Đề tài Thực trạng hoạt động xuất khẩu và khái quát về xuất khẩu chè

doc 85 trang nguyendu 7640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thực trạng hoạt động xuất khẩu và khái quát về xuất khẩu chè", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_thuc_trang_hoat_dong_xuat_khau_va_khai_quat_ve_xuat_k.doc

Nội dung text: Đề tài Thực trạng hoạt động xuất khẩu và khái quát về xuất khẩu chè

  1. Chương I: lý luận chung về hoạt động xuất khẩu và khái quát về xuất khẩu chè. i. Khái quát về xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 1. Khái niệm Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán. Tiên tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Cơ sở của hoạt đông xuất khẩu là việc mua bán và trao đổi ( bao gồm cả hàng hoá vô hình và hữu hình ) trong nước. Cho tới khi sản xuất phát triển và việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia hoặc giữa thị trường nội địa và khu chế xuất. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương . Nó đã xuất hiện từrất sớm trong lịch sử phát triển của xã hội và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức sơ khai của chúng chỉ là hoạt động trao đổi hàng hoá nhưng cho đến nay nó đã phát triển rất mạnh và đước biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của nền kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc hàng hoá thiết bị công nghệ cao. Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho quốc gia nói chung và các doanh nghiệp tham gia nói riêng. Hoạt động xuất khẩu diễn ra rất rộng về không gian và thời gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian rất ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm, có thể đước diễn ra trên phậm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. 2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu 2.1.Đối với nền kinh tế toàn cầu Như chúng ta đã biết xuất khẩu hàng hoá xuất hiện từ rất sớm. Nó là hoạt động buôn bán trên phạm vi giữa các quốc gia với nhau(quốc tế). Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ, đơn phương mà ta có cả một hệ thống các 1
  2. quan hệ buôn bán trong tổ chức thương mại toàn cầu. Với mục tiêu là tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp nói riêng cả quốc gia nói chung. Hoạt động xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế. Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá là một trong bốn khâu của quá trình sản xuất mở rộng. Đây là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng của nước này với nước khác. Có thể nói sự phát triển của của xuất khẩu sẽ là một trong những động lực chính để thúc đẩy sản xuất. Trước hết , xuất khẩu bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiện của sản xuất giữa các nước , nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sanr xuất trong nước kém lợi thế hơn thì chắc chắn sẽ đem lại lợi nhuần lớn hơn. Điều này được thể hiện bằng một số lý thuyêt sau. a. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Theo quan điểm về lợi thế tuyệt đối của nhà kinh tế học Adam Smith , một quốc gia chỉ sản xuất các loại hàng hoá, mà việc sản xuất này sử dụng tốt nhất, hiệu quả nhất các tài nguyên sẵn có của quốc gia đó. Đây là một trong những giải thích đơn giản về lợi ích của thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Nhưng trên thực tế việc tiến hành trao đổi phải dưa trên nguyêntắc đôi bên cùng có lợi. Nếu trong trường hợp một quốc gia có lợi và một quốc gia khác bị thiết thì họ sẽ từ chối tham gia vào hợp đồng trao đổi này . Tuy nhiên , lợi thế tuyết đối của Adam Smith cũng giải thích được một phần nào đó của việc đem lại lợi ích của xuất khẩu giữa các nước đang phát triển. Với sự phát triển mạmh mẽ của nền kinh tế toàn cầu mầy thập kỷ vừa qua cho thấy hoạt động xuất khẩu chủ yếu diễn ra giữa các quốc gia đang phát triển với nhau, điều này không thể giải thích bằng lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Trong những cố gắng để giải thích các cơ sở của thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng, lợi thế tuyệt đối chỉ còn là một trong những trường hợp của lợi thế so sánh. b. Lý thuyết lợi thế so sánh. Theo như quan điểm của lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người Anh David Ricardo. ông cho rằng nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với 2
  3. hiệu quả của quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào hoạt đông xuất khẩu quốc gia đó sẽ tham gia vào việc sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ít bất lợi nhất( đo là những hàng hoá có lợi thế tương đối)và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng có những bất lợi hơn( đó là những hàng hoá không có lợi thế tương đối). c. Học thuyết HECSHER- OHLIN. Như chúng ta đã biết lý thuyết lợi thế ó sánh của David Ricardo chỉ đề cập đến mô hình đơn giản chỉ có hai nước và việc sản xuất hàng hoá chỉ với một nguồn đầu vào là lao động. Vì thế mà lý thuyết của David Ricardo chưa giải thích một cách rõ ràng về nguồn gốc cũng như là lơị ích của các hoạt động xuất khâutrong nền kinh tế hiện đại. Để đi tiếp con đường của các nhà khoa học đi trước hai nhà kinh tế học người thuỵ điển đã bổ sunhg mô hình mới trong đó ông đã đề cập tới hai yếu tố đầu vào là vốn và lao động. Học thuyết Hðcher- Ohlin phát biểu: Một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đoói sẵn của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng cần nhiều yếu dắt và tương đối khan hiếm ở quốc gia đó. Hay nói một cách khác một quốc gia tương đối giàu lao động sẽ sản xuất hàng hoá sử dụng nyhiều lao động và nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Về bản chất học thuyết Hecher- Ohlin căn cứ về sự khác biệt về tình phong phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất , là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia trước khi có các hoạt động xuất khẩu để chỉ rõ lợi ích của các hoạt động xuất khẩu. sự khác biệt về giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất và giá cả tương đối của các hàng hoá sau đó sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá. Sự khác biệt về gíá cả tuyệt đối của hàng hoá là nguồn nlợi của hoạt động xuất khẩu. Nói một cách khác, một quốc gia dù ở trong tình huống bất lợi vẫn có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thếnày các quốc gia tập trung vào việc sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế tương đối và nhập khẩu những mặt hàng không có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hoảtong sản xuất này làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình một cách tốt nhất, giúp tiết kiệm được những nguồn lực như vốn, lao động, tài 3
  4. nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất hàng hoá. Chính vì vậy trên quy mô toàn thế giới thì tổng sản phẩm cũng sẽ tăng. 2.2. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia Xuất khẩu là một trong những tố tạo đà, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo như hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều khẳng định và chỉ rõ để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật công nghệ. Nhưng hầu hết các quốc gia đang phát triển (như Việt Nam ) đều thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ. Do vậy câu hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn và công nghệ a.Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo làn lạc hậu chận phát triển. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá phải có một lượng vốn lớn để nhập khẩu công nghệ thiết bị tiên tiến. Thực tế cho thếy, để có nguồn vốn nhập khẩu một nước có thể sử dụng nguồn vốn huy động chính như sau: + Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ + Thu từ các hoạt động du lịch dịch vụ thu ngoại tệ trong nước + Thu từ hoạt động xuất khẩu Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận được, song việc huy động chúng không phải rễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này, các nước đi vay phải cfhịu thiệt thòi, phải chịu một số điều kiện bất lợi và sẽ phải trả sau này. Bởi vì vậy xuất khẩu là một hoạt động tạo một nguồn vốn rất quan trọng nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô tốc độ tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu. ở một số nước một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó họ cho nguồn vốn ở bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu –nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện thực . b. Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển 4
  5. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối vơi0s sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự dư thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Thứ hai, coi thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tíchcực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy xuất khẩu.Nó thểhiện: + Xuất khẩu tạo tiền đề cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Điều này có thể thông qua ví dụ như khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu, các ngành khác như bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy sẽ có điều kiện phát triển. + xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phầnổn định sản xuất, tạo lợi thế nhờ quy mô. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng thị trường tiêu dùng của một quốc gia. Nó cho phép một quốc gia có rthể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lương lớn hơn nhiều lần giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó thậm chí cả những mặt hàng mà họ không có khả năng sản xuất được. + Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Trong nền kinh tế hiện đại mang tính toàn cầu hoá như ngày nay, mỗi loại sản phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứtq và thanh toán thực hiện ở nước thứ 5. Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở mỗi quốc gia và tiêu thụ ở một quốc gia cho thấy sự tác động ngược trở lại của chuyên môn hoá tới xuất khẩu. Với đặc điêm quan trọng là tiền tệ sản xuất sử dụng làm phương tiện thanh toán, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ một quốc gia. Đặc biệt với các nước đang phát triển đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về 5
  6. cung cấp ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. c. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Đối với công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua việc sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng yêu cầu ngay càng đa dạng và phong phú của nhân dân. d. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững chắc để xây dựng các mối quan hề kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các mối quan hệ khác phát triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt động xuất khẩu làm cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Có thể nói xuất khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung sẽ dẫn tới những sự thay đổi trong sinh hoạt tiêu dùng hàng hoá của nền kinh tế bằng hai cách. + Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng nhiều hơn với số hàng hoá được sản xuất ra. + Kéo theo sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động của xuất khẩu đối với các quốc gia khác nhau là khác nhau. 2.3. Đối với các doanh nghiệp Cùng với sự bùng nổi của nền kinh tế toàn cầu thì xu hướng vươn ra thị trường quốc tế là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Xuất khẩu là một trong những con đường quen thuộc để các doanh nghiệp thực hiện kế hoạch bành trướng, phát triển, mở rộng thị trường của mình. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của doanh nghiệp không chỉ được các khách hàng trong nước biết đến mà còn có mặt ở thị trường nước ngoài. 6
  7. Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó nâng cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình phát triển. Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ XNK cũng như các đơn vị tham gia như: tích cực tìm tòi và phát triển các mặt trong khả năng xuất khẩu các thị trường mà doanh nghiệp có khả năng thâm nhập. Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi thọ của chu kỳ sống của một sản phẩm. Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lần nhau giữa các đơn vị tham gia xuất khẩu trong và ngoài nước. Đây là một trong những nguyên nhân buộc các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, các doanh nghiệp phải chú ý hơn nữa trong việc hạ giá thành của sản phẩm, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hay nói cách khác tiết kiệm các nguồn lực. Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được thu hút được nhiều lao động bán ra thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng thêm thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng thêm lợi nhuận. Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài dựa trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. 3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu Trên thị trường thế giới, các nhà buôn giao dịch với nhau theo những cách thức nhất định. ứng với mỗi phương thức xuất khẩu có đặc điểm riêng. Kỹ thuật tiến hành riêng Tuy nhiên trong thực tế xuất khẩu thường sử dụng một trong những phương thức chủ yếu sau: 3.1. Xuất khẩu trực tiếp Khái niệm trực tiếp là việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức cuả mình. Trong trường hợp doanh nghiệp tham gia xuất khẩu là doanh nghiệp thương mại không tự sản xuất ra sản phẩm thì việc xuất khẩu bao gồm hai công đoạn: 7
  8. + Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu với các đơn vị, địa phương trong nước. + Đàm phán ký kết với doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng với đơn vị bạn. Phương thức này có một số ưu điểm là: thông qua đàm phán thảo luận trực tiếp dễ dàng đi đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc do đó: + Giảm được chi phí trung gian do đó làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. + Có nhiều điều kiện phát huy tính độc lập của doanh nghiệp. + Chủ động trong việc tiêu thụ hàng hoá sản phẩm của mình. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì phương thức này còn bộc lộ một số những nhược điểm như: + Dễ xảy ra rủi ro + Nếu như không có cán bộ XNK có đủ trình độ và kinh nghiệm khi tham gia ký kết hợp đồng ở một thị trường mới hay mắc phải sai lầm gây bất lợi cho mình. + Khối lượng hàng hoá khi tham giao giao dịch thường phải lớn thì mới có thể bù đắp được chi phí trong việc giao dịch. Như khi tham gia xuất khẩu trực tiếp phải chuẩn bị tốt một số công việc. Nghiên cứu hiểu kỹ về bạn hàng, loại hàng hoá định mua bán, các điều kiện giao dịch đưa ra trao đổi, cần phải xác định rõ mục tiêu và yêu cầu của công việc. Lựa chọn người có đủ năng lực tham gia giao dịch, cần nhắc khối lượng hàng hoá, dịch vụ cần thiết để công việc giao dịch có hiệu quả. 3.2. Xuất khẩu uỷ thác Đây là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị XNK đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu do đó nhà sản xuất và qua đó được hưởng một số tiền nhất định gọi là phí uỷ thác. Hình thức này bao gồm các bước sau: + Ký kết hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với đơn vị trong nước. + Ký hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền hàng bên nước ngoài. 8
  9. + Nhận phí uy thác xuất khẩu từ đơn vị trong nước. Ưu điểm của phương thức này: Những người nhận uỷ thác hiểu rõ tình hình thị trường pháp luật và tập quán địa phương, do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và thanh tránh bớt uỷ thác cho người uỷ thác. Đối với người nhận uỷ thác là không cần bỏ vốn vào kinh doanh tạo ra công ăn việc làm cho nhân viên đồng thời cũng thu được một khoản tiền đáng kể. Tuy nhiên, việc sử dụng trung gian bên cạnh mặt tích cực như đã nói ở trên còn có những han chế đáng kể như : - Công ty kinh doanh XNK mất đi sự liên kết trực tiếp với thị trường thường phải đáp ứng những yêu sách của người trung gian. - Lợi nhuận bị chia sẻ 3.3. Buôn bán đối lưu (Counter – trade) a. Khái niệm: Buôn bán đối lưu là một trong những phương thức giao dịch xuất khẩu trong xuất khẩu kết hợp chặc chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là ngời mua, lượng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Trong phương thức xuất khẩu này mục tiêu là thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Vì đặc điểm này mà phương thức này còn có tên gọi khác như xuất nhập khẩu liên kết, hay hàng đổi hàng. b. Yêu cầu: Các bên tham gia buôn bán đối lưu luôn luôn phải quan tâm đến sự cân bằng trong trao đổi hàng hoá. Sự cần bằng này được thể hiện ở những khía cạnh sau: - Cân bằng về mặt hàng: mặt hàng quý đổi lấy mặt hàng quý, mặt hàng tồn kho đổi lấy mặt hàng tồn kho khó bán. - Cân bằng về giá cả so với giá thực tế nếu giá hàng nhập cao thì khi xuất đối phương giá hàng xuất khẩu cũng phải được tính cao tương ứng và ngược lại. - Cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau: - Cân bằng về điều kiện giao hàng: nếu xuất khẩu CIF phải nhập khẩu CIF. c. Các loại hình buôn bán đối lưu 9
  10. Buôn bán đối lưu ra đời từ lâu trong lịch sử quan hệ hàng hoá tiền tệ, trong đó sớm nhất là hàng đổi dàng và trao đổi bù trừ. Nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter): ở hai bên trao đổi trực tiếp với nhau nhưng hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Tuy nhiên trong hoạt động đổi hàng hiện đại người ta có thể sử dụng tiền để thành toán một phần tiêng hàng hơn nữa có thể thu hút 3-4 bên tham gia. Nghiệp vụ bù trừ (Compensation) ha8i bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi trị giá hàng giao, đến cuối kỳ hạn hạn, hai bên mới đối chiếu sổ sách, đối chiếu với giá trị giao và giá trị nhận. Số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ. Nghiệp vụ mua đối lưu (Counler – Purchase) một bên tiến hành của công nghiệp chế biến, bán thành phẩm nguyên vật liệu. Nghiệp vụ này thường được kéo dài từ 1 đến 5 năm còn trị giá hàng giao để thanh toán thường không đạt 100% trị giá hàng mua về. Nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ (Swich) bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho một bên thứ ba. Giao dịch bồi hoàn (offset) người ta đổi hàng hoá hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ và ưu huệ (như ưu huệ đầu tư hoặc giúp đỡ bán sản phẩm) giao dịch này thường xảy ra trong lĩnh vực buôn bán những kỹ thuật quân sự đắt tiền trong việc giao những chi tiết và những cụm chi tiết trong khuôn khổ hợp tác công nghiệp. Trong việc chuyển giao công nghệ người ta thường tiến hành nghiệp vụ mya lại (buy back) trong đó một bên cung cấp thiết bị toàn bộ hoặc sáng chế bí quyết kỹ thuật (know-how) cho bên khác, đồng thời cam kết mua lại những sản phẩm cho thiết bị hoặc sáng chế bí quyết kỹ thuật đó tạo ra. d.Biện pháp thực hiện -Dùng thư tín dụng thương mại đối ứng (Reciprocal L/C): đây là loại L/C mà trong nội dung của nó có điều khoản quy định (L/C này chỉ có hiệu lực khi người hưởng mở một L/C khác có kim ngạch tương đương). Như vậy hai bên vừa phải mở L/C vừa phải giao hàng. - Dùng người thứ 3 khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá, người thứ 3 chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương. 10
  11. - Dùng một tài khoản đặc biệt ở ngân hàng để theo dõi việc giao hàng của hai bên, đến cuối một thời kỳ nhất định (như sau sáu tháng, sau một năm ) nếu còn có số dư thì bên nợ hoặc phải giao nốt hàng hoặc chuyển số dư sang kỳ giao hàng tiếp, hoặc thanh toán bằng ngoại tệ. - Phạt về việc nếu một bên không giao hàng hoặc chậm giao hàng phải nộp phạt bằng ngoại tệ mạnh, mức phạt do hai bên thoả thuận quy định trong hợp đồng. 3.4. Xuất khẩu hàng hoá theo nghị định thư Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là để gán nợ) được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính Phủ. Đây là một trong những hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường: tìm kiến bạn hàng, mặt khách không có sự rủi ro trong thanh toán. Trên thực tế hình thức xuất khẩu này chiếm tỷ trong rất nhỏ. Thông thường trong các nước XHCN trước đây và trong một số các quốc gia có quan hệ mật thiết và chỉ trong một số doanh nghiệp nhà nước. 3.5. Xuất khẩu tại chỗ Đây là hình thức kinh doanh mới nhưng đang phát triển rộng rãi, do những ưu việt của nó đem lại. Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hoá không cần vượt qua biên giới quốc gia màkhách hàng vẫn mua được. Do vậy nhà xuất khẩu không cần phải thâm nhập thị trường nước ngoài mà khách hàng tự tìm đến nhà xuất khẩu. Mặt khác doanh nghiệp cũng không cần phải tiến hành các thủ tục như thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hoá do đó giảm được chi phí khá lớn. Trong điều kiện nền kinh tế như hiện nay xu hướng di cư tạm thời ngày càng trở nên phổ biến mà tiêu biểu là số dân đi du lịch nước ngoài tăng nên nhanh chóng. Các doanh nghiệp có nhận thức đây là một cơ hội tốt để bắt tay với các tổ chức du lịch để tiến hành các hoạt động cung cấp dịch vụ hàng hoá để thu ngoại tệ. Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể tận dụng cơ hội này để khuếch trương sản phẩm của mình thông qua những du khách. Mặt khác với sự ra đời của hàng loạt khu chế xuất ở các nước thì đây cũng là một hình thức xuất khẩu có hiệu quả được các nước chú trọng hơn nữa. Việc thanh toán này cũng nhanh chóng và thuận tiện. 11
  12. 3.6.Gia công quốc tế Đây là một phương thức kinh doanh trong đó một bên gọi là bên nhận gia công nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Đây là một trong những hình thức xuất khẩu đang có bước phát triển mạnh mẽ và được nhiều quốc gia chú trọng. Ưu điểm: Đối với bên đặt gia công: Phương thức này giúp họ lợi dụng về giá rẻ, nguyên phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công: Phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho nhân công lao động trong nước hoặc nhập được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc như Nam Triều Tiên, Thái Lan, Sinhgapo . Các hình thức gia công quốc tế: Xét về quyền sở hữu nguyên liệu, gia công quốc tế có thể tiến hành dưới hình thức sau đây: Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi sản phẩm và trả phí gia công. Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua thành phẩm. Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công. Ngoài ra người ta còn có thể áp dụng hình thức kết hợp trong đó bên đặt gia công chỉ giao những nguyên vật liệu chính còn bên nhận gia công cung cấp những nguyên vật liệu phụ. Xét về giá cả gia công người ta có thể chia việc gia công thành hai hình thức: + Hợp đồng thực chi, thực thanh (cost phis contract) trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đạt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công. + Hợp đồng khoán trong đó ta xác định một giá trị định mức (target price) cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù 12
  13. chi phí của bên nhận gia công là bao nhiêu đi chăng nữa, hai bên vẫn thanh toán theo định mức đó. Mối quan hệ giữa bên nhận gia công và bên đặt gia công được xác định bằng hợp đồng gia công. Hợp đồng gia công thường được quy định một số điều khoản như thành phẩm, nguyên liệu, giá cả, thanh toán, giao nhận 3.7.Tạm nhập tái xuất Khái niệm: Đây là một hình thức xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất.qua hợp đồng tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về số ngoại tệ lớn hơn số ngoại tệ đã bỏ ra ban đầu. Hợp đồng này luôn thu hút ba nước xuất khẩu, nước tái xuất, và nước nhập khẩu. Vì vậy người ta gọi giao dịch tái xuất là giao dịck ba bên hay giao dịch tam giác.( Triangirlar transaction) Các loại hình tái xuất Tái xuất có thể thực hiện bằng một trong hai hình thức sau: Tái xuất theo đúng nghĩa của nó, trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền đồng tiền được xuất phát từ nước nhập khẩu sang nước tái xuất và nhanh chóng được chuyển sang nước xuất khẩu. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc, thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn. kinh doanh tái xuất đòi hỏ sự nhạy bén tình hình thị trường và giá cả, sự chính xác và chặt chẽ trong các hoạt động mua bán. Do vậy khi doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo phương thức này thì cần phải có đội ngũ cán bộ có chuyện môn cao. II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu 1. Nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng xuất khẩu 1.1. Nghiên cứu thị trường hàng hoá Thế giới 13
  14. Như chúng ta đã biết thị trường là nơi gặp gỡ của tổng cung và tổng cầu. Mọi hoạt động của nó đều diễn ra theo đúng quy luật như quy luật cung, cầu, giá cả, giá trị . Thật vậy thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất thì ở đó có thị trường. Để nắm rõ các yếu tố của thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường nhằm mục đích thích ứng cịp thời và làm chủ nó thì phải nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá Thế giới có ý nghĩa quan trọng sống còn trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế, đặc biệt là công tác xuất, nhập khẩu của mỗi quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Nghiên cứu và nắm vững đặc điểm biến động của thị trường và giá cả hàng hoá Thế giới là nền móng vững chắc đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh xuất khẩu hoạt động trên thị trường Thế giơí có hiệu qủa nhất. Để công tác nghiên cứu thị trường có hiệu quả chúng ta cầm phaie xen xét toàn bộ quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá, tức là việc nghiên cứu không chỉ trong lĩnh vực lưu thông mà còn ở lĩnh vực phânphối, tiêu dùng. Các doanh nghiệp khi nghiên cứu thị trường cần phải nắm vững được thị trường và khách hàng để trả lời tốt các câu hỏi của hai vấn đề là thị trường và khách hàng doanh nghiệp cần phải nắm bắt được các vấn đề sau: Thị trường đang cần mặt hàng gì? Theo như quan điểm của Marketing đương thời thì các nhà kinh doanh phải bán cái mà thị trường cần chứ không phải cái mình có. Vì vậy cần phải nghiên cứu về khách hàng trên thị trường thế giới, nhận biết mặt hàng kinh doanh của công ty. Trước tiên phải dựa vào nhu cầu tiêu dùng của khách hàng như quy cách, chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng như tập quán của người tiêu dùng từng địa phương, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thể giới. Về mặt thương phẩm phải hiểu rõ giá trị hàng hoá, công dụng, các đặc tính lý hoá, quy cách phẩm chất, mẫu mã bao gói. Để hiểu rõ vấn đề này yêu cầu các nhà kinh doanh phải nhạy bén, có kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm để dự đoán các xu hướng biến động trong nhu cầu của khách hàng. Trong xu thế hiện nay, đòi hỏi việc nghiên cứu phải nắm bắt rõ mặt hàng mình lựa chọn, kinh doanh đang ở trong thời kỳ nào của chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường, Bởi vì chu kỳ sống của sản phẩm gắn liền với việc tiêu 14
  15. thụ hàng hoá đó trên thị trường, thông thường việc sản xuất gắn liền với việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở giai đoạn thâm nhập, phát triển là có nhiều thuận lợi tốt nhất. Tuy nhiên đối với những sản phẩm đang ở giai đoạn bão hoà hoặc suy thoái mà công ty có những biện pháp xúc tiến có hiệu quả thì vẫn có thể tiến hành kinh doanh xuất khẩu và thu được lợi nhuận. Tóm lại việc nghiên cứu mặt hàng thị trường đang cần là một trong những yếu tố tiên phong cho hoạt động thành công của doanh nghiệp. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong thời gian nhất định (thường là một năm). Việc nghiên cứu dung lượng thị trường cần nắm vững khối lượng nhu cầu của khách hàng và lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm Cùng với việc nắm vững nhu cầu của khách hàng là phải nắm vững khả năng cung cấp của các đối thủ cạnh tranh và các mặt hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán. Như chúng ta đã biết dung lượng thị trường không phải là cố định, nó thường xuyên biến động theo thời gian, không gian dưới sự tác động của nhiều yếu tố. Căn cứ theo thời gian người ta có thể chia các nhân tố ảnh hưởng thành ba nhóm sau: + Các nhân tố có ảnh hưởng tới dung lượng thị trường có tính chất chu kỳ như tình hình kinh tế, thời vụ + Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường như phát minh, sáng chế khoa học , chính sách của nhà nước + Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời với dung lượng thị trường như đầu cơ tích trữ, hạn hán, thiên tai, đình công Khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố phải thấy được nhóm các nhân tố tác động chủ yếu trong từng thời kỳ và xu thế của thời kỳ tiếp theo để doanh nghiệp có biện pháp thích ứng cho phù hợp . Kể cả kế hoạch đị tắt đón đầu. Nghiên cứu giá cả các loại hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng. Trong thương mại giá trị giá cả hàng hoá được coi là tổng hợp đó được bao gồm giá vốn của hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tuỳ theo các bước thực hiện và theo sự thoả thuận giữa các bên tham gia. 15
  16. Để có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả của hàng hoá trên thị trường thế giới. Trước hết phải đánh giá một cách chính xác các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả và xu hướng vận động của giá cả hàng hoá đó. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới giá cả của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Người ta có thể phân loại các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả theo nhiều phương diện khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nhu cầu. Thông thường những nhà hoạt động chiến lược thường phân chia thành nhóm các nhân tố sau: + Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế, đặc biệt là sự biến động thăng trầm của nền kinh tế các nước. + Nhân tố lũng đoạn của các công ty xuyên quốc gia (MNC). Đây là một trong những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành của giá cả của các loại hàng hoá trên thị trường quốc tế. Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau trên thị trường cho một loại hàng hoá. Lũng đoạn cạnh tranh: cạnh tranh bao gồm cạnh tranh giữa người bán với nhau, ngời mua với người mua. Trong thực tế cạnh tranh làm cho giá rẻ đi và chất lượng nâng cao. + Nhân tố cung cầu: là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung cấp hay lượng tiêu thụ của hàng hoá trên thị trường, do vậy có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của giá cả hàng hoá. + Nhân tố lạm phát: giá cả hàng hoá không những phụ thuộc vào giá trị của nó mà còn phụ thuộc vào giá trị của tiền tệ. Vậy cùng với các nhân tố khác sự xuất hiện của lạm phát làm cho đồng tiềm mất giá do vậy ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá của một quốc gia trong trao đổi thương mại quốc tế. + Nhân tố thời vụ: là nhân tố tác động đến giá cả theo tính chất thời vụ của sản xuất và lưu thông. Ngoài ra các chính sách của Chính phủ, tình hình an ninh, chính trị của các quốc gia cũng tác động đến giá cả. Do vậy việc nghiên cứu và tính toán một cách chính xác giá cả của hợp đồng kinh doanh xuất khẩu là một công việc khó khăn đòi hỏi phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, nhưng đó lại là một nhân tố quan trọng trong quyết định hiệu quả thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Lựa chọn đối tượng giao dịch. Căn cứ vào các kết quả của việc nghiên cứu dung lượng của thị trường, giá cả công ty sẽ tiến hành lựa chọn gia giao phương thức giao dịch và thương 16
  17. nhân để tiến hành giao dịch. Khi tiến hành giao dịch cần phải căn cứ vào lượng hàng nước đó cần nhập, chất lượng hàng nhập, chính sách và tập quán thương mại của nước đó. Ngoài ra điều kiện về địa lý cũng là vấn đề cần quan tâm. Việc lựa chọn đối tượng để giao dịch cần phải dựa theo một số chỉ tiêu như sau: Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh khả năng cung cấp hàng hoá thường xuyên của hãng. Khả năng cung cấp hàng hoá thường xuyên của hãng. Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật. Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng dành lấy độc quyền về hàng hoá. Uy tín của bạn hàng. Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất nên gặp trực tiếp tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường mới chưa có kinh nghiệm. Việc lựa chọn các đối tác phù hợp là một trong những điều kiện cần để thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế. Song nó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người làm công tác đàm phán, giao dịch. 1.2. Nghiên cứu thị trường cung cấp hàng hoá xuất nhập khẩu (Nguồn hàng xuất khẩu). Hợp đồng kinh doanh thương mại nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng thực tế là hành vi mua và bán. Bán là quan trọng và khi bán được tức là kiếm được tiền song trên thực tế mua lại là tiền đề ra và cơ sở cho hành vi kiếm tiền. Do vậy, nghiên cứu về thị trường cung cấp hàng cho công ty để công ty lựa chọn được nguồn hàng phù hợp có ý nghĩa rất lớn. Dựa trên cơ sở nắm chắc nhu cầu của thị trường trên thế giới, các công ty tiến hành nghiên cứu và xác định được các nguồn hàng để thoả mãn các mhu cầu đó. Đối với các công ty là các doanh nghiệp thương mại chuyên doanh XNK có thể kể đến cac nguồn hàng sau: +Nguồn hàng tồn kho đầu kỳ ở công ty. Xác định theo phương pháp ước tính. + Nguồn hàng thu gom không tập trung 17
  18. + Nguồn hàng thu gom tập trung. Viện nghiên cứu về nguồn hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi về nguồn cung cấp mà đòi hỏi phải xác định rõ về khả năng cung ứng của từng nguồn cụ thể như: + Khối lượng hàng hoá mà mỗi nguồn có thể cung cấp. + Quy cách, chủng loại hay chất lượng của hàng hoá. + Thời điểm hàng hoá có thể thu mua. + Đơn giá ứng với từng loại hàng hoá và phương thức mua. + Đặc điểm kinh doanh của từng chân hàng. Khả năng cung cấp hàng được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềmnăng. Nguồn hàng thực tế là nguồn hàng đã có và đang sẵn sàng đưa vào lưu thông. Với nguồn hàng này doanh nghiệp chủ cần đóng gói là có thể xuất khẩu được. Nguồn hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể có hoặc không xuất hiện trên thị trường. Đối với các nguồn này đòi hỏi doanh nghiệp XNK phải có đầu tư, có đặt hàng hợp đồng kinh tế thì người sản xuất mới tiến hành sản xuất. Việc nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn có mục đích xác định mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng những nhu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu như vệ sinh thực phẩm hay không dựa trên cơ sở đó người XNK có những hướng dẫn cho người cung cấp điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài. Mặt khác nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả của hàng hoá trong nước so với giá cả quốc tế như thế nào? Để từ đây có thể tính được doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận là bao nhiêu từ đó đưa quyết định chiến lược kinh doanh của từng công ty. Ngoài ra, qua nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu biết được chính sách quản lý của nhà nước về mặt hàng đó như thế nào? Mặt hàng đó có được phép xuất khẩu không? Có thuộc hạn ngạch xuất khẩu không? Có được nhà nước khuyến khích không? Sau khi đã tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường hàng hoá thế giới (thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước (thị trường nguồn hàng xuất khẩu)) công ty tiến hành đánh giá, xác định và lựa chọn mặt hàng kinh doanh xuất khẩu phù hợp với nguồn lực và các điều kiện hiện có của công ty để tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu một cách có hiệu quả nhất. 18
  19. 2. Lập phương án kinh doanh Trên cơ sở những kết quả thu lượm trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau: a. Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân Trong bước này, người xây dựng chiến lược cần rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh. b. Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh c. Đề ra mục tiêu Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh bao giờ cũng là một mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng hoá, với giá cả bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào thị trường nào d. Đề ra biện pháp thực hiện Những biện pháp này là công cụ để đạt được mục tiêu đề ra. Những biện pháp này bao gồm cả biện pháp trong nước và ngoài nước, trong nước như: đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế, tăng giá thu mua Những biện pháp ngoài nước như: Đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới đại lý. e. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh được thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu sau: + Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu hoặc hàng nhập khẩu. + Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn tính theo công ty sau. + Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận +Chỉ tiêu hoà vốn. Sau khi phương án kinh doanh đã được đề ra, đơn vị kinh doanh phải cố gắng tổ chức thực hiện phương án thông qua việc quảng cáo, bắt đầu chào hàng chuẩn bị hàng hoá . 19
  20. 3. Giao dịch, đàn phán ký kết hợp đồng. 3.1. Giao dịch đàm phán Để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau người xuất khẩu và nhập và người nhập khẩu thì phải qua 1 quá trình giao dịch. Trong buôn bán quốc tế thường bao gồm những bước giao dịch chủ yếu sau: a.1. Hỏi giá (Inquiry) Đây có thể coi là lời thỉnh cầu bước vào giao dịch. Nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng. Nội dung của một hỏi giá có thể gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng mong muốn. Giá cả mà người mua hàng có thể trả cho mặt hàng đó thường được người mua giữ kín, nhưng để tránh mất thời gian hỏi đi hỏi lại, người mua nêu rõ những điều kiện mà mình mong muốn để làm cơ sở cho việc quy định giá: loại tiền, thể thức thanh toán, điều kiện cơ sở giao hàng. a.2. Chào hàng (Offer) Đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng như vậy phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán khi phát giá chào hàng, là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Trong chào hàng ta nêu rõ: tên hàng, quy cách, phẩm chất, giá cả số lượng, điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn mua hàng, điều kiện thanh toán bao bì ký mã hiệu, thể thức giao nhận trong trường hợp hai bên đã có quan hệ muabán với nhau hoặc điều kiện chung giao hàng điều chỉnh thì giá chào hàng có khi chỉ nêu những nội dung cần thiết cho lần giao dịch đó như tên hàng. Những điều kiện còn lại sẽ áp dụng những hợp đồng đã ký trước đó hoặc theo điều kiện chung giao hàng giữa hai bên. Trong thương mại quốc tế người ta phân biệt hai loại chào hàng chính: Chào hàng cố định (Firm offer) và chào hàng tự do (Free offer) a.3. Đặt hàng (Oder) Đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. 20
  21. Thực tế người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên. Bởi vậy, ta thường gặp những đặt hàng chỉ nêu: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời hạn giao hàng và một vài điều kiện riêng biệt đối với lần đặt hàng đó. Về những điều kiện khác, hai bên áp dụng điều kiện chung về thoả thuận với nhau hoặc theo những điều kiện của hợp đồng ký kết trong lần trước. c.4. Hoàn giá (Counter-offer). Khi nhân được chào hàng (hoặc đặt hàng) không chấp nhận hoàn toàn chào hàng (đặt hàng) đó mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này là hoàn giá, chào hàng trước coi như huỷ bỏ trong thực tế, một lần giao dịch thường trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết thúc. a.5. Chấp nhận giá (Acceptance) Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra khi đó hợp đồng được thành lập. Một chấp thuận có hiệu lực về mặt pháp luật, cần phải đảm bảo những điều kiện dưới đây. - Phải được chính người nhận giá chấp nhận - Phải đồng ý hoàn toàn về điều kiện với mọi nội dung của chào hàng. - Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ea đề nghị. a.6. Xác nhận (Confirmation) Hai bên mua bán sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện xác nhận. Văn kiện do bên bán gửi thường gọi là nhận bán hàng do bên mua gửi và giấy xác nhận mua hàng. Xác nhận thường được lập thành 2 bản, bên xác nhạn ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ lại một bản rồi gửi trả lại một bản. Các bước giao dịch của hoạt động thương mại quốc tế có thể tóm tắt sơ đồ sau: Hỏi giá Chào hàng Đặt hàng Hoàn giá Chấp nhận Xác nhận 21
  22. b. Các hình thức đàm phán b.1. Đàm phán giao dịch qua thư tín. Ngày nay đàm phán thông qua thư tín và điện tín vẫn còn là môt hình thức chủ yếu để giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư từ. Ngay cả sau này khi hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư từ thương mại. So với việc gặp thì giao dịch qua thư tín tiết kiệm được nhiều chi phí. Trong cùng một lúc có thể giao dịch với nhiều khách hàng ở nhiều nước khác nhau. Người viết thư có điều kiện để cân nhắc suy nghĩ tranh thủ ý kiến nhiều người và có thể khéo léo dấu kín ý định thực sự của mình. Những việc giao dịch qua thư tín thường đòi hỏi nhiều thời gian chờ đợi, có thể cơ hội mua bán sẽ trôi qua. Tuy nhiên với sự phát triển của mạng Internet như hiện nay thì nhược điểm này đã được khắc phục phần nào. Với đối phương khéo léo già dặn thì việc phán đoán ý đồ của họ qua lời lẽ trong thư là một việc rất khó khăn. b.2. Giao dịch đàm phán qua điện thoại Việc đàm phán qua điện thoại nhanh chóng, giúp các nhà kinh doanh tiến hành đàm phán một cách khẩn trương đúng vào thời điểm cần thiết. Nhưng phí tổn điện thoại giữa các nước rất cao, do vậy các cuộc đàm phán bằng điện thoại thường bị hạn chế về mặt thời gian, các bên không thể trình bày chi tiết, mặt khác trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng không có gì làm bằng chứng những thoả thuận, quyết định trao đổi. Bởi vậy điện thoại chỉ được dùng trong những trường hợp cần thiết, thật khẩn trương sợ lỡ thời cơ, hoặc trường hợp mà mọi điều kiện đã thoả thuận song chỉ cần chờ xác định nhận một vài chi tiết khi phải sử dụng điện thoại, cần chuẩn bị thật chu đáo để có thể trả lời ngay mọi vấn đề được nêu lên một cách chính xác. Sau khi trao đổi bằng điện thoại cần có thư xác định nội dung đã đàm phán, thoả thuận. b.3.Giao dịch phán bằng cách gặp trực tiếp Việc gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao đổi về mọi điều kiện giao dịch, về mọi vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán là hình thức đàm phán đặt biệt quan trọng. Hình thức này đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tin hoặc điện thoại đã kéo dài quá lâu mà không có kết quả. 22
  23. Hình thức này thường được sử dụng khi có nhiều điều kiện phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc về những hợp đồng lớn, phức tạp. 3.1. Ký kết hợp đồng xuất khẩu Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng xuất khẩu thường được thành lập dưới hình thức văn bản. ở nước ta, hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất khẩu. Đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. Ngoài ra nó còn tạo thuận lợi cho thống kê, theo dõi, kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Khi ký kết hợp đồng, các bên cần chú ý một số quan điểm sau: -Cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất ả mọi điều khoản cần thiết trước khi ký kết. - Mọi điều kiện cần rõ ràng tránh tình trạng mập mờ, có thể suy luận ra nhiều cách. - Mọi điều khoản của hợp đồng phải đúng với luật lệ của hai quốc gia và thông lệ quốc tế. - Ngôn ngữ của hợp đồng là ngôn ngữ hai bên cùng chọn và thông Một hợp đồng xuất khẩu thường gồm những phần sau: - Số hợp đồng - Ngày và nơi ký hợp đồng - Tên và đại chỉ của các bên ký kết - Các điều khoản của hợp đồng như: + Tên hàng, quy cách phẩm chất, số lượng, bao bì, ký mã hiệu + Giá cả, đơn giá, tổng giá + Thời hạn và địa điểm giao hàng, điều kiện giao nhận + Điều kiện thanh toán - điều kiện khiếu nại, trọng tài + Điều kiện bất khả kháng + Chữ ký của hai bên Với những hợp đồng phức tạp nhiều mạt hàng thì có thêm các phục lục là những bộ phận không thể tách rời cuả hợp đồng. 23
  24. 4. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu Đây là một là một công việc tương đối phức tạp nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và luật quốc tế, đồng thời bảo đảm quyền lợi quốc gia và uy tín của doanh nghiệp. Để bảo đảm yêu cầu trên doanh nghiệp thường phải tiến hành các bước chủ yếu sau: Sơ đồ xuất khẩu hàng hoá Xin giấy phép Kiểm tra chất Chuẩn bị Thuê tàu lượng hàng Thủ tục thanh Giải quyết Kiểm tra toán tranh chấp hàng hoá Mua bảo hiểm Giao hàng Làm thủ tục hải quan Tuỳ thuộc vào từng hoạt đồng xuất khẩu mà cán bộ xuất khẩu phải thực hiện các nghiệp vụ khác nhau. Trình tự các nghiệp vụ cũng không cố định. 5. Phân tích đánh giá kết quả, hiệu quả kinh doanh Đây là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, là căn cứ để điều chỉnh và tiếp tục hoạt động kinh doanh xuất khẩu một cách có hiệu quả. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu được thể hiện bằng những chỉ tiêunhư doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu. Hiệu quả là một chỉ tiêu tương đối nhằm so sánh kết qủa kinh doanh với các khoán chi phí bỏ ra. Để xây dựng chỉ tiêu trên cần phải xác định rõ các chỉ số tuyệt đối trong kinh doanh TMQT như: Tổng giá thành sản phẩm Thu nhập ngoại tệ xuất khẩu ( tính theo giá FOB) 24
  25. Thu nội tệ của hàng hoá xuất khẩu: Là số ngoại tệ thu được do xuất khẩu tính đổi ra nội tệ theo tỷ giá hiện hành. Từ các con số này, tính được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu theo công thức sau: 1. Tỷ lệ thu nhập NT XK = Giá thành chuyển đổi XK = Nếu đảo ngược chỉ tiêu này là hiệu quả tương đối của xuất khẩu Thu nhập nội tệ XK - giá thành XK Nội tệ Tỷ lệ lỗ lãi XK= Giá thành XK Nội tệ III. các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 1. Các nhân tố khách quan. 1.1. Nhân tố chính trị –luật pháp. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được tiến hành thông qua các chủ thể ở hai hay nhiều môi trường chính trị – pháp luật khác nhau, thông lệ về thị trường cũng khác nhau. Tất cả các đợn vị tham gia vào thương mại quốc tế đều phải tuân thủ luật thương mại trong nước và quốc tế. Tuân thủ các chính sách , quy định của nhà nước về thương mại trong nước và quốc tế : - Các quy định về khuyến khích , hạn chế hay cấm xuất khẩu một Các quy định về thuế quan xuất khẩu. - số mặt hàng . 25
  26. - Các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi tham gia voà hoạt động xuất khẩu. - Phải tuân thủ pháp luật của nhà nước đề ra. Các hoạt động kinh doanh không được đi trái với đường lối phát triển của đất nước. 1.2. Các nhân tố kinh tế – xã hội. Sự tăng trưởng của kinh tế của đất nước. Sản xuất trong nước phát triển sễ tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất hàng xuất khẩu, làm tăng khả năng cạnh trnah của hàng xuất khẩu về mẫu mã , chất lượng , chủng loại trên thị trường thế giới. Nền kinh tế của một quốc gia càng phát triển thì sức cạnh tranh về hàng xuất khẩu của nước đó trên thị trường thế giới sẽ không ngừng được cải thiện. Sự phát triển của hoạt động thương mại trong nước cũng góp phần hạn chế hay kích thích xuất khẩu, bởi nó quyết định sự chu chuyển hàng hoá trong nội địa và thế giới. Sự biến động của nề kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường hàng hoá trong nước và thế giới, do vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Hệ thống tài chính, ngân hàng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu liên quan mật thiết với vấn đề thanh toán quốc tế, thông qua hệ thống ngân hang giữa các quốc gia. Hệ thống tài chính , ngân hàng càng phát triển thì việc thanh toán diễn ra càng thuận lợi , nhanh chóng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đơn vị tham gia kinh doanh xuất khẩu. Trong thanh toán quốc tế thường sử dụng đồng tiền của các nước khác nhau, do vây tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu. Nếu đồng tiền trong nước so với các đồng tiền ngoại tệ thường dùng làm đơn vị thanh toán như USD , GDP sẽ kích thích xuất khẩu và ngược lại nếu đồng tiền trong nước tăng giá so với đồng tiền ngoại tệ thì việc xuất khẩu sẽ bị hạn chế . Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu không thể tách rời hệ thống cơ sở hạ tầng , hệ thống thông tin liên lạc , vân tải từ khâu nghiên cứu thị trường đến khâu 26
  27. thực hiện hợp đồng , vận chuyển hàng hoá và thanh toán. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển sẽ toạ điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu và góp phần hạ thấp chi phí cho đơn vị kinh doanh xuất khẩu. Ngoài ra, sự hoà nhập và hội nhập với nề kinh tế khu vức và thế giới, sự tham gia vào các tổ chức thương mại như: AFTA, APEC, WTO sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu. 2. Những nhân tố chủ quan thuộc phạm vi doanh nghiệp. 2.1- Cơ chế tổ chức quản lý công ty. Nếu cơ chế tổ chức bộ máy hợp lý sẽ giúp cho các nhà quản lý sử dụng tốt hơn nguồn lực của công ty., sẽ nâng cao được hiệu quả của kinh doanh của công ty. Còn nếu bộ mấy cồng kềnh , sẽ lãng phí các nguồn lực của công ty và hạn chế hiệu quả kimh doanh của công ty. 2.2.Nhân tố con người. Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của mỗi thành viên trong công ty là yếu tố cơ bản quyết định sự thành cônbg trong kinh doanh. Các nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu nếu đước các cán bộ có trình độ chuyên môm cao, năng động , sáng tạo trọng công việc và có kinh nghiệm thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao. 2.3. Nhân tố về vốn và trang bị vật chất kỹ thuật của công ty. Vốn là yếu tố không thể thiếu trong kinh doanh. Công ty có vốn kinh doanh càng lớn thì cơ hội dành được những hợp đồng hấp dẫn trong kinh doanh sẽ trở nên dễ dàng hơn. Vốn của công ty ngoài nguồn vốn tự có thì nguồn vốn huy động cũng có vai trò rất lớn trong hoạt ddộng kinh doanh. Thiết bị , cơ sỡ vật chất kỹ thuật thực chất cũng là nguồn vốn của công ty ( vốn bằng hiện vật). Nếu trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại , hợp lý sẽ góp phần làm tăng tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của công ty. 27
  28. VI. khái quát về xuất khẩu chè 1. Khái quát về cây chè Hiện nay trên thế giới có khoảng 95 nước uống chè chỉ riêng 12 nước nhập khẩu chè nhiều nhất thế giới, hàng năm đã nhập trên 1,15 triệu tấn trong khi đó chỉ có khoảng 28 nước có điều kiện tự nhiên trồng chè. Việt Nam là một trong những nước có điều kiện khí hậu và đất đai thuận lợi cho cây chè phát triển. Cây chè đã xuất hiện rất sớm ở nước ta và có sự phát triển tương đối lau dài để làm rõ vấn đề chúng ta có thể xem nhìn nhận ở một số điểm sau: a. Sự hình thành phát triển cây chè Việt Nam Chè là một loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao lâu năm, trồng một lần có thể thu hoạch nhiều năm. Trồng chè chủ yếu để lấy búp chè non đó là những búp chè và 2-3 lá non. Từ lá tuỳ theo cách chế biến và công nghệ chế biến khác nhau mà cho các sản phẩm kác nhau: chè xanh, chè đen, chè vàng, chè đỏ + Chè xanh là là loại sản phẩm được chế biến từ búp chè sau khi thu hái đem sấy khô rồi được đóng gói. Việc sao khô phải đảm bảo sao cho chè sau khi sấy khô phải có hương vị hấp dẫn cũng như nước chè khi pha phải là màu xanh + Chè đen là loại chè sau khi thu hái chè tươi về các búp chè được nghiền nhỏ , sấy khô rồi qua một số quy trình nhất định để lọc chất kích thích trong chè đưa ra một sản phẩm không gây mất ngủ. Loai chè này được các nước phương tây và khu vực trung cận đông rất ưa chuộng và thường dùng với một chút đường. +Chè vàng là một loại chè dùng để chữa bệnh. Đây là loại chè được trồng ở vùng đất có chất khoáng và điều kiện khác biềt những vùng chè khác và giống chè này là chè tuyết. ở nước ta chỉ có duy nhất vùng Sơn Dương ( thuộc tỉnh Tuyên Quang ) là trồng được loại chè này . Cây chè là một loại cây nông sản có giá trị kinh tế khá, không những chỉ đem lại lợi ích cho người sản xuất mà đóng góp một phần không nhỏ vào kim nghạch xuất khẩu 28
  29. Chính vì lợi ích của cây chè mà nước ta chè đã được trồng từ rất sớm, thế như một số nguồn lài liệu từ cây chè đã xuất hiện và được trồng từ trước công nguyên cho tới thế kỷ 17 ở nước ta đã sớm hình thành 2 vùng sản xuất chè đó là: Chè vườn vùng trung du và chè vùng núi. Chè vùng trung du sản xuất chè tươi, chè nụ và chè bồm chế biến đơn giản. Vùng chè miền núi sản xuất loại chè chi, chè mạn của đồng bào dân tộc. Kỹ thuật trồng chè chủ yếu là quảng canh, chế biến đơn giản mang tính tự cung tự cấp hoặc trong cộng đồng lãnh thổ nhỏ. Đến thế kỷ 19, một người Pháp bắt đầu khảo sát việc sản xuất và buôn bán chè ở Hà Nội. Đến năm 1890 Panlchllan xây dựng đồn điền chè đầu tiên ở Việt Nam tại Tĩnh Cương (Phú Thọ) diện tíc khoảng 60 ha. Đến năm 1925 cây chè phát triển mạnh, ở cả nước hình thành 3 vùng trồng chè chính và tổng diện tích khoảng 13000ha và sản lượng hàng năm đạt khoảng 6000 tấn khô. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5/1945, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng và Chính phủ có nhiều chủ trương chính sách phát triển sản xuất cây chè. Năm 1955 diện tích chè có 5,5 nghìn ha, đến năm 1965 đạt 16,6 nghìn ha. Năm 1970 là 21 nghìn ha, năm 1980 là 46,9 nghìn ha. Trong lúc sản lượng búp tươicũng không ngừng tăng lên từ 12,6 nghìn tấn năm 1960 đến 21,2 nghìn tấn, năm 1965, 1970 là 10,5 nghìn tấn. Những năm gần đây: 1980 diện tích trồng chè là 39,9 nghìn ha, đến năm 2000/diên tích chè là 82 nghìn ha sản lượng chè đạt khoảng 190, 424 nghìn tấn (60 nghìn tấn chè quy khô) Qua số liệu ở trên cho thấy diện tích và sản lượng chè của Việt Nam không ngừng tăng lên qua các năm, và mức tăng trưởng tăng đều đặn qua các năm. Trong thời kỳ bao cấp mức độ sản xuất còn trói buộc trong cơ chế cũ nên xuất phát điểm của ngành chè chuyển sang sản xuất hàng hoá còn thấp. Cơ sở vật chất, đặc biệt là cơ sở hạ tầng còn lạc hậu. Năng suất chè, hiệu quả sử dụng ruộng đất và đời sống của nhân dân vùng chè còn chưa cao. Trên 70% thu nhập vẫn để dành cho ăn, đời sống nhân dân các vùng trồng chè cong gặp nhiều thiếu thốn đặc biệt của nhân dân miền núi trung du Bắc Bộ, đây là vùng có diện tích trồng chè chiếm 60,3% diện tích trồng chè cả nước. ( đồng bằng Sông Hồng là 4,04%). Khu 4 cũ 6,16%, Duyên hải miền trung là 2,39%, Tây nguyên là 22,8%, các vùng còn lại 4,31%. Điều này thể hiện bằng sơ đồ sau: 29
  30. Thị trường nông thôn còn yếu ớt, nhiều vùng chưa có đủ điều kiện và tiền đề cho sự ra đời nền kinh tế hàng hoá như : Thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường công ghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm còn thiếu đồng bộ và kém phát triển. Do vậy, khâu lưu thông của những sản phẩm làm ra từ chè thường xuyên bị ách tắc từ đó đã làm ảnh hưởng đến sản xuất không đủ tiền để tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu. Bên cạnh đóng người nông dân vùng chè phải chịu khoản thu như : Thuế nông nghiệp, thuế thuỷ lợi hơn nữa do bị chèn ép cả đầu vào và đầu ra, lợi ích của người trồng chè bị vi phạm đó là yếu tố hạn chế động lực phát triển sản xuất. Sau đại hội TW Đảng VI, với đường lối đổi mới chính sách hợp lý đã thổi một luồng khí mới vào việc phát triển sản xuất chè của Việt Nam. Từ năm 1986 trở lại đây(2000) ngành chè Việt Nam đã có được những tiến bộ, năng suất sản lượng ngày càng cao. Không những nó cải thiện được đời sống của người trồng chè, sản xuất chè mà còn đóng góp một phần không nhỏ vào t[ngr kim nghạch xuất khẩu. b. Tình hình sản xuất Như chúng ta đã biết Việt Nam là một trong những quốc gia co lợi thế về sản xuất chè do những điêù kiện về khí hậu , thổ nhưỡng rất thích hợp. đặc biệt là diện tích đất đai phù hợp với khả năng trồng chè ở Việt Nam( hiện nay tới 200.000 ha). Hơn nưa chúng ta có nghành công nghiệp chế biến chè phát triển hơn 40 năm nay, hàng năm xuất khẩu 2-4 van tấn nà những năm tới sẽ là 5-6 van tấn trên một năm. Bên cạnh đó vùng đất tốt để trồng chè được phân bổ ở hầu hết các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, chình vì thế mà theo như một số nhà kinh tế cho rằng việt nam là một trong những vùng đất đầy hưá hẹn cho các nhà đầu quan tâm đến việc phát triển chè. Sản phẩm hiện nay gồm các loại chè đen , chè xanh , chè vàng, chè thảo dược, các loại chè hương hoa sen, nhài, sói , chè ướp hương tổng hợp. Theo như ngồn tin của Hiệp hội chè Việt Nam đến nay nước ta đã trồng được khoảng 130 nghìn ha, với sản lượng đạt 4.32 tấn /ha. Tổng sản lượng các loại đạt khoảng 60 nghìn tấn tập trung chủ yếu ở ba vùng chính là miền núi Bắc Bộ , Tây nguyên và Khu Bốn cũ. Để có cái nhìn chính xác hơn về vấn đề này chúng ta có thể quan sát biểu sau. Diên tích – Năng suất- sản lượn chè qua các thời kỳ 30
  31. Diện tích và NS các Đ.vị tính 1995 1996 1997 1998 1999 2000 vùng 1.Diện tích cả nước 1000 ha 6,47 65,59 70,3 78,6 90,3 130.9 a. T. Du và miền núi phía 4,01 42,31 47,72 45,16 50,1 60,03 bắc b. Tây nguyên 15,06 13,31 14,8 15,42 16,7 20,13 c. khu bốn cũ 4,12 3,45 5,34 6,12 6,01 6,25 2. Năng suất Tấn /ha 3,47 3,48 3,512 3,84 4,31 4,612 3. Sản lượng 1000 tấn 178,3 180 197,2 200,3 233,1 292,4 Vùng trung du và bắc bộ 94,22 95,2 100,1 121,2 137,9 165,9 Tây nguyên 53,32 53,32 60,7 61,1 62,5 70,02 Nguồn: Tạp chí nông nghiệp ( bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn1995- 2000). Tình hình sản xuất chè không chỉ phát triển về diện tích, năng suất , sản lương mà bên canh nó thì hiệu quả của việc sản xuất chè cũng không ngừng được cải thiện theo thời gian. Hiệu quả kinh tế của một ha chè kinh doanh Đv.tính 1998 1999 2000 2001 (chỉ tiêu) 1.Sản Lượng Tấn /ha 3,78 4,31 4,612 48,1 2. Giátrị sản lượng 1000 đ 4611,3 4824,5 5223,6 6392,6 3. Chi phúi sản xuất nt 3915,5 4111,8 4389,3 4569,9 4.Thu nhập thuần Nt 995,8 1612,7 1443,2 1822,7 5.Tổng thu nhập nt 2042,2 2252,3 2019,9 2941,8 6.Thu nhập ngày công nt 8,08 8,9 9,35 10,7 7.Tỷ suất lợi nhuận 25% 26,8% 21.9% 39,1% Nguồn: Tạp chí nông nghiệp tháng 5 năm 2001 31
  32. Nhìn vào bảng ta thấy, hiệu quả của 1 ha chè kinh doanh không phải là nhỏ. Nếu chúng ta đầu tư một cách chính xác, hợp lý, công nghệ chế biến đạt hiệu quả thì thu nhập của chè là không nhỏ. Năm 1997 tỷ suất lợi nhuận là 25% thì năm 1999 chỉ còn lại là 21,95 do sự biến động của thị trường thế giới và năm 2000 39,1% do thị trường đi vào ổn định. Điều này cho thấy là năm 200 chè Việt Nam sẽ có những bước tiến đáng kể ra thị trường thế giới. Để sản xuất và xuất khẩu chè Việt Nam thu được lợi nhuận cao nhất, tối ưu nhất chúng ta phải có những cải tổ về đầu tư, quản lý và đặc biệt là nâng cao để đổi mới về mặt khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuấtm, chế biến đóng gói, bảo quản c. Tình hình xuất khẩu chè Việt Nam Tình hình sản xuất chè Việt Nam ngày càng tăng cho nên xuất khẩu chè Việt Nam ngày một tăng thị trường mở rộng hiện nay chúng ta có quan hệ xuất khẩu chè với khoảng 30 nước trên thế giới. Xuất khẩu chè đem lại lợi ích kinh tế không nhỏ nó đem lại một lượng ngoại tệ đáng kể. Xuất khẩu chè Việt Nam năm 1990 đạt 1,5 % lượng chè xuất khẩu chè thế giới Năm Tỷ lệ % 1995 1,7 1999 1,91 2000 2 Nguồn : Vụ xuất nhập khẩu Bộ thương mại Điều này cho thấy hàng năm chúng ta xuất khẩu khối lượng chè ngày càng lớn ra thị trường thế giới đó là một điều đáng mừng cho ngành chè Việt Nam. Đặc biệt là khối lượng chè xuất khẩu của chúng ta chiếm một tỷ trọng đáng kể so với khối lượng xuất khẩu chè xuất khẩu của toàn thế giới. Với mục tiêu của ngành chè Việt Nam năm 2005 chúng ta xuất khẩu hơn 2,5% lượng chè xuất khẩu thế giới và năm 2010 là 3%. Bảng 3: Phản ánh lượng chè xuất khẩu của Việt Nam 1995-2001 32
  33. Năm Lượng chè xuất khẩu Trị giá xuất khẩu ( 1000 tấn) ( triệu USD) 1995 17,041 21,2 1996 20,755 29,031 1997 32,229 47,902 1998 33,295 50,497 1999 36,440 45,145 2000 44,2 51,230 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu Bộ thượng mại Qua bảng trên ta thấy khối lượng và kim ngạch của chè không ngừng tăng : năm 1997 đã vượt qua ngưỡng 30 ngàn tấn, đạt 32,295 và 3 năm tiếp theo khối lượng xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng, khối lượng năm 1998 33,295, năm 2000 45 tấn. Điều này cho thấy ngành chè Việt Nam có thể thực hiện tốt quyết định số 43/199/QĐ-TTg trong những năm đầu của thập kỷ 21 là rất khả thi. 2. Khái quát về tình hình xuất khẩu chè của thế giới Chè được sản xuất ở 28 nước, nhưng có tới hơn 100 nước tiêu thụ chè. Chè là một trong những loại đồ uống phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Từ lâu chè đã trở thành cây công nghiệp chủ yếu của một số quốc gia. Xét về mức phân bố diện tích trồng chè: Châu á có 12 nước chiếm khoảng 90%, châu Phi (12 nước) 8% và Nam Mỹ 2% (4 nước). Như vậy chè được sản xuất và xuất khẩu chủ yếu ở châu á. Do đó những thay đổi sản xuất và xuất khẩu chè của thế giới sẽ phụ thuộc lớn vào tình hình sản xuất và xuất khẩu chè của châu á. Để có được bức tranh về xuất khẩu chè trên thế giới, ta lần lượt xem xét các khía cạnh sau: 2.1. Sản lượng Mặc dù diện tích trong những năm gần đây có xu hướng giảm (giảm 0,4% năm), nhưng nhờ có đầu tư vốn cũng như kỹ thuật để thâm canh tăng nhanh năng suất thu hoạch (23% năm), nên đến năm 2000 sản lượng chè thế giới lên tới 3 triệu tấn. Tốc độ tăng 33
  34. trưởng sản lượng bình quân mỗi năm là 2% đây là một tốc độ tăng trưởng khá với một cây công nghiệp dài ngày như chè. Biểu 4: Diện tích, năng suất, sản lượng chè thế giới Danh mục Đơn vị 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Diện tích Nghìn/ 2.299 2.296 2.310 2.303 2297 2.253 2.250 ha Năng suất Tấn/ha 1,137 1,124 1,135 1,213 1,298 1,27 1,29 Sản lượng Nghìn 2.615 2.581 1.622 2.794 2.986 2.871 3.000 tấn Nguồn : Bộ kế hoạch và Đầu tư Nước có sản lượng chè hàng năm cao nhất thế giới là ấn Độ với 811 nghìn tấn năm 1997, chiếm 27,26% tổng sản lượng thế giới. Tiếp đến là Trung Quốc (23,32%) Srilanca (9,38%), KenYa (9,3) và Indonexia (6,55%). Mặc dù sản lượng chè phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thời tiết nên biến đổi không ổn định, nhưng nhìn chung thì 10 năm trở lại đây, sản lượng chè ở hầu hết các nước đều tăng nên với một mức độ tăng trưởng khá cao. Sản lượng chè một số nước chủ yếu trên thế giới Đơn vị tính: 1000 tấn Tên nước 1991-1993 1994 1995 1996 1997 ấn Độ 749 753 764 780 811 Trung Quốc 588 610 609 617 558 Snilanca 218 244 246 259 277 Kenya 201 209 244 257 221 Inđônêxia 139 136 145 144 139 Nhật Bản 83 86 89 90 88 Iran 52 56 54 56 55 Bănglalet 48 52 48 55 34 Việt Nam 36 42 40 47 45 34
  35. Nguồn: FAO 2.2. Xuất khẩu Trong 28 nước sản xuất chè thì có 26 quốc gia xuất khẩu chè. Theo số liệu thống kê, ta có thể thấy 50 % sản lượng thế giới chè dành cho xuất khẩu. Những nước xuất khẩu chè hàng đầu thế giới như Srilanca, Kenya, ấn Độ, Trung Quốc đã chiếm tỷ trọng khoảng 70% khối lượng chè của thế giới. Tiếp theo là Kenya đây là một nước có bước nhảy vọt trong ngành chè và được đánh giá là một nước có rất nhiều triển vọng về ngành chè. ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc gia lớn tuy nhiên việc xuất khẩu chè của hai nước này không ổn định do phụ thuộc vào rất nhiều vào việc tình hình tiêu thụ nội địa. Xuất khẩu chè thế giới thời gian qua tăng với tốc độ tương đối ổn định , bình quân 3% năm. Điều này chứng tỏ rằng các nước có điều kiện phát triển cây chè vẫn không ngừng đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu chè. Để hiểu rõ tình hình xuất khẩu chè trên thế giới chúng ta có thể tham khảo biểu sau: Xuất khẩu chè thế giới những năm gần đây. Năm Kim nghạch ( 1000 USD) Sản lượng ( tấn) 1991 2.524.954 1.207.290 1992 2.212.449 1.108.145 1993 2.289.409 1.193.144 1994 2.089.409 1.052.177 1995 2.226.866 1.119.029 1996 2.500.252 1.234.708 1997 3.017.509 1.351.562 1998 2.758.903 1.175.000 1999 2.674.418 1.195.000 2000 2.710.000 1.200.000 Nguồn : Bộ kế hoạch Đầu tư 35
  36. Xuất khẩu chè một số nước trên thế giới đơn vị :1000 tấn Tên nước 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 1. Srilanca 199 224 235 234 258 268 262 2.Kenya 177 183 237 244 209 235 245 3.ấn độ 83 149 164 154 156 153 157 4. Trung Quốc 192 148 170 173 1 172 175 5.Inđônexia 118 85 79 101 64 70 68 6. AHentina 39 43 41 41 40 42 40 7. Malayxia 36 39 33 37 31 30 31 8. Bangladesh 28 24 25 26 25 24 25 Nguồn FAO 2.3. Nhập khẩu chè của thế giới trong những năm gần đây Thị trường nhập khẩu chè thế giới gần đây có xu hướng tăng. Hàng năm thế giới nhập khoảng 1,2 triệu tấn chè khô. Những nhập khẩu chè hàng đầu thế giới là: Anh, Nga, Pakistan. Chỉ riêng 5 nước này đã nhập khẩu tới 45% tổng lượng chè xuất khẩu của các nước và chiếm hơn 20% sản lượng chè toàn thế giới. Việc bán trên thị trường chủ yếu được tập trung tại 4 trung tâm đấu giá lớn nhất trên thế giới là: Luân Đôn, Niuđêli, Côlômbia, Monbaza. Phương pháp bán đấu giá được sử dụng là phương pháp đấu giá ngoài khơi hoặc là phương pháp đấu giá treen đất liền. Việc trao đổi buôn bán chè trên thế giới chủ yếu dựa vào thông tin về chè do hội môi giới chè Luân Đôn thông tin vào thứ sáu hàng tuần. Để tìm hiểu thêm tình hình nhập khẩu chè của một số nước nhập khẩu chè lớn nhất thế giới, trước hết ta có thể tham khảo biểu: Nhập khẩu chè của một số nước chủ yếu. Đơnvịtính:1000 tấn Tên nước Năm 1995 Năm 1996 Năm 1996 Năm1997 1.Anh 147.406 148.452 150.538 152.016 36
  37. 2. Nga 135.000 11.095 150.000 150.000 3.Pakistan 104.200 110.703 860.871 115.640 4.Mỹ 83.934 89.155 81.216 87.200 5.Ai Cập 70.023 65.41 77.892 76.400 6. afganistan 40.542 41.100 38.000 42.312 7.maroc 30.076 28.400 35.016 32.560 Nguồn: Tea Statisties 2.4 Giá cả Giá chè là một nhân tố nhạy cảm với cung cầu trên thị trường thế giới, và chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện khí hậu. Tuy nhiên trong những năm gần đây giá chè trên thế giới là tương đối ổn định. Việc môi giới thường được thông qua những nhà môi giới giầu kinh nghiệm nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng và quảng cáo. Trong đó có 4 công ty hàng đầu chiếm tới 80% thị trường chè là: Brooker Bond, Liptone, Lytone, Lyons Tetley Giá chè xuất khẩu trên thế giới trong các năm từ 1991 đến 1996 tương đối ổn định (trên dưới 2000 USD/tấn), điều đó chứng tỏ rằng cung và cầu trên thị trường chênh lệch không đáng kể. Những năm tiếp theo từ 1997 đến 1999 giá chè xuất khẩu tăng mạnh, điều đó có thể lý giải do cầu tăng đột ngột của Nga, iran và các nước chuyển sang tăng tỷ trọng xuất khẩu chè có phần cấp thiết, giá chè coa trong cơ cấu chè xuất khẩu. Để hiểu rõ hơn về tình hình giá chè thế giới thời gian ta có thể tham khảo biểu. Giá chè xuất khẩu của thế giới từ 1994- 2000. đơn vị tính: Triệu USD/ 1000 tấn Năm Giá chè của xuất khẩu của thế giới 1994 1,715 1995 1,697 1996 1,980 1997 2,227 37
  38. 1998 2,327 1999 1,697 2000 1,707 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu –Bộ Thương Mại 2.5.Triển vọng thị trường a. Sản lượng Theo như nguồn tin của FAO cho biết, sản lượng chè thế giới tăng 1,97 triệu tấn năm 1994 lên 3,1 triệu tấn năm 2005 vói tỷ lệ tương đối cao khoảng 3% năm. ấn Độ vẫn là nước sản xuất chè lớn trên thế giới có độ tăng 28% năm giai đoạn 1994-1995. Các nước sản xuất và xuất khẩu chè chính vẫn là Xnilanca, ấn độ, Bănglađét, Kênia 3 0 0 0 2 0 0 0 S l X K 1 0 0 0 N k 0 38
  39. b. Xuất khẩu Dự đoán xuất khẩu chè tăng 2,5%/năm giai đoạn 1994-2005 đạt 1,292 triệu tấn vào năm 2005, Trung Quốc, ấn Độ, Inđonêxia, Slinanca sẽ tăng nhanh. + Xuất khẩu chè của các nước Bănglađét, Malawi, Lânzania, Thổ Nhĩ Kỳ, và Zinbabua sẽ tăng nhanh. + Srailanca nước xuất khẩu chè lớn nhất trên thế giới sẽ xuất khẩu 263 ngàn tấn chè vào naem 2005, tăng 1,6%/năm. Trong đó dự kiến xuất khẩu sẽ tăng ở các nước Châu phi. Xuất khẩu của Châu phi năm 2005 sẽ đạt 101 nghìn tấn, tăng 2,8%/năm giai đoạn 1994-1995. Để có cách nhìn toàn cảnh thị trường xuất khẩu chè thế giới năm 2005 ta có thể quan sát biểu đồ sau 25% 21% 20% 20% 20% Inđônêxia 15% ấn Độ 15% 13% 11% Trung Quốc 10% Snilanca Kenya 5% Các nước khác 0% Tỷ lên đạt b. Nhập khẩu Tiêu thụ trê thế giới dự kiến sẽ tăng từ 1,97 triệu tấn năm 1994 lên 2,67 triệu tấn năm 2005, tăng 2,8%/năm. Các nước phát triển tăng nhu cầu lên khoảng 3% năm. 39
  40. Thuế giảm khiến tiêu thụ chè năm 2005 nhập khẩu chè thế giới dự kiến đạt 1,27 triệu tấn, tăng 2,3% năm trong giai đoạn 1994-2005 tăng 1,6% ở các nước đang phát triển. Dự đoán nhu cầu nhập khẩu chè của các nước thuộc Liên Xô cũ, Mỹ, Anh, Pakixtan và Aicập chiếm 51% khối lượng xuất khẩu toàn thế giới. Thị trường chè nhập khẩu trên thế giới 2005 50% 45% 40% 35% 30% 25% 20% 15% 10% 5% 0% Tỷ lệ XK chè của các nước trên thế giới d. Giá cả Các thị trường tiềm năng có thuế quan tương đối cao, sự giảm thuế nhập khẩu ở các thị trường này sẽ ảnh hưởng lớn tới việc cầu của chè. Cụ thể là sẽ tăng tiêu thụ chè thế giới. Theo như cácnhà chuyên môn cho biết thị trường chè thế giới kể từ năm 1999 trở lại đây thì không có gì chuyển biến lớn. Thị trường vào quý II năm nay sẽ nhích lên với mức tăng khoảng 4-5% so với các tháng trong năm. Nguyên nhân do các nhà sản xuất dự trữ nguyên liệu cho mùa đông và nhu cầu thụ ở các thị trường truyền thống tăng. Sau đây là dự đoán giá chè trung bình quýIII/2000 tại trung tâm đấu giá lớn nhất thế giới( trong ngoặc là giá trung bình quý I/2000) Tên thị trường Mức giá trung bình Luân Đôn 130 penci/kg(928) Niu Đê Li 55,8 Rupec/kg (38 Rupe ấn Độ) Cô-Lôm-Bô 108,5 Rupec/kg(111,75) Rupec Srilanca 40
  41. Mom-ba-sa 1,6 USĐ/kg (1,72) Theo ngân hàng thế giới, giá chè năm 2005 sẽ đạt con số là 1800 USD/tấn 3. Vai trò của xuất khẩu chè trong nền kinh tế quốc dân Thực tế của kinh tế thị trường khắc nghiệt đã chứng minh rằng: Cho rù một quốc gia nào có được thiên nhiên ưu đãi cho chăng nữanếu không hội nhập vào thương maị quốc tế, thì nền kinh tế tự cung, tự cấp sẽ bị kiệt quệ, yếu kém, không thể vực theo kịp với nhịp đập và sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Tại đại hội VI TW Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta đã nhận thức được một cách sâu sắc rằng: Chỉ có tăng cường và mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài, hội nhập vào nề kinh tế toàn cầu mới cho phép chúng ta đánh giá đúng khả năng trình độ phát triển của nền kinh tế nước nhà. Với sự tham gia vào ngoại thương nói riêng và thương mại quốc tế nói chung sẽ mở ra một bộ mặt mới cho nền kinh tế nước nhà. xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, xuất khẩu đóng góp một phần quan trọng vào hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. 3.1.xuất khẩu chè đóng góp vào tạo công ăn việc làm cho người lao động đặc biệt là người lao động trung du và miền núi phía bắc, Tây nguyên. Trung du và miền núi phía bắc, Tây nguyên là nơi dân trí, thu nhập đời sống gắp nhiều khó khăn. Chính vì sản xuất chè trong nước cung vượt quá cầu vì vậy để duy trì đời sống cho người dân thì chúng ta phải tập trung thu mua xuất khẩu chè. Việc sản xuất và xuất khẩu chè tác động đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Theo như số liệu thống kê thì cứ một ha chè sẽ thu hút được bốn lao động trực tiếp trong việc gieo trồng và chăm sóc. Như vậy với diện tích hiện nay của nước ta thì việc trồng chè thu hút khoảng 400 nghìn lao động trực tiếp trong vườn chè cộng với khoảng 5 nghìn lao động hoạt động trong các lĩn vực khác như chế biến , xuất khẩu. Theo như kế họach dự kiến của nghành chè phấn đấu đến năm 2010 thì số lao động trong nghành chè sẽ lên tới khoảng gần 1triệu lao động chiếm khoảng 10% dân số trong cả nước. Tức là cứ mười người thì sẽ có một người công tác trong nghành chè . Chínhvì lẽ đó, khi mà sản xuất chè càng phát triển thì sẽ giải quyết được phần nào lao động dư thừa, từ đó góp phần ổn định, tệ nạn xã hội giảm. 41
  42. 3.2. Xuất khẩu chè đóng góp vào cán cân thanh toán ở Việt Nam Một trong những lý do của hoạt động xuất khẩu chè đó là lợi ích kinh tế, hay nói cách khác là thu về ngoại tệ. Xuất khẩu chè giúp chúng ta thu được ngoại tệ, làm giảm sự thâm hụt của cán cân thanh toán. Đóng góp vào dự trữ ngoại tệ quốc gia, nâng cao vị thế hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. 3.3 Với GDP, GNP Xuất khẩu chè Việt Nam thì việc đóng góp vào GDP, GNP ngày một tăng. Năm 1998 xuất khẩu chè Việt Nam thu được 48 triệu USD, năm 1999 chúng ta thu được 45 triệu USD và năm 2000 chúng ta thu về được 50 triệu USD. Xuất khẩu chè sang thị trường quốc tế còn giúp cho ngành chè hiểu được mình phải sản xuất cái gì, cần nâng cao chất lượng, đổi mới công nghệ cho phù hợp với thị hiếu của thị trường. 4.Thế mạnh của xuất khẩu chè của việt nam 3.1 Về điều kiện tự nhiên. a. Về khí hậu Nước ta có khí hậu nắng ấm mưa nhiều, hệ số dao động nhiên độ giữa ngày và đêm lớn từ 8-100C, rất phù hợp với điều kiện phát triển của cây chè và làm tăng khả năng tổng hợp chất thơm tự nhiên. b. Về đất đai Chất đất ở Việt Nam tầng, dày, kết hợp với độ tơi xốp vốn có của tự nhiên tạo nhiều dinh dưỡng cho cây trồng đặc biệt là cây chè. Cùng với đặc điểm này kết hợp điều kiện khí hậu tự nhiên là cơ sở tốt để cây chè phát triển tốt. c.Nhân lực. Với dân số khoảng 76 triêụ người trong đó có 80% dân số làm nông nghiệp. Có thể nói đây là một đội ngũ lao động rất dồi dào cho toàn ngành nông nghiệp nói và ngành chè nói riêng. d. Chính sách của nhà nước Nhận thức tầm quan trọng của cây chè Đảng và Nhà nước coi xuất khẩu chè là một trong những ngành xuất khẩu được ưu tiên. Chính phủ đã ban hành nhiều quy định thông tư hướng dẫn cụ thể như thông tư 100 của hội đồng các bộ trưởng nay là thủu tướng chính phủ và tiếp theo là Quyết định số 42
  43. 43/i999/QĐ-TTg và ưu tiên ngành xuất khẩu chè và công nghiệp chế biến chè xuất khẩu. e. Thị trườn và giá cả chè xuất khẩu của Việt Nam: e.1. Thị trường: nghành chè Việt nam đã xuất khẩu tới hơn 30 nước và khu vực, nghành chè cũng đã có công nghệ mới của Anh, Nga , Đài Loan, Nhất để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá mặt hàng. Danh sách các nước mà nghành chè Viết nam đã xuất khẩu sang: 1.Algeri 8. Irak. 2 Bulgaria. 9.Japan. 3. Cu Ba. 10. Taiwan 4. Czech. 11. Rusia 5. Germany. 12. Singpore 6. In dia 13. Turkey 7. Iran. 14. Ukraina Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam Thị trường xuất khẩu của chúng ta trước kia chủ yếu là Liên Xô và các Đông Âu. Do tình hình thế ở các thị trường này có nhiều biến động ta đã mất hơn 60 thị trường xuất khẩu. Nên năm 1991 ta chỉ xuất khẩu được 8000 tấn chè đạt kim ngạch xuất khẩu 9 triệu USD . Trước tình hình đó Hiệp hội chè Việt Nam ( VIIAS) đã nhanh chóng thành lập công ty cổ phần Việt Anh taịo London để xuất khẩu chè sang các nước thuộc khối liên hiệp Anh và đã có những kết quả đáng mừng. Chè Việt nam cunbgx đã thâm nhập được các thị trường khó tính như Anh, Gợmany,Irak VIIAS cũng đã khảo sát thị trường ấn Độ, Trung Quốc, Nga và hiên nay trong 6 năm từ năm 1995- 2000 và quý I năm 2001 chúng ta đãxuất khẩu được 180 tấnư chè thu về 250 triệu USD. Lựơng chè xuất khẩu đến một số nước chủ yếu. đơn vị tính: tấn Nước 1996 1997 1998 1999 Nga 10075 15704 12040 16475 43
  44. Anh 1304 2050 1742 2133 Đài Loan 1352 2621 4072 2076 Irak 400 1088 3069 1564 Hồng Kông 2084 2100 2321 1897 Trung Quốc 1000 1230 794 936 Angeri 300 1003 786 1800 Nguồn; Vụ xuất khẩu – Bộ Thương Mại. Qua đây ta thấy nga vấn là nước nhập khẩu chè lớn nhất. Tuy nhiên nó không đều đặn qua các năm ,các thị trường khác như Anh, Đài Loan , irak cũng tăng qua các năm. Tuy nhiên thị trường Châu Mỹ,Châu úc là rất lớn những chúng ta chưa khain thác tốt vì vây chúng ta cần có những biệ pháp để nâng cao chất lượng chè xuất khẩu để chè Việt nam có mặt và chiếm lĩnh thị trường chè có nhu cầu lớn trên thế giới. Tóm lại để đẩy mạnh ngành chè phát triển,Việt nam cần phải tiêu chuẩn các khâu chế biến, mẫu mã và chất lượng thành phần nâng cao chất lượng chè chế biến đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. e.2 giá cả của chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trưpngf thế giới . giá chè của Việt Nam ngày càng nhích lại gần giá chè của thề giới. Tuy nhiên, do chất lượng chế biến thấp , lại xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô nên giá cả còn thấp chỉ đạt 60% - 70% thậm chí 50% giá chè của thề giới. Giá chè xuất khẩu của Vịêt Nam so với thế giới. Đơn vị tính : Triệu USD/ 1000 tấn Năm Giá chè xuất khẩu của Việt Nam Giá chè xuất khẩu của thế giới 1994 1,115 1,7715 1995 1,188 1,697 1996 1,347 1,980 1997 1,433 2,205 1998 1,466 2,327 1999 1,188 1,697 44
  45. 2000 1,144 1,707 Nguồn : Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Thương Mại Qua số liệu ở trên ta thấy giá chè xuất khẩu của chè Việt Nam từ 1994 – 1998 tăng đêu đặn qua các năm( do nhu câu của thế giới tăng và giá chè thế giới cũng tăng đều đặn qua các năm). Tuy nhiên vẫn thấp hơn so với giá chè bình quân của thế giới .Điều này chứng tỏ chất lượng của chè Việt 45
  46. chươngII: thực trạng xuất khẩu chè ở công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm hà nội I :Tổng quan về công ty xuất nhập khẩu nông sản – thực phẩm Hà Nội 1 .Lịch sử hình thành và phát triển của công ty xuất nhập khẩu Nông Sản Hà Nội. a. Quá trình thành lập công ty. Tổng công ty XNK Nông Sản Thực Phẩm Hà Nội tên giao dịch quốc tế là AGREXPORT – HN (Việt Nam National Agliculture Produce And Foodstuff Import - export Company.) Có trụ spr tại số 6 Tràng Tiền – Hoàn Kiếm –Hà Nội.đước thành lập từ năm 1963 theo như quyết định của thủ tướng chính phủ , trực thuộc bộ thương mại quản lý. Đến năm 1985 được chuyển sang Bộ Nông Nghiệp và Công Nghiệp Thực Phẩm quản lýtheo quyết đinh 08HĐBT ngày 14/1/1985. Đến năm 1995 Tổng công ty Xnk Nông Sản được đổi tên thành Công ty XNK Nông Sản –Thực phẩm trực thuộc bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông Ttheo quyết đinh số 90-TTg ngày 17/3/ 1994 của thủ tướng chính phủ và công văn hướng dẫn của UBKH nhà nước ngày 5/5/1994. Trải qua hơn 30 năm với nhiều biến cố của đất nước AGREXPORT –HN đã không ngừng được củng cố và phát triển. b. Quá trình phát triển: Giai đoạn 1 : (1963 - 1975) Đây là giai đoạn cả nước thực hiện đường lối của Đại hội Đảng lần thứ III với hai nhiệm vụ chiến lược là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Do đó phương châm của Công ty là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu. Công ty đã thành lập hàng loạt các trạm thu mua từ Cao Bằng, Lạng Sơn, đến Nghệ An để thu gom nguồn hàng xuất khẩu. Giai đoạn này hàng loạt các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu ra đời làm cho tổng kim ngạch XNK của công ty tăng lên, có năm 46
  47. công ty xuất khẩu trên dưới 100 mặt hàng. Tổng kim ngạch xuất khẩu từ l 963 - 1975 đạt 144.698 Rup-USD, riêng hàng nông sản chiếm 20% kim ngạch. Về nhập khẩu, chủ yếu là nhập khẩu hàng viện trợ của các nước XHCN. Mặt hàng chủ yếu là lương thực như Ngô, Gạo, lúa mỳ, bột mỳ. Về thực phẩm thì có thịt cá hộp, đậu tương, thực phẩm khô, mỳ chính, đường để đáp ứng nhu cầu của quân đội trong chiến tranh và cho tiêu dùng của nhân dân. Tổng kim ngạch nhập khẩu trong thời kỳ này là 950 triệu Rup-USD. Giai đoan 2: (1975 - 1985) Đây là giai đoạn Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp, công ty được độc quyền trong hoạt động kinh doanh XNK hàng nông sản nên công ty có địa bàn hoạt động rộng lớn trên phạm vi cả nước. Đặc biệt là vùng nông nghiệp phía Nam với số lượng là hàng lương thực, hàng nông sản chế biến rất lớn. Về xuất khẩu : Công ty đã có sự hợp tác chặt chẽ với bộ nông nghiệp, Bộ lưong thực và UBND các tỉnh trong cả nước, các tồ chức ngoại thương địa phương để thu gom hàng nông sản xuất xuất khẩu như gạo ở các tỉnh miền Tây nam bộ, Đậu tương ở Đồng Nai, An Giang, Lạc ở Nghệ An, Thanh Hoá, Tây Ninh, Long An và các sản phẩm hàng công nghiệp như: Rượu bia, chè, đường, thuốc lá,cà phê Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt: 411 .204.000 R - USD. Trong đó năm đạt cao nhất của hơn 20 năm hoạt động xuất khẩu là năm 1983 - kim ngạch xuất khẩu đạt 123 triệu Rup - USD. Đặc điểm nổi bật là năm 1994 đã đạt được đúng kim ngạch như tên gọi của nó Công ty XNK nông sản với l00% mặt hàng nông sản đạt 33 triệu Rup - USD. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở giai đoạn này là Gạo, Lạc, Đậu, Vừng. Về nhập khẩu: Những năm sau giải phóng, khối lượng nhập khẩu còn lớn chủ yếu là lương thực từ Liên Xô cũ và Đường thô từ Cu Ba. Càng về sau sản lượng lương thực càng giảm dần. Đặc biệt là trong giai đoạn này còn nhập khối lượng hàng lớn khác (ngoài Liên xô) nhằm giải quyết khó khăn do thiên tai gây ra vào cuối năm 198l đầu năm l 982. Tổng kim ngạch nhập khẩu thời kỳ này là l 360 triệu Rup - USD trong đó gạo chiếm 285,704 triệu Rup-USD, phân bón chiếm l59 triệu Rup - USD. Năm 1980 cao nhất với kim ngạch nhập khẩu 192 triệu Rup - USD. Trong đó mặt hàng thực phẩm chiếm 70 - 80% tồng giá trị nhập khẩu, Giai đoạn 3: Từ 1985 đến nay: 47
  48. Đây là thời kỳ Nhà nước chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Do đó hoạt động của công ty cũng có nhiều thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Công ty không còn độc quyền kinh doanh hàng nông sản như trước nữa, mà có nhiều doanh nghiệp khác cũng kinh doanh mặt hàng này. Đồng thời Nhà nước cũng giao quyền tự chủ cho công ty cân đối lỗ lãi, Nhà nước không còn bù lỗ như những năm trước . Sau năm 1986 thị trường càng thu hẹp lại, nguồn vốn của công ty gặp nhiều khó khăn. Song công ty đã kịp thời vay vốn ngân hàng để thu mua hàng nông sản và nhập khẩu thuốc trừ sâu, phân bón, hàng tiêu dùng phục vụ cho sản xuất. 2.Chức năng và nhiệm vụ của tổng công ty. Căn cứ vào quyết định số 263/NN/TCCB/ QĐ ngày9/8/1 985 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công ty XNK nông sản thực phẩm có chức năng và nhiệm vụ sau: a.Chức năng Công ty XNK nông sản thực phẩm Hà Nội là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập được sử dụng con dấu riêng, được mở tài khoản ngân hàng Nhà nước theo chế độ quy định (bao gồm cả tài khoản ngoại tệ). Công ty XNK Agrexport Hà Nội là một tổ chức thống nhất kinh doanh XNK thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. b.Nhiệm vụ Căn cứ phương hướng nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và hướng dẫn của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, xây dựng kế hoạch nhập khẩu các loại vật tư hàng hoá phục vụ yêu cầu phát triển sản xuất hàng năm và dài hạn, tổ chức thực hiện kế hoạch XNK sau khi được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn duyệt. 48
  49. Trên cơ sở kế hoạch, tổ chức kinh doanh XNK các hàng nông sản thuộc danh mục Nhà nước cho phép từ khâu đầu tư sản xuất đến khâu thu mua chế biến và xuất khẩu. Nghiên cứu tình hình thị trường quốc tế ,đề xuất chủ trương chính sách phát triển sản xuất các loại hàng nông sản xuất khẩu và nhập khẩu các loại vật tư hàng hoá phục vụ yêu cầu sản xuất nông nghiệp nhằm không ngừng nâng cao khối lượng và chất lượng hàng xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu Tổ chức giao dịch ký kết hợp đồng với tổ chức sản xuất trong nước, tổ chức ký kết hợp đồng mua bán với doanh nghiệp nước ngoài. Tổ chức thực hiện các hợp đồng kinh tế đã ký theo đúng chế độ quy định của Nhà nước và phù hợp với tập quán, thủ tục thương mại quốc tế. Quản lý có hiệu quả vật tư, tài sản, tiền vốn không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty. Quản lý sử dụng lực lượng cán bộ công nhân viên đúng chế độ chính sách ,không ngừng nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất của cán bộ công nhân viên đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của công ty. 3. Cơ cấu tổ chức của công ty. a) Cơ cấu tổ chức của công ty Công ty Agrexport Hà Nội thuộc sự quản lý của Nhà nước, hiên nay trực thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn nhưng được tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ cấu tố chức của công ty như sau: Ban giám đốc : 1 Gồm giám đốc 2.Phó giám đốc Các phòng nghiệp vụ XNK 1. phòng XNK 1 2. phòng XNK 2 49
  50. 3. Phòng XNK 3 4. Phòng XNK 4 5. Phòng XNK 5 6. Phòng XNK 6 7. Phòng XNK 7 Các phòng ban quản lý. 1.phòng kế hoạch thị trường. 2. phòng kế hoạch tài chính. 3. phòng tổ chức hành chính. 4. ban đề án công nợ. Các chi nhánh: 1.Chi nhánh XNK Nông Sản –Thực Phẩm Hải phòng. 2.Chi nhành Xnk Nông Sản – Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh 50
  51. Cơ cấu tổ chức của Công ty AGREXPORT Hà Nội : Ban giám đốc Phòng Phòng Phòng Ban Các phòng TCHC TCKT KHTT công nợ XNK từ 1-7 Chi nhánh công Chi nhánh công ty ty XNK NSTP XNK NSTP TP Hồ Hải Phòng Chí Minh XN chế Kho Đông Kho 2 Cầu XN chế biến 51
  52. biến nông Khê Tiên nông sản XK sản XK ( vĩnh hoà thuộc CH T.P HCM ) b.Chức năng nhiện vụ của các phòng ban trong công ty : b.1. Ban giám đốc : Giám đốc là người chỉ đạo trực tiếp , điều hành mọi hoạt động của công ty. Phó giám đốc giúp Giám đốc quản lý điều hành các mảng hoạt động mà Giám đốc giao phó , đồng thời giám đốc quản lý điều hành công việc khi được giám đốc giao phó. b.2. Các phòng nghiệp vụ XNK: Các phòng kinh doanh XNK có cùng chung chức năng và nhiệm vụ sau ; Trực tiếp xuất nhập khẩu các mặt hang của công ty đã đước UBKH Nhà nước cho phép kinh doanh, ngoài ra còn làm đại lý tiêu thụ các sản phẩm mà nhà nước cho phép . Khai thác các mặt hàng trong phạm vị cả nước, xây dựng phương án kinh doanh xuất khẩu. Được phép ký kết các hơpk đồng kinh tế với các tổ chức sản xuất trong và ngoài nước trên cơ sở giám đốc uỷ quyền. Được phép liên doanh liên kết xuất nhập khẩu với các tổ chức sản xuất trong nước , ngoài nước và các đơn vị khác có liên quan với điều kiện phương án đó đước giám đốc duyệt. Được phép làm uỷ thác khi thấy cần thiết và có hiệu quả. Được phép vay vốn trong và ngoài nước để đầ tư cho sản xuất, thu mua , mua bán với nước ngoài trên cơ msở phương án đó có sự tham gia của các phòng chức năng cùng sự xét duyết của giám đốc. 52
  53. Nhìn chung các phòng này là tương đối độc lập với nhau trong quá trình kinh doanh Xnk. Tuy nhiên các phòng đều có các mặt hàng chủ lực riêng của mình như phong 1 có mặt hàng chính là Lạc nhân, phòng số 2 và phòng số 3 là chè và cafe, phòng số 4 là hạt tiêu B.3. phòng kế hoạch thị trường : Có hai bộ phận chính là bộ phận kế hoạch và thị trường. Bộ phận kế hoạch: Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là tham mưu cho giám đốc xây dựng các chương trình kế hoạch có mục tiêu trong hoạt động ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, tổng hợp và cân đối toàn diện các kế hoạch nhằm xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty, giúp giám đốc kiểm tra việc tổ chức thực hiện kế hoạch và điểu chỉnh cho phù hợp với điều kiện mơí. Bộ phận thị trường: làm nhiệm vụ xúc tiến quảng cáo, giúp giám đốc quản lý về công tác đối ngoại, chính sách thị trường, thương nhân nước ngoài, nghiên cứu tìm hiểu luậ pháp Đồng thời bộ phận này còn làm công tác nghiên cứu thị trường để đề xuất với giám đốc các phương án giải quyêt một cách có hiệu quả nhất. Phòng kế toán tài chính (KTTC): có nhiệm vụ quản lý vốn của công ty, kiểm tra giám sát các hoạt động kinh doanh, hạch toán lỗ lãi, thực hiện thu chi cho các phòng ban và các chi nhánh theo nhu cầu kế hoạch của công ty. d. Ban công nợ: có nhiệm vụ đòi các khoản nợ do các tổ chức kinh doanh khác chiếm dụng vốn của công ty và thanh toán các khoản nợ của công ty với thương nhân nước ngoài. II. Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty 1. Quy mô và cơ cấu XNK Từ khi thay đổi cơ cấu bộ máy AGREXPORT Hà Nội hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường nên tốc độ tăng kim ngạch qua hàng năm vẫn đảm bảo kế hoạch đặt ra. 53
  54. Bảng 2: Giá trị kim ngạch XNK 1997 - 2000 : Đơn vị : Triệu USD Năm 1997 1998 1999 2000 Kim ngạch XNK 12,220 21,328 22,249 20223,482 Kim ngạch XK 3,761 2,720 2,683 9157,368 Kim ngạch NK 8,459 18,608 19,566 11066,614 % hoàn thành kế hoạch 163,5% 175,2% 179,4% 174,1% (Nguồn: Báo cáo kim ngạch XNK 1997-1998 của Công ty AGREPORT) Quan bảng trên cho ta thấy giá trị kim ngạch của Công ty tăng dần, phần trăm hoàn thành kế hoạch cũng tăng, thể hiện được bước chuyển biến tích cực trong kinh doanh. Từ khi đổi mới cho đến nay Công ty luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch, đó là kết quả tích cực, quy mô kinh doanh XNK luôn được mở rộng. Cụ thể: năm 1997 tổng kim ngạch XNK đạt 12,220 triệu USD bằng 163,5% kế hoạch đặt ra, tăng 128% so với năm 1996. Tổng kim ngạch XNK tự doanh đạt 3,76 triệu USD tăng 35% so với năm 1996 và chiếm 30,78% tổng kim ngạch. Kim ngạch NK đạt 8,49 triệu USD tăng 219% so với năm 1996 và chiếm tỷ trọng 69,22%. Năm 1998 tổng kim ngạch XNK đạt 21,328 triệu USD bằng 179,4% kế hoạch, trong đó tự doanh chiếm 52,3% và uỷ thác chiếm 46% và tồn kho 2,7%. Kim ngạch NK đạt 18,608 triệu USD chiếm 87,25%, kim ngạch XK chỉ đạt 2,720 triệu USD bằng 12,75% tổng kim ngạch. Qua đây cho ta thấy kim ngạch XNK tự doanh tăng mạnh trong khi đó tỷ lệ hoạt động XNK uỷ thác cũng có tăng qua các năm và tồn kho giảm dần. Chứng tỏ công ty đã thích nghi hơn và hoạt động có hiệu quả hơn trong cơ chế thị trường. Cũng từ bảng phân tích trên cho chúng ta thấy kim ngạch XNK tăng khá cao qua từng năm, nhưng tỷ trọng kim ngạch XK lại giảm dần và chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng kim ngạch. Đây cũng là xu thế chung của các công ty kinh tế XNK, không riêng gì Công ty AGREXPORT Hà Nội. 54
  55. 1.1. Tình hình kinh doanh XK Công ty vẫn chú trọng vào các mặt hàng truyền thống như lạc, hồi, quế , ở đây là những mặt hàng chủ lực của công ty trong nhiều năm qua, được thể hiện qua bảng sau: Biểu : Các mặt hàng XK 1997-2000 Đơn vị: USD. Số TT Nội dung Năm 1997 1998 1999 2000 1 Lạc nhân 722.912 694.347 615.782 716.302 2 Hoa hồi 236.088 391.932 431.623 161.007,19 3 Quế 290.573 173.682 156.528 212.069 4 Chè 582.000 260.688 212.486 375.178,2 5 Nhân điều 569.369 79.950 85.235 6 Kê nếp 212.315 13.922 14.922 7 Hạt tiêu 667.718 579.123 635.323 802,945 55
  56. 8 Cà phê 312.159 350.136 367.059 9 Ngô 374.880 13.758 15.672 10 Thực phẩm 0 87.859 90.865 3724470,5 (Nguồn: Báo cáo kim ngạch XNK 1997- 2000 của Công ty AGREPORT Những mặt hàng lạc nhân, hoa hồi, quế là những mặt hàng chiếm tỷ trọng kim ngạch Xk cao nhưng giá trị lại giảm dần do cạnh tranh gay gắt với các công ty cùng kinh doanh mặt hàng này. Mặt khác, do công tác thu mua trong nước gặp nhiều khó khăn vì mặt hàng nằm ở cả ba miền của đất nước ta lại tập trung ở miền núi, nông thôn nên cơ sở hạ tầng còn thấp kém, giao thông đi lại khó khăn làm cho giá cả và chi phí thu mua tăng cao làm giảm sức cạnh tranh dẫn đến giảm lợi nhuận. Ngoài các mặt hàng trên công ty còn trú trọng đến các mặt hàng có triển vọng như hạt điều, tiêu, cà phê, thực phẩm đồ hộp, Qua kết quả thực tế cho ta có nhận định rằng các mặt hàng XK của công ty là không ổn định, biến động thất thường qua các năm . Cụ thể như 800000 700000 Lac nhan 600000 500000 hoa hoi 400000 che 300000 nhan dieu 200000 Line 5 100000 0 năm 1997 kim ngạch 1hạt997 điều của199 8công là hơn1999 500 nghìn2000 úd thì đến năm 1999 chỉ còn có85 nghìn USD và đến naưm 2000 thì công ty không xuất khẩu được hạt điều , cũng như một số các mặt hàng chủ lực khác của công ty cũng giảm mạnh 56
  57. Như vậy trong thời gian tiếp theo để có được mặt hàng XK ổn định mang lại hiệu quả cao, công ty cần nghiên cứu đưa ra kế hoạch dài hạn có tính chiến lược để thoát khỏi tình trạng hiện nay. Với chủ trương ngày càng mở rộng nghiên cứu thị trường, công ty đã từng bước chuyển hướng sang một số thị trường mới và đã đạt được hiệu quả bước đầu thể hiện qua biểu kim ngạch XK đối với thị trường các nước như sau: Bảng 4: Thị trường XK từ 1998-2000 Đơn vị: USD thị trường 1998 1999 2000 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Singapor 735.393 20,8 540.436 28,3 56.744 0,6 Đài Loan 383.207 10,8 26.564 1,4 871.920 9,5 Indônêsia 537.331 15,2 0 0 84.510 0,92 ấn độ 0 0 43.673 2,3 233.837 2,5 57
  58. Hàn Quốc 238.962 6,8 80.973 4,2 121.023 1,25 Nhật 33320 0,9 137.222 7,2 201.600 2 Malaysia 249.098 7,0 875.358 45,9 57.691 0,72 Hồng Kông 398.510 11,3 13.728 0,7 54.950 1 Trung Quốc 962.341 27,2 191.167 10,0 6844.098 72 (Nguồn: Báo cáo kim ngạch XNK 1997- 2000 của Công ty AGREPORT ) Hiện nay các bạn hàng của công ty bao gồm các nước trong khối ASEAN, Tây Âu và một số nước thuộc Liên Xô cũ. Ngoài ra còn có các nước thuộc khu vực châu á như Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, nhưng khối lượng hàng XK sang các nước này còn rất ít. Do yêu cầu về chất lượng rất cao nên thị trường Tây Âu chủ yếu là thị trường NK. Thị trường khu vực Châu á mà đặt biệt là thị trường các nước ASEAN chiếm một tỷ trọng khá cao, tốc độ gia tăng kim ngạch lớn hơn các thị trường khác. Tuy nhiên tỷ lệ XK sang thị trường này còn thấp, chưa khai thác hết được tiềm năng. Vì vậy trong thời gian tới với chiến lược thị trường đúng đắn công ty sẽ đạt được hiệu quả XNK cao hơn. 1.2,Tình hình kinh doanh NK Công việc NK của công ty phục vụ cho mục đích đáp ứng kịp thời nhu cầu vật tư hàng hoá của đất nước. Những mặt hàng NK của công ty rất đa dạng, trên 80 mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và các nhóm mặt hàng xây dựng. Điển hình một số các mặt hàng qua bảng sau: Bảng 5: Một số mặt hàng NK 1998-2000 Đơn vị: USD ST Nội dung Năm T 1998 1999 2000 Giá trị % Giá trị % Giá trị % 58
  59. 1 Thuốc sâu 2.053.598 14,0 3.146.250 16,0 2.276.672 10,5 2 Phân bón 1.046.540 7,2 2.361.739 12,0 3 Sữa 2.743.731 18,8 2.653.871 13,4 2568.616 23 4 Malt bia 3.251.304 22,2 4.765.000 24,3 11.156.825 10 5 Gạch men 1.720.065 11,8 2.607.080 13,3 212.081 2 6 Lốp xe 606.030 4,1 700.430 3,6 308.799 3,5 7 ống nước 514.124 3,5 623.312 3,2 8 Nguyên liệu 2.683.143 18,4 2.768.415 14,2 371.8154 3,6 (Nguồn: Báo cáo kim ngạch XNK 1997- 2000 của Công ty AGREPORT Như vậy trong những năm qua công ty AGREXPORT Hà Nội đã có sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng XK hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Mặc dù đã đạt được kết quả tốt hơn trong thời gian vừa qua rất đáng khích lệ, song công ty cần phải cân đối lại mặt hàng XK cho cân đối hơn nữa với kim ngạch XNK để đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. 2. Tình hình tài chính của công ty: Do đặc điểm kinh doanh của công ty nên vốn được quy đổi theo đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao là USD, các hàng hoá XNK đều tính theo UAS. Tuy kinh doanh mặt hàng nông sản lợi nhuận thu được không cao lại hay gặp rủi ro, nhưng công ty vẫn bảo toàn và bổ sung được vốn kinh doanh. Bên cạnh việc đánh giá sự huy động và sử dụng vốn chúng ta còn đánh giá khả năng tự đảm bảo và mức độ độc lập về tài chính của công 59
  60. Bảng 6: Các chỉ tiêu tài chính 1998-2000: Chỉ tiêu Giá trị 1998 1999 2000 TSLĐ (1) 125.616 133.734 147.269 Vốn bằng tiền (2) 9.720 11.268 11.639 60
  61. Tổng nợ ngắn hạn (3) 38.340 47.658 60.828 Nguồn vốn chủ sở hữu (4) 1.262 1.799 3.723 Tổng giá trị nộp ngân sách(5) 5.462 15.075 67.786 Tổng nguồn vốn (6) 129.711 139.040 153.246 Tỷ suất thanh toán hiện hành (1:3) 0,0097 0,012 0,024 Tỷ suất thanh toán của VLĐ (2:1) 3,254 2,836 2,421 Tỷ suất thanh toán tức thời (2:3) 0,07 0,08 0,049 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của công ty) Qua kết quả tính toán trên ta thấy số tuyệt đối tài sản lưu động, vốn bằng tiền, nguồn vốn chủ sở hữu tăng dần qua các năm thể hiện kết quả tốt. Tỷ suất tài trợ tăng dần qua các năm 1998 là 0,0097, năm 1998 là 0,013đến năm 2000 là 0,024 chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của công ty ngày càng tăng cao. Tỷ suất thanh toán hiện hành giảm dần tử 3,254 năm 1998 xuống 2,836 năm 1999 và năm 2000 còn 2,421 nhưng tỷ suất này luôn lớn hơn 1 cho thấy công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán các khoản nợ trong vòng 1 năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh. Tỷ suất thanh toán tức thời của công ty giảm dần và đều nhỏ hơn 0,5 kết hợp với chỉ tiêu tỷ suất thanh toán của vốn lưu động nói trên cho thấy công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ trong vòng 1 năm song lại khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ hiện hành vì lượng tiền hiện có rất ít. ở công ty nguồn vốn vay là rất lớn kèm theo đó là các khoản nợ đọng nên tình hình tài chính vẫn trong tình trạng khó khăn. Để hạn chế, công ty nên tích cực thu nợ đưa nhanh vốn vào quay vòng. Năm 1999 tổng kim ngạch XNK đạt 22,249 triệu USD bằng 179,4% kế hoạch, trong đó tự doanh chiếm 52,3% và uỷ thác chiếm 465, tồn kho chếm 1,7%. Kim ngạch NK đạt 19,566 triệu USD chiếm 87,95% tổng kim ngạch XNK và kim ngạch XK đạt 2,683 triệu USD chiếm 12,05% tổng kim ngạch XNK. 61
  62. III. thực trạng xuất khẩu chè ở công ty xuất nhập khẩu nông sản -thực phẩm - hà nộI. 1. quá trình tổ chức và thu mua. 1.1. Công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu chè của công ty của công ty . Công tác nghiên cứu thị trường của công ty được giao cho phong nghiên cứu thị trừơng chuyên trách. Nguồn thông tin về thị trương chủ yếu là các tạp chí và các báo , thông tin trên mạng. Riêng về mặt hàng chè của công có tờ “ Kinh tế và khoa học kỹ thuật chè”- tạp chí ra hai tháng một kỳcủa Hiệp hội chè Việt nam. Ngoài ra công ty cũng có nhiều biện pháp khác như cử cán bộ đi thực tế , nghiên cứu thị trường , thông qua các tham tán thương mại của việt nam ở các nước , thông qua các tổ chức thương mại về chè của thế giới. Công ty cũng có chiến lược về giá với từng thị trương cụ thể như với những thị mới công ty dung chính sách về gí cả để cạnh tranh. Hiên nay công ty là đa dạng hoá các mặt hàng nói chung và mặt hàng chè nói riêng. Theo cả chiều rông và chiều sâu như : Đối với thị trương truyền thống cố gắng phát huy những lợi thế của mình triển khai mắt hàng chề đen và xanh . Đối với thị trường hiện tại công ty có chủ trương giưc vững thị trường này và triển khai những mặt hàng mới có chất lượng cao như chè đen PO 62
  63. Đối với thị trương tiềm năng công ty đề ra mục tiêu trước mặt cần sớm thâm nhập mặt hàng chè xanh có chất lương cao và sau đó là mặt hàng chè đen có chất lượng cao. Tóm lại , thị trừơng chè của công ty trong những năm gần đã có những kết quả đáng mừng. Tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều điểm yếu. 1.2. Nghiên cứu nguồn chè xuất khẩu. a.Tình hình sản xuất khẩu chè trong những năm gần đây. Trong những năm gần đây thị trường thế giới có nhiều biến động. đặc biệt là cuộc khủng hoảng tiền tệ của các nước trong khu vực đông nam á dã làm cho tốc độ tiêu thụ các mặt hàng nông sản giảm xuống với hang nông sản của nước ta cũng giảm xuống theo xu hướng chung của khu vực. Do đó mà tình hình sản xuất hàng nông sản cũng giảm xuống. ở nước ta cây chè được trồng chủ yếu ở ba vùng là trung du mìên núi bắc bộ , tây nguyên và khu bốn cũ. Diện tích canh tác chè của nước ta đứng thứ 9 so với khu châu á thái bình dương . Diện tích canh tác trong những năm gần đây không ngừng tăng trưởng tính đến cuối năm 2000 nứơc ta có khoảng 82 nghìn ha. Số diện tích đó được phân bổ chủ yếu ở 16 tỉnh và ba thành phố. Cụ thể diện tích canh tác chè và sản lượng của một số địa phương chủ yếu của nước ta hiên nay được thể hiên ở biểu sau. Kết quả canh tác chè ở một số tỉnh trong nước năm 2000. 63