dõi tình hình XNK hàng hoá, đối chiếu chứng từ luân chuyển cho các phòng ban liên quan. + Phòng nghiên cứu phát triển: - Có trách nhiệm nghiên cứu thị trường để có tin tức cập nhật cho Công ty, áp dụng những tiến bộ khoa học hợp lý nhằm nâng cao chất lượng của sản phẩm sản xuất. + Phòng tổ chức hành chính: - Giúp Giám đốc nghiên cứu và xây dựng quản lý kinh doanh điều hành công tác sản xuất kinh doanh của Công ty đồng thời điều hành công tác hành chính. - Tổ chức sắp xếp cán bộ, thực hiện chế độ với cán bộ + Phòng tài vụ kế toán: - Giúp Giám đốc tổ chức hoạch toán kinh tế bằng tiền, tổ chức mọi hoạt động kinh doanh - sản xuất trong phạm vi cả Công ty. - Tổ chức hoạch toán kinh tế ở Công ty và hướng dẫn hoạch toán kinh tế với các đơn vị trực thuộc. Tổ chức duyệt quyết toán của Công ty và các đơn vị trực thuộc. - Thực hiện các chế độ chính sách về kế toán. - Tham gia vào quá trình duyệt quyết toán ký kết các hợp đồng thương mại với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Cơ cấu tố chức của PACKEXPORT là một chỉnh thể thống nhất, quan hệ mật thiết với nhau nhằm thực hiện những mục tiêu chung của Công ty. Các tổ chức tham mưu quản lý, các văn phòng đaị diện tại nước ngoài, các đơn vị kinh doanh và các xí nghiệp liên doanh trong và ngoài nước liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của từng đơn vị cũng như của toàn Công ty. Đồng thời các bộ phận này cũng chịu sự quản lý, chỉ đạo và điều hành chung của ban giám đốc PACKEXPORT. Trang 35
  36. b. Cơ chế hoạt động. Để có thể thích nghi tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, PACKEXPORT cũng như nhiều doanh nghiệp khác trong cả nước đều ý thức được điều quan trọng rằng: cần thoả mãn nhu cầu tối đa của khách hàng, nhằm lôi kéo được, duy trì được thị phần và thu được lợi nhuận, đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách tăng nhanh số vòng quay. Để thực hiện được mục tiêu này trước hết PACKEXPORT cần phải có một đội ngũ cán bộ giỏi về trình độ nghiệp vụ, có kiến thức nhất định về ngành hàng kinh doanh (chủ yếu là máy móc thiết bị). Đồng thời PACKEXPORT cũng phải tạo ra một tổ chức hoạt động gọn nhẹ, phát huy tính chủ động sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên và mỗi ca kíp làm việc. Quán triệt tinh thần đó, ban lãnh đạo PACKEXPORT đã quyết định trao quyền tổ chức, thực hiện hoạt động kinh doanh cho các đơn vị, theo đó các đơn vị kinh doanh phải tự nghiên cứu thị trường (có sự hỗ trợ, giúp đỡ của các văn phòng đại diện trực thuộc Công ty ở nước ngoài). Các đơn vị này phải chuyển dự thảo hợp đồng và phương án sử dụng vốn sang bộ phận kế hoạch tài chính để xin cấp vốn. Sau đó toàn bộ các hồ sơ này phải được đề trình lên Tổng giám đốc để phê duyệt. Chỉ khi có chữ ký của Tổng giám đốc thì các đơn vị mới được phép rút vốn tại ngân hàng vốn và tổ chức thực hiện các khâu tiếp theo. Riêng đối với những dự án nhập khẩu thiết bị toàn bộ và dây truyền công nghệ có giá trị lớn, cần đưa qua trung tâm tư vấn đầu tư và thương mại để tham mưu góp ý. Theo quy đinh 91/CP, đối với các hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ có giá trị từ 5 - 10 triệu USD phải được đệ trình Hội Đồng thẩm định Nhà nước phê duyệt. Những hợp đồng có giá trị trên 10 triệu USD thì phải được Thủ tướng Chính phủ Nhà nước phê duyệt. Đối với những hợp đồng có giá trị lớn nhưng dưới 5 triệu USD phải được Bộ Thương mại phê duyệt và phải có ý kiến của cơ quan chủ quản cũng như Bộ Tài chính. Trang 36
  37. 2.2 Tổ chức sản xuất. Trong thời gian qua, Công ty gặp tương đối nhiều khó khăn trong triển khai hoạt động sản xuất. Trong đó nổi bật lên là khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực làm cho sản xuất trong nước phát triển chậm, dẫn đến nhu cầu về bao bì cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, ở các khu vực Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng đều xuất hiện thêm nhiều cơ sở sản xuất bao bì mới do bản thân các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, đầu tư tự sản xuất bao bì, tạo ra sự cung cấp khép kín trong nội bộ. Hoặc trong các doanh nghiệp tư nhân đầu tư sản xuất bao bì cũng tăng lên đáng kể. Việc các cơ sở sản xuất bao bì và tham gia sản xuất bao bì tăng lên trong khi nhu cầu tiêu thụ không tăng làm cho sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt và quyết liệt. Để giành giật khách hàng, nhiều cơ sở bán phá giá, bán thấp hơn giá thành hay tạo ra cơ chế thị trường để lôi kéo thị trường làm cho thị trường tiêu thụ của các đơn vị sản xuất thuộc Công ty bị thu hẹp, hiệu quả sản xuất giảm. Tuy gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng phần lớn cá đơn vị sản xuất trong Công ty vẫn có đủ công ăn việc làm cho người lao động, tiếp tục khai thác thêm khách hàng mới bù đắp cho số khách hàng cũ đã bị san sẻ, mở thêm mặt hàng mới, mở thêm thị trường tiêu thụ mới ngoài khu vực. Đặc biệt, xí nghiệp in đã thu hút được lượng khách hàng khá lớn vào cuối năm 1998, tạo cho công ty đạt doanh số bán ra xấp xỉ 46,25 tỷ đồng. Năm 1999 dù gặp phải những khó khăn lớn như khủng hoảng trong khu vực (nước ta chịu ảnh hưởng muộn), thị trường bị thu hẹp, giá cả vật tư biến động mạnh cộng với cạnh tranh quyết liệt nên phần lớn giá bán các sản phẩm đều phải hạ làm cho doanh số và hiệu quả đạt thấp. Nhưng đến năm 2000 và 2001 tuy vẫn tồn tại những khó khăn nhưng các đơn vị của Công ty đã cố gắng để thực hiện nhiệm vụ được giao, sản xuất tương đối ổn định, về cơ bản có đủ việc làm cho người lao động. Quy trình sản xuất được chấn chỉnh thêm tạo điều kiện giảm giá thành quản lý vật tư, chi phí chất lượng giá cả tốt hơn. Vật tư đầu vào được cân đối và sử dụng hợp lý. Hàng do các đơn vị sản xuất tương đối ổn định về chất lượng, tỷ lệ sản phẩm hỏng giảm đáng kể so với các năm trước. Chi phí về điện, thông tin, chi phí ngoài sản xuất có tỷ lệ giảm hơn Trang 37
  38. so với năm 2000. Thị trường là một trong những yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh do đó các xí nghiệp này đã chú trọng công tác này. Hiện nay những đơn đặt hàng có số lượng lớn và giá trị lớn không nhiều thì việc thực hiện các đơn đặt hàng có giá trị nhỏ đòi hỏi có sự cố gắng cao, tính toán hợp lý và khoa học. Qua thời gian sản xuất, năng lực quản lý và trình độ tay nghề của công nhân được nâng lên. Xí nghiệp in và sản xuất bao bì vẫn duy trì được hoạt động ổn định và có hiệu quả. Bên cạnh những thuận lợi thì Công ty vẫn còn bộc lộ một số yếu kém như hệ số quay vòng tài sản thấp, tỷ suất lợi nhuận trên vốn sử dụng thấp. Hoạt động sản xuất của xã hội nói chung và Công ty nói riêng rất khó khăn. Có đơn vị chuyển biến và xử lý công việc chưa khẩn trương nên ảnh hưởng đến doanh số, thị phần và hiệu quả của Công ty. Tinh thần chủ động của cán bộ công nhân viên và đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo còn chưa cao, còn ảnh hưởng do tác động của cổ phần hoá Công ty. Đội ngũ lãnh đạo tại đơn vị sản xuất thiếu số lượng và chưa thích ứng với cơ chế thị truờng. Chế độ bảo dưỡng máy móc chưa đều theo định kỳ thời gian dẫn đến tình trạng hoạt động vận hành của máy móc có lúc bị ngừng làm ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất. 2.3 Một số nguyên liệu mà công ty sử dụng. + Gỗ bao gồm: Gỗ xẻ, gỗ tròn, gỗ dán. + Hoá chất bao gồm: PP, LDPE,Paraphin, nhựa. + Thép bao gồm: Thép lá, thép tráng kẽm,đai nẹp sắt, đinh thép dẹt, dây làm đinh, đai nẹp nhựa, kìm siết nẹp nhựa,cổ nút thùng phi. + Giấy bao gồm: Giấy Carton kraff, giấyCarton duplex, giấy láng, các loại giấy khác. Các nguyên liệu mà công ty sử dụng chủ yếu là nguyên liệu nhập từ nước ngoài (chiếm 80%). Lượng nguyên liệu được nhập chủ yếu từ khu vực Châu á như: Nam triều tiên, Đài loan, Thái lan, Singapore, Nhật bản, Trung quốc, Inđonexia Trang 38
  39. 2.4. Công nghệ, máy móc thiết bị Công ty sử dụng. Công ty XNK & kỹ thuật bao bì là đơn vị hoạt động kinh doanh là chính. Do vậy, phần lớn máy móc thiết bị tập trung ở xí nghiệp sản xuất Bao bì Carton và xưởng in thực nghiệm. Hàng năm Công ty đều đầu tư tu bổ sắm trang thiết bị máy móc mới cho phù hợp với tương lai. Công ty gồm hệ thống máy móc sau: - Máy in ROLANDZ K38, hai màu, khổ in 72* 102 với công suất 10.000 tờ /giờ. - Máy dập hộp định hình tự động 8P 102- SE của hãng BOBST Thụy sỹ, khổ dập 72*120, công suất 7.500 tờ/giờ. - Hệ thống máy móc chế bản. - Hệ thống thiết bị chế bản khuôn cho máy bế hộp. - Dây truyền sản xuất Carton sóng- Việt nam. - Máy thổi nhựa (1995) của Đài loan. - Hệ thống máy thổi tạo hạt (1997) của Việt nam. 2 5. Lao động và tài chính của Công ty. + Lao động của Công ty bao gồm 278 người. Nhìn chung lực lượng lao động còn trẻ, đủ trình độ kỹ thuật tay nghề để đảm đương công việc sản xuất cũng như công tác quản lý của Công ty. Trong đó có: - Cán bộ quản lý:15 người. - Viên chức nghiệp vụ: 30 người. - Công nhân: 233 người. - Cấp bậc bình quân: 3/7. Trong điều kiện hiện nay Công ty vẫn đang tiếp tục nâng cao trình độ quản lý của cán bộ cũng như cấp bậc của công nhân nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. + Tài chính của Công ty gồm: - Tổng vốn của Công ty có: 21.520 triệu VND. Trang 39
  40. - Vốn cố định của Công ty: 3.000 triệu VND. - Vốn lưu động của Công ty: 18.520 triệu VND. Công ty là đơn vị hoạt động kinh doanh với tài khoản: - Tiền Việt nam: 361.111.000.006. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. - Ngoại tệ: 362.111.370.006. Ngân hàng ngoại thương VIệt nam. 3. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty Xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì trong thời gian qua. Nền kinh tế đổi mới theo hướng kinh tế thị trường thực sự đã làm bừng tỉnh các doanh nghiệp trước cung cách làm ăn cũ. Không ít doanh nghiệp có quy mô lớn đã bị phá sản, điều này cũng cho thấy nhược điểm của cơ chế quản lý cũ: tách rời các doanh nghiệp với thị trường thực của nó, sản xuất sản phẩm một cách thụ động theo mệnh lệnh của cấp trên giao. Trước bối cảnh đó, Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì cũng như doanh nghiệp nhà nước khác đã phải đối đầu vơí rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng với nỗ lực của toàn bộ cán bộ, công nhân viên, Công ty đã từng bước vượt qua những khó khăn ban đầu, từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Cho đến nay Công ty đã đạt được những bước đi nhất định cả về chất và lượng, điều đó thể hiện qua những kết quả Công ty đạt được trong thời gian gần đây, từ 1998 - 2001. Trang 40
  41. Bảng1: Kết quả tổng hợp tình hình sản xuất kinh doanh của PACKEXPORT. Năm 1998 1999 2000 2001 Chỉ tiêu Giá trị Giá trị % Giá trị % Giá trị % 99/98 00/99 01/00 -Tổng DT 243,71 184,36 75,65 255,46 138,57 246,2 96,38 (Tỷ.VNĐ) -X. khẩu 4,759 8,151 171,27 8,15 99,99 5,15 63,19 (Tr.USD) -N. khẩu 9,284 6,612 71,08 8,72 131,88 11,71 134,29 (Tr. USD) -Nộp NS 14,622 16,054 109,79 14,927 92,98 14,772 98,96 (Tỷ.VNĐ) -Lợi nhuận 1,01 0,4 39,60 1,26 315 1,75 138,89 (Tỷ.VNĐ) -Thu nhập 870.000 720.000 82,76 950.000 131,94 978.500 103 bình quân Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1998 - 1999 - 2000 - 2001. Nhìn vào bảng 1 ta thấy trong 4 năm vừa qua hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty diễn ra theo chiều hướng thuận lợi. Tuy nhiên, nước ta là nước nằm trong khu vực Đông Nam á nên không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra vào cuối năm 1997 và tất nhiên Công ty XNK và kỹ thuật bao bì cũng không nằm ngoài vùng ảnh hưởng. Công ty chủ yếu nhập nguyên liệu từ nước ngoài để sản xuất và kinh doanh. Do đó, khi bị ảnh hưởng, tỷ giá VND/USD ngày càng tăng làm cho hoạt động nhập khẩu của Công ty trở nên khó khăn. Đồng thời hàng xuất khẩu khó khăn về giá cả trong nước và giá cả xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là hàng nông sản, mỹ nghệ nên có Trang 41
  42. những mặt hàng không thể xuất khẩu được do tính chất thời vụ hàng năm. Nhưng nhìn chung hoạt động kinh doanh của công ty là có lãi. Ngoài ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, năm 1999 do những nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động vào làm giảm nhiều chỉ tiêu của Công ty, còn các năm khác các hoạt động của Công ty tăng đáng kể. Doanh thu của Công ty tăng lên một cách đáng kể trong những năm gần đây. Năm 1998 Công ty đạt được tổng doanh thu là 243,71 tỷ đồng thì sang năm 1999 do bị ảnh hưởng muộn của cuộc khủng hoảng tổng doanh số của Công ty giảm 24,35% tức chỉ đạt 184,36 tỷ đồng. Nhưng ngay sau đó, Công ty đã nỗ lực cải thiện tình hình, chấn chỉnh lại quản lý và sản xuất nên sang năm 2000 doanh thu của Công ty đạt được 255,46 tỷ tăng 12,5% so với năm 1999. Năm 2001 do Công ty chú trọng vào công tác mở rộng thị trường trong và ngoài nước cho nên doanh thu năm này chỉ đạt 246,2 tỷ đồng giảm 3,62% so với năm 2000. Điều này cho thấy rằng sản phẩm của Công ty vẫn tăng và tiếp tục được thị trường chấp nhận, uy tín của Công ty ngày càng được tăng lên. Hình 1: Doanh thu của Công ty từ 1998 - 2001 Tỷ đồng 300 255,46 246,2 250 243,71 184,36 200 150 1998 1999 2000 2001 Trang 42
  43. Sở dĩ doanh thu bán hàng của Công ty tăng nhanh như vậy trong thời gian vừa qua do một số nguyên nhân sau: - Do Công ty thực hiện được lượng xuất khẩu tương đối lớn trong khi tỷ giá USD/VNĐ tăng do doanh thu tăng. - Công ty đã tích cực chủ động trong việc tổ chức đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm được cải thiện, hạ giá thành sản phẩm do đó hạ giá bán trên thị trường. - Công ty đã tích cực tìm kiếm và mở rộng thị trường thông qua việc mở rộng mạng lưới tiêu thụ: các chi nhánh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm. Đây vừa là đầu mối phân phối sản phẩm của Công ty vừa là nơi thu thập thông tin thị trường chuyển về Công ty. Điều này giúp cho Công ty nắm bắt kịp thời sự biến động của thị trường để từ đó có đối sách thích hợp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, sang năm 1999 Việt Nam mới bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, trong khi đó các nước đã chịu ảnh hưởng nay đang coá chiều hướng khôi phục lại như Thái Lan, Inđônêxia làm cho hàng xuất khẩu của ta bị cạnh tranh và giảm xuống. Hàng hoá trong nước thì ứ đọng, giá cả và thị trường biến động mạnh, do đó năm 99 là một năm kinh doanh vất vả của Công ty, làm cho doanh thu cũng như moi chỉ tiêu khác đều giảm đáng kể. Tuy nhiên, với tinh thần chủ đạo cao, Công ty đã dần khôi phục lại vào năm 2000, 2001 và đạt được nhiều chỉ tiêu cao hơn năm 99 nhưng vẫn chưa thể phục hồi lại được tình hình như năm 98. Lợi nhuận là tiêu thức đánh giá chính xác kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Lợi nhuận càng cao thì doanh nghiệp càng có điều kiện tái đầu tư, mở rộng sản xuất. Có thể nói lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là động lực cho mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Sự tăng trưởng của lợi nhuận đã cho ta thấy khả năng kinh doanh của Công ty. Ngoài nguyên nhân khủng hoảng đã phân tích ở trên làm lợi nhuận của Công ty giảm mạnh thì nguyên nhân làm lợi nhuận của năm 1999, 2000, 2001 chưa tăng bằng năm 1998 là do gần đây, Công ty chú Trang 43
  44. trọng vào công tác mở rộng thị trường và cạnh tranh với các đối thủ trong và ngoài mức chứ không phải lợi nhuận. Tình hình nộp ngân sách phản ánh việc thực hiện nghĩa vụ công dân của Công ty đối với Nhà nước. Hầu hết các năm Công ty đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước. Năm 1998 là 14,622 tỷ đồng, năm 1999 mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực nhưng Công ty vẫn nộp đầy đủ ngân sách là 16,054 tỷ đồng tăng 9,79% so với năm 1998, năm 2000 nộp 14,927 tỷ đồng giảm 7,02% so với năm 1999, năm 2001 nộp 14,772 tỷ đồng giảm 1,04% so với năm trước. Tiền tương của nhân viên trong Công ty cũng tăng hàng năm và hiện Công ty là một trong những doanh nghiệp có mức lương bình quân tương đối cao. Cụ thể, năm 1998 là 870.000đồng/ tháng, năm 1999 là720.000 đồng/ tháng, năm 2000 là 950.000đồng/ tháng, năm 2001 là 978.5 00 đồng/ tháng. Phần trên là toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh mà Công ty thực hiện được từ năm 1998 đến năm 2001, nó cho ta thấy một khả năng nhất định và tiềm ẩn của Công ty trong công cuộc CNH - HĐH. Từ đó tìm ra được hướng đi đúng đắn nhằm đưa thành tích của Công ty cao hơn nữa. Về tình hình sản xuất, Công ty cũng gặp không ít khó khăn. Năm 1998 các đơn vị sản xuất đạt 46,25 tỷ đồng đã thực hiện vượt 40% so với năm 1997.Tuy nhiên, từ đây sang năm 1999 trong bối cảnh về nhu cầu bao bì không tăng nhưng lại có nhiều cơ sở sản xuất ra đời tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng tạo ra sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt với các đơn vị sản xuất của Công ty. Khách hàng bị phân tán xé nhỏ, giá bán ngày càng hạ thấp để tranh giành khách hàng làm cho hiệu quả sản xuất giảm. Mặt khác, do khủng hoảng trong nước chưa được khắc phục làm cho sản xuất hàng hoá trong nước chậm phát triển dẫn đến nhu cầu tiêu thụ cũng bị ảnh hưởng. Đồng thời ngoài những cơ sở mới, các đơn vị sản xuất hàng hoá cũng tự sản xuất bao bì tạo ra sự cung cấp khép kín trong nội bộ, số cơ sở sản xuất bao bì lại càng tăng lên trong khi nhu cầu tiêu thụ bao bì không đổi dẫn đến cạnh tranh quyết liệt đối với Công ty. Thị trường có chiều hướng thu hẹp Trang 44
  45. làm cho các đơn vị sản xuất gặp nhiều khó khăn, hơn nữa giá cả vật tư biến động mạnh như sản xuất túi siêu thị hay việc thiết bị hư hỏng dẫn đến hiệu quả sản xuất và doanh số không đạt như ý muốn. Do cạnh tranh quyết liệt nên giá bán phải hạ hơn năm 1998 làm doanh số hiệu quả đạt thấp và chỉ đạt 29,7 tỷ đồng. Cho đến năm 2000, 2001 tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty đã được cải thiện. Doanh số sản xuât của Công ty đạt 3 năm trước. Như vậy, cho dù trong hoàn cảnh khó khăn và nhiều biến động nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn được khắc phục, phát triển và có lãi. II - Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì. 1. Đặc điểm hoạt động nhập khẩu của Công ty. a. Đặc điểm về mặt hàng nhập khẩu. Trước những năm 1990 là thời kỳ chế độ kinh tế chỉ huy bao cấp, hoạt động chủ yếu của Công ty là sản xuất và kinh doanh bao bì phục vụ trong nước và hàng xuất khẩu mà thị trường là các nước Đông Âu. Thị trường trong nước, khách hàng lớn chủ yếu là các Tổng Công ty xuất nhập khẩu như: Tổng Công ty xuất nhập khẩu Nội thương, Công ty INTIMEX, Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam. Mặt hàng phục vụ bao bì xuất khẩu là hàng may mặc, bánh kẹo. Thời kỳ này Công ty hoạt động theo sự chỉ đạo kế hoạch của Nhà nước. Đầu vào Nhà nước cung cấp theo chỉ tiêu kế hoạch và đầu ra Nhà nước bao tiêu cũng theo kế hoạch vì vậy làm ăn kém hiệu quả. Khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, những năm đầu của thập kỷ 90, Công ty phải đối đầu với những khó khăn thử thách khắc nghiệt của cơ chế thị trường, mặt khác các xí nghiệp thành viên như: Xí nghiệp Bao bì Xuất khẩu I, Xí nghiệp Bao bì Xuất khẩu II, Chi nhánh Công ty Bao bì tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng xin tách ra khỏi Công ty gây sự hụt hẫng trong việc sản xuất trực tiếp hay đầu mối giao lưu với thị trường tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, ở thời Trang 45
  46. điểm này, Công ty hoạt động kém hiệu quả, thì trệ. Để đững vững và tồn tại được cần có sự thay đổi lớn trong Công ty và trên thực tế Công ty đã có sự thay đổi thực sự, hoạt động của Công ty đa dạng hơn nhiều so với thời kỳ bao cấp. Để phục vụ sản xuất trực tiếp Công ty mạnh dạn đầu tư trang thiết bị, thành lập các xí nghiệp sản xuất trực tiếp bao bì phục vụ hàng sản xuất trong nước và xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài đồng thời mạnh dạn tổ chức kinh doanh hàng xuất khẩu và nhập khẩu. b. Danh mục hàng hoá nhập khẩu. Xong xong với việc nhập khẩu, đồng thời xuất phát từ nhu cầu thực tế ngày càng phát triển của các thành phần kinh tế trong lĩnh vực bao bì và sản xuất bao bì, phạm vi hoạt động kinh tế nhập khẩu mang tính chất tổng hợp và đa dạng hoá về các loại hình kinh doanh, chủng loại hàng hoá cũng như thị trường nhập khẩu, thị trường tiêu thụ. PACKEXPORT đã đa dạng hoá cơ cấu mặt hàng nhập khẩu và được quy thành các nhóm mặt hàng chính sau: * Nhóm mặt hàng nguyên liệu làm bao bì truyền thống - chất lượng cao bao gồm: + Các loại giấy làm bao bì cao cấp là giấy Krap làm bao xi măng, Krap làm thùng đựng tivi và tủ lạnh. + Các loại hạt nhựa làm mút xốp, chai lọ, túi đựng thực phẩm bằng PED. + Các loại giấy Duplex định lượng từ 250 - 500 Gr/ m 2 làm hộp phẳng chất lượng cao. + Các loại giấy Cusser, Crisland. * Nhóm mặt hàng thuộc kế hoạch đa dạng hoá mặt hàng gồm: + Thiết bị máy móc làm bao bì. + Các loại phụ tùng xe máy Honda. + Các loại máy móc làm bao bì, làm giấy, + Các loại vật tư, thiết bị cho ngành viễn thông. c. Thị trường nhập khẩu của Công ty. Trang 46
  47. Từ năm 1993 trở lại đây, thực hiện chiến lược đa dạng hoá nghành nghề kinh doanh, thực hiện đầy đủ chức năng của một doanh nghiệp Nhà nước với nhiện vụ xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì, góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, giới thiệu khoa học - công nghệ mới về sản xuất bao bì của thị trường quốc tế và khu vực vào trong nước. Ngoài các thị trường từ những bạn hàng truyền thống như: Liên xô (cũ), CHDC Đức, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật, austraylia, Nam Triều Tiên, Công ty còn mở rộng ra các thị trường mới như: Anh, Pháp, Trung Quốc, Thụy Điển, Thái Lan, Italia, Việc giao dịch với các thị trường này không những giúp Công ty tăng doanh số, kim ngạch xuất nhập khẩu, mà còn giúp Công ty nhập khẩu được những mặt hàng kỹ thuật cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của ngành bao bì. 2. Thực trạng hoạt động nhập khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì. Hoạt động nhập khẩu của Công ty trong những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc, góp phần giúp Công ty đứng vững và có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. ta có thể thấy điều này qua bảng kim ngạch nhập khẩu sau: Bảng 2: Tổng kim ngạch nhập khẩu từ năm 1998 – 2001. Năm Kim ngạch nhập khẩu Năm 1998 9.283.693 USD Năm 1999 6.612.898 USD Năm 2000 8.719.124 USD Năm 2002 11.707.640 USD Nguồn báo cáo tổng kết năm 1998 - 1999 - 2000 - 2001. Trang 47
  48. 12 10 8 1998 6 1999 2000 4 2001 2 0 1998 1999 2000 2001 Biểu đồ 1: Kim ngạch nhập khẩu của Công ty Để hiểu và nắm rõ tình hình hoạt động nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT chúng ta sẽ đi sâu nghiên cứu, phân tích hoạt động nhập khẩu của Công ty về cơ cấu mặt hàng, các hình thức nhập khẩu, các thị trường chính và các vấn đề liên quan đến việc nhập khẩu. a/ Cơ cấu mặt hàng. Nếu như trước đây Công ty chỉ nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng thuộc lĩnh vực bao bì, nhưng bước vào cư chế thị trường, để tồn tại và phát triển Công ty đã đa dạng hoá cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của mình, nhờ đó góp phần không nhỏ trong quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty. Trang 48
  49. Bảng 3: Số liệu nhập khẩu các nhóm mặt hàng chính Năm 1998 1999 2000 2001 Mặt hàng Giá trị TT % Giá trị TT % Giá trị TT % Giá trị TT % 1.Giấy các loại 3.529.613 38,02 2.120.456 32,07 3.420.800 39,23 4.254.320 36,34 2.Hạt nhựa các loại 950.432 10,24 620.500 9,39 1.000.000 11,46 1.240.500 10,59 3.Hoá chất và vật tư 1.846.248 19,89 1.021.600 15,45 1.650.000 18,92 1.912.400 16,33 sản xuất mút xốp 4.Máy móc thiết bị 2.457.400 26,47 1.540.522 23,30 2.245.361 25,75 3.500.420 29,90 5.Hàng tiêu dùng 500.000 5,38 309.820 4,69 465.963 5,34 800.000 6,84 Tổng kim ngạch NK 9.283.693 100 6.612.898 100 8.719.124 100 11.707.640 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1998 - 1999 - 2000- 2001 Trang 49
  50. Nhìn vào bảng 3 ta thấy: + Nhóm mặt hàng nguyên liệu giấy: Đây là nhóm hàng chủ yếu phục vụ cho trong ngành do đó những mặt hàng này có xu hướng tăng lên theo nhu cầu và chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập khẩu. Năm 1998 đạt 3.529.613 USD chiếm 38,02% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 2000 đạt 3.420.800 USD chiếm 39,23% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 2001 đạt 4.254.320 USD chiếm 36,34% tổng kim ngạch nhập khẩu Và năm 1999 do khủng hoảng tài chính khu vực Châu á tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh XNK của Công ty PACKEXPORT, hàng nhập về để sản xuất, hàng xuất khẩu sang các nước trong khu vực bị khủng hoảng tài chính gặp khó khăn vì vậy phải hạn chế nhập khẩu chỉ đạt 2.120.456 USD chiểm 32,07% tổng kim ngạch nhập khẩu. + Nhóm nguyên liệu chất dẻo: Đây là nhóm hàng có sự biến động tăng giảm thất thường. Lý do: phải sử dụng lớn vốn vay, sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về tài chính tại các nước trong khu vực nhất là năm 1998 - 1999 và nhiều đơn vị được phép kinh doanh hàng nhập khẩu trực tiếp. Năm 1998 đạt 950.432 USD chiếm 10,24% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 1999 đạt 620.500 USD chiếm 9,39% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 2000 đạt 1.000.000 USD chiếm 11,46% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 2001 đạt 1.240.500 USD chiếm 10,59% tổng kim ngạch nhập khẩu + Nhóm hóa chất và vật tư sản xuất mút xốp: đây là mặt hàng mới của PACKEXPORT, Công ty đã biết khai thác thế mạnh trong việc thực hiện kinh doanh mặt hàng mới này. Tỷ trọng được giữ tương đối ổn định từ năm 1998 đến 2001, riêng có giảm nhẹ năm 1999 do biến động của thị trường khu vực. Năm 1998 đạt 1.846.248 USD chiếm 19,89% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 1999 đạt 1.021.600 USD chiếm 15,45% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 2000 đạt 1.650.000 USD chiếm 18,39% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 2001 đạt 1.912.400 USD chiếm 16,33% tổng kim ngạch nhập khẩu Trang 50
  51. + Nhóm máy móc thiết bị: Mặt hàng này liên tục tăng lên trong 4 năm 1998 - 2001 cả về giá trị và tỷ trọng. Năm 1998 doanh số đạt 2.457.400 USD chiếm 26,47% tổng kim ngạch nhập khẩu, năm 2001 doanh số đã tăng là 3.500.420 USD chiếm 29,90% tổng kim ngạch nhập khẩu + Nhóm mặt hàng tiêu dùng: Đây là nhóm mặt hàng nằm trong mục tiêu đa dạng hoá mặt hàng. Tuy trong 4 năm qua nhóm mặt hàng này đạt doanh số còn thấp, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhưng vẫn giữ tương đối ổn định. Năm 1998 đạt 500.000 USD chiếm 5,38% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 1999 đạt 309.820 USD chiếm 4,69% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 2000 đạt 465.963 USD chiếm 5,34% tổng kim ngạch nhập khẩu Năm 2001 đạt 800.000 USD chiếm 6,48% tổng kim ngạch nhập khẩu Thông qua việc phân tích hoạt động nhập khẩu của Công ty theo cơ cấu mặt hàng, ta thấy Công ty nhập khẩu cả những mặt hàng trong nước không đáp ứng được và nhu cầu rất cần thiết cho việc phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh. Còn những loại hàng trong nước có thể đáp ứng được thì hạn chế nhập khẩu để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. b/ Hình thức nhập khẩu. Công ty PACKEXPORT hoạt động kinh doanh nhập khẩu dưới hai hình thức chủ yếu đó là: - Nhập khẩu trực tiếp. - Nhập khẩu uỷ thác. Trước đây Công ty thực hiện hoạt động nhập khẩu dưới hình thức nhập khẩu uỷ thác là chủ yếu do ở thời kỳ này Công ty gặp khó khăn về vốn và nhân lực nên không thể thực hiện hoạt động nhập khẩu trực tiếp. Từ khi có hiệp định vay nợ của Chính phủ và các tổ chức quốc tế Công ty đã chuyển sang thực hiện nhập khẩu trực tiếp. Trang 51
  52. Bảng 4: Các hình thức nhập khẩu chính của PACKEXPORT. (Đơn vị: USD) Năm 1998 1999 2000 2001 h.thức NK Giá trị Giá trị % Giá trị % Giá trị % NK trực tiếp 7.949.626 5.759.834 87,1 8.417.442 96,54 11.707.640 100 NK uỷ thác 1.334.067 853.064 12,9 301.682 3,46 0 0 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1998 - 1999 - 2000 - 2001. Trang 52
  53. Nhìn vào bảng 4 ta thấy: Năm 1998 nhập khẩu trực tiếp là 7.949.626 USD còn nhập khẩu uỷ thác là 1.334.067 USD. Sang năm 1999 do thực hiện đúng chủ trương là nhập khẩu trực tiếp là chủ yếu nên năm 1999 nhập 5.759.834 USD chiếm 87,1% tổng kim ngạch nhập khẩu, còn 12,9% là nhập khẩu uỷ thác với 853.064 USD. Năm 2000, nhập khẩu uỷ thác của Công ty là 301.682 USD chiếm 3,46% tổng kim ngạch nhập khẩu và còn lại 8.417.442 USD là nhập khẩu trực tiệp chiếm 96,54%. Đến năm 2001 thì Công ty thực hiện 100% là nhập khẩu trực tiếp với 11.707.640 USD, nhập khẩu uỷ thác Công ty không thực hiện. Qua đó, ta thấy hoạt động nhập khẩu trực tiếp được PACKEXPORT ưa thích hơn nhập khẩu uỷ thác. 100 90 80 70 60 NK TT 50 NK UT 40 30 20 10 0 1998 1999 2000 2001 Biểu đồ 2: Hình thức nhập khẩu của Công ty. c/ Thị trường nhập khẩu. Thị trường nhập khẩu có một vai trò quan trọng với sự phát ttriển hoạt động nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT. Hoạt động nhập khẩu có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào thị trường nhập khẩu. Chính vì lẽ đó từ năm 1991 theo đường lối mở cửa nền kinh tế Công ty PACKEXPORT đã tìm đến và quan hệ với một số đối tác có uy tín lớn trên toàn thế giới chứ không bó hẹp với Trang 53
  54. những thị trường quen thuộc. Và cũng nhờ có những quyết định kịp thời trên đã giúp Công ty phát triển và hoạt động có hiệu quả. Nhìn vào 5 bảng ta thấy thị trường của Công ty rất rộng lớn, gồm hơn 13 thị trường ,lớn nhỏ trên thế giới. Nhưng chủ yếu vẫn là các thị trường Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Singapore, Malaysia, Thụy Điển và các thị trường khác như TRung Quốc, Anh, Đức, úc, Trong các thị trường chủ yếu của Công ty nổi lên là thị trường Nhật, đây là nguồn cung cấp nguồn nguyên liệu, thiết bị điện, thiết bị tiêu dùng chính cho nguồn nhập của Công ty. Doanh số của thị trường này trong suốt những năm gần đây luôn luôn tăng và không bị biến động nhiều mặc dù năm 1998 - 1999 nền kinh tế các nước bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Còn những thị trường chủ yếu còn lại đều có sự biến động, không ổn định. Nhìn chung ta có thể thấy rằng trong 3 năm gần đây Công ty có quan hệ tốt với rất nhiều thị trường trên thế giới, tuy tỷ trọng giữa các thị trường này không đồng đều. Nhưng nhờ có mối quan hệ này đã giúp Công ty thực hiện tốt hoạt động XNK, và ngày càng phát triển . Trang 54
  55. Trang 55
  56. Năm 1999 2000 2001 Tên nước Giá trị TT % Giá trị TT % Giá trị TT % 1. 1.427.700 21,59 1.640.300 18,8 1.927.625 16,5 2. Nhật Bản 1.278.300 19,33 1.420.610 16,4 2.342.700 20,0 3. Nam Triều Tiên 658.900 9,96 723.300 8,3 1.315.600 11,2 4. Đài Loan 480.350 7,26 510.600 5,8 536.400 4,6 5. Malaisia 425.264 6,43 516.650 5,9 868.645 7,4 6. Inđônêsia 378.300 5,72 540.216 6,2 620.617 5,3 7. Pháp 350.280 5,3 565.200 6,5 735.300 6,3 8. Singapore 350.200 5,3 584.600 6,7 532.700 4,5 9. Trung Quốc 338.700 5,12 420.600 4,8 596.634 5,2 10.Thụy Điển 320.560 4,85 430.648 4,9 532.168 4,5 11. Đức 264.360 4,00 550.424 6,3 620.700 5,3 12. Italia 174.624 2,64 410.615 4,7 428.651 3,7 13. Anh 165.360 2,50 365.400 4,2 420.400 3,6 14. Thái Lan 0 0 39.961 0,5 229.500 1,9 15. Các nước khác 6,612.898 100 8.719.124 100 11.707.640 100 Tổng Cộng Bảng 5: Tình hình nhập khẩu theo thị trường Trang 56
  57. III - Đánh giá hoạt động nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT. 1. Những mặt đã đạt được. Từ khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, Công ty Xuất nhập khẩu và Kỹ thuật Bao bì đã từng bước lớn mạnh và phát triển không ngừng. Qua những kết quả này chúng ta thấy rõ những ưu điểm mà Công ty đã đạt được trong thời gian qua. Đúng như tên gọi của Công ty, PACKEXPORT đã thực hiện tốt những nhiệm vụ của mình là nhập khẩu vật tư - thiết bị bao bì cho mọi ngành của đất nước. Cụ thể năm 1999 Công ty đã nhập khẩu được 6.612.898 USD chiếm 47,79 % kim ngạch xuất nhập khẩu. Năm 2000 giá trị nguyên liệu vật tư bao bì nhập khẩu đạt 3.420.800 USD chiếm 39,23 % hàng nhập khẩu của Công ty và năm 2001 giá trị nhập khẩu đạt 11.707.640 USD chiếm 69,45% kim ngạch xuất nhập khẩu. Được thành lập từ năm 1976, Công ty có một bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực nhập khẩu bao bì. Điều này đã tạo nên sự tin tưởng, tín nhiệm của bạn hàng trong và ngoài nước đối với Công ty. Với một đội ngũ cán bộ, nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ cao, Công ty đã thực hiện tốt chức năng của mình. Thời gian qua PACKEXPORT đã nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, thiết bị và cả bao bì cho mọi lĩnh vực báo đảm uy tín và chất lượng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng đồng thời phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế ở nước ta. Chính ưu điểm này đã giúp Công ty có được sự tín nhiệm của bạn hàng khắp nơi. Cứ nói tới lĩnh vực bao bì là mọi người nghĩ đến ngay công ty Xuất nhập khẩu và Kỹ thuật Bao bì - Bộ Thương mại. 1.1 Đa dạng hoá kinh doanh trên cơ sở khai thác triệt để thế mạnh truyền thống. Kinh doanh một mặt hàng trong cơ chế thị trường là khá nguy hiểm và khó có sức cạnh tranh trên thị trường. Chính vì vậy, Công ty đã chuyển hướng sang kinh doanh tổng hợp, tuy nhiên vẫn dựa trên thế mạnh chủ yếu là nhập khẩu các mặt hàng truyền thống trong lĩnh vực bao bì. Công ty đã củng cố và mở rộng hoạt đông kinh doanh cho vật tư thiết bị lẻ, nguyên liệu cho sản xuất và các hàng cho Trang 57
  58. tiêu dùng. Công ty nhận thấy các doanh nghiệp trong nước khi tham gia chức năng nhập khẩu còn thiếu kinh nghiệm, kiến thức và nhất là thông tin nên PACKEXPORT đã tăng cường các hoạt động tư vấn của mình, phát huy tối đa chức năng là một thành viên của Hiệp hội Bao bì Châu á (APF) để tăng doanh thu và giúp cho các doanh nghiệp này hoạt động tốt hơn, cụ thể Công ty đã có tư vấn trong thẩm định giá cả, soạn thảo tài liệu và tổ chức đào tạo tại chỗ cho các đơn vị trong nước. Hơn thế nữa, Trước chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu của nước ta, Công ty đã tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Tuy có gặp khó khăn do từ chuyên nhập khẩu nay chuyển sang cả xuất khẩu nhưng Công ty đã từng bước vượt qua và đạt được những thành quả đáng khích lệ. Năm 1998, Công ty đã xuất khẩu được 4,759 tr. USD đạt 70% kế hoạch đặt ra. Năm 1999, Công ty thực hiện xuất khẩu đạt 8,151 tr. USD. Năm 2000 xuất khẩu đạt 8,15 tr.USD. Năm 2001 xuất khẩu đạt 5,15 tr. USD. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Công ty vẫn là hàng nguyên liệu - nhiên liệu, sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm dược liệu, may mặc, thủ công mỹ nghệ, Ngoài ra Công ty còn thực hiện liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất, trực tiếp đầu tư nhập khẩu. Đây là một hướng kinh doanh hứa hẹn nhiều kết quả trong tương lai. 1.2 Đội ngũ cán bộ có trình độ, am hiểu nghiệp vụ và pháp luật. Ngay sau khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, Công ty thực hiện việc tổ chức lại bộ máy quản lý và đào tạo lại lao động cho phù hợp với tình hình mới. Đến nay, PACKEXPORT đã có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao với trên 80% cán bộ có trình độ đại học và nhân viên Công ty đều thông thạo ngoại ngữ, am hiểu các nghiệp vụ xuất - nhập khẩu đồng thời lại được trang bị cả trình độ kỹ thuật, một điều kiện tốt cho việc xuất nhập khẩu thiết bị, kỹ thuật. Chính vì vậy việc giao dịch với bạn hàng ngoài nước của Công ty được thuận tiện dễ dàng. Không chỉ có vậy, cán bộ của Công ty còn rất thông thạo về các điều kiện giao dịch quốc tế. Với những bạn hàng truyền thống như Nga, Trung Quốc, Nam Triều Trang 58
  59. Tiên, Nhật, Đài Loan, cán bộ nghiệp vụ còn hiểu rõ luật pháp, phong tục tập quán, văn hoá của các quốc gia đó. Và đương nhiên là những cán bộ này nắm rất rõ những quy định về luật lệ của Nhà nước để vận dụng vào hoạt động kinh doanh quốc tế. Trong nội bộ Công ty, mọi người đều đoàn kết, giúp dỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Lãnh đạo Công ty và cán bộ công nhân viên đều có sự đồng tâm hiệp lực với nhau để đạt mục tiêu là làm cho PACKEXPORT không ngừng phát triển. Với nhận thức là phải gắn lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể để phát triển lâu dài. Công ty đã có chế độ khuyến khích vật chất, khen thưởng với cán bộ công nhân viên. Điều này đã giúp cho người lao động càng thêm gắn bó với PACKEXPORT. 1.3 Về thị trường. Trong thời gian qua nhất là năm 1997 với bối cảnh cạnh tranh khốc liệt để giành giật thị trường giữa các loại hình doanh nghiệp với nhau cùng với sự biến động về tài chính ở khu vực Đông Nam á và những chủ trương thay đổi về cơ chế điều hành XNK của Nhà nước đã trở thành những yếu tố tiềm ẩn nhiêù rủi ro cho hoạt đông xuất nhập khẩu nói chung của Công ty, đặc biệt là nhập khẩu nói riêng thị trường của Công ty vẫn không ngừng mở rộng. Nhờ có hoạt động nhập khẩu, Công ty đã tạo được mối quan hệ bạn hàng với nhiều quốc gia trên thế giới. Thị trường chủ yếu cung cấp vật tư bao bì, thiết bị và phụ tùng cho Công ty là: Inđônêsia, Malaisia, Nam Triều Tiên, Trung Quốc, Tuy nhiên trong tương lai cần thêm tỷ trọng nhập khẩu từ các thị trường khác mà sản phẩm có chất lượng công nghệ như Anh, Pháp, Tây Đức, để đảm bảo cho như cầu và phù hợp với sự phát triển không ngừng của ngành bao bì Việt Nam. 1.4 Về tổ chức. Với quy mô gọn nhẹ, các phòng ban chức năng cụ thể, rõ ràng đã giúp Công ty đổi mới về cơ chế làm việc, giảm bớt được các thủ tục phiền hà, đội ngũ cán bộ nghiệp vụ của Công ty không ngừng được năng cao trình độ chuyên môn của mình và được đào tạo chính quy từ các trường đại học lớn với các chuyên ngành Trang 59
  60. kinh tế, thương mại, ngoại thương, có khả năng tiếp cận với trình độ quản lý tiên tiến và tiếp thu tốt các kinh nghiệm kinh doanh của các nước trên thế giới. 2. Những mặt chưa làm được. Bên cạnh những ưu điểm kể trên, Công ty không tránh khỏi những thiếu sót của mình. Trước tiên là hiệu quả kinh doanh của Công ty chưa thật sự cao, thực tế tình hình hoạt động của Công ty còn gặp nhiều khó khăn. Doanh thu, lợi nhuận của các năm bấp bênh không ổn định. Tất nhiên điều này xảy ra do tác động tổng hợp của nhiều yếu tố khách quan như do tác động muộn của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, do trong nước xuất hiện nhiều doanh nghiệp tư nhân sản xuất kinh doanh lĩnh vực này, nhưng nó cũng cho ta thấy hiệu quả kinh doanh của Công ty. Trong hoạt động kinh doanh PACKEXPORT chưa thực sự năng động, phần lớn các hoạt động nhập khẩu đều do Bộ Thương mại chỉ đạo giới thiệu. Các hoạt động tìm kiếm thị trường và khách hàng của Công ty chưa thực sự phong phú, chưa hiệu quả mà gần như thụ động trong việc tìm kiếm bạn hàng và thị trường. 3. Những thuận lợi và khó khăn tác động đến hoạt động nhập khẩu. 3.1 Những thuận lợi. Trong xu hướng chung của thời đại, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, cả thế giới là một thị trường lớn. Với chính sách “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” Việt Nam đã thực sự tạo ra được vị thế thuận lợi cho việc phát triến nội tại và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực, tham gia vào phân công lao động quốc tế. Đó là Việt Nam đã tham gia vào ASEAN (tháng 7/1995) với chương trình cắt giảm thuế quan sẽ giúp cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời hàng hoá nhập khẩu từ ASEAN vào Việt Nam sẽ nhiều hơn, giá cả hợp lý hơn. Bên cạnh đó Nhà nước đã và đang tạo ra một hành lang pháp lý và quản lý XNK, tạo điều kiện cho Công ty và các doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật và giúp cho các doanh nghiệp này mở rộng mối quan hệ với các thị trường nước ngoài. Trang 60
  61. Công ty có tài sản vô hình lớn nhất đó là uy tín, đồng thời có quan hệ mật thiết với các ngân hàng như: Ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Thương mại cổ phần XNK Việt Nam (Vietcombank). Mối quan hệ này đã tạo thế vững chắc cho Công ty trên thương trường, giúp cho Công ty ngày càng có những hợp đồng nhập khẩu. Công ty là một doanh nghiệp Nhà nước đứng đầu ngành trong hoạt động XNK và lĩnh vực kỹ thuật bao bì, đây cũng là thế mạnh của Công ty. Công ty có các bạn hàng lớn tin cậy và bạn hàng truyền thống. Công ty là một doanh nghiệp Nhà nước giúp đỡ, cấp vốn ngay từ khi hình thành. Công ty có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, dày dạn kinh nghiệm, thông thạo công việc. Những điểm thuận lợi trên đã tạo điều kiện cho công ty không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, phạm vi hoạt động kinh doanh XNK và phát triển nhanh về mọi mặt. 3.2 Những khó khăn và nguyên nhân tồn tại. * Những khó khăn. Nhìn vào thực tế công tác nghiệp vụ cũng như kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty chúng ta có thể thấy rằng: để hoạt động tốt, có hiệu quả trong điều kiện cơ chế thị trường, cạnh tranh khốc liệt, cạnh tranh ngay cả với Công ty PACKEXPORT. Những khó khăn tác động trực tiếp hay gián tiếp đến mọi mặt hoạt động của PACKEXPORT là: a/ Khó khăn về thị trường trong nước. Từ khi nước ta thực hiện chính sách cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động XNK thì PACKEXPORT mất đi vị trí độc quyền về nhập khẩu toàn bộ vật tư, thiết bị trong lĩnh vực bao bì. Trên thị trường lúc này có nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cùng tham gia kinh doanh. Hầu hết các Bộ, ngành và các cơ quan khác đều thành lập bộ phận XNK trong Bộ - Ngành đó. Do ở cùng trong ngành nên họ am hiểu tình hình Trang 61
  62. tốt hơn, được ưu đãi hơn về nhập khẩu chủng loại của nghành đó. Như vậy, Công ty gặp nhiều sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường với các doanh nghiệp khác. Đây là một khó khăn lớn đối với Công ty. b/ Khó khăn về thị trường nước ngoài. Công ty được thành lập năm 1976, và thị trường, đối tác chính của PACKEXPORT là các nước phe XHCN. Sự sụp đổ của các nước phe XHCN là Đông Âu và Liên Xô đã làm thu hẹp nguồn hàng nhập khẩu của Công ty. Bạn hàng cũ, truyền thống mất đi trong khi chưa kịp tạo dựng bạn hàng mới. Khi tạo dựng được bạn hàng mới nhưng chưa thể hiểu kỹ về họ như hiểu về bạn hàng truyền thống được, càng chưa hiểu về phong tục, tập quán, thông lệ buôn bán, luật pháp của nước họ, Thậm chí ngay cả ngôn ngữ của họ chúng ta cũng chưa thông thạo. Vì vậy, phải tiến hành các bước nghiên cứu bạn hàng mới. Trước đây quan hệ thương mại trên cơ sở nghị định được ký giữa hai Chính phủ nhưng nay theo cơ chế thị trường, việc mua bán phải dựa vào quan điểm hai bên cùng có lợi. Muốn thực hiện được nguyên tắc này Công ty phải nắm kỹ về đối tác từ khi ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế mới không bị tổn thất. Hiện nay, Công ty có quan hệ buôn bán với trên 50 quốc gia trên thế giới. Đây chính là một khó khăn cho Công ty khi thực hiện công việc của mình. c/ Khó khăn từ chính sách của Nhà nước gây nên. Một số quy định của Nhà nước chưa thực sự khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, không tạo được động lực cho các doanh nghiệp này phát triển. Các Bộ, ngành có liên quan chưa có sự thống nhất với nhau trong việc chỉ đạo các hoạt động nhập khẩu, chưa có chính sách ưu đãi cho nhập khẩu vật tư trong nước chưa sản xuất được, nhất là trong lĩnh vực sản xuất bao bì cao cấp, Chủ trương hạn chế nhập khẩu đã gây nên nhiều khó khăn cho một Công ty chuyên làm công tác nhập khẩu như PACKEXPORT. Việc mở rộng đối tượng tham gia kinh doanh xuất - nhập khẩu làm cho PACKEXPORT phải chịu sự cạnh Trang 62