Đề tài Thực trạng hoạt động, phương hướng và giải pháp chủ yếu huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Tha nh Trì

doc 66 trang nguyendu 5180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thực trạng hoạt động, phương hướng và giải pháp chủ yếu huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Tha nh Trì", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_thuc_trang_hoat_dong_phuong_huong_va_giai_phap_chu_ye.doc

Nội dung text: Đề tài Thực trạng hoạt động, phương hướng và giải pháp chủ yếu huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Tha nh Trì

  1. ChươngI Kinh tế hộ sản xuất và tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất I. Kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế quốc dân 1. Vai trò của nông nghiệp nông thôn nước ta. Nông nghiệp nông thôn có vị trí hết sức quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Nước ta hơn 80% dân số sống ở nông thôn và hơn 70% lao động trong ngành nông nghiệp, hàng năm nông nghiệp sản xuất ra hơn 40% tổng sản phẩm xã hội và 50% giá trị thu nhập quốc dân. Vai trò của nông nghiệp nông thôn còn thể hiện ở việc xuất khẩu các nông sản có ảnh hưởng đến kim nghạch xuất khẩu với một thế mạnh về điều kiện đất đai, thiên nhiên, thời tiết và khí hậu, nên nông nghiệp nước ta có thể sản xuất ra nhiều nông sản thực phẩm cao cấp góp phần cho xuất khẩu. Tổng sản lượng nông nghiệp kể năm 1990 trở lại đâu tăng đáng kể, trong đó nổi bật nhất là lương thực. Năm 1990 sản lượng lương thực là 21,49 triệu tấn. Năm 1991 sản lượng lương thực là 21,99 triệu tấn Năm 1992 sản lượng lương thực là 24,20 triệu tấn Năm 1993 sản lượng lương thực là 24,50 triệu tấn Năm 1997 sản lượng lương thực là 30,50 triệu tấn, xuất khẩu 3,6 triệu tấn đứng hàng thứ 3 sau Mỹ và Thái lan. Năm 1998 sản lượng lương thực là 31,85 triệu tấn, xuất khẩu 3,8 triệu tấn đứng thứ 2 sau Thái lan. Từ chỗ độc canh cây lương thực tới cơ cấu sản xuất cây nông nghiệp đã chuyển sang kết hợp chăn nuôi, tỷ trọng sản lượng ngành chăn nuôi chiếm gần 30% sản lượng nông nghiệp. Hàng năm, nước ta trồng thêm được 1020 ha rừng tập trung, 400 triệu cây phân tán, khai thác trên 3triệu mét khối gỗ 30triệu xe củi cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó việc đánh bắt và nuôi trông thuỷ sản đều đạt sản lượng cao. Tuy nhiên nền nông nghiệp nước ta vẫn còn nét đặc thù đó là nền nông nghiệp tự cấp mà đại đa số nông dân sản xuất nhỏ là phổ biến, phân công và hợp tác chưa đồng đều. Do đó để có tốc độ phát triển kinh tế
  2. bình quân hàng năm tăng lên thì yêu cầu tỷ trọng vốn đầu tư trong nông nghiệp là cấp bách. 2. Kinh tế hộ sản xuất trong sản xuất nông nghiệp. 2.1. Khái niệm hộ sản xuất. Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Phương thức sản xuất này có những quy luật phát triển riêng của nó và trong mỗi chế độ nó tìm cách thích ứng voứi nền kinh tế hiện hành. Chúng ta có thể xem xét một số quan niệm khác nhau về hộ sản xuất. Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, nhóm người đó bao gồm những người chung huyết tộc và người làm công. Liên hiệp quốc cho rằng: "Hộ là những người cùng sống chung dươcí một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ". Tại cuộc thảo luận quốc tế lần thứ IV về ql nông trại tại Hà Lan năm 1980, đưa ra khái niệm: "Hộ là một đơn vị cơ bản của zh có liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác". Có quan niệm lại cho rằng hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế mà các thành viên dựa trên cơ sở kinh tế chung, các nguồn thu nhập do các thành viên cùng sáng tạo ra và cùng sử dụng chung. Quá trình sản xuất hộ được tiến hành một cách độc lập và các thành viên của hộ thường có cùng huyết thống, thường cùng sống chung trong một ngôi nhà. Hộ cũng là một đơn vị để tổ chức lao động, tồn tại như một đơn vị kinh tế cơ sở với chế độ tự cấp, tự túc, tự sản, tự tiêu. Trên góc độ ngân hàng: "Hộ sản xuất" là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam, hộ được xem như một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung. Một số thuật ngữ khác được dùng để thay thế thuật ngữ "hộ sản xuất" là "hộ", "hộ gia đình". Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước,
  3. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Phụ lục số 1 kèm theo Quyết định 499A ngày 2/9/1993, theo đó khái niệm hộ sản xuất được hiểu như sau: "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình". Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm: hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên, hộ nông, làm trường viên. Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản xuất hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các họ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề nói trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta. 2.2. Đặc điểm của kinh tế hộ sản xuất. Đặc trưng 1: Kinh tế hộ nông thôn nước ta đang chuyển từ kinh tế tự cấp, tự túc khép kín lên dần nền kinh tế hàng hoá. Tiếp cận với thị trường chuyển từ nghề nông thuần tuý sang nền kinh tế đa dạng theo xu hướng chuyên môn hoá. Dưới sự tác động của các quy kụat kinh tế thị trường trong quá trình chuyển hoá tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh và hệ quả sẽ đến sự phân chia giàu nghèo trong nông thôn. Từ đó vấn đề đặt ra đối với quản lý và điều hành phía Nhà nước là phải làm soa cho phép kinh tế hộ phát triển mà vẫn đảm bảo công bằng xã hội, tăng số hộ giàu, giảm hộ nghèo, tạo điều kiện để hộ nghèo bớt khó khăn và vươn lên khá giả. Đặc trưng 2: Quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ chênh lệch nhau khá lớn giữa các vùng và ngay cả trong một số vùng cùng có sự chênh lệch nhau giữa quy mô và diện tích đất đai, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và trình độ hiểu biết giữa các hộ do điều kiện khó khăn và thuận lợi khác nhau giữa các vùng. Một tất yếu khác của sự phát triển kinh tế hộ sản xuất là nảy sinh quá trình tích tụ và tập trung về ruộng đất, vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật ngày càng tăng độ giảm bớt tính chất sản xuất phân tán, manh mún lạc hậu của kinh tế tiểu nông. Đặc trưng 3: Trong quá trình chuyển hoá kinh tế hộ sản xuất sẽ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế khác nhau như: Hộ nhận khoán trong đó các hộ là các thành viên của các tổ chức kinh tế đó. Một loại hình kinh tế hôh khác xuất hiện đó là các hộ nhận khoán nhận thầu. Trong quá trình nhận thầu nhìn chung phần lớn kinh tế các hộ nhận thầu phát triển nhanh thu nhập cao rõ rệt, nhưng bên cạnh đó còn có hộ gặp rủi ro, thất bại.
  4. Một hình thức kinh tế hộ cao hơn đó là kinh tế trang trại. Đây là hình thức phổ biến của các nước phát triển trên thế giới, có tác dụng tạo ra nhiều nông sản hàng hoá. ở nước ta hình thcs này còn ít và ở trình độ thấp ở một số nơi như các vùng kinh tế mới hình thức kinh tế trang trại đã bắt đầu phát triển và mang hiệu quả rõ rệt (cây cà phê, cây điều ). 2.3. Phân loại hộ sản xuất: Các hộ sản xuất dù hoạt động trong lĩnh vực nào của nền kinh tế cũng có những đặc trưng phát triển do bản thân nền sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp quyết định. Hộ sản xuất hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá phụ thuộc rất nhiều vào trình độ sản xuất kinh doanh, khả năng kỹ thuật, quyền làm chủ tư liệu sản xuất và mức độ vốn đầu tư mỗi gia đình. Việc phân loại hộ sản xuất cps căn cứ khoa học sẽ tạo điều kiện để xây dựng các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp nhằm đầu tư phát triển có hiệu quả kinh tế hộ sản xuất. Có nhiều cách phân loại hộ sản xuất khác nhau: 2.3.1. Dựa trên các yết tố tự nhiên. Yếu tố tự nhiên đề cấp đến đây là các đặc trưng địa lý kinh tế, xã hội. Có thể gặp hai kiểu phân loại chính: Một là thành thị - nông thôn; hai là vùng kinh tế. - Hộ sản xuất thành thị và nông thôn: Các hộ được phân công theo địa bàn cư trú tương ứng là thành thị và nông thôn. Nước ta có 80% số hộ nông thôn và 20% hộ thành thị. - Hộ sản xuất theo vùng kinh tế: theo đó nước ta có 7 vùng chính đó là: Miền núi và trung du Bắc Bộ; Đồng bằng Sông Hồng; ven biển Bắc Trung Bộ; ven biển Nam Trung Bộ; Tây Nguyên; Đông Nam Bộ; Đồng bằng Sông Cửu Long. Hoạt động kinh tế hộ sản xuất mang sắc thái và đặc trưng mỗi vùng. 2.3.2. Dựa trên các yếu tố kinh tế. - Đây là hình thức phân loại thường gặp nhất, trong đó bao gồm nhiều dạng phân loại khác nhau. Dựa vào thu nhập có thể chia ra hộ giầu - nghèo; hoặc hộ giầu, hộ khá - hộ trung bình - hộ nghèo. Tuy nhiên, việc tính thu nhập nhất là của người nông dân là điều rất phức tạp. Mặt khác, tiêu chuẩn giầu, nghèo khác nhau giữa các khu vực như thành thị, nông thôn. - Dựa vào mức độ đa dạng hoá sản xuất co thể chia ra: hộ thuần nông, hộ kinh doanh tổng hợp, hppj sản xuất phi nông nghiệp. Từ sự phân hoá trên có thể đưa ra những chính sách kinh tế phù hợp tại điều kiện khuyến khích các hộ phát triển ngành nghề, tăng trưởng sản phẩm hàng hoá.
  5. 2.4. Vai trò của kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. Từ khi Nghị Quyết 10 - Bộ Chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng động trong kinh tế nông thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh tăng vụ, bố trí phân vùng đặc điểm sinh thái và nhu cầu thị trường, khai phá thêm hàng ngàn hecta đất mới, ruộng đất được sử dụng tốt hơn, vừa đi vào thâm canh vừa đi vào đổi mới cơ cấu sản xuất, cơ cấu thời vụ. Việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất để đạt tới mục đích cuối cùng là thu được thành quả lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế, là đơn vị tích vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn. 2.4.1. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá. Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình; tiếp theo là giai đoạn chuyển biến từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ. Kinh tế hộ xs được coi là khâu trung gian có vai trò đặc biệt quan trong trong giai đoạn chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ tạo đà cho bước chuyển từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ tạo đà cho bước chuyển từ kinh tế hàng hoá nhỏ sang nền kinh tế hàng hoá quy mô lớn. Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển. 2.4.2. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn. Lao động là nguồn lực dồi dào nhất ở nước ta, là yếu tố năng động và là động lực quyết định của nền kinh tế quốc dân. Bởi lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc gia. Đặc biệt ở Việt Nam có 80% dân số sống ở mức thấp mặc dù từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế hàng hoá với chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và nhà nước, trong những năm qua số lượng các công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước
  6. ngoài đã tăng lên nhanh chóng, nhưng yêu cầu đối với lao động nông thôn của các doanh nghiệp này đòi hỏi rất cao, do đó rất ít lao động của các doanh nghiệp này đòi hỏi rất cao, do đó rất ít lao động nông thôn có cơ hội làm việc trong các doanh nghiệp này. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 12 triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng chưa được sử dụng hết. Các yếu tố tự nhiên chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự mất cân đối giữa lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn chúng ta cần phải phát triển kinh tế hộ sản xuất. Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nông nghiệp và nông thôn. Mặt khác, so cơ tạo hữu cơ thấp, quy mô sản xuất nhỏ, nên mức đầu tư cho một lao động trong kinh tế hộ sản xuất là thấp. Qua khảo sát Việt Nam cho thấy : - Vốn đầu tư cho hộ sản xuất: 1,5 triệu/1lao động/1 việc làm. - Vốn đầu tư cho 1 công ty tư nhân: 3,5 triệu/1lao động/1 việc làm. - Vốn đầu tư cho kinh tế quốc doanh địa phương: 3,5 triệu/1lao động/1 việc làm. (ở đây chỉ tính vốn đầu tư tài sản cố định) Như vậy, chi phí cho một lao động ở trong hộ sản xuất là ít tốn kém nhất. Điều này đặt trong hoàn cảnh đất nước ta còn là một nước nghèo, vốn tích luỹ ít thì càng khẳng định hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế phù hợp góp phần giải quyêts công ăn việc làm , nâng cao thu nhập cho lực lượng lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn nói riêng. 2.4.3. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất hàng hoá. Ngày nay, hộ sản xuất hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các đơn vị kinh tế nói chung và hộ sản xuất nói riêng đều phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp khác để kích thích cầu từ đó mở rộng sản xuất đôngf thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh hưởng đến tốn kêms về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có các chính sách khuyến khích, hộ sản xuất không ngừng vươn lên tự khẳng định vị trí
  7. trên thị trường, tạo điều kiện cho thị trường phát triển đầy đủ, đa dạng thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hoá. Như vậy với khả năng nhạy bến trước nhu cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn. 2.4.4. Hộ sản xuất thúc đẩy sự phân công lao động dần tới chuên môn hoá, tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi. Kinh tế hộ đã từng bước tạo sự chuyển dịch cơ cấu nông thôn, củng cố quan hệ sản xuất, tăng cường lực lượng sản xuất tạo sự phân công lao động trong nông thôn từ nền sản xuất thuần nông lạc hậu, sản xuất hàng hoá kém phát triển sang sản xuất hàng hoá phát triển hơn. Tự sự phân công lao động dẫn đến quá trình chuyên môn hoá trong các hộ sản xuất. Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ thì sự chuyên môn hoá càng cao thì một yêu cầu tất yếu sẽ xuất hiện, đó là sự hợp tác lao động giữa các hộ sản xuất với nhau. Nếu như chuyên môn hoá làm cho năng xuất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn thì hợp tác hoá sẽ làm cho quá trình sản xuất hàng hoá được hoàn thiện đáp ứng đầy đủ nhu cầu của chính các hộ sản xuất và từ đó đáp ứng nhu cầu thị trường. 2.5. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất. Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân sso sống ở nông thôn, chúng ta tiến hành lên CNXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước ta từng bước có những chủ trương chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển làm nòng cốt cho phát triển kinh tế hộ nông thôn. Những ngày đầu cải tạo XHCN, kinh tế hộ cá thể được coi là mảnh đất hàng ngày hàng giờ đẻ ra CNTB. Do đó nó không được pháp luật thừa nhận, mà trái lại nó còn được coi là đối tượng cải tạo. Sau đó, chúng ta đã nhận thấy trong điều kiện một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trình độ sản xuất thấp, kinh tế hộ cá thể sẽ trở thành nòng cốt để phát triển kinh tế nông thôn. Tháng 01/1981 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán trong nông nghiệp, thực chất là giải phóng (tự do hoá) sức lao động của hàng chục triệu hộ nông dân thoát khỏi sự ràng buoọc của cơ chế tập trung. Đại hộ Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp từ tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phấn. Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ chương, csc
  8. để định hướng nêu trân. Nhờ đó, kinh tế hộ sản xuất dần được đặt vào đúng vị trí của nó. Tháng 4/1988 - Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá một bước quan điểm đổi mới của ĐH VI đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc hình thành và thức đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đây hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế cơ sở ở nông thôn. Sau Nghị định 10 của Bộ Chính trị rồi đến Nghị định 66 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 2/3/1992, cùng luật doanh nghiệp tư nhân NĐ 29 ngày 19/3/1998, luật công ty thì hộ sản xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992: "Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển". Đại hội lần thứ VII của Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế nước ta nói chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng. Tháng 6/1993, tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá VII), Đảng đã ban hàng nghị định TW5, tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản phẩm. Nghị quyết TW5 cùng các văn bản luật, Nghị định của Chính phủ đã tạo hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển. Từ đó phát triển triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII với chủ trương CNH - HĐH đất nước. Nghị quyết TW6 lần một (khoá VIII) với chủ trương "tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, nhất là CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn" đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với các chính sách về các thành phần kinh tế, kinh tế hộ được khuyến khích phát triển "Kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan trọng". II. Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất. 1. Khái niệm tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên
  9. cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như : tina dụng thương mại, tián dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng. Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân khác, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Điều 20 luật các tổ chức tín dụng quy định : "Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng" "Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính. Bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác" Do đặc điểm riêng của mình tín dụng ngân hàng đạt được ưu thế hơn các hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn TDNH có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có. Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín dụng hộ sản xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng ngân hàng giữa một bên ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng vơi ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để đáp ứng điều kiện vay vốn ngân hàng. Đối với ngân hàng, tư khi chuyển hệ thống ngân hàng hai cấp, hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là Nghị định 14/CP ngày 02/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ, thông tư 01 - TD - NH ngày 26/03/1993 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định 14/CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/1999/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, văn bản số 320/CV - NHNN 14 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện quy định trên, văn bản số 791/NHNo - 06 của Tổng giám đốc NHNoVN về thực hiện một số chính sách ngân hàng phụ vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Với các văn bản trên đã mở ra một thị trường mới cho ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho
  10. thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình hình đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất là một yết tố phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi trường xã hội, pháp luật cho phép. 2. Vai trò tín dụng ngân hàng với kinh tế hộ sản xuất. Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp khổng thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu không có vốn. Đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay, thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Nhờ có vốn tín dụng, các đơn vị kinh tế không những đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản xuất, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất. 2.1. Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Nếu như vốn tham gia vào quá trình đầu tư không đem lại hiệu quả sẽ không có sự tăng trưởng thậm chí còn gây sức ép tới lạm phát, tạo ra kết cục trái ngược. Thực tế chó thấy, quá trình sản xuất luôn trải qua những giai đoạn khác nhau, vì vậy các doanh nghiệp nói chung và hộ sản xuất nói riêng có lúc thừa vốn có lúc thiếu vốn. Việc vay bổ sung vốn lưu động sẽ giúp cho quá trình sản xuất được liên tục. Mặt khác, vốn đầu tư từ bên ngoài vào còn giúp cho các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình đổi mới công nghệ nhất là trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước như nước ta hiện nay. Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất với sự chuyên môn hoá sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất chưa thu hoạch sản xuất, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiềnđể trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong những lúc này các hộ sản xuất cần có sự hỗ trợ giúp đỡ của tín dụng ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động,
  11. tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tình thần cho mọi người. Như vậy có thể khẳng định rằng tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn, khu vực nông thôn trở thành một thị trường to lớn của tín dụng ngân hàng. cũng vì thế mà thị phần của các hộ sản xuất trong dư nợ của ngân hàng nông nghiệp càng tăng. 2.2. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trungvốn và tập trung sản xuất. Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vố tập trung sản xuất của tín dụng ngân hàng đã được thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các ngân hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho vay. Bằng cách tập trung vốn vào các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có nghĩa là vốn đã được bổ sung vào đúng chỗ còn thiếu, giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản xuất có hiệu quả hơn, đóng góp cho xã hội nhiều sản phẩm với chất lượng cao thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời ngân hàng cũng đảm bảo tránh được rủi ro tín dụng. Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, ngân hàng phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông. trên cơ sở đó hộ sản xuất phải tập trng vốn như thế nào để sản xuất, góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. 2.3. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao động. Việt Nam là một nước nông nghiệp, có nhiều làng nghề truyền thốg, nhưng chưa được quan tâm đến các ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế đặc biệt trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực của kinh tế hộ. Và tín dụng ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút được số lao động nhàn rỗi giải
  12. quyết việc làm cho người lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở các thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Do đó tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề này phát triển một cách nhịp nhành và đồng bộ. Như vậy, bằng động tác gián tiếp ngân hàng đã kích thích các hộ sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phải hoạch định kinh doanh để tính toán có hiệu quả, giảm cho phí sản xuất hàng hoá, góp phần vào phát triển kinh tế hộ nói riêng và nền kinh tế cả nước nói chung. 2.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị - xã hội: Tín dụng ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội. Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có thu nhập sẽ hạn chế được tiêu cực xã hội. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động thừa ở nông thôn, hạn chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được vấn đề này là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống văn hoá, kinh tế xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thi càng nhích lại gần nhau, hạn chế bợt sự phân hoá bất hợp lý trong xã hội, giữa vững an ninh chính trị. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng thực hiện tốt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở nên khá hơn, hộ khá trở nên hộ giàu. Chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như: rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan, nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng kinh doanh. Qua đây, chúng ta thấy được vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. 3. Giới thiệu một số chính sách tín dụng hộ sản xuất. 3.1. Chính sách của chính phủ và ngân hàng nhà nước đối với tín dụng hộ sản xuất.
  13. Sau hơn 10 năm đổi mới, việc thực thi hàng loạt chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu trên nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới; đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Để phục vụ mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chính sách tín dụng ngân hàng đã và đang thực hiện đổi mới đồng bộ và hữu đáp ứng các yêu cầu mới, tạo bước đột phá trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn nội lực và nguồn bên ngoài. Nhìn lại các chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp - nông thôn có thể nói chính sách tín dụng nhằm tạo động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn luôn là một chính sách quan trong nhất của Đảng và Nhà nước ta. Ngày 26 tháng 8 năm 1991 (Ngày đầu của thời kỳ đổi mới) Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có chỉ thị số 202/CT nêu rõ: "Việc cho vay của ngân hàng để phát triển sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp cần được chuyển sang cho vay trực tiếp đối với hộ sản xuất thuộc các ngành này thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ". Ngày 2/03/1993 trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm sau hơn 1 năm "làm thử" việc chuyển sang cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/CP về "chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn". Đây là bước tiến mới, vì chỉ thị 202/CP chủ yếu chỉ đề cập đến việc chuyển hướng tín dụng ngân hàng sang cho vay trực tiếp hộ sản xuất và triển khai thực hiện như một chương trình thử nghiệm. Ngày 20/03/1999 chính phủ ban hành Quyết định số 67/199/QĐ-TTg về "một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn". Ngày 16 tháng 04 năm 1999 Thống đốc ngân hàng nhà nước có văn bản số 320 CV-NHN 14 hướng dẫn thực hiện một số nội dung trong Nghị định 67 của Chính phủ và giao cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chịu trách nhiệm chủ yếu thực hiện. Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam yêu cầu các chi nhánh ngân hàng thực hiện một số nội dung sau có liên quan tới tín dụng hộ sản xuất. * Về nguồn vốn :
  14. - Các chi nhánh thành viên phải có biện pháp phù hợp để huy động nguồn vốn của các tổ chức kinh tế - xã hội, đoàn thể đã góp phần phục vụ cho phát triển nông nghiệp và nông thôn của địa phương. - Để tranh thủ ngày càng nhiều nguồn vốn từ nước ngoài, các chi nhánh phải thực hiện việc giải ngân đúng cẩm nang và đúng thời gian bảo đảm hiệu quả cao các dự án uỷ thác để tăng tín nhiệm của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đối với Chính phủ và các tổ chức tín dụng nước ngoài. Đối với tín dụng thực hiện các chương trình kinh tế theo chính sách của Đảng, Nhà nước có ưu đãi lãi suất, phải tổ chức tốt khâu thẩm định và giải ngân để nhận toàn bộ nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước chuyển sang Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nôngthôn Việt Nam cho vay các chương trình này. * Về cơ chế tín dụng: Các chi nhánh tổ chức tốt việc điều tra nắm nhu cầu vốn phục vụ cho việc phát triển kinh tế hộ trên địa bàn. * Về cơ chế đảm bảo tiền vay. - Đối với hộ gia đình sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp, mức vay tối đa đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, nhưng mức vay cụ thể phải căn cứ vào nhu cầu vốn hợp lỹ cho từng đối tượng vay và có hiệu quả của dự án sản xuất kinh doanh. Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản, quyền sử dụng đất - Đối với các khoản vay khắc phục thiên tai thì người vay không phải thực hiện quy định đảm bảo tiền vay. Trong trường hợp có rủi ro, các chi nhánh báo cáo cho Thống đốc để trình Thủ tướng chính phủ xem xét giải quyết. * Về mạng lưới phục vụ và giao dịch: - Các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, thành phố phải căn cứ vào địa bàn hoạt động, đối tượng tín dụng, khả năng tài chính, từng bước mở rộng mạng lướu ngân hàng loại IV (xã, liên xã, thị trấn) để đáp ứng yêu cầu và huy động vốn vừa cho vay tạo thuận tiện cho khách hàng, thực hiện giải ngân tại chỗ, trực tiếp đến hộ vay vốn. - Việc uỷ thác cho quỹ tín dụng và các ngân hàng thương mại cổ phần ở nông thôn làm đại lý một số nghiệp vụ tín dụng, chi nhánh phải xem xét đầy đủ khả năng quản lý, tài chính và khả năng thực hiện nghiệp vụ đại lý của tổ chức này và phải có đề án trình Tổng giám đốc xem xét quyết định mới thực hiện. 3.2. Một số quyết định chính sách của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đối với tín dụng đầu tư hộ sản xuất.
  15. - Căn cứ điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam ban hàng kèm theo Quyết định số 390/QĐ - NHNN5 ngày 22 tháng 11 năm 1997 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam. - Căn cứ Quyết định số 284/2000/QĐ - NHNN1 ngày 21/9/2000 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về đối tượng cho vay bằng ngoại tệ của tổ chưchính sách tín dụng. - Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam kỳ họp lần thứ 15. Ban hành kèm theo quyết định này quy định cho vay đối với khách hàng. - Quyết định này (Quyết định số 06/QĐ-HĐQT ngày 18 thời gianáng 01 năm 2001) có hiệu lực kể từ ngày 02 tháng 02 năm 2001 và thay thế các quy định của Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam sau đây: + Quyết định số 180/QĐ/HĐQT ngày 15 tháng 12 năm 1998 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam v/v ban hành cho vay đối với khách hàng. Các văn bản hướng dẫn Quyết định số 180/QĐ/HĐQUá TRìNH của Tổng giám đốc: văn bản số 1110/NHNo-05 ngày 2 tháng 6 năm 1999 về mẫu biểu cho vay theo QĐ 180; văn bản số 2375/NHNo-05 ngày 18 tháng 10 năm 1999 v/v thực hiện Quyết định số 180/QĐ/HĐQUá TRìNH. Trong phạm vi đề tài này chỉ giới thiệu một số quy định việc cho vay bằng đồng Việt Nam của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ đầu tư phát triển và đầu tư phát triển và đời sống của kinh tế hộ sản xuất. * Về đối tượng áp dụng: Hộ gia đình, cá nhân thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp đóng làn trụ sở. Trường hợp hộ chỉ có đăng ký tạm trú thì phải có xác nhận hộ khẩu của nơi thường trú và có xác nhận UBND xã (phường) nơi đến cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh. - Đại diện cho hộ gia đình để giao dịch đối với ngân hàng là chủ hộ hoặc người đại diện phải có đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự. - Đối với hộ nông dân (nông - lâm - ngư - diêm nghiệp) phải được cơ quan có thẩm quyền cho thiê giao quyền sử dụng đất, mặt nước. - Đối với hộ đánh bắt thuỷ sản: Phải có phương tiện đánh bắt và được Cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cho phép đánh bắt.
  16. - Đối với hộ gia đình cá nhân kinh doanh: Phải được cơ quan thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh - Đối với hộ làm kinh tế gia đình và hộ khác phải được UBND xã (phường) xác nhận cho phép sản xuất kinh doanh hoặc làm kinh tế gia đình. Riêng đối với hộ là nông lâm trường phải có xác nhận của Giám đốc nông trường. * Về nguyên tắc vay vốn. - Khách hàng phải đảm bảo: + Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng (mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, phù hợp với chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương, phù hợp với giấy phép kinh doanh với mục đích được giao, thuê, khoán quyền sử dụng mặt nước). + Phải có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. + Phải trả gốc và lãi tiền vay đúng theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Nếu không thực hiện đúng sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và ngân hàng Nông nghiệp có quyền bán tài sản làm đảm bảo theo thoả thuận trong hợp đồng để thu nợ theo quy đinh của pháp luật. + Việc đản bảo tiền vay phải thực hiện theo quy định của Chính phủ, Thống đốc ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn về đảm bảo tiền vay của ngân hàng nông nghiệp đối với khách hàng. - Các ngân hàng nông nghiệp cơ sở phải đảm bảo: + Cho vay các đối tượng là giá trị vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh. + Thoả thuận thời hạn cho vay: Cho vay ngắn hạn được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng tối đa không quá 12 tháng. Cho vay trung và dài hạn được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của ngân hàng nông nghiệp (cho vay trung hạn từ 12 - 60 tháng cho vay dài hạn từ 60 tháng trở lên nhưng không quá hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành bảng hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống). + Thoả thuận lãi suất cho vay cho phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng nông nghiệp tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Trường hợp khản vay bị chuyển sang nợ quá hạn phải áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng.
  17. + Mức cho vay: Ngân hàng phải căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án: mức cho vay tối đa không quá 70% tổng nhu cầu vốn của dự án (đối với cho vay đời sống là không quá 60% tổng nhu cầu) tỷ lẹe cho vay không quá 70% giá trị tài sản làm đảm bảo tiền vay. + Ngân hàng nông nghiệp được miễn giảm tiền vay của khách hàng theo nguyên tắc khách hàng bị tổn thất về tài sản có liên quan đến vốn vay do nguyên nhân - Ngân hàng nông nghiệp không được miễn giảm lãi tiền vay đối với khách hàng thuộc đối tượng quy định tại điểm 1 điều 78 luật của tổ chức tín dụng. + Ngân hàng nông nghiệp có nghĩa vụ thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật. + Ngân hàng nông nghiệp nơi cho có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng nhằm đôn đốc khách hàng thực hiện đầy đủ những cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng phù hợp với đặc điểm hoạt động của chi nhánh và đặc điểm kinh doanh, sử dụng vốn của khách hàng. Tiến hành kiểm tra trước khi cho vay đó là việc thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định. Kiểm tra trong khi cho vay bao gồm: Kiểm tra việc giải ngân theo tốc độ thực hiện dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh. Kiểm tra sau khi cho vay bao gồm: Kiểm tra mục đích sử dụng tiền vay sau khi cho vay, kiểm tra hiệu quả của dự án hoặc phương án, kỉem tra hiện trạng tài sản đảm bảo tiền vay. Sau khi kiểm tra vốn vay nếu có phát hiện khách vi phạm, giám đốc Ngân hàng nông nghiệp cho vay căn cứ vào kết quả kiểm tra tuỳ theo mức độ vi phạm của khách hàng mà quyết định xử lý cho phù hợp và đúng quy định. Tạm ngưng cho vay trong trường hợp khách hàng sử dụng sai mục đích, cung cấp thông tin sai sự thật nhưng đã được khắc phục và sửa chữa. Chấm dứt cho vay trong các trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng đã cam kết nhưng không khắc phục và sửa chữa, khách hàng ngừng sản xuất có thể dẫn đến phá sản. Ngân hàng sẽ tiến hàng khởi kiện trước pháp luật đối với khách hàng vi phạm một trong những điều sau? Vi phạm hợp đồng tín dụng và đã được ngân hàng thông báo nhưng không khắc phục. Có sự quá hạn do nguyên nhân chủ quan nhưng không có biệm pháp để trả nợ nhưng cố tình trốn tránh trả nợ ngân hàng theo thoả thuận, có hành vi lừa đảo, gian lận (thủ tục khởi kiện theo quy định của pháp luật).
  18. II. Đặc điểm huy động vốn và sản xuất vốn tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất. 1. Đặc điểm huy động vốn. Cũng như các doanh nghiệp khác, ngân hàng muốn hoạt động trước hết phải có vốn. Nhưng do những khác biệt trong công tác tổ chức cũng như vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế mà nhu cầu về vốn của ngân hàng rất lớn. Nhu cầu về vốn của ngân hàng được đáp ứng từ những nguồn vốn sau: 1.1. Vốn tự có Nguồn vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ hai bộ phận: * Vốn điều lệ: Là số vốn bán đầu của ngân hàng, là tiêu chuẩn để một ngân hàng thành lập và đi vào hoạt động: Về quy mô thì vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định (vốn do Nhà nước quy định). Tuy nhiên với mỗi loại hình hoạt động khác nhau của từng ngân hàng thì vốn điều lệ cũng có nguồn hình thành khác nhau. Vốn điều lệ nói lên sức mạnh và khả năng hoạt động ban đầu của một ngân hàng. * Vốn tự có bổ sung: Được hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ. Hàng năm ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh của mình mà trích một phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn tự có của ngân hàng. 1.2. Nguồn vốn vay từ trung ương. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại dưới nhiều hình thức như: cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá trị của ngân hàng thương mại. Vốn hình thành từ nguồn này đảm bảo cho khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại. 1.3. Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống. Các ngân hàng thương mại có nhiều chi nhánh nằm trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn xuất hiện tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn đối với các chi nhánh trong cùng một hệ thống. Sở dĩ xuất hiện tình trạng này là do trên mỗi địa bàn có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, do đó nó tác động đến nguồn vốn và khả năng sử dụng của từng chi nhánh. 1.4. Nguồn vốn huy động. Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của một ngân hàng thương mại. Nguồn vốn huy động có nhiều hình thức khác nhau. 1.4.1. Các khoản tiền gửi của khách hàng.
  19. a. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Đây là một trong những khoản tiền lớn gửi ngân hàng. Việc phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư có thể theo nhiều tiêu thức khác nhau, thông thường là theo thời gian: * Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào. Do thời hạn rút tiền không được ấn định trước nên khách hàng phải chấp nhận một tỷ lệ lãi suất thấp hơn so với hình thức tiền gửi có kỳ hạn. * Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Đây là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ có thể rút tiền theo thời hạn đã được thoả thuận giữa ngân hàng với khách hàng. b. Tiền ký gửi. Đây là khoản tiền mà khách hàng đem ký gửi vào ngân hàng. Việc sử dụng các khoản tiền ký gửi được thực hiện theo những thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. * Tiền ký gửi không kỳ hạn: Là các khoản tiền gửi mà người gửi có quyền rút ra bất kỳ lúc nào họ muốn. Đối với loại này tuỳ theo quy định của từng quốc gia mà không được phép tính lãi hoặc lãi thấp. * Tiền gử i có kỳ hạn: Với khoản tiền gửi này, NH chỉ phải hoàn trả số tiền ký gửi vào ngày đến hạn ghi trên hợp đồng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn có dạng như một khoản tiền vay của ngân hàng. 1.4.2. Nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính, tín dụng. Các NHTM có thể thu hút vốn bằng cách vay ở các tổ chức tài chính tín dụng. Đối với những NHTM ở các nước phát triển có quan hệ rộng khắp thì nguồn vốn vay là một nguồn vốn vay thường xuyên và khá quan trọng. Nguồn vốn vay mượn này đã trở thành một nguồn vốn quan trọng hơn đối với các ngân hàng trong những năm qua. Trong hoạt động quan hệ quốc tế, việc vay mượn từ các tổ chức tín dụng quốc tế cũng cung cấp cho ngân hàng những nguồn vốn quan trọng. 1.4.3. Các hình thức huy động vốn khác. Bên cạnh những hình thức huy động vốn nói trên, ngân hàng còn thực hiện việc huy động vốn thông qua việc phát hành tín phiếu ngân hàng, tín phiếu cầm cố Thông thường đối với những hình thức này thường lãi suất cao hơn so với các loại hình tiền gửi tiết kiệm và các loại hình được huy động vốn theo từng sáng kiến của mỗi (khách hàng) ngân hàng. Với các hình thức này, ngân hàng chủ động về
  20. mặt thời hạn hoàn trả do đó có thể sử dụng cho vay theo những nhu cầu hiện tại của mình. 2. Đặc điểm sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng đối với hộ sản xuất. Đây là thành phần quan trọng nhất trong danh mục các khoản sử dụng vốn của ngân hàng. Hoạt động sinh lợi của các ngân hàng là hoạt động tín dụng. Các khoản mục tín dụng có thể đcượ phân loại theo nhiều cách: Mục đích, hình thức bảo đảm (nếu có), kỳ hạn, phương pháp hoàn trả và nguồn gốc khách hàng * Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng có thể chia thành các khoản mục như sau: - Nông nghiệp: + Cho vay trồng trọt. + Cho vay chăn nuôi. - CN - TTCN - TM - DV - Phát triển ngành nghề. - Mục đích khác. * Căn cứ theo hình thức đảm bảo thì khoản mục tín dụng được phân chia thành: - Cho vay có đảm bảo. - Cho vay không có đảm bảo. * Căn cứ theo kỳ hạn có: - Cho vay ngắn hạn. - Cho vay trung hạn. - Cho vay dài hạn. Những quy định về kỳ hạn của các khoản mục cho vay được quy định theo điều luật của từng quốc gia. * Căn cứ theo phương pháp hoàn trả có: - Các khoản vay hoàn trả một lần. - Các khoản vay hoàn trả nhiều lần. Chúng ta sẽ phân tích một số khoản mục quan trọng. 2.1. Cho vay có đảm bảo. Cho vay có đảm bảo là hoạt động quan trọng của ngân hàng, nó biểu hiện việc ngân hàng cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó. Vật thế chấp có
  21. thể bao gồm nhiều loại khác nhau như: bất động sản, biên nhận ký gửi hàng hoá, máy móc thiết bị, nhà máy, cổ phiếu, yêu cầu cơ bản của những vật thế chấp là có thể bán được. Lý do thực tế đòi hỏi một khoản cho vay phải được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để ngân hàng giảm bớt rủi ro, mất mát trong trường hợp người vay không muốn hoặc không thể trả nợ khi đến hạn thanh toán với ngân hàng. Sự đảm bảo là yêu cầu phải có đối với các khoản vay vì một trong những lý do đó chính là sự yếu kém về mặt tài chính của người vay. Sự yếu kém này có thể được biểu hiện thông qua một vài yếu tố, bao gồm: nợ nần chồng chất, quản lý yếu kém và lợi nhuận thấp. Người trong điều kiện thế chấp như vậy có thể tạo uy tín bằng việc thế chấp các tích sản. Khi người vay đem cầm cố các tích sản mang quyền sở hữu của mình thì hộ sẽ có ý hoàn trả nợ. Kỳ hạn của mỗi khoản vay cũng ảnh hưởng đến việc khoản vay đó có cần được bảo đảm hay không. Khi kỳ hạn cho vay dài, rủi ro trong việc hoàn trả tăng lên thì các khoản vay càng cần có sự đảm bảo. 2.2. Cho vay không đảm bảo. Khác với cho vay có đảm bảo, cho vay không bảo đảm được dựa trên hình thức tài chính của người vay, lợi tức có thể thu được trong tương lai, ý thức trả nợ trong quan hệ với ngân hàng trước đây, tín nhiệm của ngân hàng đối với người vay. Trong hoạt động của ngân hàng có một số khoản vay chủ yếu thì trong nhiều trường hợp họ được hưởng lãi suất ưu đãi và không cần có bảo đảm cho khoản vay. Những công ty ấy thường là có danh tiếng trên thị trường, có phương cách quản lý hiệu quả, có các sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, có lợi nhuận ổn định và có một khả năng tài chính vững mạnh. Họ sẵn sàng cung cấp cho ngân hàng các báo cáo tài chính của công ty để ngân hàng nắm rõ tình hình tài chính, sự tiến bộ của họ và có thể đáp ứng các món cho vay không đảm bảo. Các doanh nghiệp không phải là khách hàng duy nhất của ngân hàng được cho vay trên cơ sở không cần đảm bảo, nhiều cá nhân cũng được hưởng đặc quyền này. Những người có nhà riêng, có công ăn việc làm ổn định, làm việc trong các công sở có thu nhập ổn định, có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng với ngân hàng trước đó cũng sẽ được vay không cần bảo đảm. 2.3. Cho vay hoàn trả một lần. Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay thẳng, nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả vốn một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng. Những khoản lãi có thể được trả vào từng thời điểm nhất định hoặc trả khi đáo hạn. Đối với khoản vay này việc hoàn trả khi đáo hạn trở thành một gánh nặng đối
  22. với khách hàng. Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay ngắn hạn. 2.4. Cho vay hoàn trả làm nhiều lần. Cho vay hoàn trả nhiều lần đòi hỏi việc hoàn trả theo những thời điểm nhất định. Cho vay hoàn trả nhiều lần được thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng tín dụng. Nhờ vậy việc hoàn trả không trở thành gánh nặng lớn đối với người vay như trong trường hợp toàn bộ khoản vay phải được trả một làan. Đối với nhiều người các khoản cho vay hoàn trả nhiều lần ví như các khoản trả góp, đóng vai trò như một phương tiện tích luỹ. Các khoản trả góp đóng vai trò quan trọng trong việc tăng mức tiết kiệm của người dân và làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. 2.5. Cho vay ngắn hạn. Các khoản cho vay ngắn hạn có kỳ hạn là một năm hoặc thấp hơn. Cho vay ngắn hạn được thực hiện một thời gian nhất định dưới một năm hoặc trên cơ sở theo yêu cầu (đã đươcj thoả thuận trước với ngân hàng). Cho vay theo yêu cầu là khoản cho vay không có kỳ hạn nhất định và ngân hàng phải đáp ứng khi khách hàng phát sinh nhu cầu vay vào bất cứ thời điểm nào. Cho vay theo yêu cầu, người vay có được vị thế rất linh hoạt và cóthể trả nợ trong một thời gian rất ngắn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.6. Cho vay trung và dài hạn. Thời hạn cho các khoản vay trung và dài hạn tuỳ thuộc vào quy định của từng quốc gia. Theo quy định của nước ta, những khoản vốn vay từ 1 đến 3 năm được coi là trung hạn, từ 3 năm trở lên được coi là dài hạn. Những khoản cho vay này thường có giá trị lớn và khách hàng được vay với mục đích dùng để đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cấp tài sản cố định. Khách hàng thường ưa chuộng những khoản tín dụng trung hạn và dài hạn vì một số lý do: Thứ nhất, khách hàng có thể yên tâm về thời gian sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh. Trong thời gian ngắn việc sử dụng vốn phục vụ cho mở rộng sản xuất kinh doanh để mang lại lợi nhuận thường gặp khó khăn. Do đó muốn phát triển kinh doanh cần có những nguồn vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư cho sản xuất. Thứ hai, các khoản vay trung hạn và dài hạn thường thuận tiện hơn các khoản vay ngắn hạn, doanh nghiệp khong phải hoàn trả toàn bộ khoản vay một lần, thay vào đó các khoản trả nợ được hoàn trả theo phương pháp trả nhiều
  23. lần trong thời gian khoản vay được thực hiện. Thứ ba, các vay trung và dài hạn dễ dàng thực hiện hơn so với các hình thức tài trợ khác như phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu mới Vốn trung và dài hạn là mọt nhu cầu cấp thiết đối với việc đẩy mạnh sự tăng trưởng của nền kinh tế tại những quốc gia đang phát triển. IV. Đặc điểm sử dụng vốn của hộ sản xuất. Người dân ở nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng họ chủ yếu sống bằng nghề nông là chính, mà nông nghiệp lại phụ thuộc và điều kiện tự nhiên. Thiên nhiên ngoài mặt tích cực là mang lại thuận lợi cho sản xuất, nó vẫn còn mang lại không ít khó khăn, sản xuất thường gặp nhiều rủi ro như mưa nắng, lũ lụt, sâu bệnh Vì vậy việc sử dụng vốn tín dụng cũng có dễ xảy ra rủi ro, nhiều khi đầu tư bị mất trắng không có khả năng hoàn trả. Thu nhập của các hộ sản xuất nói chung là thấp, đời sống của họ còn nhiều khó khăn. Vì vậy vốn tín dụng còn có hiện tượng sử dụng sai mục đích. Có trường hợp vốn cung cấp không được đầu tư vào sản xuất, mà dùng vào mua sắm hoặc đánh bạc nên làm cho đồng vốn phát huy tác dụng kém. Đối tượng vay vốn là các hộ gia đình, nên món vay thường nhỏ. Vì vậy thủ tục cần đơn giản, gọn nhẹ tránh để người dân đi lại nhiều gây lãnh phí thời gian và tiền của của người dân dẫn đến chi phí cho một đồng vốn vay khá cao. Đối tượng sản xuất của các hộ sản xuất chủ yếu là cây trồng, con vật nuôi nó có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Vì vậy việc sử dụng vốn phải phù hợp với từng loại cây trồng, từng loại vật nuôi. Vốn đầu tư phải được sử dụng đúng lúc, đúng thời gian mới mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp đã làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển vốn chậm chạp. Vì vậy cần thiết phải có lượng vốn dự trữ đáng kể trong thời gian dài cho nên hiệu quả sử dụng vốn không cao. Mặt khác hộ sản xuất còn có các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nên việc sử dụng vốn cũng có một phần hiệu quả hơn. * Đặc điểm sử dụng vốn tín dụng ở hộ sản xuất ngoại thành. - Tốc độ đô thị hoá nhanh, do đó hầu hết các huyện ngoại thành đều bị thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Để tạo công ăn việc làm cho người dân nông thôn, không còn có cách nào khác là phải phát triển nhiều ngành nghề, đó là cách sử dụng vốn hợp lý nhất, có hiệu quả nhất nhằm phát triển kinh tế nông thôn.
  24. - Trình độ thâm canh của nông dân vùng ngoại thành tương đối cao, do đó họ luân giao cây trồng những cây có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu thị trường. Từ đó tạo điều kiện phát triển sản xuất, như vậy việc sử dụng vốn cũng có hiệu quả hơn. - Trình độ dân trí cao hơn so với nơi khác, quan hệ hàng hoá tiền tệ cũng biểu hiển rõ nét hơn. Họ mạnh dạn vay vốn đầu tư vào sản xuất khi cần thiết, khi đến hạn trả sòng phẳng, việc sử dụng vốn thường có hiệu quả hơn nơi khác. V. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về đầu tư tín dụng để phát triển kinh tế nông thôn. Do nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế quốc dân, nhiều nước trên thế giới nhất là các nước nông nghiệp trong khu vực Đông Nam á đã rất coi trọng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Kinh nghiệm của một số nước sau đây về vấn đề này cần được nghiên cứu và tham khảo. Thứ nhất: Ngân hàng nhân dân Indonesia Ngân hàng nhân dân Indonesia (BRI) là ngân hàng thương mại thuộc quyền hữu chính phủ song hoạt động như một ngân hàng thương mại độc lập. BRI hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo những nguyên tắc, quy chế được soạn thảo trên cơ sở các chuẩn mực kế toán quốc tê. BRI có bốn lĩnh vực hoạt động chính. Một trong bốn lĩnh vực này là hoạt động ngân hàng vi mô do hệ thống ngân hàng đơn vị BRI đảm nhiệm và hệ thống này chịu trách nhiệm cung cấp các sản phẩm tiết kiệm và tín dụng cho cộng đồng dân cư ở nông thôn. mạng lưới rộng lớn với 3-703 đơn vị ở khu vực nông thôn là một trong những hệ thống lớn nhất của hệ thống ngân hàng đơn vị. BRI có một số lượng rất hạn chế các sản phẩm tín dụng. Điều này giúp khách hàng hiểu một cách dễ dàng về các sản phẩm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao trình độ cán bộ song song với việc nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng. Các đặc tính chủ yếu của các sản phẩm không thay đổi theo thời gian. Tóm lại đơn giản hoá là một trong những nguyên tắc quản lý của BRI. BRI không cho vay nhóm nhưng trong các sản phẩm tín dụng đều được lồng ghép bởi một "hệ thống khuyến khích hoàn trả nhanh chóng" nằm khuyến khích khách hàng vay vốn hoàn trả đúng hạn. BRI đặt ra các mức lãi suất cho vay khác nhau phụ thuộc vào việc thanh toán đúng hạn. Khách hàng
  25. khi vay thực tế phải chịu một lãi suất cố định hàng tháng trong đó bao gồm 255 số tiền lãi đã thu là lãi phạt. Nếu trả nợ khách hàng sẽ đợc hoàn lại một số lãi phạt đã thanh toán cho ngân hàng. Mặc dù nguyện vọng được vay những lần tiếp theo là yếu tố chủ yếu khuyến khích người vay trả nợ nhưng "hệ thống khuyến khích" đã tạo ra một động cơ rất mạnh mẽ để người vay than toán nợ khi đến hạn. Tính hiệu quả của phương pháp này đực thể hiện bởi tỷ lệ quá hạn là 5,77% và tỷ lệ thất thoát vốn dài hạn là 2,6%. BRI chỉ cho vay đối với khách hàng có thể chứng minh được mình đã có 3 năm hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tất cả các khoản vay đều phải có tài san thế chấp mặc dù việt phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ rất hiếm khi xảy ra. Ngân hàng xem tài sản thếp chấp chỉ là một chỉ số đánh giá tính nghiêm túc của mục đích vay vốn của khách hàng. Quá trình chấp thuận khoản vay và kiểm soát khoản vay nhất là với những khách hang vay lần đầu rất được ngân hàng chú trọng. Việc tới thăm các khách hàng tại nhà trước và sau khi cho vay là bắt buộc đối với cán bộ tín dụng. Đối với khách hàng xin vay vốn lần thứ hai thì mức độ chi tiết tại các lần thăm thực tế sẽ thấp hơn. Thứ hai: Ngân hàng phát triển nông nghiệp Thái Lan (BAAC) * Tổ chức nguồn vốn. Mục tiêu hoạt động chính của B.A.A.C là trợ cấp cho nông dân thông qua đầu tư vốn tín dụng. Vì vậy B.A.A.C có các nguồn vốn ưu đãi sau đây: - Ngân hàng trung ương trợ cấp cho B A.A.C bằng hình thức cho vay không lãi (trên thực tế lãi suất từ 1 - 3%/năm nhưng do ngân sách trả). - Hàng năm chính phủ có chỉ tiêu bắt buộc các ngân hàng thương mại phải cho vay đối với nông nghiẹe. Nếu ngân hàng thương mại không cho vay hết chỉ tiêu bắt buộc đó thì phải gửi số còn lại vào ngân hàng phát triển nông nghiệp. - Ngân hàng trung ương bảo lãnh cho ngân hàng phát triển nông nghiệp vay vốn nước ngoài. - Trong hoạt động B.A.A.C được miễn ký quỹ bắt buộc. * Tổ chức cho vay. - Đối tượng được vay vốn phát triển nông nghiệp Thái Lan gồm: + Hộ nông dân cá thể.
  26. + Các hiệp hội nông dân Thái Lan. * Loại cho vay: B.A.A.C áp dụng cả 2 loại cho vay đối với hộ nông dân. - Cho vay ngắn hạn dưới 1 năm. - Cho vay trung và dài hạn từ 1 - 5 năm. * Phương thức cho vay. - Cho vay bằng tiền mặt. - Cho vay bằng hiện vật như: máy móc nông nghiệp, công cụ lao động, phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng vật nuôi. * Điều kiện vay vốn. - Nông dân có thu nhập dưới 10.000 Bath/năm (khoảng 400 USD/năm). - Nông dân có ít ruộng đất thấp hơn mức ruộng đất trung bình trong khu vực). - Tuổi đời từ 20 trở lên, không mắc bệnh thần kinh. - Có kiến thức về sản xuất nông nghiệp và phải sống ít nhất 1 năm ở địa phương đó. - Để đảm bảo khả năng hoàn trả vốn nông dân đực tổ chức thành từng nhóm cam kết cùng chịu trách nhiệm về các khoản tiền vay ngân hàng. Mỗi nhóm có từ 15 - 25 người. Mỗi hộ nông dân được vay tối đa là 60.000 Bath. Người vay không cần tài sản thế chấp mà thực hiện tín chấp qua nhóm nông dân. Trong từng trường hợp có hộ nông dân nghèo không trả được nợ, ngân hàng sẽ áp dụng các biện pháp phù hợp với nguyên nhân của nó như: - Nếu do nguyên nhân khách quan ngân hàng cho gia hạn nợ. - Nếu do nguyên nhân chủ quan ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn và yếu cầu nhóm trả thay. Nếu một nhóm có trên hai người không trả được nợ thì ngân hàng huỷ hợp đồng với cả nhóm và khởi tố người vay. - Nếu do nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh cán bộ tín dụng sẽ đến ngay hiện trường lập biên bản và đề nghị Nhà nước có chính sách xử lý thoả đáng. - Lãi suất cho vay đối với hộ nông dân nghèo của B.A.A.C thấp hơn so với lãi suất cho vay các đối tượng khác. hiện nay B.A.A.C đang cho hộ nông
  27. dân nghèo vay với lãi suất 8%/năm, trong khi lãi suất cho vay thông thường là 12%/năm. * Một số nhận xét rút ra từ những kinh nghiệm của các nước trên thế giới về đầu tư tín dụng phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm hoạt động đầu tư tín dụng để phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở một số nước trên ta có thể rút ra một số nhận xét sau: - Hầu hết các nước trong khu vực đều có hệ thống ngân hàng phục vụ cho nông nghiệp riêng, tạo điều kiện phục vụ tốt cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn. - Lãi suất cho vay đối với nông nghiệp nông thôn đều thấp hơn lãi suất trung bình so với các đối tượng khác. - Ngân hàng nông nghiệp ngoài đầu tư trực tiếp cho nông dân còn đầu tư gián tiếp cho nông dân qua tổ tín dụng, tổ chức tài chính ở nông thôn. - Quy chế cho vay nhìn chung có tiêu chuẩn xác định rõ ràng đối với từng đối tượng vay vốn, cho vay cả ngắn hạn và trung dài hạn. Đối với việc cho hộ sản xuất vay vốn không yêu cầu thế chấp tài sản, đều áp dụng các hình thức cho vay trực tiếp và gián tiếp (thông qua hợp tác xã tín dụng, tổ chức tài chính nông thôn), thành lập các tổ nhóm liên doanh, liên đới chịu trách nhiệm, ngân hàng thông qua đó để cho vay trên cơ sở tín chấp. - Đối tượng vay vốn chủ yếu ở nông thông là hộ nông dân trong đó đặc biệt quan tâm đến hộ nông dân nghèo. - Thủ tục cho vay cũng thường xuyên thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của bà con nông dân.
  28. Chương II Thực trạng huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì I. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng hộ sản xuất của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. 1. Vài nét về đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội của huyện Thanh Trì có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng. 1.1. Vị trí địa lý. Thanh Trì là huyện ngoại thành cửa ngõ phía Nam thủ đô Hà Nội, trên đường trục quốc lộ 1A. Phía Bắc và Tây Bắc giáp quận Hai Bà Trưng và quận Đống Đa. Phía Nam, Tây nam giáp tỉnh Hà Tây (Thị xã Hà Đông và Huyện Thường Tín). Phía Đông và Đông Nam giáp huyện Gia Lâm với rang giới tệ nhiên là sông Hồng. Toạ độ địa lý của Thanh Trì từ 20050 đến 21000 vĩ độ Bắc và từ 105045 đến 10056 kinh độ Đông. Chiều dài Bắc Nam tương ứng với chiều dài Đông sang Tây vào khoảng 100 Km. Có tổng diện tự nhiên 9988,54 ha. 1.2. Về nguồn nước: Thanh Trì có 6 con sông chảy qua, trong đó có hai con sông lớn, đó là sông Hồng và sông Nhuệ. Riêng sông Hồng hàng năm bồi đắp phù sa cho khoảng 800 ha, đồng thời còn có khả năng cho hàng vạn m3 cát. Và sông Nhuệ là con sông tiêu nước chính của huyện cùng với 4 sông là: Sông Lừ, sông Sét, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu từ nội thành chảy ra. Hàng năm 4 nhánh sông này vận chuyển khoảng 100 triệu m3 nước thải của nội thành chảy ra, đây là mặt thuận lợi để phát triển chăn nuôi cá của Thanh Trì. Tuy nhiên lượng nước thải ở đô thị dồn về Thanh Trì chưa qua xử lý cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết để phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững. 1.3. Địa hình và đất đai của huyện. Thanh Trì là vùng đồng bằng trũng, có cao độ trung bình 4-4,5 m. Cao nhất là 6,5 m, thấp nhất là 2,5 - 2,8 m được xếp vào vùng ô trũng ven đô của đồng bằng sông Hồng. Địa hình biến đổi phức tạp nghiêng và dốc từ Tây Bắc
  29. xuống Đông Nam, hình thành những vùng trũng cục bộ liên tiếp. Khu vực ngoài đê gồm 4 xã ven sông Hồng, thổ cư là sống đất bồi cao nằm giữa đê và lòng sông cao khoảng 8 - 9,5 m, đồng bãi có cao độ 7 - 7,5m nhiều đầm hồ chạy dài theo chân đê giữa được nước khi sông cạn. Phần trong đê gồm 21 xã và một thị trấn (Văn Điển) bị chia cắt bởi ba trục đường đê sông Hồng, quốc lộ 1A, đường sông Tô Lịch, các trục đường cao ngang Pháp Văn - Yên Sở, Văn Điển - Đồng Chì, đường 70A và các con sông tiêu nước chảy của thành phố. Đất đai chủ yếu được kiến tạo trên đất phù sa cổ 80% là đất thịt nặng, còn lại là cát phù sa sông Hồng bồi đắp hàng năm. Về độ dày của đất trên 1 m, độ dốc dưới 1506 và không bị nhiễm mặn đều đạt 100% diện tích đất canh tác. Có 486 ha (chiếm 11% đất canh tác) thuộc đất có độ phì nhiêu trung bình, số còn lại thuộc loại đất tốt. Chân đất thịt năng hay sét có 2021 ha (chiếm 46,2%0 đất khó tưới 884 ha (chiếm 20,2%) đất bị ngập dài ngày 1.119 ha (chiếm 27,4%). Đất đai của huyện Thanh Trì chủ yếu là đất bãi, đất đồng có độ phì nhiêu cao phù hợp với phát triển, trồng lúa, rau, màu hoa Do hiểu rõ chất đất trong những năm gần đây người dân trong huyện đã bước chuyển hướng cây trồng có giá trị cao gấp 5 - 10 lần cây lúa. Về mặt sông ngòi, trên địa bàn có 6 con sông chảy qua, trong đó có 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Nhuệ. Qua sự phân tích ở trên ta thấy đất đai, sông ngòi huyện Thanh Trì thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, nhưng phải chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích hợp sao cho đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân và tận dụng hết lượng lao động dư thừa. 1.4. Điều kiện thời tiết khí hậu: Huyện Thanh Trì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa có hai mùa nóng lạnh rõ rệt. Có mùa đông lạnh từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau. Nhiệt độ bình quân năm là 23,40C, tháng 6 nóng nhất với nhiệt độ bình quân 290C, ngày nóng nhất là 42,80C. Ngoài ra lạnh tập trung vào tháng 12 -1. Độ ẩm bình quân năm 85%, tháng 3 có độ ẩm cao nhất 89% tháng 11, 12 có độ ẩm thấp nhất 81%.
  30. Lượng mưa hàng năm thường từ 170 đến 2000 ly. Trung bình có 142 ngày mưa trong năm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 9 với 1.420 ly bằng 79% lượng mưa cả năm. Năm mưa nhiều, mưa dồn dập vào tháng 7, 8, 9 theo quy luật gây ngập úng 67% diện tích lúa mùa, tháng 12 hầu như không có mưa. Số ngày nắng cả năm của Thanh Trì là 220 ngày với khoảng 1.640 giờ/năm. Tháng 1, 2, 3 ít nắng nhất chỉ có 1,3 - 1,4 giờ/ngày. Các tháng này có tác dụng tích cực cho thời kỳ làm dòng phơi màu của lúa. 1.5. Phân vùng kinh tế: Dưới tác động của các yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội trên phạm vi huyện đã hình thành 4 vùng kinh tế đặc thù thể hiện. Vùng 1: Là các xã ven đô như: Vĩnh Tuy, Thanh Liệt, Định Công với phương hướng sản xuất là rau màu, thực phẩm chăn nuôi lợn, gia cầm và phát triển dịch vụ. Những năm gần đây đang phát triển mạnh sang trồng rau cao cấp, hoa và cây cảnh, các ngành dịch vụ. Vùng 2: Là vùng đất giữa các xã như: Hoàng Liệt, Yên Sở, Đại Kim, Từ Hiệp với lợi thế nhiều đầm ao và đầu nguồn nước thải nên thuận lợi cho việc phát triển nghề thuỷ sản. Vùng 3: Là các xã vùng phía nam của huyện như: Vĩnh Quỳnh, Đại ánh, Thanh Liệt, Tả Thanh Oai Phương hướng sản xuất chủ yếu là cây lương thực, chăn nuôi lợn, gia cầm và phát triển một số ngành dịch vụ. Vùng 4: Là vùng đất bãi gồm các xã Vạn Phúc, Yên Mỹ, Lĩnh nam, Ngũ Hiệp Phương hướng sản xuất chủ yếu là rau, cây lương thực kết hợp chăn nuôi gia súc gia cầm. Nghề nuôi cá lồng trên sông, nuôi bò sữa có xu hướng phát triển. 1.6. Tình hình phát triển kinh tế của huyện. Với số dân là 234.439 người trong đó tỷ lệ hộ giàu chiếm 25%, tỷ lệ nghèo 0,75% (chiếm 395 hộ). Kinh tế của huyện ổn định và tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm đạt 10,4%. Tổng giá trị sản xuất năm 2000 ước đạt 325.370 triệu đồng. Tăng trưởng nông nghiệp bình quân mỗi năm đạt 7,4%. Năm 1996, nông nghiệp chiếm 55,75% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN - TTCN) chiếm 30,32%, thương mại dịch
  31. vụ (TM - DV) chiếm 13,93% . Đến năm 2000, nông nghiệp chiếm 52,7% tổng giá trị sản xuất, CN - TTCN chiếm 33,1%, TMDV chiếm 14,20%. * Về sản xuất nông nghiệp: trong sản xuất nông nghiệp, nhìn chung tỷ trọng trồng trọt có xu hướng giảm, từ 58,47% năm 1996 giảm xuống còn 47,93% năm 2000. Tỷ trọng chăn nuôi tăng dần, từ 41,53% năm 1996 tăng lên 52,07% năm 2000. Giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm tăng, do các dộ nông dân đã tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để đưa cây con có chất lượng năng suất và giá trị kinh tế cao và sản xuất theo hướng hàng hoá. Đã đưa giống ngô lai có năng suất cao vào sản xuất, chuyển đổi 100ha trồng câu lương thực sang trồng rau muống đạt giá rtị kinh tế cao. Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 171.180 triệu đông năm 2000 tăng 5,7% so với năm 1999, đạt 83,86% kế hoạch. - Đối với trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng 8.172 ha sản lượng lương thực quy thóc đạt 26.399 tấn, diện tích trồng màu tăng 67 ha, diện tích cây thực phẩm tăng 174 ha, diện tích trồng lúa giảm 152 ha. - Đối với chăn nuôi: Tình hình chăn nuôi của huyện vẫn ổn định và phát triển. Phát triển lợn theo hướng nạc, mở rộng chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm (nhất là đàn vịt siêu thịt, gà Tam hoàng, ngan Pháp vịt siêu thịt). - Nuôi trồng thuỷ sản: Diện tích thả cá được tăng lên trong 5 năm, đã chuyển đổi được 180 ha sang nuôi 1 vụ cá, cấy một vụ lúa. Diện tích nuôi thả cá là 1031,9 ha năm 2000, sản lượng cá đạt 3.600 tấn. Tuy nhiên tốc độ sản xuất trong nông nghiệp chưa đều có năm tăng cao 12,18%, có năm lại xuống thấp 1,56%. Từ những phân tích tình hình đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội ở trên ta thấy có nhiều ảnh hưởng thuận lợi cũng như khó khắn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì nói chung và hoạt động tín dụng hộ sản xuất nói riêng. Thuận lợi: Thanh Trì là một huyện giáp ranh thủ đô có lợi thế về cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hơn nữa huyện tập chung nhiều làng nghề với nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nổi tiếng đang được khôi phục và phát triển. Đây là những điều kiện thuận lợi để ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả.
  32. Có cấu kinh tế thay đổi theo hướng tích cực, cơ cấu nông nghiệp có xu hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. Một số ngành có điều kiện phát triển huy tiềm năng đã mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đây là yếu tố cơ bản tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động vay vốn của ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số khó khăn như: Thiên nhiên không ưu đãi, hạn hán kéo dài, cây con bị dịch bệnh, nạn chuột phá hoại mùa màng gây hậu quả và làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp trên địa bàn. Nền kinh tế chậm phát triển, do ảnh hưởng của tài chính tiền tệ khu vực cũng gây nên nhiều bất lợi cho nền kinh tế của nước ta và cũng có tác động trực tiếp trên địa bàn huyện, ngoại tệ mạnh có lúc đột biến bất thường, tình hình sản xuất đình đốn khó khăn, sản phẩm tiêu thụ chậm, sản phẩm tồn kho. Tình hình quản lý xuất nhập khẩu, chống gian lận thương mại kém hiệu quả, nên nhiều hàng hoá nhập lậu tràn vào cả nước nói chung và trên địa bàn Hà Nội nói riêng, mặt khác tên nạn xã hội ngày càng phát triển đã gây nhiều khó khăn, cản trở trực tiếp sức sản xuất, sản phẩm của nông dân sản xuất ra khó tiêu thụ. Nền sản xuất xã hội phát triển không đồng đều, nhu cầu vốn tín dụng còn ở mức độ thấp, sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp còn ở trình độ thấp, ngành nghề bị thu hẹp do cạnh tranh của hàng ngoại và tiêu dùng xã hội đã ở mức cao hơn, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được. Tình hình xã hội diễn biến phức tạp, sản xuất, thu nhập, tiêu dùng không cân đối trong một số khu vực dân cư, đã khiến cho không ít cơ sở sản xuất, kinh tế gia đình lâm vào hoàn cảnh khó khăn, một số hộ vay không trả nợ được. 2. Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Trì. Ngân hàng nông nghiệp huyện Thanh Trì là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, do vậy Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì hoạt động dưới sự chỉ đạo của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam hạch toán báo sổ, đại diện pháp nhân theo sự uỷ quyền của Tổng giám đốc
  33. trực tiếp kinh doanh với các đơn vị kinh tế trên địa bàn huyện và các xã thuộc huyện. Là ngân hàng đóng trên địa bàn nông thôn, nông nghiệp là chủ yếu nên khách chủ yếu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì là các hộ sản xuất. Và đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm để đầu tư xây dựng nông thôn mới đối với ngân hàng. Ngân hàng chủ yếu tập trung vào cho vay theo Quyết định 67, thực sự phục vụ sản xuất nông nghiệp, còn các nhu cầu vay lớn l\kinh doanh, dịch vụ kể cả sản xuất nông nghiệp đều gặp ách tắc do không đủ điều kiện đảm bảo tiền vay. Thật vậy ngân hàng luôn coi cho vay nông dân và các hộ sản xuất khác là nhiệm vụ trọng tâm, thiết thực chấp hàng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, của ngành và trực tiếp là nghị quyết của lãnh đạo huyện uỷ, UBND, HĐND huyện, đầu tư cho nông nghiệp, mang nặng tiềm tàng rủi ro về thiên tai dịch bệnh. Những Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì vẫn mạnh dạn cho vay các dự án sản xuất có hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho nông dân, góp phần thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo từ 2,2% năm 1996 giảm xuống còn 0,75% (395 hộ) năm 2000. II. Tình hình huy động vốn tín dụng ngân hàng của hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì. 1. Nhu cầu vay vốn tín dụng ngân hàng của hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì. Từ thực tế phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn huyện Thanh Trì ở trên (chương I) cho ta thấy, sức sản xuất của các hộ nông dân còn thấp, trong khi điều kiện để phát triển thì rất lớn. Kinh tế hộ đang trong quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá với bước phát triển khá nhanh. Do trình độ sản xuất thấp, sản xuất nhỏ là chủ yếu, thu nhập thấp dẫn đến khả năng tích luỹ vốn thấp. Do vậy mà nhu cầu vay vốn tín dụng ngân hàng của hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì là rất lớn để đầu tư cho trang thiết bị, tập trung cho sản xuất hàng hoá. Nhu cầu vay vốn để phát triển kinh tế của hộ sản xuất huyện Thanh Trì được thể hiện qua bảng 1. Bảng 1: Nhu cầu vay vốn tín dụng ngân hàng của hộ sản xuất huyện Thanh Trì Đơn vị tính: Triệu đồng 1996 1997 1998 1999 2000
  34. - Nhu cầu vay vốn 62.027 52.950 50.870 52.120 50.821 Nguồn: Do NHNo & PTNT Thanh Trì cung cấp. Như vậy, nhu cầu vay vốn tín dụng ngân hàng của hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì là rất lớn. Vào năm 1996 do thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tục làm ảnh hưởng đến khả năng sản xuất, làm thiệt hại nhiều tiền của đối với những hộ sản xuất nông nghiệp, nên nhu cầu vay vốn để phục hồi lại kinh tế là rất lớn. Nhìn chung nhu cầu vay vốn tín dụng ngân hàng là rất lớn song có chiều hướng chững lại. Để hiểu rõ hơn nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất tại huyện ta xem xét cụ thể hơn về cơ cấu nhu cầu vay vốn. Tiến hành điều tra phân loại tình hình tài chính của các hộ trong huyện, quá trình sản xuất và mức nhu cầu vay vốn có thể ước tính cho bình quân mỗi năm như sau: Bảng 2: Bẳng phân loại và ước tính khả năng cần vay vốn của hộ sản xuất theo thu nhập. Đơn vị tính: Triệu đồng. Hộ sản xuất Số hộ % Số tiền Tổng số hộ 8.152 61.370 - Hộ khác 7.762 60.818 - Hộ nghèo 390 552 Nguồn: NHNo & PTNT Thanh Trì Trong đó hộ trung bình có nhu cầu vay vốn cao nhất nhưng đấy là xét trên bình diện tổng số hộ cần vay vốn, nhưng xét theo nhu cầu vay vốn thì hộ nghèo vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất (hầu như 100%). Điều này chứng tỏ hộ nghèo ở huyện Thanh Trì là rất cần vốn từ ngân hàng để đầu tư cho sản xuất, vượt qua nghèo khó. * Nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất phân theo ngành kinh tế. Vì tính chất sản xuất của mỗi ngành khác nhau nên mức nhu cầu nguồn vốn đầu tư cho mỗi ngành có thể khác nhau. Bảng 3: Mức nhu cầu vay vốn theo ngành kinh tế.
  35. Đơn vị tính: Triệu đồng. Ước tính bình quân mỗi năm Số tiền % 1. Ngành nông nghiệp 24.120 44,9 * Trồng trọt 1.850 3,4 * chăn nuôi 23.270 43,3 2. Ngành nuôi trồng thuỷ sản 11.101 20,6 3. Ngành CN & TTCN 9.832 18,3 4. Ngành thương nghiệp dịch vụ 6.100 11,3 5. Các ngành khác 1.604 2,9 Tổng 53.757 100 Nguồn: NHNo & PTNT Thanh Trì Qua bảng trên ta thấy, nhu cầu đầu tư vốn cho ngành sản xuất nông nghiệp rất là lớn chiếm 44,9% tổng nhu cầu, đặc biệt là ngành chăn nuôi (chiếm 43,3). Vì Thanh Trì là một huyện sống dựa vào nông nghiệp là chủ yếu mà phát triển chăn nuôi là một thế mạnh của nền nông nghiệp của huyện. Bên cạnh đó ngành môi trường thuỷ sản cũng đòi hỏi một số vốn khá lớn. Với điều kiện ao hồ nuôi thả cá là 955 ha nên hàng năm nhu cầu vốn đầu tư vào cũng lớn (chiếm 22,5% tổng nhu cầu vốn). Ngược lại thì ngành trồng trọt có một nhu cầu mức vốn rất là thấp (chiếm 3,4% trong tổng nhu cầu vốn) vì đây là một ngành mức vốn đầu tư ban đầu không đòi hỏi lớn. * Như đã nêu ở phần trên, huyện dưới sự tác động của các yếu tố kinh tế xã hội nên huyện đã phân ra từng vùng kinh tế khác nhau, với hình thức sản xuất và kinh doanh của mỗi vùng khác nhau nên nhu cầu vay vốn của mỗi vùng có cơ cấu khác nhau. Theo thống kê chung nhu cầu vay vốn chung của mỗi vùng bình quân mỗi năm có thể phân ở bảng sau: Bảng 4: Nhu cầu vay vốn phân theo vùng kinh tế. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng (%) - Vùng 1 28.000 48,1 - Vùng 2 12.000 23,0 - Vùng 3 3.500 14,4
  36. - Vùng 4 13.500 30,0 Tổng 48.000 Với đặc điểm kinh tế của mỗi vùng kinh tế khác nhay nên mức nhu cầu đầu tư cho sản xuất chênh lệch nhau rất rõ. Vùng 1 là vùng đi với ngành nghề chủ yếu là chăn nuôi lợn, gia cầm và các dịch vụ nên nhu cầu về vốn là rất lớn, chiếm tới 48,1% trong tổng cơ cấu nhu cầu của các vùng. Còn các vùng như vùng 2 và vùng 4 là các vùng liên quan đến các ngành nghề thuỷ sản nên nhu cầu đầu tư vốn cùng tương đối lớn. Trong đầu tư chăn nuôi lợn, về hiệu quả đầu tư mỗi lứa lợn là 6 tháng: - Chi phí giống 10kg/con = 250.000 đ - Thức ăn 6 tháng = 500.000 đ - Lãi suất vay ngân hàng + Chi phí khác = 150.000 đ Tổng chi phí = 900.000 đ Từ mức chi phí cụ thể ở trên ta có thể nhận thấy một phần chi phí của ngành chăn nuôi lợn. 2. Tình hình vay vốn của hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Thanh trì Bảng 5: doanh số vay vốn của hộ sản xuất tại NHNo Thanh trì giai đoạn 1996- 2000 Đơn vị: Triệu đồng 1996 1997 1998 1999 2000 Chỉ tiêu DSCV Dư nợ DSCV Dư nợ DSCV Dư nợ DSCV Dư nợ DSCV Dư nợ - Tổng số 51.388 38.352 30.715 31.142 38.498 40.303 29.364 35.155 35.984 37.698 - Số hộ 4.925 3.260 2.500 3.900 3.000 4.115 3.155 4.461 4.500 5.400 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000 DSCV: Doanh số cho vay Với tính chất sản xuất ở quy mô gia đình nhỏ bé, việc mở rộng tín dụng đối với khu vực hộ sản xuất là rất khó khăn, hộ sản xuất vay vốn gặp ắc tắc. Thể hiện ở doanh số cho vay không tăng trong 4 năm trên ( 1997 - 2000) và thấp hơn năm 1996. Năm 1996 doanh số cho vay có mức tăng đột biến. Doanh số cho vay năm 1997 chỉ bằng 60% so với năm 1996.
  37. Doanh số cho vay giai đoạn sau không tăng, phản ánh một điều mà ngân hàng ngày càng chú trọng đến chất lượng tín dụng khi mà môi trường kinh doanh, nền kinh tế và sản xuất của hộ gia đình chưa ổn định. Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất phân theo kỳ hạn cho vay ngắn hạn (< 1năm) và cho vay trung, dài hạn. Bảng 6: Doanh số vay vốn của hộ sản xuất theo kỳ hạn Đơn vị: Triệu đồng Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % - Ngắn hạn 49.332 96 28.266 92 36.028 93,6 25.758 87,7 29.435 81,8 - Trung, dài hạn 2.006 4 2.449 8 2.470 6,4 3.606 12,3 6.549 18,2 Tổng số 51.338 100 30.715 100 39.498 100 29.364 100 35.984 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000 Vốn vay ngắn hạn giảm sút năm 1996 chiếm 96%, năm 1997 là 92%, năm 1998 là 93,6%, nhưng đến năm 1999 chỉ còn 87,7% và năm 2000 là 81,8%. Doanh số cho vay trung - dài hạn của hộ sản xuất tại ngân hàng có xu hướng tăng, trừ năm 1998 có giảm so với năm 1997. Năm 1998 doanh số vay vốn chỉ chiếm 6,4% tổng doanh dố cho vay hộ sản xuất. Tuy nhiên trong 2 năm sau đó (từ năm 1999 - 2000), doanh số vay vốn trung - dài hạn liên tục tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối. Đến năm 2000 doanh số vay vốn trung- dài hạn của hộ sản xuất đã đạt được 18,2% tổng doanh số vốn vay tại ngân hàng, điều này cũng có nghĩa là những món vay lớn từ 10 triệu đồng trở lên tăng lên. Những kết quả trên đây đã phần nào cho thấy tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của những hộ sản xuất. Để phân tích chính xác hơn ta xem xét số tiền vay mỗi lượt hộ của từng hộ, hay là mức quy mô vay vốn. Bảng 7: Số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Đơn vị: Triệu đồng. Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Chỉ tiêu
  38. DSCV 51.388 30.715 38.498 29.364 35.984 Số lượt hộ 4.925 2.500 3.000 3.155 4.500 DS/Số lượt 10,43 12,3 12,8 9,3 8,0 Nguồn: Do Ngân hàng nông nghiệp Thanh Trì cung cấp Số tiền vay trung bình mỗi lượt của hộ sản xuất có xu hướng tăng nhưng mức tăng chậm, không đáng kể, nhưng đến 2 năm sau lại giảm. Năm 1998 số tiền vay mỗi lượt là 12,8 triệu đồng/lượt nhưng đến năm 1999 chỉ có 9,3 triệu đồng/lượt và năm 2000 còn 8,0 triệu đồng/lượt, trong năm 2000 số lượy hộ vay nhiều, nhưng món tiền lại nhỏ. Điều này chứng tỏ ngân hàng đang tập trung vào chất lượng tín dụng để quan tâm đến các món vay trung, dài hạn của hộ sản xuất. * Đánh giá cơ cấu vay vốn của hộ sản xuất ở Ngân hàng nông nghiệp Thanh Trì. Do khả năng sản xuất của các nhóm hộ khác nhau, so các mức vay cho các đối tượng theo các quy định trong chính sách tín dụng của Nhà nước và của ngân hàng đối với hộ sản xuất nên cơ cấu vay vốn giữa các hộ khác nhau được thể hiện qua bảng sau: Bảng 8: Cơ cấu vốn vay tín dụng ngân hàng của hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì Đơn vị: Số lượt Năm Dưới 5 triệu Từ 5-10 triệu Từ 10-20 triệu Từ 20-50 triệu Trên 50 triệu 1995 8.000 250 97 85 68 1996 4.526 182 88 75 54 1997 2.165 168 67 41 59 1998 1.850 817 112 110 111 1999 609 2.000 167 182 197 2000 1.033 2.636 310 265 256 Nguồn: Do Ngân hàng nông nghiệp Thanh Trì cung cấp Do sản xuất còn nhỏ, manh mún, mức độ tập trung thấp nên mức vay chủ yếu là từ 10 triệu đồng trở xuống. Mức vay trên 50 triệu đồng ít do số hộ sản xuất hàng hoá lớn chưa nhiều, mặt khác do tài sản thế chấp của người dân hầu hết có giá trị thấp ngoại trừ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ý
  39. nghĩa để dùng vào thếp chấp theo quy đình mới nhất tại QĐ 67/Cp của Thủ tướng Chính phủ. Ta thấy ba năm đầu (từ 1995 - 1997) nguồn vốn vay từ 10 triệu trở lên chiếm rất ít. Năm 1997 mức vay trên 50 triệu chiếm 59 số lượt. Nhưng đến năm 2000 đã tăng lên 256 số lượt. Như vậy nhu cầu vay vốn kinh doanh lớn phần nào đã được đáp ứng . Để phù hợp với phát triển của toàn huyện góp phần làm tăng sản lượng hàng hoá, Ngân hàng nông nghiệp đã cho hộ sản xuất vay vốn trên một số vùng như sau: Bảng 9: Cơ cấu vốn vay theo vùng kinh tế Đơn vị: Triệu đồng Bình quân mỗi năm Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng (%) - Vùng 1 15.530 41,7 - Vùng 2 9.210 24,8 - Vùng 3 1.50 4,0 - Vùng 4 10.970 29,4 Tổng 37.210 100 Nguồn: Do NNNo &PTNT Thanh Trì cung cấp Qua bảng trên ta thấy vùng 1 là vùng có số vốn vay lớn nhất (chiếm 41,7% tổng số vốn), vùng này là vùng các xã ven đô với phương hướng sản xuất là rau màu, thực phẩm, chăn nuôi lơn, gia cầm nên số vốn tương đối lớn. Các vùng 2 và vùng 4 chiếm 24,8% và chiếm 29,4% tổng số vốn, riêng vùng 3 số vốn vay chỉ chiếm 4,0% tổng số vốn. Trong mỗi vùng kinh tế có cơ cấu kinh tế riêng với đặc trưng của mỗi vùng, vì vậy mà mức vay vốn khác nhau. Để hiểu rõ hơn ta tìm hiểu tình hình vay vốn của hộ sản xuất phân theo ngành kinh tế qua bảng 10. Bảng 10: Doanh số vay vốn theo ngành kinh tế. Năm 1997 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1. Ngành nông nghiệp 19.500 63,5 17.304 44,9 19.480 66,3 22.145 61,7 - Trồng trọt 2.295 7,5 4.018 10,4 480 1,6 1.250 3,5 - Chăn nuôi 17.205 56,0 13.286 34,5 19.000 64,7 20.895 58,2
  40. 2. Ngành nuôi trồng TS 7.296 23,7 11.000 28,6 5,.500 18,7 8.755 24,4 3. Ngành CN - TTCN 1.110 3,6 4.970 12,9 1.500 5,1 2.017 5,6 4. Ngành TN - DV 2.317 7,5 4.654 12,0 2.100 7,1 2.496 6,9 5. Các ngành khác 492 1,6 570 1,5 784 2,7 481 1,3 Tổng 30.715 100 38.498 100 29.364 100 35.894 CN-TTCN: Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp Nguồn: Do NNNo &PTNT Thanh Trì cung cấp Qua bảng trên ta thấy số vốn vay giành cho ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất, bình quân mỗi năm chiếm khoảng 59% tổng doanh số vay, riêng ngành chăn nuôi chiến đến 64,7% doanh số vay vốn. Bên cạnh đó ngành nuôi trồng thuỷ sản cũng vay vốn khá lớn chiếm trung bình mỗi năm khoảng 23,8 doanh số vốn vay. Trong khi đó ngành trồng trọt thì lại chiếm tỷ lệ thấp và có xu hướng giảm dần. Năm 1997 tỷ lệ vay chiếm 7,5 tổng số vốn vay đến năm 2000 chỉ còn 3,5% tổng doanh số vốn vay. Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp (trung bình mỗi năm chiếm khoảng 6%) trong khi đó ngành này có xu hướng phát triển ngày càng cao. Đối với ngành thuỷ sản tỷ lệ số vốn có xu hướng tăng lên năm 1997 chiếm 23,7%, năm 1998 là 28,6% nhưng đến năm 1999 giảm xuống còn 18,7% và đến năm 2000 lại tăng lên chiếm 24,4%. Ta có thể lấy điển hình một số xã vay vốn như sau: Đơn vị: Triệu đồng Tên xã Số tiền Số hộ Yên Sở 2.300 240 Trần Phú 2.200 200 Định Công 1.000 80 Tứ Hiệp 1.100 120 Hoàng Liệt 1.200 130 Nguồn: Do NNNo &PTNT cung cấp Hộ sản xuất vay vốn tại Ngân hàng nông nghiệp phân theo các hình thức chuyển tải cốn khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ hơn qua bảng số liệu sau. Bảng 11: Doanh số vay theo hình thức chuyển tải vốn
  41. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Số tiền Số hộ Số tiền Số hộ Số tiền Số hộ Số tiền Số hộ 1. Cho vay trực tiếp 30.287 2.440 38.318 2.500 29.164 3.100 24.184 2.507 2. Cho vay qua tổ nhóm 428 60 180 50 200 55 11.700 1.993 3. Cho vay gián tiếp - - - - - - - - Tổng 30.715 2.500 38.498 3.000 29.364 3.155 35.984 4.800 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng các năm 97, 98, 99, 2000) Qua bảng trên ta thấy từ năm 1997 - 1999 doanh số hộ sản xuất vay vốn tại ngân hàng qua nhóm chiếm tỷ lệ rất ít (trung bình mỗi năm chỉ được 269 triệu đồng chiếm 0,4% tổng số vốn vay mỗi năm). Năm 1997 vay qua tổ nhóm là 428 triệu đồng với số hộ là 60 hộ. Năm 1999 doanh số vay qua tổ nhóm là 200 triệu đồng, nhưng đến năm 2000 doanh số hộ sản xuất vay vốn qua hình thức tổ nhóm là 11.700 triệu đồng chiếm 32,5% tổng số vốn vay năm 2000. Sở dĩ có sự tăng vọt như vậy là do bắt đầu từ năm 2000 Ngân hàng nông nghiệp Thanh Trì đã thực hiện Nghị quyết liên tịch số 2308 về việc cho vay đối với hộ sản xuất qua nhóm chính. Và một thực tế cho thấy nữa là hình thức vay qua tổ nhóm ở huyện Thanh Trì thì chủ yếu là cung theo hình thức hội nông dân. 3. Tình hình dư nợ của hộ sản xuất vay vốn tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. Dư nợ là một hình thức phản ánh quá trình vay vốn của hộ sản xuất ở ngân hàng, trong đó bao hàm cả một phần vốn chưa hoàn trả. Do xác định khách hàng phục vụ chính là hộ sản xuất, nên Ngân hàng nông nghiệp huyện Thanh Trì luôn phấn đấu tăng dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất. Nhưng trên thực tế thì doanh số dư nợ có lẽ chững lại. Trong 5 năm liền doanh số dư nợ không tăng mà còn giảm sút đi. Năm 1996 doanh số dư nợ là 38.370 triệu đồng chiếm 20,8% tổng doanh số trong 5 năm, nhưng đến năm 1997 giảm xuống 3% so với năm 1997. Đến cuối năm 2000 thì doanh số hộ dư nợ là 2.140 hộ. Số tiền không tăng nhưng số lượt hộ dư nợ lại tăng. Điều này chứng tỏ là trong những năm sau (từ năm 1998 - 2000) những món vay của hộ sản xuất là rất nhỏ. Dư nợ bình quân một hộ sản xuất giảm dần qua các năm. Để thấy rõ hơn ta có thể thấy qua bảng sau. (Bảng 12) Bảng 12: Dư nợ bình quân một hộ sản xuất
  42. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 Số tiền 38.370 32.613 40.303 35.155 37.698 Số hộ 3.260 3.900 4.115 4,464 5.400 BQ/hộ 11,8 8,4 9,8 7,9 7,0 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng từ năm 1996 đến năm 2000) Qua bảng trên ta thấy dư nợ bình quân năm 1996 vẫn chiếm cao nhất là 11,8%,nhưng đến năm 1997 giảm xuống còn 8,4%, nhưng đến hai năm sau lại giảm năm 1999 giảm so với năm 1998 là 1,9% Dư nợ bình quân một hộ sản xuất năm 2000 đạt 7,0 triệu đồng giảm so với năm 1996 là 4,8 triệu đồng, mức giảm này không hẳn là do doanh số dư nợ cho vay của ngân hàng đối hộ sản xuất giảm, mà một phần do món vay của một hộ sản xuất nhỏ. Những năm gần đây những món vay của hộ sản xuất ở ngân hàng dưới 5 triệu đồng chiếm rất nhiều. Nhìn chung dư nợ bình quân một hộ sản xuất trung bình trong 5 năm từ 1996 đến 2000 mới đạt được khoảng 8,9. Tăng được dư nợ bình quân của một hộ sản xuất là một cố gắn rất lớn của ngân hàng, song muốn nâng cao hiệu quả kinh tế của hộ sản xuất thì phải tăng hơn nữa dư nợ bình quân một hộ sản xuất. Dư nợ qua các năm không tăng một phần là do ngân hàng đã quan tâm đến chất lượng tín dụng, một phần là do ở hộ sản xuất chưa có đủ điều kiện để thế chấp vay vốn như Giấy quyền sử dụng đất 3.1. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo thu nhập hộ vay. Nhằm thực hiện chính sách "Xoá đói giảm nghèo" của Đảng và Nhà nước, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam phát triển, mở rộng cho hộ nghèo vay vốn với những ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay, tài sản thế chấp Ngân hàng nông nghiệp Thanh Trì trong mấy năm qua đã mở rộng số hộ nghèo được vay vốn trên địa bàn của huyện, giúp nhiều hộ thoát khỏi đói nghèo. Bảng 13: Dư nợ vay vốn đối với hộ sản xuất theo thu nhập hộ vay Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Hộ nghèo 3,0% 2,1% 1,7% 1,5 % Hộ khác 9,7% 7,9% 8,3% 8,5% Tổng số 100% 100% 100% 100%
  43. (Nguồn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì) Qua bảng trên thấy dư nợ của hộ nghèo liên tục giảm, năm 1997 chiếm 3,0% trong tổng doanh số vốn của các nhóm hộ, nhưng đến năm 2000 chỉ còn 1,5%. ậ đây không phải là Ngân hàng nông nghiệp không tăng doanh số cho vay đối với hộ nghèo, mà do số hộ nghèo trong toàn huện đã giảm đáng kể. Tổng số hộ nghèo toàn huyện năm 1995 là 1.118 hộ nhưng đến năm 2000 chỉ vào 395 hộ. 3.2. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo kỳ hạn nợ. Bảng 14: Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất theo kỳ hạn Đơn vị: triệu đồng 1996 1997 1998 1999 2000 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Ngắn hạn 36.355 94,7 29.775 91,3 35.131 87,2 30.840 87,8 29.563 78,3 Trung - dài hạn 2.015 5,3 2.838 8,7 5.172 12,8 4.315 12,2 8.162 21,4 Tổng số 38.370 100 32.370 100 40.303 100 35.155 100 37.698 100 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng từ năm 1996 đến năm 2000) Các khoản cho vay ngắn hạn dùng để tài trợ cho các khoản chi phí theo thời vụ để sản xuất mùa màng và chăn nuôi gia súc như mua hạt giống, phân bón, thức ăn gia súc gia cầm. Dư nợ ngắn hạn giảm trong nhiều năm. Tính trung bình cả giai đoạn năm 1996 đến năm 2000 đạt hơn 32.327 triệu đồng với số hộ dư nợ tinhs đến 31/12/2000 là 5.400 hộ, doanh số dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2000 giảm 16,4% so với năm 1996. Ngược lại với tình hình dư nợ cho vay ngắn hạn, dư nợ cho vay trung - dài hạn tăng trưởng một cách vững chắc, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong dư nợ cho vay hộ sản xuất: Năm 1996 là 5,3%, năm 1997 là 8,7% năm 1998 là 12,8%, năm 1999 là 12,2% và năm 2000 là 21,4$, chỉ trong vòng 5 năm mà doanh số cho vay trung - dài hạn đã tăng 16,1%. Đây là một kết quả đán mừng vì doanh số dư nợ cho vay trung - dài hạn tăng lên sẽ đáp ứng đầy đủ cho hộ sản xuất an tâm và có đầy đủ vốn sản xuất và thời gian thu hồi vốn để trả nợ. II. Tình hình sử dụng vốn tín dụng ngân hàng của hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì. 1. Đánh giá thực trạng sử dụng vốn vay của hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì. Qua thực tế một số xã trên địa bàn huyện Thanh Trì cho ta thấy nhìn chung các hộ sản xuất đã sử dụng vốn vay vào đúng mục đích như đã thoả
  44. thuận trong đơn xin vay vốn. Và nguồn vốn vay đã phần nào phát huy hiệu quả, đời sống của bà con nông dân ngày cầng được cải thiện. Người dân vay vốn đã có ý thức sử dụng vốn vay sao có hiệu quả. Trong thực tế việc sử dụng vốn tín dụng của (người dân) hộ sản xuất lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: món vay, trình độ nhận thức của từng người, thu nhập và đời sống của từng hộ sản xuất Qua điều tra một số xã đại diện cho 4 vùng sản xuất của huyện Thanh Trì, nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất được phân theo các dạng sau: * Với món vay từ 5 triệu trở xuống. Với món vay này thường được chia làm 2 loại sau: - Món vay từ 2 triệu trở xuống. Với món vay này chủ yếu là những hộ sản xuất nghèo, trình độ nhận thức và tiếp thu khoa học kỹ thuật còn hạn chế, hầu hết là những hộ nghèo cho nên cũng không có vốn dự trữ, với ý nghĩ làm để đủ ăn, nên họ không dám vay nhiều. Vì vậy họ còn có một chỗ dựa khác đó là Ngân hàng người nghèo, và đây cũng là nơi hỗ trọư vốn cho những hộ nghèo thiếu vốn sản xuất, lãi suất ở đây thấp và thủ tục vay đơn giản. Qua điều tra một số hộ ở các xã như: xã Đại ánh, xã Tả Thanh Oai một số hộ làm đơn xin vay vốn, với mức may từ 2 triệu đồng, để đầu tư vào chaen nuôi lợn, một số hộ thì nuôi vịt. Khi kiểm tra thực tế thì một số hộ trên đều sử dụng vốn vay vào đúng mục đích và đang có khả năng tiến triển tốt, họ đang mong muốn đến lứa để bán hoàn trả sơm cho ngân hàng để làm đơn xin vay vốn lớn hơn để phát triển chăn nuôi. Ngoài việc đầu tư với số vốn 2 triệu đồng, các hộ này không sử dụng hết chúng vào mục đích chăn nuôi, mà các này đã trích ra một khoản từ 200 ngàn đồng để làm thêm ngành phụ như làm bánh đa, có hộ nấu rượu để kết hợp với nuôi lơn, để một phần tạo công ăn việc làm cho lao động dư thừa trong gia đình. Kết quả cả những hộ trên từ khi vay vốn đời sống có khá hơn. - Đối với món vay từ 2- 5 triệu đồng. Đối với những món vay này chủ yếu là những hộ có đời sống ở mức trung bình. Với món vay này các hộ cũng đầu tư vào cải tạo chuồng trại, mua
  45. thêm giống, thức ăn và chăn nuôi, có hộ sử dụng vào mục đích kinh doanh buôn bán. * Đối với món vay từ 5 triệu đồng trở lên. Đây là món vay lớn, chi có những hộ có chí hướng làm giàu, muốn làm ăn lớn, muốn có nhiều hàng hoá cung cấp cho thị trường thì mới dám vay. Với những món vay này chủ yếu là những hộ khá, trung khá, giàu nhưng cũng không đủ vốn để phát triển sản xuất ở bất cứ thời điểm nào. Mặt khác nếu chỉ sử dụng vốn của mình thì làm sao phát triển sản xuất với quy mô lớn được. Cảm nhận được điều đó, họ sẵn sàng vay vốn để đầu tư vào sản xuất. Với mục đích kinh doanh người vay tiếp cận với ngân hàng để vay số vốn mà mình còn thiếu. Qua điều tra 10 hộ làm ăn khá của xã Hoàng Liệt và Yên sở vay vốn từ 10 triệu đến 100 triệu đồng ddể phát triển sản xuất ta thấy có 2 dạng sau: - Có 6 hộ vay từ 10 - 50 triệu đồng để nuôi cá, thực tế những hộ này đã có kinh nghiệm nuôi cá từ 2 -3 năm. Vì vậy số vốn lưu động dùng để mua thức ăn (bã bia, cám tổng hợp) và cá giống. Nhìn chung các hộ kinh doanh đều đạt hiệu quả cao, trả được nợ ngân hàng đúng hạn. Trong các hộ này ta có thể thấy thực tế (một số) hộ điển hình sau: Hộ ông Nguyễn Văn Thục, ở thôn Tứ Kỳ xã Hoàng Liệt huyện Thanh Trì. Địa điểm sản xuất kinh doanh: ở thôn Tứ Kỳ xã Hoàng Liệt huyện Thanh Trì. Hộ này đã vay ngân hàng số vốn là 20 triệu đồng với hình thức thế chấp cầm cố bảo lãnh vào ngày 21/4/1999. Với số vốn này cộng thêm với nguồn vốn tự có là 17 triệu đồng. Tổng cộng số vốn là 37 triệu đồng ông Nguyễn Văn Thục đã đầu tư vào dự án là thả cá và chăn nuôi lợn. Với diện tích ao thả cá là 5 ha, và 17 m2 chuồng nuôi lợn, ông Thục đã mua 3 tấn cá giống là 21 triệu đồng, và mua lợn giống là 20 con hết 6 triệu đồng, mua thức ăn cho cá và lợn gần 10 triệu đồng. Từ việc đầu tư ban đầu như vậy sau mỗi vụ thu hoạch gia đình ông Thục đa thu được sản lượng là: Từ cá khoảng 8 tấn cá thịt với giá khoảng 6 triệu đồng/tấn với doanh thu từ cá là 48 triệu đồng. Từ lợn: 1 tấn người 12.000.000 đ/tấn = 12.000.000 đồng. Vậy tổng doanh thu là khoảng 60.000.000 đồng. Trong đó chi phí là:
  46. - Cá giống 3 tấn: 21 triệu đồng - Lợn giống 20 con: 6 triệu đồng - Thức ăn : 10 triệu đồng - Trả sản lượng 1 năm: 8 triệu đồng. - Một vụ thuê lao động làm thuê là 4,8 triệu đồng. - Trả lãi ngân hàng 1 năm là 2,4 triệu đồng. - Các khoản chi phí khác khoảng 2 triệu đồng. Vậy mỗi vụ ông Thục thu được một khoản lợi nhuận là 5,8 triệu đồng. Sau mỗi vụ ông Thục lại cải tạo ao chuông và tiếp tục tăng quy mô lên để nâng cao hiệu quả kinh tế và ông dự tính đéen tháng 4/2001 này sẽ trả hết số vốn vay và lãi của ngân hàng. Như vậy ta có thể thấy nguồn vốn vay đưực hộ ông Nguyễn Văn Thục áp dụng một cách khoa học và có hiệu quả. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số hộ đã sử dụng vốn chưa có hiệu quả như hộ ông Phòng Sơn thông Pháp Vân xã Hoàng Liệt vay 50 triệu đồng để sử dụng vào nuôi thả cá, hộ này mới là kinh doanh lần đầu tiên chưa có kinh nghiệm, mặt khác hộ này mắc vào nạn cơ bạc, rượu chè, do đó không có khả năng trả nợ. - Có 4 hộ vay từ 30 - 100 triệu đồng để kinh doanh dịch vụ và phát triển ngành nghề. Trong số 4 hộ có 2 hộ vay 30 triệu đồng để kinh doanh gạo, số hộ này làm ăn có hiệu quả, thu nhập cao, trả nợ ngân hàng đầy đủ đúng hạn. Còn 2 hộ vay để phát triển ngành nghề, thì trong đó có một hộ vay 100 triệu đồng để làm xưởng chế biến túi nilông. Tóm lại qua kiểm tra thực tế một số hộ vay vốn, nhìn chung các hộ sản xuất vay vốn đều sử dụng vốn đúng mục đích. Để hiểu tình hình thực tế sử dụng vốn vay ngân hàng của hộ sản xuất vào các ngành nghề như thế nào ta có thể tham khảo qua bảng số liệu được thống kê qua các năm: Bảng 16: Cơ cấu sử dụng vốn vào các dự án của hộ sản xuất huyện Thanh Trì. Đơn vị: Tỷ đồng Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Số Số Số Số Số Số Số Số Số Số Dự án tiền hộ tiền hộ tiền hộ tiền hộ tiền hộ
  47. 1. Trồng trọt 3,3 68 1,57 44 4,13 67 0,48 47 2,12 65 - Trồng hoa cây cảnh 2,1 20 1,0 21 3,0 26 1,32 31 - Cải tạo vườn 0,1 22 0,52 11 0,6 12 0,2 20 0,3 16 - Chuyển đổi cơ cấu 1,1 26 0,05 12 0,57 29 0,28 25 0,5 18 cây trồng 2. Chăn nuôi 26,3 3.582 14,66 2.012 16,6 2.326 18,5 2.160 20,1 3.320 - Lợn hướng nạc 19,2 1.802 8,56 1.452 12,0 1.650 15 1.400 16,1 2.210 - Gia cầm 7,1 1.780 6,1 560 7,6 676 3,5 700 4,0 1.110 3. Nuôi trồng thuỷ sản 10,5 415 7,8 246 9,2 345 5,0 570 8,6 720 4. CN-TTCN 2,92 35 2,02 45 4,1 79 1,5 25 2,0 52 5. TM-dịch vụ 3,8 225 1,3 87 2,97 103 2,1 101 2,4 100 6. Mục đích khác 0,6 257 0,307 76 0,358 103 0,8 190 0,5 202 (Nguồn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì cung cấp) Qua bảng trên ta thấy số vốn được hộ sản xuất chủ yếu đưa vào các dự án chăn nuôi. Như chăn nuôi lợn hướng nạc, vịt siêu thịt, trừng, gà công nghiệp, thường số vốn sử dụng vào lĩnh vựcchiếm khoảng 50%, một lượng vốn đầu tư quả là lớn. Như vậy cho ta thấy rõ thế mạnh của hộ sản xuất huyện thanh trì là chăn nuôi và hàng năm các hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì la chăn nuôi. Và hàng năm các hộ nuôi lợn nái và lợn bột khoảng 15.000 con đưa sản lượng thịt hơi của huyện lên 42.250 tấn/năm. Bên cạnh đó ngành nuôi trồng thuỷ sản cũng chiếm tỷ lệ khá lớn trong số vốn sử dụng của hộ sản xuất bình quân chiếm khoảng từ 25 - 30% trong tổng số vốn sử dụng. Vậy ngành thuỷ sản là ngành thứ hai được chú trọng đầu tư số vốn lớn sau ngành chăn nuôi. Một mặt vì ngành thuỷ sản hiện nay đang được chú trọng đối với các hộ sản xuất ở huyện, mặt khác vì chi phí cho ngành nuôi trồng thuỷ sản là rất lớn nên số vốn của ngành này lớn là điều tất yếu. 88888888888888888888888888 99999999999999999999999999999999 2- Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì. Từ nguồn vốn vay được ở ngân hàng các hộ sản xuất đã đầu tư vào đúng mục đích, đối tượng từ đó đã giúp kinh tế của các hộ sản xuất ngày càng khá
  48. dả hơn, những hộ nghèo đói trở thành dư ăn và dư thừa. Từ đó góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của toàn huyện. Điều này có thể minh hoạ cụ thể qua số liệu về cơ cấu kinh tế của toàn huyện như sau: Bảng 17: Cơ cấu kinh tế của huyện Thanh Trì giai đoạn từ 1995 - 2000. 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng giá trị sản xuất 100% 100% 100% 100% 100% 100% 1. Nông nghiệp 60,5% 55,75% 54,61% 55% 55,89% 52,7% 2. Công nghiệp và 26,4% 30,32% 31,6% 31,87% 30,53% 31,1% xây dựng cơ bản 3. Thương mại và 13,1% 13,93% 13,79% 13,13% 13,58% 14,2% dịch vụ Nguồn: Phòng thống kê - kế hoạch huyện Thanh Trì. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của huyện đạt 10,4% trong đó: Tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm đạt 7,4%. Để đánh giá cụ thểhơn ta có thể xem qua bảng cơ cấu kinh tế của ngành Nông nghiệp. Bảng 18: Cơ cấu trong nông nghiệp. Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng giá trị sản xuất 100% 100% 100% 100% 100% 100% Nông nghiệp (%) 1. Trồng trọt 59 58,47 55,45 56,72 53,41 47,93 2. Chăn nuôi 41 41,53 44,35 43,28 46,59 52,07 Nguồn: Phòng thống kê - kế hoạch huyện Thanh Trì. Qua bảng trên ta thấy giá sản xuất của ngành trồng trọt có xu hướng giảm xuống. Năm 1995 là 59% đến năm 1998 là 56,72%, năm 1999 là 53,41% nhưng đến năm 2000 chỉ còn 47,93%. Ngược lại tỷ trọng ngành chăn nuôi lại có xu hướng tăng dần từ 31,53% năm 1996 tăng lên 52,07 năm 2000. Tình hình này cũng phản ánh đúng với thực trạng vay vốn và sử dụng vốn của hộ sản xuất ở huyện. Vốn tính dụng Ngân hàng đã góp phần cho giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm tăng liên tục. Với số vốn vay được các hộ đã tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để đưa cây con