Đề tài Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế

doc 94 trang nguyendu 4420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_thuc_trang_va_mot_so_giai_phap_chu_yeu_nham_nang_cao.doc

Nội dung text: Đề tài Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế

  1. Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài : Ngày nay, cùng với xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá, du lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng đã và đang trở thành một nghành dịch vụ quan trọng ,chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong GDP của mỗi quốc gia. Đây là hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận có triển vọng phát triển trong xã hội hiện đại. Những năm trước đây, nhất là từ khi đất nước thống nhất, công ty du lịch công đoàn Việt Nam ( VTUT Co) đã tổ chức cho công nhân viên chức và người lao động đi nghỉ ngơi, tham qua du lịch mỗi năm một nhiều. Đi theo tuyến du lịch công đoàn, khách du lịch có thể tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, các công trình kinh tế, văn hoá của đất nước và trao đổi kinh nghiệm về các hoạt động công đoàn, những kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Công ty còn tiến hành các hoạt động phục vụ đoàn viên và lao động du lịch ở bnước ngoài và đón khách du lịch quốc tế vào Việt Nam theo con đường hợp tác và trao đổi du lịch. Tuy nhiên, công tác tổ chức và phục vụ tham quan du lịch vẫn chủ yếu mang tính kiêm nhiệm và bao cấp. Đối với phục vụ chủ yếu là công nhân viên chức, những người lao động có thành tích trong lao động sản xuất được lựa chọn một cách công khai và được hưởng các chế độ ưu đãi của cơ quan xí nghiệp hay ng ân sách bảo hiễm xã hội. Khi chuyển sang kinh doanh trong cơ chế thị trường điều này đã làm cho công ty gặp không ít khó khăn. Thứ nhất : Công ty chưa quen với việc tổ chức và phục vụ tham quan du lịch với tư cách là một hoạt động kinh doanh. Vì vậy, công tác tổ chức phục vụ còn mang tính chất trì trệ, nhất là về hệ thống nhà nghỉ và chất lượng phục vụ. Thứ hai : nếu như trước kia, nguồn khách quốc tế đến với công ty chủ yếu là do việc ký kết hợp đồng với các liên đoàn lao động của các nước xã hội chủ nghĩa ( chủ yếu là các nước Đông Âu và Liên Xô cũ ) thì giờ đâykể từ khi 1
  2. Liên Xô tan rã, nguồn khách này không còn duy trì ổn định như trước nữa, thêm vào đó việc đưa người Việt Nam sang các nước này cũng gặp nhiều khó khăn Thứ ba : Nhận thức được kinh doanh du lịch là một trong các hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả cao vơí chi phí thấp hơn nhiều so với hiệu quả mang lại, không ít các công ty, xí nghiệp thuộc các ngành, ban chức năng khác nhau kể cả khu vực Nhà nước và tư nhân đã xâm nhập vào thị trường kinh doanh du lịch, khai thác một cách tối đa những lợi thế trong lĩnh vực kinh doanh này. Đứng trước những khó khăn trên, hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và kinh doanh lữ hành nói riêng của công ty du lịch công đoàn Việt Nam (nay là công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế) cần phải nhận thức lại công việc đầy triển vọng nhưng lại đang thực hiện thiếu hiệu quả của mình. Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích: Để tiến hành nghiên cứu thực trạng, đánh giá hiệu quả của hoạt động du lịch quốc tế của công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế (Internation Tourism and Investment Consultancy Company – TIC) tại Hà Nội. Từ đó, đề tài đưa ra phương hướng và giải pháp cụ thể để phát triển hoạt động du lịch quốc tế và hiệu qủa kinh doanh du lịch, đáp ứng nhiệm vụ mà Đảng, chính phủ, Tổng liên đoàn lao động việt Nam giao cho cũng như đáp ứng lòng mong mỏi của tập thể ban lãnh đạo công ty là tăng lợi nhuận cho công ty, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên. 2.2. Đối tượng nghiên cứu ; Đề tải tập trung vào phân tích vai trò, vị trí và nội dung của hoạt động du lịch quốc tế trong công ty TIC. Các tiêu thức đánh giá hiệu quả kinh doanh và làm thế nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh đó. 2
  3. 2.3. Phạm vi nghiên cứu : Mặc dù Công ty còn có các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trong cả nước như chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh, chi nhánh tại Đà Nẵng, Nam Định, Vĩnh Phúc, nhưng do thực tế khách quan cũng như thời gian nghiên cứu có hạn nên luận văn chỉ đề cập trong phạm vi hoạt động của công ty TIC tại Hà Nội. 3. Phương pháp nghiên cứu : Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nn trong quá trình nghiên cứu phân tích. Đề tài còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp kết hợp với khảo sát thực tiễn hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và đầu tư quốc tế. 4. Kết cấu của chuyên đề : Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày trong 3 chương: Chương I : Lý luận chung về du lịch quốc tế và hiệu quả trong trong kinh doanh du lịch quốc tế. Chương II : Thực trạng kinh doanh du lịch quốc tế ở Công ty Du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế Hà nội. Chương III : Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty TIC – Hà Nội. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Anh Minh và tập thể cán bộ trong công ty Du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành bài viết này!. 3
  4. Chương I Lý luận chung về du lịch quốc tế và hiệu quả trong kinh doanh du lịch quốc tế. I. Lý luận chung vê du lịch quốc tế. 1. Khái niệm về du lịch. Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến một sự bùng nổ của hoạt động du lịch trên toàn cầu. Du lịch đã trở thành một nghành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và kinh tế Du lịch đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế thế giới. Thực tế hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người. Trong thời kỳ cổ đại Ai Cập và Hy Lạp hoạt động du lịch mang tính tự phát, đó là các cuộc hành hương về đất thánh, các thánh địa, chùa chiền, các nhà thờ KiTô giáo. Tới thế kỷ thứ XVII, khi các cuộc chiến tranh kết thúc thời kỳ phục hưng ở các nước châu Âu bắt đầu, kinh tế xã hội phát triển nhanh, thông tin, bưu điện cũng như giao thông vận tải phát triển và thúc đẩy cho lịch sử phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ du lịch hiện đại gắn liền với sự ra đời của các hãng lữ hành Thomas Cook. Năm 1841 Thomas Cook đã tổ chức cho 570 người từ Leicestor đến Longshoroungh với một mức giá trọn gói gần các dịch vụ vui chơi, ca nhạc, đồ uống Nhưng du lịch chỉ thực sự phổ biến cuối thế kỷ XIX và bùng nổ vào thập kỷ 60 cuối thế kỷ XX này khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai đem lại những thành quả vô cùng to lớn về kinh tế xã hội. Con người sống trong không gian với "bê tông" "máy tính", tác phong công nghiệp đã quá mệt mỏi họ nảy sinh nhu cầu trở về với thiên nhiên, về với cuội nguồn văn minh nông nghiệp hay chỉ đơn giản để nghỉ ngơi, sau một thời gian lao động. 4
  5. Như vậy, du lịch đã trở thành một hiện tượng quen thuộc trong đời sống con người và ngày càng phát triển phong phú cả về chều rộng và chiều sâu. Vậy du lịch là gì? Về khía niệm du lịch, trên thế giới nhiều học giả đã đưa ra các khái niệm khác nhau đi từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. * Dưới góc độ khách du lịch: - Theo nhà kinh tế học người áo Rozep Stander cho rằng khách du lịch là loại khách đi lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế. * Dưới góc độ nhà kinh doanh du lịch: Du lịch được hiểu là việc sản xuất bán và trao cho khách các dịch vụ và hàng hoá nhằm đảm bảo việc đi lại, lưu trú, ăn uống, giải trí, thông tin đem lại lợi ích kinh tế cho quốc gia và các tổ chức kinh doanh đó. ở Việt Nam, khái niệm du lịch được nêu trong pháp lệnh du lịch như sau: "Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định" 2. Khái niệm về du lịch quốc tế: Các định nghĩa về du lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng đã và đang gặp phải những khó khăn nhất định. Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa của nhiều tác giả khác nhau. Theo định của hội nghị ở Rôma do liên hiệp quốc tổ chức về các vấn đề của du lịch quốc tế năm 1963: Khách du lịch quốc tế là những người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian 24h hoặc hơn. Định nghĩa trên mắc phải sai lầm đó là không đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng hay phụ thuộc giữa các ngành với nhau trong du lịch. Định nghĩa vẫn chưa giới hạn đầy đủ đặc trưng về lĩnh vực của các hiện tượng và các mối quan hệ kinh tế du lịch (các mối quan hệ thuộc loại nào: kinh tế, chính trị, xã hội, 5
  6. văn hoá). Ngoài ra, định nghĩa cũng bỏ sót hoạt động của các công ty giữ nhiệm vụ trung gian nhiệm vụ tổ chức du lịch và nhiệm vụ sản xuất hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách du lịch. Xuất phát từ những thực tế đó, chúng ta chỉ có thể nhìn nhận du lịch quốc tế như sau: Du lịch quốc tế là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của cuộc hành trình nằm ở các quốc gia khác nhau. ở hình thức này khách phải vượt qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch. Từ cách nhìn nhận trên chúng ta có thể thấy rằng du lịch quốc tế là những hình thức du lịch có dính dáng tới yếu tố nước ngoài, điểm đi và điểm đến của hành trình ở các quốc gia khác nhau, khách du lịch sử dụng ngoại tệ của nước mình đem tới nước du lịch để chi tiêu cho nhu cầu du lịch của mình. 3. Phân loại du lịch quốc tế. Du lịch quốc tế được chia làm hai loại: Du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế bị động. + Du lịch quốc tế chủ động là hình thức du lịch của khách ngoại quốc đến một đất nước nào đó, ví dụ đến Việt Nam và tiêu tiền kiếm được từ đất nước của họ. + Du lịch quốc tế bị động là hình thức du lịch có trong trường hợp các công dân Việt Nam đi ra ngoài biên giới nước ta và trong chuyến đi ấy, họ tiêu tiền kiếm được ở Việt Nam. Xét trên phương diện kinh tế, du lịch quốc tế chủ động gần giống hoạt động xuất khẩu vì nó làm tăng thu nhập ngoai tệ cho đất nước du lịch. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đổi ra bản tệ để chi tiêu số tiền chi tiêu ở nơi du lịch đẩy mạnh cán cân thanh toán của Việt Nam. Đối với hình thức du lịch quốc tế bị động, loại du lịch này tương tự như nhập khẩu hàng hoá vì nó liên quan tới chi ngoại tệ. Xét trên phương tiện văn hoá xã hội: Khách du lịch quốc tế có cơ hội tìm hiểu các phong tục tập quán, hệ thống văn hoá, pháp luật của nước sở tại, đồng thời chịu sự chi phối của hệ thống chính trị, văn hoá, kinh tế cũng như pháp 6
  7. luật của nước đó. Điều này có nghĩa là khi đó du lịch tại một quốc gia khác, khách du lịch phải tuân theo qui định về luật pháp, văn hoá, xã hội, của quốc gia đó. Nguyên tắc trao đổi văn hoá và kinh tế trên cơ sở này sẽ có ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển của du lịch quốc tế chủ động cũng như du lịch quốc tế bị động, tuy nhiên mỗi đất nước tuỳ thuộc vào khả năng của mình mà có những định hướng phát triển cho phù hợp. 4. Vai trò của du lịch quốc tế. Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước, của vùng hoặc của một nơi riêng biệt thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Do vậy, để nhận rõ được vai trò của du lịch quốc tế đối với quá trình tái sản xuất xã hội cần hiểu rõ những đạc điểm tiêu dùng du lịch. Những đặc điểm quan trong nhất là: + Nhu cầu tiêu dùng trong du lịch là những nhu cầu đặc biệt bao gồm: Nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh thiên nhiên, nhu cầu khám phá những điều mới lạ. + Tiêu dùng du lịch thoả mãn các nhu cầu hàng hoá (thức ăn, hàng hoá mua sắm, hàng lưu niệm ) và đặc biệt là các nhu cầu về dịch vụ nơi ở, vận chuyển hành khách, y tế, thông tin + Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hoá diễn ra đồng thời với việc sản xuất ra chúng. Trong du lịch không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hoá đến cho khách và ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi có hàng hoá. + Việc tiêu dùng du lịch chỉ thoả mãn những nhu cầu thứ yếu đối với con người (với ngoại tệ ở thể loại du lịch giữa khi đó du lịch có ý nghĩa sống còn đối với người bệnh) + Tiêu dùng du lịch thường xảy ra theo thời. Qua những đặc điểm tiêu dùng ở trên, ta có thể thấy vai trò của kinh doanh du lịch quốc tế như sau: 7
  8. 4.1 Du lịch quốc tế tạo nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Thật vậy, năm 1998, Mêhico đã thu được 7,8 tỷ USD, đứng thứ 2 về thu nhập của cả nước, đứng thứ 14 thế giới về thu nhập từ du lịch. Ngoại tệ thu được từ du lịch quốc tế góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước và thường được sử dụng để mua sắm thiết bị máy móc cần thiết cho quá trình tái sản xuất xã hội. Do vậy, du lịch quốc tế góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng thu nhập quốc dân. 4.2 Tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch. Cũng như ngoại thương, du lịch quốc tế tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch, tiết kiệm lao động xã hội khi xuất khẩu một số mặt hàng. Nhưng xuất khẩu theo đường du lịch quốc tế có lợi hơn nhiều so với xuất khẩu ngoại thương. Trước hết, một phần rất lớn đối tượng mua bán quốc tế là các dịch vụ (lưu trữ, bổ sung, trung gian ) Do vậy, xuất khẩu của du lịch quốc tế còn là hàng ăn uống, hoa quả, rau xanh, hàng lưu niệm. Như vậy, xuất khẩu qua du lịch quốc tế là "Xuất khẩu tại chỗ" hàng hoá, dịch vụ, những hàng hoá không thể hay khó xuất khẩu được con đường ngoại thương thông thường, mà nếu muốn xuất khẩu chúng thì phải đầu tư nhiều chi phí cho việc đóng gói, bảo quản và vận chuyển mà giá cả lại thấp hơn. Việc xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế luôn đảm bảo thực hiên doanh thu lớn hơn nếu cùng xuất khẩu những hàng hoá đó theo đường ngoại thương vì hàng hoá xuất khẩu theo đường du lịch quốc tế theo giá bán lẻ còn nếu xuất khẩu hàng hoá đó bằng con đường ngoại thương thì giá này là giá bán buôn. Xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế không tốn chi phí vận chuyển quốc tế, tốn ít chi phí đóng gói và bảo quản hơn xuất khẩu ngoại thương vì nó được vận chuyển trong phạm vị đất nước du lịch. Bên cạnh đó, xuất khẩu theo đường kinh doanh du lịch quốc tế không phải tốn chi phí trong hoạt động xuất khẩu do trả thuế xuất khẩu cũng như tốn các chi phí về bảo hiểm. 4.3 Tiết kiệm thời gian và tăng vòng quay của vốn đầu tư: Do đặc điểm của tiêu dùng du lịch là: Khách hàng phải tự vận động đến nơi có hàng hoá và dịch vụ chứ không phải vận chuyển hàng hoá đến với khách nên tiết kiệm được thời gian làm tăng nhanh vòng quay của vốn đầu tư, do đó 8
  9. thu hồi vốn nhanh và có hiệu quả. Ngoài ra khi thu hồi vốn đầu tư vào du lịch quốc tế thực chất đã "Xuất khẩu" được nguyên vật liệu và lao động. Nguyên vật liệu ở đây thường không phải là đối tượng xuất khẩu theo đường ngoại thương. 4.4 Du lịch quốc tế là phương tiện quảng cáo không mất tiền cho đất nước du lịch chủ nhà. Khi khách tới khu du lịch, khách có điều kiện làm quen với một số mặt hàng ở đó, khi trở về khách có thể yêu cầu cơ quan ngoại thương nhập khẩu mặt hàng đó về quốc gia của mình. Theo cách này, du lịch quốc tế góp phần tuyên truyền cho nền sản xuất của nước du lịch chủ nhà. 4.5 Mở rộng và củng cố các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Sự phát triển của du lịch quốc tế có ý nghĩa quan trong đến việc mở rộng và củng cố các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các mối quan hệ này chủ yếu theo các hướng: Ký kết hợp đồng trao đổi khách giữa các nước tổ chức và hãng du lịch; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực vay vốn phát triển du lịch; hợp tác trong lĩnh vực cải tiến các mối quan hệ tiền tệ trong du lịch quốc tế. Bên cạnh đó, du lịch quốc tế góp phần thúc đẩy các quốc gia bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên-xã hội. Du lịch quốc tế cũng kích thích các ngành nghề khác phát triển như: Giao thông vận tải, thông tin liên lạc, khách sạn, y tế, xây dựng. Du lịch quốc tế có vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần quốc tế cho các dân tộc, làm cho mọi người thấy được sự cần thiết phải phát triển và củng cố các nối quan hệ quốc tế. Du lịch quốc tế góp phần làm cho các dân tộc gần gũi nhau hơn, bình thường hoá quan hệ quốc tế và tăng thêm phần hữu nghị giữa các dân tộc. Theo số liệu thống kê gần đây của UNESCO thì 11% đầu tư của thế giới dành cho du lịch, 10,9% sản phẩm sản xuất ra là do ngành này, 10.7% số người lao động làm việc trong lĩnh vực "Công nghiệp không khói" và 20% giao thông thương mại thế giới phục vụ chu du lịch. Điều đó càng khẳng định du lịch là nghành có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nhiều quốc gia. 9
  10. 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động dulịch quốc tế. Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, lĩnh vực dịch vụ đã đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống kinh doanh xã hội của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Năm 1970, dịch vụ chiếm 55% tổng sản phẩm của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Đến năm 1990, tỉ trọng của dịch vụ đã tăng lên tới 65%, trong đó phần lớn là sự tăng trưởng của các ngành tham gia vào thương mại quốc tế. Chính vì vậy, việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh dịch vụ quốc tế nói chung và kinh doanh du lịch quốc tế nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp khắc phục, hạn chế những tác động xấu đến lĩnh vực kinh doanh du lịch quốc tế, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này. Có thể liệt kê một vài yếu tố ảnh hưởng tới kinh doanh du lịch quốc tế :  Sự tăng cầu về du lịch của người tiêu dùng (do thu nhập tăng).  Sự tăng cầu của các hãng về du lịch.  Khả năng cung ứng của các nhà cung cấp du lịch.  Giá cả và chất lượng dịch vụ du lịch.  Việc thiểu hóa và việc bảo tồn nguyên vật liệu cũng là một nguyên nhân khiến cho tỉ trọng ngành du lịch tăng lên biểu hiện ở đầu ra công nghiệp.  Thay đổi kỹ thuật đã nuôi dưỡng khả năng tồn tại và khả năng tiếp xúc với nhau của các hãng kinh doanh du lịch cách xa trên thế giới.  Sự phát triển của các Công ty đa quốc gia.  Việc xoá bỏ các hàng rào chắn, các quy định cũng tạo ra điều kiện cho ngành du lịch phát triển ở tầm cỡ quốc tế.  Sự can thiệp của chính phủ. Có thể nói, đến lượt mình, thương mại lại trở thành chìa khóa cho sự phát triển ngành du lịch trên phạm vi quốc tế. ảnh hưởng của các yếu tố trên tới kinh doanh du lịch quốc tế biểu hiện như sau :  Việc tiêu chuẩn các dịch vụ du lịch được cung cấp. 10
  11.  Các cơ hội cho việc đặc thù hóa các dịch vụ du lịch được cải tạo, chẳng hạn thông qua việc ký kết hợp đồng với một hãng lập trình nước ngoài để thiết kế hệ thống kế toán đặc thù.  Cuộc cách mạng thông tin là trung tâm của toàn bộ quá trình, cụ thể là dưới dạng máy tính hóa và việc trao đổi thông tin qua mạng. Sự đổi mới kỹ thuật trong lĩnh vực máy tính và sự truyền bá nhanh chóng của nó đã và đang cách mạng hóa tốc độ và khối lượng của chuyển đổi thông tin nhiều lần trong cùng một thế hệ. Các dịch vụ kinh doanh du lịch đòi hỏi sự gặp mặt trực tiếp giữa người mua và người bán ngày càng giảm. Sự thay đổi nhanh chóng của hệ thống thông tin và mạng lưới liên lạc, sự hoạt động của các dịch vụ không còn phụ thuộc vào sự có mặt mang tính địa lý của nó nữa. Các Công ty đa quốc gia có thể bán các dịch vụ mà không cần đầu tư trực tiếp, tuy nhiên đầu tư trực tiếp và sản lượng tiêu thụ các dịch vụ qua các thực thể của họ dường như là một phương thức được ưa chuộng. Mặc dù các rào chắn kỹ thuật và chính sách đang giảm đối với các dịch vụ song trên thực tế, với số lượng và các hình thức của các rào chắn dịch vụ như hiện này thì các rào chắn dịch vụ vẫn còn cao hơn nhiều so với các rào chắn hàng hóa thông thường khác. Các rào chắn này tồn tại dưới dạng như :  Kiểm soát trực tiếp di chuyển dịch vụ du lịch qua biên giới.  Hạn chế các dự án đầu tư liên quan đến dịch vụ du lịch.  Không khuyến khích thương mại thông qua các thủ tục hành chính, thuế khóa và các tiêu chuẩn sở hữu. Cả hai đối tượng là các hãng cung cấp dịch vụ và các khách hàng tiềm năng đều đòi hỏi việc xóa bỏ các hàng rào này.  Sự không khuyến khích của chính phủ đối với việc cung cấp và tiêu thụ các sản phẩm du lịch quốc tế. Các trở ngại đối với việc kinh doanh du lịch ở nước ngoài gồm hai hình thức cơ bản : Các hàng rào hạn chế xâm nhập và những khó khăn của việc cung cấp dịch vụ ở nước ngoài. Các hàng rào hạn chế xâm nhập thường được xem là 11
  12. yếu tố để đảm bảo an ninh quốc gia, an ninh kinh tế. Chính phủ thường đưa ra các biện pháp, chính sách để bảo hộ mạnh mẽ đối với hoạt động dịch vụ trong nước. Các quy định bắt buộc các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải bỏ ra một khoản chi phí lớn hơn so với các nhà cạnh tranh nội địa, không cho phép tự do cạnh tranh trong một số lĩnh vực dịch vụ Như bất cứ một loại hình kinh doanh, một lĩnh vực kinh doanh nào khác, lĩnh vực kinh doanh du lịch cũng chịu sự tác động, sự chi phối của môi trường kinh doanh du lịch quốc tế. Mỗi một quốc gia, mỗi một khu vực đều có những đặc trưng khác nhau về môi trường kinh doanh. Mỗi quốc gia có một môi trường luật pháp, môi trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường văn hóa, môi trường cạnh tranh khác nhau. Mặt khác các nhân tố, các điều kiện của môi trường kinh doanh cũng rất phong phú, đa dạng và luôn biến đổi khá phức tạp. Sự thay đổi đó có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế. Nó đòi hỏi các nhà kinh doanh du lịch quốc tế phải nắm vững được các đặc điểm, sự thay đổi của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh nhằm có biện pháp, hướng đi thích hợp để nâng cao hiệu quả, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh du lịch của mình. 6. Kinh nghiệm phát triển hoạt động du lịch quốc tế cua một số nước trên thế giới. 6.1. Đặc điểm thị trường du lịch quốc tế. Thị trường du lịch là một bộ phận cấu thành đặc biệt của thị trường hàng hoá bao gồm toàn bộ những mối quan hệ và cơ chế kinh tế có liên quan tới thì gian, điều kiện và phạm vi thực hiện dịch vụ và đáp ứng các nhu cầu xã hội về du lịch. Nói đến thị trường du lịch quốc tế là nói đến sản xuất trao đổi sản phẩm, dịch vụ du lịch, là đối thoại giữa người sản xuất và người tiêu dùng trong đó người tiêu dùng được thoả mãn nhu caàu của mình về các sản phẩm hay dịch vụ du lịch, còn người sản xuất thông qua tiếp xúc với khách hàng mà định hướng hoạt động kinh doanh của mình sao cho thu được hiệu quả kinh tế tối đa. Nói một cách chi tiết và đầy đủ hơn thì thị trường du lịch quốc tế là lĩnh vực cụ thể trong lưu thông hàng hoá, dịch vụ du lịch, là tổng hợp các điều kiện thực hiện các sản phẩm hàng hoá đó về kinh tế (gồm các yếu tố nhờ cung cấp giá 12
  13. cả ) kỹ thuật và tâm lý xã hội. Mỗi yếu tố đều có vai trò nhất định trong việc cấu thành thị trường du lịch. Thị trường du lịch quốc tế mang tính độc lập tương đối so với thị trường hàng hoá nói chung vì nó thực hiện dịch vụ hàng hoá của ngành du lịch. Do sản phẩm của du lịch quốc tế không thể vận chuyển từ nơi này đến nới khác nên trên thị trường không có sự chuyển dịch của hàng hoá khách du lịch muốn tiêu dùng sản phẩm du lịch phải tới nơi có sản phẩm, một số hàng hoá cảu tiêu dùng và sẩn xuất chúng diễn ra đồng thời tại một địa điểm. Thị trường du lịch quốc tế cũng như các thị trường hàng hoá thông thường đều chịu sự chi phối của cácqui luật kinh tế như qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật giá cả, nhưng do có những đặc điểm riêng biệt nên thị trường du lịch xuất hiện muộn hơn so với các thị trường hàng hoá khác. Thị trường du lịch là tập hợp của cung, cầu về sản phẩm du lịch (trong đó chủ yếu là dịch vụ) và các mối quan hệ để xác định giá cả giữa chúng. Một đặc điểm tiếp theo của thị trường du lịch quốc tế đó là thị trường du lịch quốc tế chịu sự tác động của các điều kiện về kinh tế, điều kiện về giao thông, không khí hoà bình ổn định trong nước độ an toàn đối với khách. Tính ổn định của thị trường du lịch bị ảnh hưởng rất lớn bới các điều kiện trên. Cụ thể là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng châu á gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nước châu á đã làm cho người ta ít đi du lịch nước ngoài hơn. Người châu Âu chỉ thích đi du lịch các nước trong châu Âu và người châu á không muốn đi du lịch ở các nước ngoài châu á với lý do tiết kiệm chi phí. Người Mỹ sẽ ít đi du lịch ở các nước đạo hồi hơn vì lo ngại tình trạng khủng bố của phong trào Hồi giáo quá khích. Vì lý do đó thị trường du lịch Mỹ la tinh và vùng Caribe sẽ được lời nhờ thu hút được du khách Hoa Kỳ đến thăm do sự thuận tiện về mặt địa lý, tương đồng với văn hoá Mỹ và tình hình chính trị khá ổn định. 13
  14. 6.2. Kinh nghiệm phát triển hoạt động du lịch quốc tế của một số nước trên thế giới. Du lịch được người ta ví như một ngành công nghiệp không khói. Ngành du lịch đã và đang góp phần tích cực trong sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Ngành du lịch góp phần tăng thu ngoại tệ, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác cùng phát triển Chúng ta có thể tổng hợp một số kinh nghiệm quản lý, kinh doanh du lịch ở một số nước như sau: 1. Coi trọng chiến lược, kế hoạch và các chính sách thúc đẩy phát triển du lịch. Kinh nghiệm của "Cường quốc" Du lịch trên thế giới cho thấy, muốn phát triển du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu thì phải đặt nó trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Chiến lược ưu tiên phát triển du lịch này phải thông qua một hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ nhằm huy động mọi nguồn lực để thực hiện, đưa du lịch phát triển với tốc độ cao và vững chắc. Hệ thống cơ chế chính sách phải xuất phát từ những đặc trưng của du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hoá cao, mang tính toàn cầu hoá, khu vực hoá. Du lịch càng phát triển thì tính chất xã hội hoá của nó càng cao, sự liên ngành và phạm vi hoạt động cuả nó càng rộng rãi. Ngoài ra, cơ chế và các chính sách phát triển du lịch phải thích ứng với điều kiện lịch sử, tận dụng được thời cơ và vận hội ở từng thời điểm. Trong hệ thống chính sách thì chính sách ổn định chính trị ,kinh tế trong nước là chính sách cơ bản, quyết định hàng đầu cho việc phát triển du lịch. Chẳng hạn ở ấn Độ, sự thất bại của "Năm du lịch ấn Độ 1991" trước hết là do bất ổn định của tình hình chính trị và kinh tế trong nước với sự kiện thủ tướng Rajiv Gandhi bị ám sát, tiếp đến xung đột phe phái, tình trạng lộn xộn ở một số bang, thêm vào đó là hạ tầng cơ sở yếu kém đưa đến hậu quả là số khách quốc tế tới thăm giảm 30% so với năm trước. Thường thì ở các nước có du lịch phát triển, ngành du lịch được hình thành trên cơ sở tận dụng được những lợi thế so sánh, nhưng thời gian đầu sức 14
  15. mạnh của nó thể hiện nhiều ở xu thế phát triển chứ chưa ở thực lực. Trên cơ sở xác định như vậy, các nước này có sự ưu tiên để thúc đẩy du lịch phát triển tạo thế cho ngành du lịch, sau khi đạt đến độ phát triển nhất định, nó sẽ mang lại tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả chính trị, văn hoá xã hội cũng phát triển. Du lịch muốn phát triển phải dựa trên cơ sở nguồn tài nguyên du lịch. Song nguồn tài nguyên ấy, lúc đầu tồn tại phần nhiều ở dạng tiềm nămg. Muốn tiềm năng du lịch biến thành khả năng, thành sản phẩm du lịch, nhất thiết phải có sự ưu tiên đầu tư cho nó, bao gồm: đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch, ưu tiên cho việc chuyên môn hoá, hiện đại hoá trong ngành du lịch Đây là những nội dung cơ bản trong việc ưu tiên phát triển ngành du lịch hiện nay. Tổ chức Du lịch Thế giới, trong một báo năm 1987, đã nhận xét: Kinh tế du lịch ở một số nước phát triển mạnh, không phải là sự ngẫu nhiên, đột xuất mà do nhà nước đã quan tâm, đặt ra mục tiêu đưa Du lịch thành một ngành kinh tế quan trọng trong quốc sách của mình. Nước Pháp đã trở thành một trong những điểm du lịch số 1 trên thế giới, năm 1996 thu hút 61,5 triệu lượt khách nước ngoài đến du lịch, phục vụ 230 triệu lượt người Pháp đi du lịch các vùng trong nước, tổng thu nhập du lịch chiếm 10% GDP cả nước; du lịch nước Pháp đã tạo ra 2 triệu việc làm cho xã hội. Sở dĩ nước Pháp đạt được kết quả như vậy là do từ khâu xây dựng kế hoạch đến chính sách ưu tiên phát triển du lịch đã tập trung vào các mục tiêu rất cụ thể: an toàn du lịch cao, vệ sinh môi trường tốt, chiến lược tiếp thị quảng cáo năng động, sản phẩm du lịch đa dạng, chất lượng cao đáp ứng thị hiếu đủ sức cạnh tranh với các nước châu âu khác như ý, Tây Ban Nha Du lịch của Indonesia có bước tiến nhảy vọt trong vòng 10 năm (1985- 1995) vì có một số chiến lược phát triển du lịch rất toàn diện, gồm 10 điểm: Đẩy mạnh công tác tiếp thị, tăng cường khuyến mại sản phẩm du lịch ra nước ngoài; giao thông thuận tiện đến các điểm du lịch; đa dạng hoá sản phẩm du lịch; chú trọng đến phát triển du lịch phù hợp với các đối tượng khách hàng; kiện toàn mói quan hệ giữa Nghành du lịch với giao thông vận tải, an ninh 15
  16. quốc gia; giáo dục đào tạo, quản lý lực lượng làm du lịch; khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển du lịch; phát triển du lịch đồng bộ; giáo dục mọi người dân hiểu rõ tầm quan trọng của du lịch. Nhờ đặt kế hoạch phát triển du lịch trong chiến lược quốc gia nên có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch với các ngành kinh tế, văn hoá. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa du lịch của Indonesia trong những năm gần đây đạt được những thành tựu đáng kể. Du lịch Indonesia đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia, khoảng 3-4 tỷ USD mỗi năm. Indonesia đã đề ra và đang thực hiện kế hoạch khuyến khích phát triển du lịch 1993-2003 với tên gọi là "Thập kỷ du lịch Indonesia". Chính sách du lịch được hướng vào thị trường các nước có tiềm năng lớn, đặc biệt là Nhật Bản, Đài Loan, austalia và các nước ASEAN. Singapo cũng có bước tiến dài trên con đường phát triển du lịch. Với nỗ lực của Cục xúc tiến du lịch Sangapore (STPB), của các cơ quan hữu quan Chính phủ và các danh nghiệp, Singapore được dự kiến xây dựng thành một thủ đô của du lịch, một bức tranh sinh động và hấp dẫn của nghành công nghiệp trong tương lai không xa. Viễn cảnh tương lai đó sẽ được thực hiện qua 6 định hướng chiến lược: - Xác định lại vị trí của ngành du lịch. - Phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm. - Phát triển du lịch như một nghành công nghiệp. - Quy hoạch không gian phát triển du lịch. - Hợp tác cùng có lợi. - Phấn đấu xây dựng một cường quốc du lịch. Về tổng thể, 6 định hướng chiến lược đó hình thành một mô hình kiến trúc tầm chiến lược, một phác thể để phát triển du lịch trong thế kỷ 21. 2. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. Bất cứ lĩnh vực nào muốn phát triển đều phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật. Đối với du lịch cũng vậy, muốn phát triển, trước tiên các phương tiện giao thông, thông tin liên lạc phải rất hiện đại. Hiện 16
  17. nay, ở nhiều nước, công nghệ thông tin du lịch đang được ứng dụng phổ biến, như ở Mỹ, lao động trong các cơ sở thông tin du lịch chiếm 37% lao động của ngành du lịch, ở Anh chiếm 35%, ở Pháp chiếm 35,1%, ở Đức chiếm 30%. Các nước trong vùng Đông Nam á, như Indonesia, trong vòng 10 năm (1985-1994) số lượng du khách quốc tế tăng bình quân 20,5% /năm do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng là: Nhà nước trung ương và địa phương đã chú trọng đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ phát triển du lịch. Các nước khác như Singapore, Thái Lan, Malaysia cũng đều có cả một quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhờ vậy mà du lịch của họ đạt nhiều kết quả. Trong xây dựng cơ sở vật chất chuyên nghành, ngoài việc chú trọng xây dựng khách sạn phải chú ý xây dựng cơ sở vui chơi, giải trí, các khu du lịch và các quần thể du lịch (như Trung Hoa Cẩm Tú của Trung Quốc, Trung tâm giải trí ở Cao Nguyên Genting Malaysia, Thế giới thiên đàng Địa ngục của Singapore ) để giữ khách lưu lại lâu hơn, tăng nguồn thu và tăng khả năng hấp dẫn khách đến nhiều lần. Các nguồn vốn để thực hiện chủ yếu là liên doanh với nước ngoài, vốn vay và huy động trong dân. Để đảm bảo cân đối trong xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, phải coi trọng công tác quy hoạch là công tác hàng đầu, gắn qui hoạch du lịch với quy hoạch kinh tế xã hội của cả nước và của từng địa phương. Đồng thời với quy hoạch phải lo dự án đầu tư để thực hiện đồng bộ. Malaysia và Singapore có kinh nghiệm về quy hoạch và tổ chức quản lý thực hiện quy hoạch. ở đây trên cơ sở quy hoạch kinh tế - xã hội chung, họ tiến hành quy hoạch từng vùng, trong quy hoạch từng vùng, từng khu vực thường là quy hoạch cả không gian (mô hình) và làm dự án cụ thể. Từ đó mới đề ra chính sách để dầu tư (đấu thầu, cho thuê trọn, cổ phần). Do vậy, những khu công nghiệp mới, các thành phố đều gắn với các điểm du lịch. Đảm bảo được tính đồng bộ trong quy hoạch xây dựng. Thực tiễn của các nước có Ngành du lịch phát triển lâu năm, cũng như một số nước có Ngành du lịch mới phát triển mạnh đều có sự ưu tiên đầu tư cơ 17
  18. sở vật chất kỹ thuật du lịch. Hàn Quốc coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn nên đã đầu tư vào xây dựng khách sạn. Năm 1990, Hàn Quốc có 399 khách sạn lớn với tổng số với 40 nghìn buồng, thu hút 2,9 triệu lượt khách nước ngoài, doanh thu từ du lịch 3,43 tỷ USD; năm 1991 đưa thêm 195 khách sạn mới với 18 nghìn buồng vào hoạt động. Malaysia là cường quốc du lịch ở Đông Nam á cũng thực hiện ưu tiên đầu tư rất lớn cho du lịch, tạo ra nhiều bãi biển đẹp, cung cấp nhiều thực phẩm phong phú và các món ăn ngon. Chính phủ Malaysia mạnh dạn đầu tư các khoản tiền lớn vào việc trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử, tận dụng địa hình nhiều đảo cùng các danh lam thắng cảnh khác, hoàn thành sân bay mới Hiện nay, Malaysia có 80 nghìn buồng khách sạn, với tốc độ tăng buồng khách sạn hàng năm trên 10%. ở Trung Quốc 10 năm trở lại đây, Nhà nước và chính quyền địa phương ở các tỉnh, thành phố đều rất quan tâm đầu tư các công viên, nâng cấp giao thông vận tải, thông tin liên lạc đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay, Trung Quốc có khoảng 450 nghìn buồng khách sạn với tốc độ tăng trưởng buồng khách sạn trên 5%/ năm. Nhiều nước khác trong khu vực cũng đang tích cực đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng để phát triển Ngành du lịch. 3. Chiến lược sản phẩm du lịch Các nước đều chú trọng thực hiện chiến lược sản phẩm đặc thù, chất lượng tốt, giá thành hạ để nâng cao sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh. Chiến lược sản phẩm như vậy, đặc biệt là chiến lược sản phẩm du lịch, phụ thuộc vào công tác quản lý hệ thống doanh nghiệp, đào tạo cơ sở vật chất kỹ thuật. Hệ thống doanh nghiệp du lịch nước ngoài bao gồm các hãng, công ty du lịch (lữ hành), doanh nghiệp khách sạn và các doanh nghiệp dịch vụ du lịch khác, hoạt động chuyên môn hóa theo ngành nghề. Trong quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm đáng chú ý của nước ngoài là phân loại doanh nghiệp và phân hạng khách sạn để nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh. Trong quá trình hoạt động đã hình thành các Hiệp hội du lịch, Hiệp hội khách 18
  19. sạn hoặc Hiệp hội hỗn hợp nhiều loại hình doanh nghiệp trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc trên toàn thế giới, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Ví dụ, Hiệp hội Du lịch Hàn Quốc thành lập từ năm 1963, nay có 2.939 hội viên (2.389 hãng lữ hành, 480 khách sạn); Hiệp hội Du lịch Châu á Thái Bình Dương (PATA) thành lập năm 1951 bao gồm các thành viên là 2000 tổ chức lữ hành, 95 cơ quan du lịch quốc gia và địa phương, 65 hãng hàng không và tàu biển, 557 khách sạn, 434 đại lý du lịch; ngoài ra còn có 16.000 hãng lữ hành, khách sạn là thành viên của 79 chi hội thuộc trên 40 quốc gia trên thế giới . . . Các quốc gia, các địa phương dựa vào những lợi thế so sánh để tạo nên những sản phẩm độc đáo, đa dạng, hấp dẫn khách đến du lịch và du khách với các sản phẩm du lịch độc đáo nên đã thu hút só lượng khách quốc tế ngày một đông. Tại Băngkok (Thái Lan) có các cửa hàng miễn thuế bán các sản phẩm truyền thống giá rẻ, chất lượng cao, các mặt hàng xa xỉ phẩm của các nước nổi tiếng, các loại quần áo hợp mốt của các nhà thiết kế có tên tuổi, nhằm thu hút khách du lịch. Tư tưởng chỉ đạo hoạt động du lịch của Thái Lan là: Luôn tìm cách thoả mãn nhu cầu của khách hàng về vật chất, tinh thần và tâm lý. Khẩu hiệu phục vụ khách hàng là gây ấn tượng tốt cho khách ngay từ bước chân đầu tiên đến Thái Lan và làm cho khách hài lòng đến điểm cuối cùng; 80% số người nước ngoài vào Thái Lan chỉ cần ghi tên là xong, không phải cần nhiều thủ tục phiền hà. ở Trung Quốc, Ngành du lịch đã đưa ra những sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng nhằm thu hút du khách, mỗi năm có một chủ đề riêng: Năm 1993 là "Năm du lịch phong cảnh", năm 1994 là "Năm du lịch văn vật - lịch sử", năm 1995 là "Năm du lịch phong tục tập quán các dân tộc", năm 1996 "Năm du lịch nghỉ mát", năm 1997 là "Năm du lịch đón Hồng Kông trở về với Trung Quốc". Kết quả năm 1996 số khách du lịch đến Trung Quốc lên 26 triệu lượt, tăng 11,5% so với năm 1995, được xếp hàng thứ 5 trên thế giới (năm 1990 xếp thứ 12), thu nhập ngoại tệ đạt 10,5 tỷ USD. 4. Tăng cường tiếp xúc tiếp thị du lịch 19
  20. Mục đích của xúc tiến là tăng cường quảng cáo trong du lịch nhằm giới thiệu, hình thành, định hướng các sản phẩm du lịch của đất nước đối với du khách, xúc tiến, tuyên truyền quảng cáo là một chi phí nhưng rất cần thiết trong du lịch, hiệu quả rất lớn, khó lượng hoá. Tổ chức du lịch thế giới chẳng những quan tâm đến số thu nhập ngoại tệ do du lịch mang lại, sự tiến bộ của giao thông- vận chuyển, thông tin liên lạc mà còn theo dõi sát ngân sách chi cho xúc tiến của các thành viên, khuyến khích các nước đẩy mạnh xúc tiến du lịch. Xúc tiến du lịch được các nước rất chú ý, nhà nước tài trợ kinh phí rất lớn và cho thực hiện nhiều biện pháp hữu hiệu. Nhiều nước có Cơ quan Xúc tiến du lịch với các tên gọi khác nhau như: Malaysia, Singapore có Cục xúc tiến du lịch, Hàn Quốc có Liên đoàn Du lịch Quốc gia. Theo tổ chức Du lịch Thế giới: Ngân sách xúc tiến du lịch của các nước hàng năm đều tăng. Ngân sách du lịch của 84 nước là hội viên tổ chức du lịch Thế giới vào đầu thập kỷ 80 đã lên tới 2000 triệu USD/ năm (2 tỷ) 43 nước báo cáo con số cụ thể về tổng số ngân sách chi cho xúc tiến năm 1991 là 1,312 tỷ USD, năm 1992 là 1,416 tỷ. Năm 1992, Tây Ban Nha chi 85 triệu USD cho xúc tiến, Pháp 72 triệu, Anh 60 triệu, úc 51 triệu, Mêhico 34 triệu. Để chuẩn bị cho năm du lịch 1994 cho tuyên truyền quảng cáo; Chính phủ Singapore đã chi 100 triệu USD cho giai đoạn 1996 - 2000 để phát động chiến dịch xây dựng Singapore thành thủ đô du lịch. Theo các nhà phân tích quốc tế thì 1 USD bỏ ra cho tuyên truyền quảng cáo du lịch sẽ thu về bình quân 500 USD; tuy nhiên tuỳ theo các yếu tố văn hoá, lịch sử, khí hậu, thắng cảnh, ăn uống chỉ số này chỉ có sự khác nhau giữa các vùng. Ví dụ, vùng Châu á - Thái Bình Dương nếu có 1 USD bỏ ra cho quảng cáo du lịch sẽ chỉ thu được 150 USD, nhưng ở Châu Âu lại lên đến 635 USD. Nếu xúc tiến du lịch bị xem nhẹ, lơ là sẽ đưa đến tình trạng kinh doanh giảm sút. Trong vòng 10 năm liên tiếp (1975-1985) nước Pháp có số khách quốc tế đến du lịch đứng hàng thứ hai thế giới (sau Mỹ). Năm 1985 đạt số lượng cao nhất 28 triệu lượt khách, thu nhập 10,150 tỷ USD. Nhưng 1986 bị tụt xuống còn 9,5 tỷ USD, đứng thứ 4 sau Mỹ, Tây Ban Nha và Italia. Một trong 20
  21. những nguyên nhân chính đưa tới giảm sút thu nhập là sự yếu kém trong xúc tiến du lịch. Năm 1992, nước Pháp trở lại chiếm vị trí hàng đầu, đón 43 triệu lượt và thu 103 tỷ France. Bộ trưởng Giao thông, Thiết bị, nhà ở và du lịch Pháp đánh giá nguyên nhân thắng lợi đầu tiên là nhờ đẩy mạnh xúc tiến du lịch. Ngay từ năm 1987, Ngành du lịch Pháp đã thực hiện chiến lược thống nhất các hoạt động xúc tiến du lịch cả nước trong một tổ chức gọi là Ngôi nhà nước Pháp ( " Maison de la France " ), trực thuộc Bộ Giao thông, Thiết bị, Nhà ở và Du lịch. Nhiệm vụ của tổ chức này là tạo ra một hình ảnh nước Pháp tiêu biểu, quảng bá du lịch, đưa sản phẩm du lịch của nước Pháp ra nước ngoài đủ mạnh để tác động vào du khách. Ngân sách hoạt động cho ngôi nhà chung từ 2 nguồn: 50% do nhà nước cấp, 50% do tư nhân đóng góp. Các nước du lịch phát triển đều đặt đại diện du lịch quốc gia, dưới hình thức văn phòng hay Đại diện du lịch ở nước ngoài để làm công tác xúc tiến, quảng bá, nghiên cứu thị trường thu hút khách vào nước mình, coi đây là phương tiện quan trọng xúc tiến quốc tế. Theo điều tra của Tổ chức du lịch thế giới thì hiện nay chỉ cóa khoảng 14% số nước không có Văn phòng đại diện du lịch quốc gia ở nước ngoài, nhưng họ giao chức năng này cho Sứ quán đảm nhiệm. Lào là nước du lịch chưa phát triển, nhưng do thấy được vai trò quan trọng của Văn phòng du lịch quốc gia nên đã đặt văn phòng du lịch Lào tại Băngkok. Có nước đặt văn phòng du lịch quốc gia riêng biệt, có nước đặt trong Đại sứ quán với tên gọi đại diện. Pháp hiện nay có 39 văn phòng du lịch ở nước ngoài, ý có 30, Tây Ban Nha 28, úc 24, Hàn Quốc 18, Mehico 16, Nhật Bản 16, New Sealand 15, Đức 14 văn phòng và 10 đại diện, Mỹ 12, các nước ASEAN: Indonesia 10, Malaysia 15, Thái Lan 13 văn phòng và 12 đại diện, Singapore 16 văn phòng và 8 đại diện Số nhân viên làm ở các văn phòng du lịch quốc gia ở nước ngoài của các nước tương đối nhiều: úc có 172 nhân viên, Pháp có 186, Hy Lạp 128, ý 110, Tây Ban Nha 185 Hội chợ, hội nghị du lịch quốc tế và các sự kiện trong nước như liên hoan nghệ thuật, Olympic, các sự kiện thể thao là một trong những hình thức xúc 21
  22. tiến, quảng cáo du lịch hiệu quả nhất. Nhật Bản tổ chức hội nghị du lịch quốc tế 2 năm một lần, có hàng nghìn đại biểu từ gần 100 nước tham gia. Nhiều nước cử lãnh đạo cao cấp nhất của Ngành du lịch dẫn đầu đoàn tham gia Hội nghị và tổ chức triển lãm sản phẩm du lịch của nước mình. Các nước ASEAN có kế hoạch chung cùng tổ chức hội nghị, hội thảo và sự kiện thể thao, văn hoá của thế giới. Singapore là một trong 10 nước đứng đầu Châu á về việc tổ chức các sự kiện (hội thảo, hội nghị, triển lãm quốc tế ) Nhằm thu hút khách du lịch quốc tế, các nước ASEAN đang tăng nỗ lực hướng vào loại khách quay trở lại hai hoặc nhiều lần. Hiện nay, các nước ASEAN đang phát động quảng bá các điểm du lịch và mời chào các loại hình du lịch mới hơn, gồm cả các chương trình trọn gói theo mùa đặc thù; đồng thời cũng có những bước đi nhằm đa dạng hoá sản phẩm du lịch như kết hợp du lịch sinh thái với việc tham quan các khu nhân tạo. Hầu hết các nước ASEAN đều thực hiện "Năm du lịch", để tập trung vào việc quảng bá, giới thiệu rộng rãi những điểm du lịch, nêu bật văn hoá, lịch sử và nghệ thuật của một quốc gia cụ thể. Thái Lan đã tiên phong trong việc này năm 1997. Philipin phát động "Lễ hội Philipin" năm 1988. Indonesia khởi xướng "Năm du lịch Indonesia" năm 1991, và lấy thập kỷ 90 là: "Thập kỷ du lịch Indonesia". Malaysia cũng phát động " ăm du lịch Malaysia" đã khiến cho quan chức du lịch nước này tiếp tục tuyên bố năm 1997 là "Năm du lịch Malaysia". Tuy nhiên mới gia nhập ASEAN nhưng Lào đang tích cực chuẩn bị "Năm du lịch Lào" vào năm 1990. 5. Phát triển du lịch gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội, đảm bảo phát triển bền vững. Hầu hết các nước trong quá trình phát triển du lịch đều chú ý bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội, tăng cường quản lý, khai thác tính đặc thù của dân tộc. Bởi vậy, trong quá trình phát triển du lịch, Việt Nam cần chú trọng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, nét đẹp truyền thống, cảnh quan và môi trường; quản lý môi trường theo pháp luật. Thái Lan hiện đang phải điều chỉnh định hướng phát triển du lịch đã đề ra trong những năm 1980, khắc phục tình 22
  23. trạng ô nhiễm môi trường và hoạt động Sextour, mà lành mạnh dần hoạt động du lịch. Trong phát triển du lịch hiện nay đặt ra nhiều vấn đề không thể xem nhẹ: ô nhiễm môi trường, rác thải, tắc nghẽn giao thông Giữa du lịch và môi trường có mối quan hệ nhân quả. Du lịch là một ngành rất nhạy cảm với môi trường, chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường ô nhiễm, tác động, hạn chế đến khả năng phát triển. ở Sip, sau 10 năm vùng thiên nhiên đẹp đẽ biến mất bởi tiếng ồn ào, huyên náo của các sàn nhảy disco, khách sạn, nhà hàng Trong công viên quốc gia Ambosdi Kênia các chú báo Gêpa buộc phải thay đổi thời gian săn mồi ban ngày để tránh các đoàn xe chở khách du lịch. Tại Luân Đôn, hè đường được thiết kế xây dựng từ thế kỷ 13 hư hỏng nặng do khách tham quan du lịch với 17 ngàn người/ngày dẫm lên. II. Khái luận về hiệu quả trong kinh doanh du lịch quốc tế. 1. Khái niệm và nội dung kinh doanh du lịch quốc tế. 1.1 Khái niệm về kinh doanh du lịch quốc tế: Kinh doanh là quá trình tổ chức sản xuất lưu thông mua bán hàng hoá trên thị trường nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế và xã hội. Kinh doanh du lịch cũng như mọi loại hình thức kinh doanh khác nghĩa là gồm các bước tổ chức sản xuất hàng hoá du lịch ký kết các hợp đồng kinh tế du lịch, tổ chức thực hiện hợp đồng. Thanh quyết toán hợp đồng. Theo pháp lệnh du lịch Việt Nam năm 1999: "Kinh doanh du lịch là việc thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình hoạt động du lịch hoặc thực hiện dịch vụ du lịch trên thị trường nhằm mục đích sinh lời" Tuy du lịch đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng kinh doanh du lịch ra đời muôn hơn nhiều, mốc đánh dấu là sự thành lập hãng lữ hành Thomas Cook vào giữa thế kỷ XIX và kinh doanh du lịch trên thế giới chỉ thực sự phát triển mạnh vào những năm 50 của thế kỷ XX sau khi kết thúc chiến tranh. 23
  24. ở Việt Nam sau khi xoá bỏ chế độ hành chính bao cấp, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự hoạch toán kinh doanh đầy đủ, rõ ràng và sự nghiệp đổi mới đất nước đã có sự khởi sắc (từ sau năm 1986) Từ đó đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, cũng từ đó mà mà hoạt động kinh doanh du lịch thực sự phát triển, từ sau năm 1990 năm du lịch Việt Nam. Hiện nay, nghành du lịch nước ta đã có một cơ sở vật chất gồm hàng nghìn khách sạn hàng trăm công ty du lịch, các dịch vụ du lịch ngày càng phong phú và đa dạng nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp đủ để đón và phục vụ hàng triệu khách du lịch quốc tế một năm. 1.2 Nội dung của hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế. Hoạt động kinh doanh du lịch rất đa dạng và phong phú với đối tượng phục vụ là khách du lịch, do vậy hoạt động kinh doanh du lịch gồm: Kinh doanh lữ hành, kinh doanh cơ sở nội trú, kinh doanh vận chuyển khách du lịch và kinh doanh dịch vụ thông tin du lịch. Kinh doanh lữ hành: Là loại hình kinh doanh làm nhiệm vụ giao dịch ký kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong và ngoài nước để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch. Kinh doanh lữ hành lại được phân chia thành: Kinh doanh lữ hành quốc tế và kinh doanh lữ hành nội địa, tuỳ thuộc vào chức năng, nhiêm vụ của mỗi công ty lữ hành. Kinh doanh lữ hành quốc tế là việc tổ chức xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch nước ngoài, Việt kiều vào Việt Nam và khách du lịch Việt Nam đi du lịch nước ngoài. Kinh doanh lữ hành nội địa là việc tổ chức, xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch trong nước đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam và những ngừi nước đang sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam đi tham quan du lịch ở mọi miền của đất nước. Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch: Là loại hình kinh doanh làm nhiệm vụ tổ chức, đón tiếp, phục vụ nội trú, ăn uống, vui chơi giải trí và bán hàng cho khách du lịch. 24
  25. Đặt trong tổng thể kinh doanh du lịch, kinh doanh cơ sở lưu trú là công đoạn phục vụ khách du lịch để họ hàon thành chương trình du lịch đã lựa chọn. Các loại hình cơ sở lưu trú ở Việt Nam gồm: + Khách sạn + Biệt thự + Làng du lịch + Lều, trại Ngoài ra trong kinh doanh cơ sở lưu trú cần có kinh doanh các dịch vụ như: Dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ ăn uống . . . - Kinh doanh vận chuyển khách du lịch: Là một loại hình kinh doanh giúp cho sự di chuyển của khách du lịch bằng các phương tiện như: Máy bay, ô tô, tàu hoả, tàu biển, tàu thuỷ, cáp vận chuyển và các phương tiện khác như: Xe ngựa, thuyền, xích lô - Kinh doanh dịch vụ thông tin du lịch. Kinh doanh dịch vụ thông tin du lịch gồm nhiều dạng khác nhau: Dạng đơn giản nhất là các du lịch môi giới tìm địa chỉ, thông tin về giá cả Dạng cao hơn là các dịch vụ tư vấn về các lĩnh vực pháp lý, tổ chức luận chứng đầu tư du lịch, thông tin nguồn khách, nhu cầu của khách. . . Tổ chức tuyên truyền, quảng cáo hội chợ du lịch, xúc tiến phát triển du lịch, giúp cho các hãng ký kết các hợp đồng kinh tế du lịch, hoặc các dự án đầu tư du lịch. 2. Khái niệm và phân loại hiệu quả kinh doanh. 2.1. Khái niệm. Hiệu quả theo quan điểm của lý thuyết hệ thống là một phạm trù phản ánh yêu cầu các quy luật tiết kiệm thời gian. Quy luật này hoạt động theo nhiều phương thức sản xuất xã hội, vì vậy phạm trù này cũng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất xã hội. ở đâu và lúc nào, con người cũng muốn hoạt động có hiệu quả nhất. Trong phân tích kinh tế, hiệu quả kinh tế được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế - kỹ thuật được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa nguồn lực đầu ra và nguồn lực đầu vào của hệ thống sản xuất xã hội, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực và tạo ra các lợi ích nhằm đạt được các mục 25
  26. tiêu kinh tế xã hội. Hiệu quả kinh tế được hiểu là trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có để đạt được kết qủa kinh doanh cao nhất các chi phí thấp nhất. Khác với các ngành kinh tế quốc dân khác khi nói tới hiệu quả du lịch ta phải xét trên cả hai mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội thể hiện ý chí góp phần bảo vệ xã hội, tằng cường sức khoẻ cho người dân lao động từ đó tăng tuổi thọ và khả năng làm việc cho nhân dân. Hiệu quả xã hội của du lịch còn thể hiện ở mức đóng góp của xã hội, khả năng làm việc của các dân cư vùng du lịch, nâng cao hiểu biết về xã hội, mức độ bảo vệ tài nguyên môi trường. Hiệu quả kinh tế: thể hiện ở mức độ tận dụng các yếu tố sản xuất và các tài nguyên du lịch trong khoảng thời gian nhất định nhằm tạo ramột khối lượng hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch và chi phí ít nhất và nhằm bảo vệ môi trường. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường, hiệu quả kinh tế biểu hiện mối tương quan kết quả sản xuất và chi phí sản xuất. Còn đối với hoạt động kinh doanh du lịch, tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế được thực hiện qua mục tiêu đảm bảo thu nhập (bằng cả ngoại tệ và bản tệ) cao nhất với chi phí lao động sống và lao động vật hoá thấp nhất (Trong điều kiện kinh tế có lợi nhuận cho ngành và cho nền kinh tế quốc dân). 2.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế. Tuỳ thuộc vào nội dung và mục đích nghiên cứu khác nhau người ta phân hiệu quả du lịch quốc tế thành các loại khác nhau. * Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. * Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. - Hiệu quả trước mắt: đánh giá hiệu quả phục vụ với một lượng khách du lịch nhất định trong một thời gian nhất định (thường dưới 1 năm) và thu về một số ngoại tệ (hay bản lề) lớn hơn chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu này thường áp dùng cho các nhà doanh nghiệp có khả năng phục vụ thấp, thu hồi vốn nhanh và hoạt động không ổn định. - Hiệu quả lâu dài: Cũng như hiệu quả trước mắt song dược xác định trong thời gian dài hơn (thường trên 1 năm). Chỉ tiêu này áp dụng cho các doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt dộng ổn định và có khả năng mở rộng thị trường. 26
  27. *Hiệu quả tổng thể và hiệu quả bộ phận. - Hiệu quả bộ phận: là hiệu quả được xác định trên từng thị trường khách mà công ty phục vụ trong tổng thể các thị trường. - Hiệu quả tổng thể: là tổng thể các hiệu quả bộ phận, là hiệu quả được tính cho toàn hệ thống. - Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết này chúng ta chỉ quan tâm tới các phân loại đầu tiên tức là hiệu quả được chia thành hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Tất cả mọi thành phần kinh tế tham gia vào nền sản xuất xã hội là phải quan tâm tới hai tiêu thức trên, tuỳ thuộc vào từng thành phần kinh tế mà tỷ trọng hai tiêu thức này khác nhau. Với các doanh nghiệp tư nhân, các công ty ttrách nhiệm hữu hạn, các công ty nước ngoài thì hiệu quả kinh tế được chú trọng hơn hiệu quả xã hội còn đố với các doanh nghiệp nhà nước thì hiệu quả xã hội được đề cao hơn. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu kết quả kinh doanh (doanh thu) và chi phí bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Có thể diễn đạt khái niệm hiệu quả kinh doanh như sau: + Về tương đối. DT Hiệu quả kinh doanh: H= CF Trong đó : H là hiệu quả kinh doanh. DT là doanh thu của hoạt động kinh doanh (thường trong 1 năm). CF chi phí cần thiết đê thực hiện hoạt động kinh doanh. + Về mặt tương đối. H = DT - CF Đối với các doanh nghiệp nhà nước nói đến hiệu quả kinh doanh là phải nói đến hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Dựa vào những mục tiêu và chiến lược kinh doanh của nghành đó mặc dù có ít, không có hay thua thiệt về hiệu quả kinh tế nhưng bù lại vẫn đạt hiệu quả xã hội thì vẫn cói là đạt hiệu quả kinh doanh. 27
  28. Như vậy là hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế nói tiêng hay hiệu quả kinh doanh nói chung đều được xem xét trên bảng tổng thể hai mặt kinh tế và xã hội vào được tính theo công thức. Hq = Hkt + Hxh Trong đó: Hq là hiệu quả hoạt động kinh doanh Hkt là hiệu quả kinh tế Hxh là hiệu quả xã hội. 2.3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế. Nâng cao hiệu quả kinh doanh không phải là mối quan tâm của mỗi cá nhân, một doanh nghiệp hay một ngành kinh tế nào đó mà là mối quan tâm của, toàn bộ các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Đạt được hiệu quả kinh doanh cũng đánh dấu một bước phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, thực hiện quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá, tăng cường biệp pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh lại càng có ý nghĩa quan trọng. Sự phát triển chung của toàn bộ các nghành kinh tế sẽ góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam gần hoà nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới. Tất cả các công cuộc đổi mới thực sự có ý nghĩa khi và chỉ khi làm tăng được kết quả kinh doanh mà qua đóa làm tăng được hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh cũng thể hiện về mặt chất lượng của toàn bộ công tác quản lý và đảm bảo tạo ra kết quả cao nhất của hoạt động kinh doanh. Với hoạt động du lịch quốc tế, hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ tổ chức, quản lý, xây dựng các chiến lược phát triển của một quốc gia đối với hoạt động du lịch cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch quốc tế. Chúng tôi đã biết được vai trò của du lịch quốc tế đối với nền kinh tế quốc dân. Chính vì thế càng hiểu rõ mức độ quan trọng của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế. Du lịch phát triển sẽ kích thích các ngành kinh tế khác phát triển như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, khách sạn, các ngành dịch vụ bao gồm các danh lam thắng cảnh di tích lịch sử bảo tồn được 28
  29. các ngàng nghề truyền thống. Du lịch phát triển cũng góp phần cải thiện cán cân thành toán quốc tế, tăng thu ngoại tệ và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Hiệu quả kinh doanh du lịch mang lại còn có vai trò quan trọng trong việc tái xây dựng nền kinh tế, cải thiện trang thiết bị máy móc , phương tiện kinh doanh. Đạt được hiệu quả kinh doanh trong du lịch quốc tế cũng chính là tiết kiệm các nguồn lực, nguồn nguyên liệu cho xã hội, là cơ sở để các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, tăng năng lực phục vụ khách hàng, tăng uy tín và mở rộng các quan hệ quốc tế. Đối với người lao dộng thì hiệu quả lao động (lương và phúc lợi xã hội) là động cơ thúc đẩy kích thích người lao động làm cho người lao động hăng hái yên tâm làm việc và ngày càng quan tâm đến hiệu quả ông việc, trách nhiệm của mình tới công ty và có thể ngày càng đóng góp công sức của mình cho sự nghiệp phát triển của công ty. Như vậy, hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp du lịch và đất nước. Để đạt được hiệu quả cao công ty phải hoàn thành các mục tiêu và phương hướng đề ra trong từng thời kỳ phù hợp với công ty và phù hợp với bối cảnh đất nước. 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế . Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của hoạt động du lịch quốc tế được xây dựng dựa trên các yếu tố sản xuất cơ bản và được thể hiện như sau: - Các chỉ tiêu doanh lợi: thể hiện ở mức độ tận dụng chi phí (hoặc vốn) trong quá trình phục vụ khách, hay nói cách khác doanh lợi là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và chi phí (hoặc vốn). Doanh lợi được biểu diễn bằng công thức như sau: L L d = x100 d = x100 C V Trong đó : d - doanh lợi (%) tính theo chi phí hoặc vốn L - Lợi nhuận 29
  30. C - Chi phí V - Vốn Chỉ tiêu này cho ta thấy doanh thu phụ thuộc vào 2 yếu tố : Thu nhập ròng trên một đồng và chi phí (hoặc vốn). Tăng 1% chi phí ( hoặc vốn) thì tạo ra được bao nhiêu % lợi nhuận. Chỉ tiêu cho phép đánh giá một cách chính xác nguồn gốc lợi nhuận của doanh nghiệp trên cơ sở đó doanh nghiệp đưa ra giải pháp điều chỉnh chi phí (hay vốn) cho thích hợp. - Hệ số sinh lợi doanh thu L H = D Trong đó : L - Lợi nhuận D - Doanh thu Chỉ tiêu cho phép xác định doanh nghiệp sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên 1 đồng doanh thu. - Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp D E = C Trong đó : E - hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp tính theo chi phí D - doanh thu C - Chi phí Chỉ tiêu này đánh giá khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xem mỗi đồng chi phí bỏ ra của doanh nghiệp sẽ thu được bao nhiều đồng doanh thu. Nếu 0 1 doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tiếp tục duy trì hoạt động như thời gian trước đây, nếu có thể tăng cường mở rộng khả năng phục vụ khách như mở thêm các dịch vụ bổ sung, đầu tư trang thiết bị, phương tiện phục vụ du lịch. 30
  31. Ngoài các chỉ tiêu trên, các doanh nghiệp còn sử dụng một số chỉ tiêu khác. - Doanh thu bình quân 1 khách du lịch : D Dbq = n Trong đó : Dbq - Doanh thu bình quân 1 khách du lịch. D - Doanh thu n - tổng số khách du lịch - Năng suất bình quân 1 lao động D L K = hay K = m m Trong đó : K - năng suất lao động bình quân tính theo doanh thu (hoặc lợi nhuận). D - Doanh thu m - Tổng số công nhân viên - Để có thể đánh giá mối tương quan giữa chi phí quảng cáo với doanh thu thu được trong việc xác định hiệu quả kinh doanh du lịch quốc tế, chúng ta sử dụng hàm hồi quy tuyến tính sau : y = a + bx (tính theo thời gian). Theo phương trình này ta có : x : chi phí quảng cáo. y : hàm doanh thu a : mức ảnh hưởng doanh thu do các yếu tố ngoài quảng cáo. b : mức ảnh hưởng của chi phí quảng cáo tới doanh thu. a, b được tính như sau : xy xy b = 2 x 2 2 2 x = x - x a = y - b .x Ví dụ : Có một Công ty có bảng số liệu như sau : Năm n - 1 n n + 1 Chi quảng cáo 10 20 24 31
  32. Doanh thu 400 450 500 54 Ta có : x = 18 3 1350 y = 450 3 2 2 2 x = x - x = 358,67 - 324 = 34,67 xy = 8333,33 8333,33 450x18 Như vậy ta có b = 6,73 34,67 a = 450 - 6,74 x 18 = 328,85 => y = 328,85 + 6,73 x Ta có thể nhận xét rằng nếu tăng 1 đồng chi phí cho quảng cáo thì doanh nghiệp sẽ thu được 6,73 đồng doanh thu. 4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh du lịch Quốc tế : Du lịch Quốc tế, xét trên phương diện nào đó giống như hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa quốc tế. do đó du lịch Quốc tế sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố từ bên trong cũng như từ bên ngoài, liên quan tới luật pháp của nhiều quốc gia khác nhau, nhiều nền văn hóa khác nhau. Sau đây là một vài nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh : 4.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp : - Vốn kinh doanh du lịch mang tính thời vụ rất cao, có khi để phục vụ cho một mùa du lịch (thường từ 4 - 5 tháng) doanh nghiệp phải tập trung toàn bộ vốn kinh doanh của mình để đưa vào hoạt động. Chính vì thế nếu doanh nghiệp nào có vốn lớn, sẽ đáp ứng phục vụ cho nhiều khác hơn đủ để trang trải các chi phí cần thiết và ngược lại. - Nhân lực : Đối với tất cả các hoạt động kinh tế nào, con người đều có vai trò quyết định. Vấn đề nhân sự trong doanh nghiệp không những phải giỏi về trình độ chuyên môn, hiểu biết về xã hội mà họ còn phải được sắp xếp tổ chức công việc một cách hợp lý, khoa học và được quản lý một cách chắc chắn. Có như vậy họ mới đảm đương được công việc trong nền kinh tế hiện đại. Hiệu quả kinh doanh chủ yếu xuất phát từ tài năng của người lãnh đạo, nếu người 32
  33. lãnh đạo giỏi thì hiệu quả kinh doanh sẽ cao còn bằng không Công ty khó lòng đạt được kết quả như mong muốn. - Phương tiện, khoa học công nghệ, các thiết bị khoa học cũng đóng một vai trò quan trọng tạo nên hiệu quả của công việc kinh doanh. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, thông tin sẽ đưa khách hàng tiếp cận một cách nhanh nhất với Công ty, khách hàng có điều kiện tìm hiểu về Công ty, về thị trường du lịch của Công ty cũng như các loại hình dịch vụ mà Công ty đang phục vụ để từ đó có quyết định đi du lịch với Công ty Về phần mình, Công ty có thể nắm bắt hơn nữa thông tin về thị trường du lịch quốc tế, để từ đó có những điều chỉnh phương hướng kinh doanh cho phù hợp. - Một nhân tố bên trong cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của Công ty đó là kinh nghiệm kinh doanh, mối quan hệ với các bạn hàng, các nhà quản lý Đây là cơ sở cho sự phát triển lâu dài và bền vững của Công ty, cơ hội cho sự cạnh tranh trên thương trường. Mức độ đem lại hiệu quả kinh doanh đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào nhân tố này, bởi lẽ du lịch quốc tế liên quan tới người nước ngoài và vì thế nó chịu sự chi phối của nhiều tổ chức quản lý cả trong nước và ngoài nước. Ví dụ như Tổng cục Hải Quan, Bộ ngoại giao, Phòng quản lý xuất nhập cảnh Đối với các nhà quản lý Công ty có kinh nghiệm họ sẽ biết điều tiết các mối quan hệ này, nắm bắy được các xu hướng, quy luật vận động của thị trường du lịch để từ đó họ sẽ đưa Công ty đi những bước đi thích hợp trên con đường phát triển. 4.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp : - ảnh hưởng của môi trường luật pháp : Một quốc gia có hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, luôn luôn thay đổi thì đối với bất cứ nhà kinh doanh nào, đem lại hiệu quả kinh doanh tốt nhất là điều rất khó khăn. Đối với ngành du lịch, luật về du lịch hay pháp lệnh về du lịch không có hay không hoàn thiện sẽ tạo ra một sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, gây xáo trộn thị trường du lịch. Các hãng sẽ tự do cạnh tranh về giá cả, tự do khai thác nguồn tài nguyên du lịch sao cho đạt được mục tiêu của 33
  34. mình là thu lợi nhuận cao nhất mà quên đi trách nhiệm của mình trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Như đã trình bày, du lịch quốc tế bị chi phối bởi hệ thống luật pháp của nước đi và đến của du khách. Nói một cách khái quát pháp luật sẽ quy định và cho phép những lĩnh vực, những hình thức, những vùng mà doanh nghiệp được phép hay không được phép khai thác. Mỗi một quốc gia có hệ thống luật pháp riêng để điều chỉnh hoạt động du lịch quốc tế của mình như Luật thương mại, Luật đầu tư nước ngoài, Luật thuế Giữa các nước thường ký kết các hiệp định hợp tác du lịch, hiệp định hợp tác trao đổi khách du lịch Ví dụ Hiệp định hợp tác du lịch được ký giữa Việt Nam và Pháp, Việt Nam và Trung Quốc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong kinh doanh. Vì vậy có thể khẳng định rằng chỉ khi doanh nghiệp có những hiểu biết về hệ thống luật pháp của từng quốc gia và các hiệp định giữa các nước thì doanh nghiệp mới có những quyết định đúng dắn khi lựa chọn thị trường, khu vực kinh doanh Ví dụ, một doanh nghiệp Việt Nam chọn thị trường Hoa Kỳ làm nơi kinh doanh du lịch. Về mặt kinh doanh đây là một thị trường rất tiềm năng : ngoài hơn 2 triệu Việt Kiều nơi đây còn tập trung một lượng khách du lịch lớn và giầu có. Nếu xét mặt pháp luật thì thị trường này chưa phải là một thị trường tốt. Việt Nam và Hoa Kỳ chưa ký kết bất kỳ một hiệp định nào về du lịch, Hoa Kỳ không cấp visa du lịch nào cho du khách Việt Nam. Từ đó cho thấy doanh nghiệp đã lựa chọn sai thị trường. - ảnh hưởng từ môi trường chính trị : Môi trường chính trị ảnh hưởng tuy không lớn tới hoạt động du lịch quốc tế như môi trường luật pháp song nó lại tác động trực tiếp tới cung cầu trên thị trường du lịch, tới tổng lượng khách đi và đến của một quốc gia. Khách du lịch quốc tế ngoài lý do thăm quan thắng cảnh văn hóa, thiên nhiên của nước du lịch, họ cùng cần được đảm bảo an toàn về tính mạng. Sự ổn định về chính trị được thể hiện ở chỗ : thể chế, quan điểm chính trị có được đa số nhân dân đồng tình hay không, Đảng cầm quyền có đủ uy tín lãnh đạo hay không, có xảy ra nội chiến hay đảo chính không 34
  35. Trong điều kiện đó, cả du khách lẫn doanh nghiệp phải căn cứ từng điều kiện cụ thể mà có sự lựa chọn kinh doanh hay không kinh doanh tại thị trường đó, quốc gia đó. Khi đó cung cầu tại thị trường này phụ thuộc rất lớn vào sở thích của khách du lịch. - ảnh hưởng của môi trường văn hóa - xã hội : Văn hóa là những giá trị tinh thần của mỗi một dân tộc. Văn hóa xã hội ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cộng đồng người, mỗi dân tộc, là đặc trưng của mỗi dân tộc. Nó sẽ hình thành nếp nghĩ và thói quen tiêu dùng của khách du lịch - đây cũng chính là nhân tố tác động lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi lựa chọn thị trường du lịch. Đặc trưng của văn hóa du lịch là phong cách kiến trúc, tập quán, lối sống tôn giáo và ngôn ngữ. Khách du lịch văn hóa nhằm mở rộng kiến thức, học hỏi các nét văn hóa, ngôn ngữ của dân tộc đó. Nếu một quốc gia có nền văn hóa độc đáo, có bản sắc riêng thêm vào đó là môi trường tự nhiên phong phú và đa dạng sẽ thu hút rất lớn du khách. Về phía doanh nghiệp, môi trường văn hóa xã hội trong một chừng mực nhất định sẽ ảnh hưởng tới phong cách làm việc, mô hình quản lý, điều tiết kinh doanh từ đó ảnh hưởng tới mục đích gia tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả kinh doanh. - ảnh hưởng của nhân tố kinh tế : Tập trung chủ yếu vào khả năng tài chính, thu nhập của khách du lịch, tác động tới chỉ tiêu cho các hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đưa ra hàng hóa và dịch vụ có chất lượng cao (do đó giá cả cũng sẽ không thấp) sẽ đòi hỏi khách hàng phải có khả năng thanh toán mới có thể tiêu dùng được. Nếu như du khách không đảm bảo khả năng tài chính thì khách sẽ không đi du lịch nữa và hiệu quả kinh doanh của Công ty lại trở thành vấn đề đáng quan tâm. Năm 1998 đánh dấu một sự kiện trong du lịch bằng cuộc khủng hoảng tài chính Châu á, khách du lịch Châu á đi du lịch giảm hẳn và làm cho lượng khách tới các nước Đông Nam á cũng giảm. Chỉ riêng Việt Nam khách quốc tế giảm 100.000 người so với 1,7 triệu khách năm 1997. - ảnh hưởng từ môi trường cạnh tranh của Công ty 35
  36. Sự khác biệt cơ bản giữa kinh doanh du lịch nội địa và kinh doanh du lịch quốc tế là ở chỗ du lịch quốc tế thường có khoảng cách địa lý xa hơn, phục vụ một lượng khách đa dạng hơn, mang nhiều quốc tịch hơn. Điều đó làm cho các Công ty du lịch quốc tế luôn phải gặp khó khăn hơn do chi phí nhiều hơn cho hoạt động, do phải cạnh tranh với nhiều hãng du lịch lớn. Du lịch vốn là ngành thu lợi nhuận cao, khả năng quay vòng vốn lớn nên cũng có rất nhiều nhà cạnh tranh, vì vậy thị trường của doanh nghiệp cũng giảm đi ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Công ty. Như vậy ta thấy rằng để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, các doanh nghiệp phải nắm bắt được khả năng nội tại của Công ty, những mối đe dọa, những thách thức để Công ty có thể tiến hành những hoạt động thích ứng nhằm chớp thời cơ, tạo cơ hội để đạt kết quả kinh doanh tốt hơn. Chương ii Thực trạng kinh doanh du lịch quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế (tic). I.VàI NéT KHáI QUáT Về CÔNG TY TIC. 1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty TIC . Công ty du lịch công đoàn Việt Nam là một đơn vị mới, chính thức được thành lập vào năm 1989 với mục đích tham gia hoạt động kinh doanh du lịch Trụ sở cũ của công ty đặt tại tầng 2, 65 phố Quán Sứ, Hà nội nay là công ty đã chuyển trụ sở của mình về 1B phố Yết Kiêu. Tại đây công ty có điều kiện thuận lợi hơn trong công tác giao dịch, tiếp thị cũng như quản lý Tiền thân của công ty là phòng du lịch của Ban bảo hiểm xã hội thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (được thành lập từ năm 1962) với các chức năng chủ yếu : phục vụ an dưỡng, nghỉ ngơi, tham quan theo chế độ của nhà nước đối với công nhân viên chức nói riêng và người lao động nói chung đặc 36
  37. biệt là những người có thành tích được công đoàn các nhà máy, xí nghiệp tuyên dương, khen thưởng. Cho đến những năm 1987-1988 theo xu hướng của phong trào công đoàn quốc tế về du lịch, nghỉ ngơi cho những người lao động, công ty du lịch công đoàn đã tham gia Hiệp hội du lịch các nước xã hội chủ nghĩa mà phần đông là các nước Đông Âu trước đây. Ngày 7/11/1988 theo Quyết định 2830/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ Tướng Chính phủ), Tổng liên đoàn lao động Việt Nam được phép thành lập công ty kinh doanh du lịch theo phương thức tự hạch toán kinh tế, kinh doanh có lãi, được mở tài khoản riêng tại ngân hàng được phép gia nhập các tổ chức, hiệp hổi du lịch trong và ngoài nước. Quyết định này được đưa ra theo đề án và thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy để thành lập Công ty du lịch công đoàn Một năm sau đó, ngày 7/11/1989 sau khi hoàn tất các thủ tục, hồ sơ hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhận được Quyết định 508/QĐ-TLĐ, Công ty du lịch công đoàn Việt Nam chính thức được thành lập, trực thuộc Ban thư ký Tổng liên đoàn lao động Việt Nam Công ty có các nhiệm vụ và chức năng chủ yếu sau: - Tổ chức hoạt động quản lý, chỉ đạo thực hiện và hướng dẫn nghiệp vụ kinh doanh du lịch, các dịch vụ du lịch của công đoàn trong phạm vi cả nước, nhằm phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch của đoàn viên công đoàn, công nhân, viên chức và mọi tầng lớp nhân dân lao động trong cả nước, kiều bào và khách du lịch nước ngoài. - Hợp tác trao đổi khách du lịch, liên đoàn, liên kết trong việc phát triển du lịch với các tổ chức công đoàn trên thế giới. - Thống nhất quản lý hệ thống các cơ sở du lịch trực tiếp thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, thực hiện quản lý nhà nước đối với các cơ sở du lịch thuộc Liên đoàn lao động địa phương và các ngành - Lập dự án đầu tư các cơ sở du lịch của công đoàn, tổ chức thực hiện các dự án đầu tư được phê chuẩn, quản lý sử dụng khi các cơ sở du lịch được 37
  38. phê chuẩn, quản lý sử dụng khi các cơ sở du lịch được hoàn thành và bàn giao đưa và khai thác. - Trong hoàn cảnh nhà nước xoá bỏ bao cấp với chức năng và nhiệm vụ trên công ty đã phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, là đơn vị đầu tiên hoạt động kinh doanh của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Công ty đã tranh thủ được sự quan tâm to lớn của Ban thư ký Tổng liên đoàn. Cụ thể là: - Tạo cơ sở ban đầu để Công ty nhanh chóng ổn định, bước vào kinh doanh, giúp Công ty nhanh chóng hoà nhập với doanh nghiệp du lịch trong cả nước - Bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Minh Hoà (lúc đó đang là quyền Viện trưởng Bộ xây dựng) là giám đốc công ty. Nhờ có sự lãnh đạo sáng suất của Ban giám đốc, Công ty đã ổn định kinh doanh và phát triển, từng bước tăng cường khả năng cạnh tranh, đứng vững trên thị trường kinh doanh du lịch - Sau 8 năm hoạt động, tháng 9/1997, theo Quyết định 3845 QĐUB tên gọi của Công ty đã được đổi thành Công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế (International Tourism and Investment Consultancy Company-gọi tắt là TIC) với mục đích mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực khác như thương mại, bất động sản, quảng cáo, kiều hối, vận chuyển, tư vấn đầu tư Vị trí của công ty trong bộ máy tổ chức của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1. Mối liên hệ của Công ty với Tổng liên đoàn lao động Tổng liên đoàn lao động Việt Nam Ban bảo hiểm xã hội Tổng liên đoàn Liên đoàn lao động các Công ty du lịch công địa phương đoàn (TIC) 38 Hệ thống nhà nghỉ trung tâm điều dưỡng
  39. Nhận xét: Ta nhận thấy rằng Công ty TIC có mối liên hệ mật thiết (theo chiều ngang) với một hệ thống các liên đoàn lao động tỉnh và địa phương khác cũng như hệ thống nhà nghỉ và trung tâm điều dưỡng tại các tỉnh đó. Đồng thời công ty chịu sự chỉ đạo sát sao từ phía Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Điều này sẽ giúp công ty định hướng được hoạt động kinh doanh của mình cũng như tiếp nhận đưa đón khách du lịch, phục vụ khách thông qua hệ thống nhà nghỉ của mình. Hệ thống các chi nhánh của công ty trong cả nước Nhận thức được lợi thế là đơn vị kinh doanh du lịch đầu tiên thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Điều này sẽ giúp công ty định hướng được hoạt động kinh doanh của mình cũng như tiếp nhận đưa đón khách du lịch, phục vụ khách thông qua hệ thống nhà nghỉ của mình. Hệ thống các chi nhánh của công ty trong cả nước. Nhận thức được lợi thế là đơn vị kinh doanh du lịch đầu tiên thuộc tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Công ty có điều kiện khai thác nguồn khách tương đối ổn định là đoàn viên, người lao động do hệ thống liên đoàn lao động rộng khắp trong cả nước cung cấp. Khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, Công ty gặp phải sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường du lịch. Tính đến 5/1998 trong cả nước đã có tới 86 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế (trong đó riêng ở Hà nội là 28). Trước tình hình đó, công ty đã mở thêm các chi nhánh tạiThành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, các tỉnh Nam Định, Vĩnh Phúc. Các chi nhánh này đều chịu sự quản lý du lịch của Công ty về mục tiêu, kế hoạch, chiến lược phát triển. Tuy nhiên, các chi nhánh này cũng được phép hoạt động tương đối độc 39
  40. lập, có thể chủ động mở rộng ra các ngành nghề kinh doanh hoặc các lĩnh vực hoạt động du lịch khác tuỳ theo tình hình, đặc điểm, môi trường ở từng vùng. Về mặt tài chính, quan hệ giữa chi nhánh với Công ty được thực hiện theo hình thức khoán Ngoài trụ sở chính ở số 1B yếu Kiêu Hà nội, Công ty còn có các chi nhánh tại Thành Phố Hồ Chí Minh-số 167 Trần Quốc Toản, Quận 3 Thành phố Trụ sở chính: 1B Yết Kiêu - Hoàn 8240073-8259508 Hà nội Kiếm - Hà Nội FAX:8240073-259508 Thành phố Đà Nẵng 132 Triệu Nữ Vương 051897977 FAX: 051897735 Tỉnh Nam Định 119 Minh Khai 030.849108 Tỉnh Vĩnh Phúc Thị xã Xuân Hoà-Mê 021065215 Linh-Vĩnh Phúc Các chi nhánh của Công ty có các chức năng phối hợp với nhau khi khai thác khách và gửi khách cho nhau, thực hiện các chương trình dịch vụ đã ký kết với du khách, xúc tiến quảng bá các sản phẩm du lịch (các chương trình du lịch cho Công ty. Ngoài ra họ còn có thể tự liên kết các sản phẩm của các nhà cung ứng ở địa phương để hoàn thiện chương trình du lịch của mình, làm các dịch vụ khác (đặt vé máy bay, phương tiện, đặt phòng khách sạn ) hưởng hoa hồng. Nhìn chung các chi nhánh đều có cơ cấu tổ chức tương đối giống nhau và giống trụ sở Công ty ở Hà nội, giám đốc chi nhánh thường là người của các tỉnh, thành phố có chi nhánh đặt địa điểm, có quyền quyết định các hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, đồng thời hàng quý hàn năm có kế hoạch báo cáo với giám đốc Công ty về tình hình hoạt động của chi nhánh do mình phụ trách. Các giám đốc chi nhánh đều là những người có năng lực, trình độ quản lý và kinh nghiệm trong kinh doanh. 2. Cơ cấu tổ chức của trụ sở công ty tại Hà nội Sơ đồ 2. Cơ cấu tổ chức của công ty tại Hà nội Phòng hành chính kế toán Phòng du lịch quốc tế 40 Phòng du lịch nội địa và vận chuuyển du khách Giám đốc Phó giám đốc Phòng thương mại dịch vụ Phòng tư vấn đầu tư và kinh doanh bất động sản Phòng quảng cáo Ban quản lý dự án xây dựng KS 14B Trần Bình Trọng
  41. Hiện nay Công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế (TIC) bao gồm 7 phòng nghiệp vụ khác nhau đối với tổng số nhân viên là 32 người (trong đó biên chế chính thức 22 người, hợp đồng có thời hạn 10 người). Cơ cấu tổ chức của Công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến – chức năng. Đây là kiểu cơ cấu có nhiều ưu điểm nhất hiện nay, vừa kết hợp với những ưu điểm, khắc phục nhược điểm của cả hai loại cơ cấu chỉ trực tuyến hay chỉ chức năng. Cơ cấu tổ chức này được thể hiện qua sơ đồ 2. Kiểu bố trí cơ cấu tổ chức này cho ta thấy một số đặc điểm sau: Các phòng nghiệp vụ tự hạch toán kinh doanh độc lập nhưng thống nhất theo đường lối, chủ trương mà Ban giám đốc Công ty đề ra, cụ thể là thực hiện các kế hoạch và nhiệm vụ Tổng liên đoàn và Ban giám đốc giao cho. Kiểu bố trí cơ cấu tổ chức này cho ta thấy một số đặc điểm sau: Các phòng nghiệp vụ tự hạch toán kinh doanh độc lập nhưng thống nhất theo đường lối, chủ trương mà Ban giám đốc Công ty đề ra, cụ thể là thực hiện các kế hoạch và nhiệm vụ Tổng liên đoàn và Ban giám đốc giao cho. Ban giám đốc (bao gồm Giám đốc và Phó giám đốc) có thể trực tiếp chỉ đạo các phòng ban hoạt động kinh doanh với một cái nhìn tổng quát nhất thông qua kế hoạch, chương trình hoạt động mà các phòng ban tự đề ra. 41
  42. Để hiểu rõ hơn về tổ chức cơ cấu của Công ty chúng ta cso thể xem xét từng thành phần cụ thể như sau: Giám đốc: là người đứng đầu Công ty, có vai trò chính trong Ban lãnh đạo và chịu trách nhiệm chung toàn Công ty. Giám đốc có quyền: ra các quyết định, đề ra phương hướng, chiến lược kinh doanh của Công ty sau khi đã được Tổng liên đoàn lao động Việt Nam thông qua: căn cứ vào các báo cáo kết quả hoạt động của các phòng ban và kiến nghị của cán bộ cấp dưới để đề ra mục tiêu phấn đấu, nhiệm vụ cho các phòng nghiệp vụ trong thời gian tiếp theo. Phó giám đốc: là người chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý hoạt động kinh doanh của Công ty trước giám đốc. Phó giám đốc có quyền: thay mặt giám đốc điều hành hoạt động của Công ty khi giám đốc đi vắng; tổng hợp các báo cáo từ phòng nghiệp vụ để thành lập báo cáo tổng hợp toàn Công ty trình lên Giám đốc theo quý, năm. Phòng kế toán – hành chính có các chức năng kế toán (tham mưu và giúp giám đốc trong việc quản lý kinh doanh và nghiệp vụ tài chính – kế toán của Công ty ) và chức năng hành chính (tổ chức thực hiện công tác hành chính, quản trị Công ty ). Phòng du lịch nội địa và vận chuyển khách du lịch: có các chức năng du lịch nội địa, trực tiếp kinh doanh, khai thác mảng du lịch nội địa và chức năng vận chuyển (thông qua đội xe của Công ty ). Trước kia, đây là một bộ phận kinh doanh độc lập với đội xe hùng hậu, song gần đây do một số nguyên nhân bộ phận nay được ghép vào phòng du lịch nội địa kể từ năm 1997. Phòng thương mại và dịch vụ: có chức năng kinh doanh tất cả các mặt hàng mà thị trường có nhu cầu, đồng thời phòng cũng có chức năng xuất nhập khẩu hàng hoá, nhận uỷ thác xuất nhập khẩu hưởng hoa hồng. Phòng tư vấn đầu tư và kinh doanh bất động sản: có chức năng thực hiện dịch vụ quảng cáo cho khách hàng (nếu có nhu cầu) cả trong và ngoài nước. Phòng này mới được thành lập và đưa vào hoạt động nên kết quả chưa có gì đáng kể. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực kinh doanh có nhiều triển vọng đang được Công ty duy trì giúp đỡ về vốn và kỹ thuật. 42
  43. Phòng du lịch quốc tế: có chức năng thực hiện các hoạt động về du lịch như cung cấp thông tin về các tuyến du lịch, đưa khách quốc tế vào Việt Nam và người Việt Nam đi du lịch nước ngoài. Bên cạnh đó, phòng du lịch quốc tế còn có thể tham gia thực hiện các cuộc hội thảo, hội nghị và các dịch vụ về du lịch (làm visa, đặt vé máy bay, đặt phòng khách sạn ) hưởng hoa hồng. Ban quản lý khách sạn 14B Trần Bình Trọng có chức năng giám sát hoạt động của khách sạn 4 sao 105 phòng này cho phù hợp với hoạt động của Công ty. Căn cứ vào các quy định của nhà nước và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam về công tác quản lý tài chính, phạm vi và chế độ chi tiêu nội bộ do giám đốc Công ty phê duyệt, các bộ phận phòng ban đều có nhiệm vụ chung là: + áp dụng chế độ hạch toán kinh doanh độc lập, thủ trưởng các đơn vị phải chịu trách nhiệm trước giám đốc Công ty. + Đảm bảo thực hiện đúng pháp luật, các quy định về hoạt động quản lý tài chính, tài sản. + Có kế hoạch và báo cáo quyết toán hằng năm do giám đốc phê duyệt. + Nộp thuế của nhà nước đầy đủ và đúng thời gian quy định. + Nộp nghĩa vụ cho Công ty bằng 30% lợi nhuận còn lại hằng năm sai khi đã trừ các khoản chi phí và thuế hoặc có thể theo hình thức nộp khoán mà Công ty duyệt cụ thể cho từng đơn vị. 3. Vị trí và vai trò của phòng du lịch quốc tế trong Công ty TIC-Hà nội. Cũng giống như các phòng ban khác trong Công ty, phòng du lịch quốc tế là một phòng chức năng được chính thức công nhận có tư cách pháp nhân với đầy đủ các thủ tục pháp lý theo giấy phép thành lập số 1463/ QĐUB do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội cấp, giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế số 44/GPDL do Tổng cục du lịch Việt Nam cấp, giấy phép kinh doanh số 200473 do trọng tài kinh tế Thành phố Hà nội cấp. Đây là một bộ phận có các hoạt động đặc trưng nhất, đem lại nguồn thu chủ yếu cho Công ty. Bộ phận này có chức năng trực tiếp kinh doanh trong lĩnh vực khai thác trao đổi khách du lịch quốc tế với các hãng và các tổ chức du lịch quốc tế như PATA, IAST các nhiệm vụ cụ thể bao gồm: 43
  44. + Nghiên cứu thị trường du khách quốc tế, từ đó xây dựng các chương trình phù hợp, quảng bá và tổ chức thực hiện các chương trình đã lập và bán. + Xây dựng các chiến lược và kế hoạch phát triển ngắn hạn và dài hạn với mục đích duy trì các thị trường khách hiện tại, mở rộng các thị trường tiềm năng. + Tham gia các hội chợ, hội nghị, triển lãm quốc tế về du lịch nhân cơ hội đó quảng cáo về Công ty và các sản phẩm du lịch của Công ty. + Thực hiện giao dịch, ký kết các hợp đồng với các hãng du lịch nước ngoài trong lĩnh vực trao đổi khách với các nhà cung cấp dịch vụ sản phẩm du lịch (khách sạn, nhà hàng, hãng vận chuyển ) + Nhận làm dịch vụ VISA xuất nhập cảnh cho người Việt Nam và người nước ngoài. + Theo dõi việc thực hiện các hợp đồng đã được ký kết với các đối tác để đảm bảo chất lượng chương trình thực hiện. + Có thể uỷ táhc cho phòng du lịch nội địa thực hiện dịch vụ trong chương trình phục vụ khách du lịch quốc tế tại Việt Nam. Phòng du lịch quốc tế là một bộ phận quan trọng của Công ty TIC, nó có vai trò dẫn dắt các bộ phận khác cùng hoạt động. Khi hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế ổn định và phát triển thì bộ phận du lịch nội địa, vận chuyển hành khách, quảng cáo có điều kiện mở rộng hoạt động. Ngoài ra, sự phát triển của lữ hành quốc tế còn góp phần đem lại nguồn thu nhập lớn cho Công ty, tạo điều kiện cho Công ty thực hiện đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, củng cố niềm tin, nâng cao thu nhập của cán bộ công nhân viên trong Công ty. 4. Điều kiện kinh doanh của phòng Du lịch quốc tế. Đây là tất cả những yếu tố về cơ sở vật chất, công nhân mà bộ phận du lịch quốc tế có thể sử dụng để phục vụ hoạt động kinh doanh. * Điều kiện về cơ sở vật chất: Tiền thân của bộ phận này là phòng du lịch thuộc Bna Bảo hiểm xã hội của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Trước đây, phòng hoạt động tại trụ sở số 65 phố Quán Sứ nhưng hiện nay đã chuyển đến 1B Yết Kiêu. Mặc dù so với cơ sở 44
  45. trước đây, cơ sở mới có điều kiện thuận lợi hơn song hoạt động của phòng vẫn gặp không ít những khó khăn. Ban đầu khi thành lập, phòng được Tổng Liên đoàn được Việt Nam cấp vốn tổng công 132,3 triệu đồng (trong đó bằng hiện vật 47 triệu bằng tiền mặt 50 triệu). Tổng cộng cả nguồn được cấp và cho vay, vốn kinh doanh của bộ phận du lịch quốc tế là 229,3 triệu đồng. Như vậy xét về điều kiện cơ sở vật chất, so với các đơn vị kinh doanh du lịch quốc tế khác bộ phận du lịch quốc tế gặp phải khá nhiều khó khăn nhất là trong điều kiện kinh doanh mới, mức độ cạnh tranh của thị trường ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, với nỗ lực của cả tập thể cán bộ lãnh đạo và đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ tốt hơn trong công việc kinh doanh cụ thể là: Chỉ sau 3 năm (từ 1989 – 1992) bộ phận du lịch quốc tế đã trong bị được một đội xe 4 chiếc của Nhật (gồm 1 xe 52 chỗ, 2 xe 12 chỗ, 1 xe 4 chỗ) để chuyển sang phục vụ nhu cầu của khách du lịch nội địa, với chức năng kinh doanh chủ yếu là vận chuyển. Về cơ bản, đến nay đã giải phóng xong khu đất ở 1B Yết Kiêu, thực hiệ đền bù thoả đáng cho một số hộ dân, xây dựng mới một dãy nhà 1 tầng để tiếp khách và làm việc. Công ty đang tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng một khách sạn 4 sao bằng vốn tự có và vốn vay Ngân hàng, dự kiến đưa vào sử dụng vào cuối năm 1999. Đây là điều kiện để phòng du lịch quốc tế sẽ không chỉ kinh doanh lữ hành mà còn mở rộng sang hoạt động lưu trú, đáp ứng nhu cầu nội bộ của Công ty cũng như khách du lịch có yêu cầu. Đó là những điều kiện có cơ sở vật chất kỹ thuật của toàn Công ty TIC mà bộ phận du lịch quốc tế được thừa hưởng. Ngoài ra bên cạnh sự hỗ trợ của Công ty, bộ phận lữ hành quốc tế cũng tự trang bị các phương tiện dụng cụ cần thiết để phục vụ nhu cầu kinh doanh và công việc, dù còn hạn chế. Các thiết bị này nhìn chung đúng quy cách, tiêu chuẩn và khá hiện đại (máy tính, máy Fax, điện thoại di 45
  46. động ) không chỉ sử dụng cho văn phòng của bộ phận mà cho cả các nhân viên góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động. Điều kiện về nhân lực: Văn phòng của bộ phận du lịch quốc tế khá nhỏ (diện tích khoảng 30m2) do đó chưa có điều kiện để mở rộng đội ngũ nhân sự. Hiện nay, bộ phận du lịch quốc tế trong công ty gồm 6 người (trong đó có 4 người biên chế chính thức và 2 người hợp đồng) bao gồm trưởng Phòng, phó phòng, 2 chuyên viên du lịch và 2 hướng dẫn viên du lịch. Họ đều có trình độ ngoại ngữ và chuyên môn tốt, có kinh nghiệm trong quản lý, được đào tạo từ các trường đại học trong và ngoài nước. Với những điều kiện như vậy, bộ phận Du lịch quốc tế Công ty chưa thể tự hình thành, phân chia thành các tiểu ban độc lập như bộ phận Marketing, hướng dẫn, điều hành để có thể chuyên môn hoá hoạt động và nâng cao hiệu quả kinh doanh, hiện nay tất cả các hoạt động của bộ phận Du lịch quốc tế đều được tập trung và trách nhiệm của mỗi người là khá nặng nề. Tuy nhiên, họ đều là những người có trình độ và năng lực chuyên môn khá tốt, có thể thay thế và làm hộ nhau mộ số công việc trong trường hợp thiếu người (nghỉ công tác ) , vì thế cho đến nay bộ phận du lịch quốc tế vẫn duy trì hoạt động một cách khá hiệu quả, kiểm soát được các hướng dẫn viên trong quá trình đi dẫn khách, đảm bảo chất lượng các sản phẩm của nhà cung cấp hoặc các Công ty gửi khách .Tuy nhiên muốn phát triển, phòng Du lịch quốc tế cần phải điều chỉnh lại nhân sự sao cho phù hợp với hoạt động của mình. Điều kiện về nguồn khách (người mua). Một đơn vị kinh doanh Du lịch, muốn tồn tại và phát triển thì phải có các du khách chính là những quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp du lịch, là sự quan tâm chính của các doanh nghiệp này. Khi nghiên cứu về nguồn khách các doanh nghiệp này thường sử dụng nhiều tiêu thức khác nhau đề phân tích, phân loại. Việc phân loại này được tiến hành dựa trên các đặc điểm về vị trí địa lý, dân tộc, phong tục tập quán,. khả năng thanh toán, phúc lợi xã hội Nhờ đó các doanh nghiệp xây dựng được chính sách về giá cả (giá phân biệt, giúa chọn gói, giá ưu đãi ) chính sách sản phẩm (giới thiệu sản phẩm 46
  47. mới, dịch vụ, chương trình ) phù hợp với nhu cầu của khách, chính sách phân phối (đưa sản phẩm tới khách du lịch một cách có hiệu quả nhất) hay chiến dịch quảng cáo (giúp khách hàng hiểu rõ hơn về Công ty và các sản phẩm của Công ty). Từ đó doanh nghiệp có thể tăng cường khả năng thu hút và khai thác nguồn khách một cách tốt nhất. Từ đầu những năm 1990, Tồng cục Du lịch Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác song phương với các Chính phủ về số lượng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch thực hiện các hợp đồng trao đổi khách, không chỉ trong phạm vi hai quốc gia mà khuyến khích mở rộng phạm vi du lịch (kéo dài các Tour theo tuyến xuyên quốc gia, xuyên khu vực ) Cùng với điều này, các chính sách và cơ chế mới cũng đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch quốc tế, trong đó có cả Công ty TIC. Không những thế nó còn mang lợi ích to lớn cho các quốc gia trong việc trao đổi thông tin, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, tạo ra nguồn thu ngoại tệ từ việc xuất khẩu hàng hoá vô hình. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay có nhiều hạn chế, chúng ta cần xác định Việt Nam chủ yếu là thị trường nhận khách. Vì vậy, hoạt động kinh doanh của Công ty TIC cũng không nằm ngoài xu hướng này. Những năm gần đây, do yếu tố chính trị thuận lợi nên Công ty có quan hệ khá tốt với một số hãng du lịch lớn thuộc các nước xã hội chủ nghĩa (chủ yếu là các nước Đông Âu). Nguồn khách khi đó chủ yếu là từ Công Đoàn các nước này gửi sang, thành phần chủ yếu là người lao động sang nghỉ ngơi, tham quan, tìm hiểu về Việt Nam kết hợp với nghiên cứu, nghiên cứu, hợp tác trao đổi khoa học, kỹ thuật, văn hoá, kinh tế Các nước gửi khách chủ yếu là Liên Xô (cũ), Cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, và một số nước khác như Lào, Campuchia Về phía Việt Nam , công ty cũng đã tổ chức đưa du khách Việt Nam đi du lịch các nước bạn trên cơ sở hợp tác, hữu nghị. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn thu nhập người dân còn thấp nên số lượng khách đi du lịch nước ngoài còn hạn chế. 47
  48. Hiện nay, theo xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế du lịch, Công ty đã tham gia vào một tổ chức du lịch như hiệp hội quốc tế về du lịch xã hội (IAST), Hiệp hội du lịch Châu á Thái Bình Dương (PATA). Qua các hiệp hội này Công ty có điều kiện khai thác và phát triển nguồn khách từ các nước thành viên thông qua các Công ty du lịch của nước đó. Bảng 1: Danh sách các hãng du lịch đã ký hợp đồng trao đổi khách với Công ty TIC. T Tên nước Các hãng du lịch ký hợp đồng với Công ty TIC TT 1 CH Ucraina Công ty cổ phần du lịch và tham quan Ucraina Belarutxia Công ty du lịch Belarutxia LB Nga Công ty du lịch cổ phần CCTE – INTUR CH Sec Pragorient tuor and Trading Praha Skitur Association Forsocial Tourism Trarel egency Ba Lan Centour Biuro useng turyctyczny CH enp ITalia Elti Rom RUgantino viaggi Bỉ Worldover U.K Progresive tuor 48
  49. Trung Quốc Tổng Công ty Thương mại Tân Kiều Hồng Kông Impro luc &b Universal Travel Service Hàn Quốc MK Ways, asian Festiral and Sight seeing Corp Thái Lan – Ltd Singapore Chan brothets sime travel PTE. Ltd Malaysia API tour (Borneo) Lào Dok Champa Campuchia Công ty du lịch Phnompênh Nhật Bản Asian Women Workes Centrer Pháp AUEV Nguồn Công ty TIC Nguồn khách du lịch Công ty gửi đi nước ngoài chủ yếu do liên đoàn lao động các tỉnh Thành phố trong cả nước gửi đến. Số khách này chủ yếu đến với công ty với mục đích đi tham quan,học tập, nghiên cứu. Ngoài ra, Công ty còn nhận và gửi một số khách riêng lẻ. Họ thường là các cá nhân đi do giới thiệu có mối quan hệ quen biết, có tín nhiệm với Công ty. Điều kiện về quan hệ với các nhà cung ứng du lịch. Các nhà cung ứng sản phẩm du lịch (gọi tắt là các nhà cung ứng) bao gồm tất cả các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, cung ứng các loại hàng hoá, dịch vụ du lịch. Các Công ty có mối quan hệ hợp tác lao kinh doanh chặt chẽ lâu dài với các nhà cung ứng dười nhiều hình thức khác nhau và trở thành một mắt xích quan trọng trong các kênh phân phối sản phẩm du lịch. Với hoạt động đặc trưng là lữ hành, Công ty TIC có nhiều mối quan hệ lâu dài với nhà cung ứng, trong đó chủ yếu là các khách sạn và các hãng hàng không quốc gia. Các nhà cung ứng lớn mà Công ty có quan hệ lâu dài là các khách sạn Hoà Bình (27 Lý Thường Kiệt) Kim Anh ( 132 Tôn Đức Thắng, Hà nội ), Hữu Nghị (560 Điện Biên Phủ, Hải Phòng) Thu Bồn (10, Nguyễn Huệ, Quy Nhơn), Đồng Khánh (2 Trần Hưng Đạo, Thành Phố Hồ Chí Minh) và các hãng hàng không Việt Nam Airlines, Pacific Airlines,. Công ty bay dịch vụ miền Bắc. Trong mối quan hệ với các nhà cung ứng Công ty chủ yếu tham gia với vai trò trung gian hưởng hoa 49
  50. hồng của họ theo phần trăm phía bán hai bên thời vụ, có thể thay đổi trong một khoảng nhất định. Ví dụ hoa hồng đặt chỗ khách sạn thường từ 5 – 15 % giá bán trong khi hoa hồng đặt vé máy bay quốc tế từ 5 – 10 % giá bán trong một số trường hợp nhất định, mức hoa hồng khuyến khích có thể là các dịch vụ miễn phí của nhà cung ứng. Trước đây khi còn thời kỳ bao cấp, Công ty TIC đã có một hệ thống các nhà nghỉ tại nhiều tỉnh, Thành phố trong cả nước để đáp ứng nhu cầu lưu trú của các đối tượng lao động được thực hiện theo chế độ nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây các nhà nghỉ này xuống cấp khá nhiều, không còn đáp ứng được các đỏi hỏi của du khách mới và thực tế cho thấy cần phải được quan tâm chú ý hơn nữa, nâng cấp và trang bị lại để có thể tăng cường chất lượng phục vụ du khách không chỉ trong nước mà cả khách nghiên quốc tế Nhìn chung các nhà cung ứng có quan hệ với Công ty (chủ yếu là các khách sạn) đều có quy mô vừa và nhỏ. Các khách sạn này đa phần là khách sạn 3 sao, nó phù hợp với điều kiện khách hàng hiện nay với khả năng thanh toán còn hạn chế và yêu cầu chất lượng không quá cao. Bên cạnh đó Công ty DEAWOO. Sofitel Hà nội, Horizon nhằm phục vụ một số khách giàu có. Điều đó chứng tỏ mặc dù phạm vi hoạt động không rộng lớn nhưng Công ty vẫn có uy tín nhất định do có nguồn khách tương đối ổn định. Trong thời gian gần đây Công ty bay dịch vụ miền Bắc đã đến mời một số thành viên của Công ty trong bộ phận lữ hành quốc tế tham gia các chuyến đi tham quan vịnh Hạ Long bằng máy bay trực thăng. Đó là một phương thức quảng cáo, chào hàng để có thể liên kết với Công ty, phục vụ nhu cầu của du khách sau này. Sự xuất hiện các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng: Sau hơn 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế tại Việt Nam, cùng với sự đi lên của nền kinh tế là cả một quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế. Ngành dịch vụ ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong GDP. Thực tế đã cho thấy rằng du lịch đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng thúc đẩy sự phát triển của tổng thể ngành dịch vụ không chỉ ở Việt Nam mà còn nhiều quốc gia khác. Lấy đơn cử như Thái lan, 50
  51. chính nhờ có du lịch (với Amazing ThaiLand) năm 1998 vừa qua Thái Lan đã thu về USD vực dậy cả một nền kinh tế vừa bị quật ngã bởi cơn bão khủng hoảng tài chính Châu á. Điều này để chứng tỏ rằng kinh doanh du lịch vẫn là một ngành béo bở đối với các nhà kinh doanh. Nó đã và đang phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới. Chỉ tính riêng khu vực Châu á nghề kinh doanh du lịch đã rất phát đạt. Trung Quốc có 3.000 hãng , Nhật Bản có hơn 1.000 hãng, Malaysia có hơn 2.000 hãng du lịch quốc tế cũng lên tới 86 hãng. Đối với người kinh doanh thì nếu như tại lĩnh vực nào, thị trường nào có nhiều thuận lợi thì đương nhiên họ sẽ nhảy vào và ra sức giành giật thị phần bằng giá cả và chất lượng. Trong hoàn cảnh đó các Công ty cần phải: + Mở rộng Khối lượng sản xuất Công ty để giảm chi phí + Dị biệt hoá sản phẩm +Mở rộng khả năng cung cấp vốn + Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống, tăng đầu tư vốn. +Mở rộng các dịch vụ bổ sung. Mặc nhiên, các công việc này là cần thiết đối với mỗi Công ty, bao gồm cả Công ty TIC. Trong việc cạnh tranh của mình Công ty TIC cũng gặp nhiều khó khăn đó là vốn ít, nhân lực thiếu, phương tiện cơ sở vật chất chưa hoàn chỉnh, đã đẩy Công ty tới chỗ cạnh tranh rất yếu ớt trong làng du lịch Việt Nam. Với các hãng kinh doanh du lịch mới bước vào hoạt động họ đã có rất nhiều kinh nghiệm từ các hãng khác, phần nào được chuẩn bị đầy đủ về vốn, cơ sở vật chất cũng như con người, do vậy nhân tố này sẽ gây không ít khó khăn đối với Công ty TIC Sự đe doạ của sản phẩm, dịch vụ thay thế: Đây là nhân tố đòi hỏi Công ty TIC cần có sự điều chỉnh hợp lý nếu Công ty không muốn gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh sau này. Đối với Công ty TIC với đặc điểm là một Công ty nhỏ cả về nguồn vốn nhân sự và cơ sở vật chất thì việc các chương trình du lịch dập theo khuôn mẫu của các hãng lớn là một điều khó tránh khỏi. Kinh doanh lao động là một ngành có tính chất đặc thù rất riêng, ngoài việc phải đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu của khách các Công ty du lịch còn phải gây được ấn tượng với du khách về sản phẩm của mình để khách có thể nhớ và đi 51
  52. du lịch với hãng. ấn tượng về hãng có thể là: tour du lịch rất hay và thú vị; nhân viên phục vụ của hãng nhiệt tình, hiểu biết; chi phí và gía cả của tour hợp lý; thời gian làm các thủ tục nhanh gọn, thuận tiện và chu đáo Việc tạo dựng nên một ấn tượng tốt hình ảnh của hãng trong lòng du khách cũng đồng nghĩa với việc hãng đã đạt một sự thành công nhất định. Song nếu như việc thực hiện các chương trình du lịch không tốt thì chính hãng đã tự đặt mình vào tình huống khó khăn cho việc phát triển sau này. Đó là do sau khi đi du lịch khách hàng sẽ kể với bạn bè về chuyến du lịch của mình nếu như sản phẩm của hãng du lịch không tốt, không có gì đặc biệt thì sẽ không gây được nhiều hướng thú cho họ và tất yếu họ sẽ chuyển sang tiêu dùng sản phẩm khác, có thể thay vì đi du lịch nước ngoài chuyển sang đi du lịch trong nước, đi một nước khác hoặc chuyển nhu cầu du lịch thành một nhu cầu khác thú vị hơn. Việc này sẽ làm cho Công ty mất đi lượng khách phục vụ giảm doanh thu và cuối cùng là phá sản. Mặc dù vậy điều này cũng đặt ra một vấn đề là làm thế nào để tự mình nghiên cứu và xây dựng chương trình là điều rất cần thiết. Thực tế cho thấy số nhân viên trong phòng du lịch quốc tế chỉ có 6 người một nửa tuổi đời còn rất trẻ, thiếu kinh nghiệm họ cùng lúc đạt nhiều công việc khác nhau từ điều hành quản lý, Marketing tới hướng dẫn viên vì thế việc tự xây dựng chương trình là rất khó khăn nếu có cũng chưa chắc hiệu quả. Chính vì thế trong quá trình phát triển Công ty cần phải chú ý nhiều hơn nữa tới tính hiệu quả công việc mà có sự sắp xếp nhân lực hợp lý, thay đổi lại hướng đi của mình. Cạnh tranh giữa các hãng kinh doanh lữ hành hiện tại: Như đã trình bày ở trên, tại Việt Nam hiện nay có tới 86 hãng được phép kinh doanh lao động quốc tế, chưa kể có hàng trăm hãng kinh doanh du lịch nội địa. Phạm vi của nó kéo dài từ nam ra bắc, từ các đơn vị kinh tế nhà nước tới các đơn vị tư nhân. Điều đó cho thấy việc cạnh tranh của Công ty TIC là vô cùng khốc liêt. Trên thị trường các hãng cạnh tranh lành mạnh có, không lành mạnh có gây ra một tình trạng lộn xộn giữa các đơn vị kinh tế nhà nước với tư nhân. Trong hoàn đó, để tồn tại Công ty TIC đã có những lợi thế và những thách thức nào? *Về mặt lợi thế: 52
  53. Thứ nhất: đây là một công ty kinh doanh du lịch do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam thành lập nên Công ty thừa hưởng nhiều ưu đãi nhất định về vốn, uy tín. Hoạt động của Công ty là kinh doanh nhưng lại mang tính chất xã hội với mục đích phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, an dưỡng, tham quan quốc tế trong cả nước, Công ty TIC có đủ tư cách pháp nhân để ký kết các hợp đồng với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc thu hút khách quốc tế vào Việt Nam và đưa người Việt Nam đi du lịch nước ngoài, tham gia vào các diễn đàn và hội chợ, gia nhập các tổ chức quốc tế về du lịch như PATAIAST chính từ đây Công ty có khả năng mở rộng thị trường thu hút khách du lịch đồng thời quảng bá sản phẩm của mình. Là một đơn vị kinh doanh du lịch quốc tế, Công ty có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp chỉ kinh doanh nội địa là Công ty được làm đầu mối xin xét duyệt nhân sự xuất nhập cảnh cho cơ quan số lượng suất nhập cảnh. Chính vì thế ngoài các nhiệm vụ chính là tổ chức xây dựng các chương trình du lịch, Công ty còn tham gia làm các dịch vụ bổ sung như làm visa lưu niệm, đặt phòng khách sạn hay đặt vé máy bay Thứ ba: Công ty có một đội ngũ cán bộ công nhân viên trẻ, năng động và có trình độ đồng thời được sự chỉ đạo trực tiếp của chủ tịch liên đoàn lao động Việt Nam, lại được sự lãnh đạo của ban Giám đốc giàu kinh nghiệm và có năng lực, điều này sẽ góp phần rất lớn trong quá trình hoạt động của Công ty. Bên cạnh đó, chúng ta không thể không kể đến vị trí của Công ty TIC: nằm giữa thủ đô Hà nội trung tâm kinh tế chính trị,văn hoá là một thuận lợi lớn trong việc giao dịch ký kết các hợp đồng với du khách, các hãng trao đổi khách cũng như với các nhà cung ứng. Hơn nữa việc xây dựng khách sạn 14B Trần Bình Trọng đang tiến hành rất thuận lợi cùng với các phòng ban khác trong Công ty thì rất có thể Công ty sẽ không chỉ đơn thuần là kinh doanh lữ hành mà sẽ trở thành một công ty kinh doanh du lịch tổng hợp, có đầy đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu đa dạng của du khách và của chính bản thân Công ty. * Về mặt khó khăn: Mặc dù là một Công ty có uy tín trong ngành du lịch Việt Nam song công ty lại có một cơ sở vật chất chưa tương xứng, quy mô trụ sở quá nhỏ hẹp phòng du lịch 53