Đề tài Thực trạng của ngành ngân hàng Việt Nam trong những năm qua

pdf 53 trang nguyendu 5200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thực trạng của ngành ngân hàng Việt Nam trong những năm qua", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_tai_thuc_trang_cua_nganh_ngan_hang_viet_nam_trong_nhung_n.pdf

Nội dung text: Đề tài Thực trạng của ngành ngân hàng Việt Nam trong những năm qua

  1. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM 1 1.1. Lịch sử hình thành ngành ngân hàng Việt Nam 1 1.2. Nhiệm vụ, chức năng của ngân hàng trong quá trình phát triển đất nước 5 1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của NHNN VN 5 1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của NHTM VN 5 1.3 . Khái quát tình hình hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam năm qua 6 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA 11 2.1. Những thành tựu và tồn tại của ngành ngân hàng Việt Nam trước thời kỳ hội nhập 12 2.1.1. Những thành tựu đạt được 12 2.1.2. Những tồn tại cần khắc phục 13 2.2. Những cơ hội và thách thức trong thời gian tới 14 2.2.1. Những cơ hội 14 2.2.2.Một số thách thức 17 2.3. Triển vọng phát triển của ngành trong tương lai 19 2.3.1. Định hướng phát triển các ngân hàng trong thời gian tới 19 2.3.2. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước ngoài 21 2.3.3. Khả năng phát triển thị phần của ngành ngân hàng trong thời gian tới 22 2.3.4. Khả năng tăng trưởng doanh thu và cắt giảm chi phí trong hoạt động của ngân hàng 23 2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng 23 2.4.1. Nền kinh tế 23 2.4.2. Lãi suất 24 1
  2. 2.4.3. Thị trường chứng khoán 25 2.5. Đánh giá về cổ phiếu ngành ngân hàng 27 2.5.1. Vì sao cổ phiếu ngân hàng kém hấp dẫn nhà đầu tư? 28 2.5.2. Một số lưu ý khi đầu tư vào cổ phiếu ngành ngân hàng 29 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM 33 3.1. Lộ trình hội nhập của ngành ngân hàng Việt Nam 33 3.2. Xây dựng một hệ thống pháp luật cho sự phát triển ngành ngân hàng 35 3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngành nhân hàng và chuẩn bị nhân lực cho tương lai 38 3.4. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Trung Ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ 39 3.5. Phân định một cách rõ ràng quyền lực của Ngân hàng nhà nước với Bộ tài chính 42 3.6. Phát triển thị trường liên ngân hàng Việt Nam 43 3.7. Xây dựng các công cụ phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng 46 3.8. Thiết lập các công cụ phòng ngừa rủi ro cho khách hàng 47 3.9. Những việc cần làm trong thời gian tới của ngành ngân hàng Việt Nam: 47 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢC 2
  3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẰT NHNNVN : Ngân hàng nhà nước Việt Nam. NHTMVN : Ngân hàng thương mại Việt Nam. TTCK : Thị trường chứng khoán. TCTD : Tổ chức tín dụng. CK : Chứng khoán. CP : Cổ phiếu. FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài FII : Đầu tư gián tiếp nước ngoài NHTW : Ngân hàng Trung Ương. NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần. NHLD : Ngân hàng liên doanh. IPO : Initial Public Offering (Phát hành CP ra công chúng lần đầu) WTO : World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới) ROA : Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản. ROE : Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần. TC-NH : Tài chính ngân hàng. DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ VÀ BẢNG BIỂU Đồ thị 1.1: Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán (trang 10) Đồ thị 1.2: Tốc độ tăng huy động vốn cho nền kinh tế (trang 10) Đồ thị 1.3: Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế (trang 12) Đồ thị 2.1: tỷ lệ nợ xấu ở các nhóm ngân hàng (trang16). Đồ thị 2.2: thị phần ngành ngân hàng (trang 26) Đồ thị2.3: ROA của một số ngân hàng năm 2007 (trang36). Đồ thị 2.4: ROE của một số ngân hàng năm 2007 (trang36). Đồ thị 2.5: chỉ số hoạt động của một số ngân hàng (trang37). Bảng 1.1: Phát triển NHTM VN từ 1991-1997 (trang 4) Bảng 1.2: Phát triển NHTM VN từ 1997-2001 (trang 5) Bảng 2.1: Số máy ATM của một số ngân hàng (trang14). Bảng 2.2: Kế hoạch vốn điều lệ của một số ngân hàng (trang20): Bảng 2.3: GDP qua các thời kì: (trang28) Bảng 2.4: Giá cổ phiếu của một số ngân hàng (trang32). 3
  4. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM: 1.1 . Lịch sử hình thành của ngành ngân hàng Việt Nam: Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách mạng Tháng 8 lúc bấy giờ là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập tự chủ. Nhiệm vụ đó đã trở thành hiện thực khi bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một tiến triển mạnh mẽ với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và mở rộng vùng giải phóng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng cũng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển theo yêu cầu mới. Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam - Ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: - Phát hành giấy bạc - Quản lý Kho bạc - Thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất - Phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ - Đấu tranh tiền tệ với địch. Trải qua 57 năm từ ngày thành lập ngành ngân hàng, quá trình ngân hàng Việt Nam được chia làm 4 giai đoạn chính: a. Thời kỳ 1951-1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách; phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch. b. Thời kỳ 1954-1975: Tại Thông tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960 của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau; - Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế. 4
  5. - Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam. c. Thời kỳ 1975-1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà (ở miền Nam) đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. d. Thời kỳ 1986 đến nay: ngành ngân hàng Việt Nam trải qua 4 cuộc cải cách lớn: + Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất (1987 - 1990) : Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1987 nhằm làm cho hệ thống ngân hàng Việt Nam thích ứng với cơ chế mới: Cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bắt đầu trao quyền tự chủ tài chính cho các xí nghiệp, xoá bỏ bao cấp, thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Có hai điểm nổi bật trong công cuộc cải tổ ngân hàng lần thứ nhất. Thứ nhất là việc tách bộ phận Quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước ra khỏi Ngân hàng Nhà nước để hình thành Hệ thống Kho bạc Nhà nước. Thứ hai là thành lập hệ thống Ngân hàng chuyên doanh và tách chức năng kinh doanh của Ngân hàng Nhà nước giao về cho các ngân hàng chuyên doanh. Điều này được xem như là một bước cải tổ quan trọng vì bước đầu tách bạch rõ ràng được hai chức năng quản lý và kinh doanh của Ngân hàng Nhà nước. Từ đó hệ thống ngân hàng Việt Nam được phân thành 2 cấp rõ rệt: Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng chuyên doanh. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng lúc bấy giờ vẫn còn chứa đựng nhiều nhược điểm khiến cho hệ thống ngân hàng không thích ứng được khi chuyển sang cơ chế thị trường: - Thứ nhất là hệ thống ngân hàng vẫn còn mang tính chất độc quyền Nhà nước, chưa cho phép các thành phần kinh tế khác tham gia hoạt động ngân hàng. - Thứ hai là hệ thống Ngân hàng này vẫn chưa chú trọng đến vai trò hoạt động như một ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhà nước. - Thứ ba là hệ thống ngân hàng tổ chức theo kiểu này chưa phù hợp với hệ thống ngân hàng của các nước trên thế giới. Điều này phần nào làm cản trở quá trình hội nhập và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 5
  6. - Cuối cùng hệ thống ngân hàng này vẫn còn thiếu cơ sở pháp lý làm nền tảng cho hoạt động của cả hệ thống khiến cho cả hệ thống lâm vào tình trạng khó khăn vào năm 1990. Những nhược điểm như vừa nêu trên đòi hỏi một lần nữa phải cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Năm 1990 với sự ra đời của Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng Việt Nam bước vào thời kỳ cải tổ lần thứ hai. + Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ hai (1990 - 2000) Nhu cầu cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam xuất phát từ yêu cầu chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế đa thành phần. Ngày 23/05/1990 Hội Đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về các tổ chức tín dụng. Hai pháp lệnh này đánh dấu thời kỳ cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam lần thứ hai. Với hai pháp lệnh này hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức gần giống hệ thống ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường, bao gồm: • Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò ngân hàng trung ương • Các tổ chức tín dụng, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển, công ty tài chính và hợp tác xã tín dụng, đóng vai trò ngân hàng trung gian Hệ thống ngân hàng tổ chức theo pháp lệnh 1990 còn có ưu điểm nổi bật nữa là bắt đầu chú trọng đến vai trò ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhà nước thể hiện ở chỗ quy định và quản lý dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại. Điều này nhằm bảo đảm an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, tránh những sự cố đổ vỡ như đã từng xảy ra trước khi có pháp lệnh. Cải tổ hệ thống ngân hàng năm 1990 đã góp phần đa dạng hoá hoạt động ngân hàng về mặt hình thức sở hữu cũng như số lượng ngân hàng. Bảng 1 tóm tắt số lượng và hình thức sở hữu ngân hàng thương mại từ 1991 đến 1997. Bảng 1.1: Phát triển ngân hàng thương mại Việt Nam từ 1991 - 1997 1995 1996 1997 Ngân hàng quốc doanh 4 4 4 Ngân hàng cổ phần 4 41 48 Ngân hàng liên doanh 1 3 4 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 0 8 18 Tổng cộng 9 56 74 Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước 6
  7. Mặc dù giai đoạn 1991 - 1997 với sự ra đời của pháp lệnh ngân hàng, hệ thống ngân hàng đã có những bước tiến đáng kể nhưng hệ thống ngân hàng kiểu này vẫn cần có một nền tảng pháp lý vững chắc hơn đó là luật ngân hàng. + Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ ba (2000 - nay) Rút kinh nghiệm sau 7 năm thực hiện, Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh các tổ chức tín dụng đã được bổ sung sửa đổi và trở thành Luật Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và Luật Các Tổ Chức Tín Dụng được Quốc Hội thông qua ngày 12/12/1997 và được công bố ngày 26/12/1997. Theo Luật hiện hành, hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam bao gồm: • Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đóng vai trò ngân hàng trung ương • Các Tổ Chức Tín Dụng đóng vai trò định chế tài chính trung gian. Trong các loại hình tổ chức tín dụng vừa kể trên, ngân hàng thương mại là loại hình hoạt động mạnh nhất và đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hiện nay. Sau khi Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời, số lượng ngân hàng thương mại tiếp tục giá tăng. Bảng 1.2: Phát triển ngân hàng thương mại giai đoạn 1997 - 2001 1997 1999 2001 Ngân hàng quốc doanh 5 5 5 Ngân hàng cổ phần 51 48 39 Ngân hàng liên doanh 4 4 4 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 24 26 26 Tổng cộng 84 83 74 Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Mặc dù giai đoạn này có sự gia tăng mạnh số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng nhìn chung quy mô ngân hàng còn nhỏ bé nên hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh không cao. Đứng trước tình hình đó, một số ngân hàng thương mại cổ phần đã sáp nhập lại khiến cho số lượng ngân hàng thương mại giảm chỉ còn 39 ngân hàng vào năm 2001. Từ năm 2001 đến nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam bước vào thời kỳ cũng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng nhằm gia tăng sức cạnh tranh chuẩn bị tích cực cho thời kỳ hội nhập và tự do hoá hoạt động ngân hàng theo tinh thần Hiệp Định Thương Mại Việt Mỹ. 7
  8. 1.2. Nhiệm vụ, chức năng của ngân hàng trong quá trình phát triển đất nước: 1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của NHNN VN: * Nhiệm vụ cơ bản của NHNN nhằm duy trì ổn định giá cả, tăng sự ổn định trong hệ thống tài chính, tức là ổn định nền kinh tế. * Chức năng của NHNN: NHNN thực hiện chức năng của mình, vừa với tư cách là một bộ máy của chính phủ, cơ quan tham mưu cho Chính phủ trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng , vừa với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng. Do đó NHNN VN có các chức năng như sau: - Phát hành và điều tiết lưu thông tiền tệ: đây là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của NHTW, thực hiện chức năng này có tác động rất lớn đến tình hình tài chính, tiền tệ của quốc gia. - Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng: NHTW không trực tiếp giao dịch với doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế và cá nhân mà chỉ giao dịch với các NHTM, các tổ chức tín dụng. Thực hiện chức năng này bao gồm các hoạt động sau: + Mở tài khoản và tiếp nhận dự trữ tiền của các NHTM và các TCTD. + Tiếp vốn cho các NHTM và các TCTD bằng nhiều hình thức như chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay bắt buộc trong thanh toán bù trừ. + Tổ chức và thực hiện hệ thống thanh toán bù trừ giữa các NHTM. + Tổ chức điều hành hoạt động thị trường mở, thị trường liên ngân hàng. + Kiểm soát tín dụng đối với các NHTM bằng nhiếu biện pháp và công cụ khác nhau 1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của NHTM VN: * Nhiệm vụ của NHTM: Nhiệm vụ cơ bản nhất của NHTM đó là huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa cá nhân và tổ chức, “hút vốn” từ nơi nhàn rỗi và “bơm vào” nơi khan hiếm. * Chức năng của NHTM: - Chức năng trung gian tín dụng: đây là chức năng đặc trưng nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lời sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi. - Chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán: trong khi làm trung gian thanh toán , ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thể thanh toán ) đã tiết kiệm rất nhiều cho xã hội về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Việc làm truung 8
  9. gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức rất đa dạng , không chỉ là trung gian thanh toán truyền thống như trước mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí quan trọng , phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học, kỹ thuật. Ở các nước phát triển, phần lớn công tác thanh toán đều được thực hiện thông qua séc, phần lớn séc thanh toán trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua NHTM. - Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng cấp 2: quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống NHTW của mỗi nước. Các ngân hàng có khả năng tạo ra tiền khi họ cho vay hoặc đầu tư, tức là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cách cho vay và đầu tư. Khi một ngân hàng cho một cá nhân hay doanh nghiệp vay, nó tạo ra trên sổ sách của nó một khoản tiền gởi dành cho quyền lợi của người đi vay. Tương tự như vậy, khi ngân hàng mua trái phiếu kho bạc hay các loại chứng khoán khác cho danh mục của mình thì tiền gởi được tạo ra cho quyền lợi của những người bán chứng khoán này. Nói một cách khái quát, ngân hàng có khả năng tạo ra tiền dưới chiêu bài tiền gởi mới bằng cách cấp phát tín dụnd cho khách hàng và đầu tư vào chứng khoán. - Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác: ngày nay, ngân hàng cũng như hàng loạt các định chế tài chính khác đã và đang mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Những chức năng độc quyền của ngân hàng ngày càng thu hẹp, đồng thời ngân hàng từng bước thâm nhập vào chức năng của các tổ chức tài chính khác. Chẳng hạn ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực mô giới chứng khoán, kinh doanh bất động sản và bảo hiểm - Chức năng tài trợ ngoại thương và nghiệp vụ ngân hàng quốc tế: một trong những chức năng quan trọng nhất do các ngân hàng thực hiện trong việc tham gia vào nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu và nền thương mại cho các quốc gia. * Vai trò của NHTM: vai trò của NHTM được xác định trên cơ sơ chức năng và trên cơ sở các nhiệm vụ của nó trong từng giai đoạn. Bởi chức năng là tính vốn có của NHTM và vai trò của NHTM cũng chính là sự vận dụng các chức năng đó vào hoạt động thực tiễn. Vai trò của NHTM thay đổi cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội. Với các chức năng đã nêu trên vai trò của NHTM được thể hiện ở 2 mặt: - Thực thi chính sách tiền tệ được hoạch định bởi NHTW. - Góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng nghiệp vụ tạo tiền. 1.3. Khái quát tình hình hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam năm qua: Năm 2007, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, ngành Ngân hàng cũng đã đạt được những kết quả khả quan và có những đóng góp quan trọng vào phát triển và lớn mạnh của nền kinh tế. Nhiều cơ chế chính sách tiền tệ, tín dụng đã đi vào cuộc sống, nhiều đổi mới về tổ chức và 9
  10. mạng lưới đã được triển khai, sự hợp tác, liên kết chiến lược với các đối tác trong và ngoài nước đã được đẩy mạnh, nhiều NHTM đã ký kết hợp tác với nhiều tập đoàn kinh tế và ngân hàng trong và ngoài nước. Vốn pháp định của các NHTMNN và NHTMCP đã được tăng lên vượt bậc, nhiều NHTM CP đã gần đạt được mức vốn pháp định cho năm 2010. Nhiều loại hình dịch vụ tiền tệ, ngân hàng đã được phát triển. Đặc biệt trong năm 2007, công nghệ thông tin trong hệ thống ngân hàng đã phát triển vượt bậc, thanh toán thẻ và thanh toán không dùng tiền mặt đã tăng mạnh. Tốc độ tăng tổng tài sản của các NHTMCP đã đạt trên 30%, lợi nhuận của các NHTM đạt cao hơn nhiều năm trước đó. Đạt được những kết quả như vậy là nhờ sự nỗ lực của toàn hệ thống ngân hàng và sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ và các cơ quan chức năng, thể hiện ngay từ đầu năm 2007, trong Nghị quyết 03/2007/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2007 đã xác định nhiệm vụ tiền tệ, tín dụng như sau: “Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm kiểm soát được tỷ giá, lãi suất, lạm phát ” và kế hoạch tiền tệ, tín dụng năm 2007 là: Tổng phương tiện thanh toán tăng 20% - 23% và dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 18 - 22% so với năm 2006 cùng với nhiều cơ chế, chính sách đi kèm. Tính chung trong cả nước, tính đến hết tháng 11/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu tư đối với nền kinh tế của hệ thống NH tăng gần 34% và ước tính hết năm 2007 tăng tới 37-38% so với cuối năm 2006 và tăng gấp khoảng 2 lần so với mức dự kiến từ đầu năm là 17-21%. Tuy nhiên, vốn huy động trong xã hội còn có tốc độ tăng trưởng lớn hơn. Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trong cả nước tính đến hết 31/12/2007 ước tính tăng tới 36,5%, một số ước tính khác tăng 37-37,5%, gấp hơn 3,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là tốc độ tăng trưởng lớn nhất từ gần 20 năm đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay. Những lĩnh vực thu hút khối lượng lớn vốn tín dụng NH trong năm 2007 đó là đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng, đầu tư bất động sản mà đặc biệt là các dự án khu nhà ở mới và khu đô thị mới, đầu tư vốn trong lĩnh vực xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng thuỷ hải sản Bên cạnh đó, đối tượng đầu tư chứng khoán, vàng, tiêu dùng cũng thu hút một khối lượng rất lớn vốn tín dụng. Tốc độ tăng trưởng đó cũng cho thấy tiềm lực về vốn trong dân, trong xã hội rất lớn, hoạt động NH đổi mới mạnh mẽ tạo lòng tin cho khách hàng, cho người gửi tiền, dịch vụ phát triển đa dạng. Đồng thời cũng cho thấy, người dân ngày càng có thói quen gửi tiền vào NH vừa hưởng lãi, vừa an toàn. Bên cạnh những thành tích ở trên cũng còn một số điều cần bàn thể hiện ở các chỉ tiêu chủ yếu như sau: 10
  11. - Tổng phương tiện thanh toán cả năm 2007 tăng cao hơn nhiều năm trước: tăng khoảng 37% so với năm 2006, cao hơn mức tăng trung bình của thời kỳ 2001 - 2007 (xem đồ thị 1). Như vậy, nếu so với chỉ tiêu đề ra đầu năm thì tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán năm 2007 quá cao, vượt 80% so với kế hoạch. Đây là con số nói lên lượng cung tiền tệ tăng quá mức cần thiết của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong vấn đề này, có thể khẳng định là có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do năm 2007, lượng ngoại tệ vào nhiều thông qua con đường FDI, FII và kiều hối chuyển về, xuất khẩu tăng Đồ thị 1.1: Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán 40 35 30 25 20 15 10 5 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tæng ph­¬ng tiÖn thanh to¸n Nguồn: tạp chí ngân hàng số 2+3/2008 Nguồn vốn huy động của năm 2007 qua hệ thống ngân hàng tăng 39,6% so với cuối năm 2006 và là năm có tốc độ tăng huy động vốn cao nhất so với nhiều năm trước đây. Trong đó, việc huy động tiền đồng Việt Nam tăng cao, khoảng 45,6% so với năm 2006, huy động bằng ngoại tệ chỉ tăng ở mức 22,5%. Nếu xét về nỗ lực huy động vốn cho nền kinh tế thì đây là một thành tích đáng kể của hệ thống ngân hàng (xem đồ thị 2). Đồ thị 1.2: Tốc độ tăng huy động vốn cho nền kinh tế 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Huy ®éng vèn cho nÒn kinh tÕ Nguồn: tạp chí ngân hàng số 2+3/2008 11
  12. Thực tế trong năm 2007, nền kinh tế có nhu cầu về vốn rất lớn cho phát triển, nhưng với tốc độ tăng huy động vốn cao như nêu ở trên là quá cao, làm cho cầu về vốn tăng mạnh, gây ra áp lực tăng lãi suất tiền gửi làm ảnh hưởng không tốt đến tình hình đầu tư và hiệu quả của nền kinh tế. Việc tăng lãi suất quá cao có thể góp kiềm chế được lạm phát, nhưng có thể gây ra giảm đầu tư và hiệu quả của nền kinh tế lại bị tổn hại trong tương lai và nền kinh tế theo vòng xoáy lại có thể gặp khó khăn ở sự trì trệ và chậm tốc độ phát triển. Bên cạnh hai chỉ tiêu trên thì có thể thấy, dư nợ của hệ thống ngân hàng cho vay toàn nền kinh tế năm 2007 cũng tăng khá mạnh tăng 37,8%, cao đột biến so với nhiều năm trước đây. Đây là chỉ tiêu quan trọng đối với kiềm chế lạm phát và phát triển nền kinh tế. Đã có ý kiến cho rằng để nền kinh tế tăng trưởng cao cần tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhưng nếu tăng trưởng tín dụng quá cao như năm 2007 thì cần bàn thêm. Nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội của nền kinh tế năm 2007 là trên 452 ngàn tỷ đồng, trong đó, vốn huy động qua hệ thống ngân hàng chiếm khoảng 50%, tức là cần khoảng 226 ngàn tỷ đồng, trong khi thực tế nguồn vốn mà hệ thống ngân hàng cho vay ra nền kinh tế tăng khoảng 262 ngàn tỷ đồng so với năm 2006, như vậy cao hơn so với nhu cầu cần thiết khoảng 36 ngàn tỷ đồng. Nhưng vấn đề cần bàn chính là chỗ vòng quay đồng tiền năm 2007 có cao hơn các năm do các nhu cầu vốn cho kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản và vay vốn cho tiêu dùng. Sự hoạt động sôi động và phát triển mạnh của lĩnh vực chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng đã tác động ngược vào hệ thống ngân hàng làm cho nó cũng sôi động theo. Hơn nữa, có lẽ vấn đề chuyển dịch cơ cấu tín dụng còn chưa đúng hướng và có diễn biến phức tạp, thể hiện ở chỗ cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất có xu hướng tăng mạnh, trong khi lĩnh vực sản xuất lại chưa đáp ứng được nhu cầu (xem đồ thị 3). Đồ thị 1. 3: Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế 40 35 30 25 20 15 10 5 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 D­ nî tÝnh dông cho nÒn kinh tÕ Nguồn: tạp chí ngân hàng số 2+3/2008 12
  13. Những tháng cuối năm 2007, hệ thống ngân hàng đã thực hiện chính sách kiểm soát chặt chẽ tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng, tránh tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng và không an toàn. Tuy nhiên, như trên đã nêu, do những tháng đầu năm sự kiểm soát tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng chưa được quan tâm đúng mức nên mặc dù các tháng cuối năm đã có nhiều nỗ lực nhưng vẫn không đạt được kết quả như mong muốn. Trong năm 2007, đã có nhiều giải pháp, cơ chế, chính sách được tiến hành khá tốt như: nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt đã góp phần đáng kể trong điều hành chính sách tiền tệ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được nâng lên 2 lần từ tháng 6 năm 2007, lãi suất đã được duy trì ở mức ổn định. Công tác chiết khấu và cho vay cầm cố đã được tiến hành hợp lý trong những trường hợp cần thiết. Đặc biệt trong năm 2007, công tác thu nợ đã được đẩy mạnh để rút tiền về NHNN khi đến hạn. Cơ chế chính sách điều hành tỷ giá hối đoái đã được vận dụng linh hoạt, bám sát cung cầu ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái đã được giữ ở mức tương đối ổn định trên thị trường liên ngân hàng và trong nền kinh tế, không để cho đồng Việt Nam lên giá so với đồng USD. Điểm đáng chú ý trong năm 2007, là hoạt động tín dụng tiếp tục mở rộng và có hiệu quả, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng giảm và ở mức thấp. Các NHTMNN đã tiến hành tích cực công tác chuẩn bị cổ phần hoá. Việc IPO thành công của Vietcombank vừa qua là một điểm khởi đầu cho sự chuyển đổi mạnh mẽ của các NHTMNN. Qua một năm Việt Nam gia nhập WTO, các NHTM và toàn hệ thống ngân hàng nước ta đã có thêm được nhiều kinh nghiệm và đang thể hiện sự vững vàng đi lên. Đội ngũ cán bộ của hệ thống ngân hàng đã tăng lên đáng kể Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, vẫn còn nhiều bất cập trong chính sách tiền tệ, tín dụng như: chất lượng tín dụng còn chưa cao được như mong muốn, nguy cơ nợ xấu tăng cao và rủi ro tín dụng vẫn còn tiềm ẩn, công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ vẫn chưa nâng cao được đúng mức nên hiệu quả chưa cao; chính sách tiền tệ, tín dụng vẫn chưa được để ý đúng mức trong công tác kiềm chế lạm phát và ổn định nền kinh tế. Hệ thống dịch vụ ngân hàng đã phát triển nhưng cũng chưa được nhiều; dư nợ cho vay nền kinh tế còn tăng quá mức cần thiết, tỷ lệ huy động vốn dài hạn chưa cao; mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng vẫn còn phải được quan tâm. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA Năm 2007 được đánh giá là năm sôi động nhất của lĩnh vực ngân hàng, là một năm ngành ngân hàng gặt hái nhiều thành công. Thành công này được hưởng lợi từ quá trình hội nhập của Việt 13
  14. Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đã biết tận dụng cơ hội này để phá triển. Chính sự phát triển thuận lợi đó đã đem lại nhiều lợi ích cho ngành ngân hàng. Nhu cầu của doanh nghiệp, người dân đến với ngân hàng ngày càng nhiều. Khách hàng bắt đầu xuất hiện những nhu cầu mới và nhu cầu cũ cũng ngày càng gia tăng. từ các lĩnh vực kinh doanh như tín dụng, huy động, đầu tư đến việc mở rộng mạng lưới tăng trưởng tốt, hơn bao giờ hết. Huy động vốn đạt kỷ lục. Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng và tổ chức tín dụng trong cả nước tính đến hết 31/12/2007 ước tính tăng tới 36,5%, một số ước tính khác tăng 37-37,5%, gấp hơn 3,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là tốc độ tăng trưởng lớn nhất từ gần 20 năm đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay. Chạy đua lập ngân hàng mới. Năm 2007 chứng kiến cuộc chạy đua xin phép thành lập ngân hàng mới của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong nước. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy chế thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần. Lãi suất huy động VND tăng kỷ lục. Năm 2007, lãi suất huy động USD chứng kiến 3 đợt tăng phổ biến, ngược với diễn biến trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, lãi suất huy động VND được các ngân hàng đẩy lên mức kỷ lục 2 con số, phản ánh cầu nội tệ khá căng thẳng vào những tháng cuối năm. Các ngân hàng trong nước rơi vào tình trạng khan hiếm VND và dư thừa USD vào những tháng cuối năm 2007. Điều này có lặp lại vào năm 2008? Tuy nhiên cạnh tranh năm 2008 chỉ mới bắt đầu. Từ 2008 đến 2012 sự cạnh tranh sẽ tăng mạnh mẽ và quyết liệt đồng thời với sự gia tăng của các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng mới trong nước. Các ngân hàng sẽ giành giật nhau thị phần, các mảng kinh doanh đều có sự cạnh tranh gay gắt. Ngân hàng nào nhanh chóng có được công nghệ, đội ngũ, quản trị rủi ro tốt thì ngân hàng đó sẽ đứng vững. Còn những ngân hàng yếu thế sẽ có xu hướng sáp nhập với nhau. Vậy thực lực của ngành ngân hàng như thế nào chúng ta hãy đi vào phân tích tìm hiểu. 2.1. Những thành tựu và tồn tại của ngành ngân hàng Việt Nam trước thời kỳ hội nhập: 2.1.1. Những thành tựu đạt được: - Hầu hết các ngân hàng được thành lập và hoạt động lâu năm so với các định chế tài chính khác đặc biệt là các NHTMNN. Nên thương hiệu của các ngân hàng được biết đến một cách rộng 14
  15. rãi, đã nằm trong trí nhớ của nhiều người. Đặc biệt đối với không ít người dân, mỗi khi có hoạt động thanh toán, gửi tiền thì điều đầu tiên họ nghĩ đến đó là phải đến NH. - Riêng đối với các NHTMNN thường có quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp nhà nước, các Tổng công ty, doanh nghiệp lớn. Mạng lưới hoạt động khá rộng trên toàn quốc, nhiều khách hàng truyền thống, thị phần lớn, ổn định. Hơn nữa, các NH này có được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và ở một góc độ nào đó, các NHTMNN cũng có được môi trường pháp lý thuận lợi hơn so với các NHTM CP, liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. - Sau gần 15 năm hoạt động trong kinh tế thị trường, các NHTM VN đã có được một số lượng khách hàng khá đông đảo và có mối quan hệ với hầu hết các đối tượng khách hàng. Chẳng hạn như: Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam có thế mạnh trong việc cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn cho các dự án lớn. Ngân hàng Ngoại thương tập trung vào cung cấp các dich vụ quốc tế như thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam lại tập trung vào tài trợ cho các dự án tài chính phát triển nông thôn Việt Nam với mạng lưới chi nhánh dày đặc trên cả nước. NHTMCP tập trung phục vụ đối tượng khách hàng là doanh nghiệp tư nhân Các NHTM VN luôn chú trọng tới mối quan hệ với khách hàng, đặc biệt là có thể phục vụ các khách hàng có mức độ rủi ro rất cao theo tiêu chí của các ngân hàng nước ngoài. - Từ ngày thành lập đến nay, mạng lưới ngân hàng Việt Nam hầu như có mặt ở khắp các tỉnh thành trong cả nước với hệ thống các chi nhánh, phòng giao dịch ngày càng gia tăng, quan hệ với khách hàng ngày càng chặt chẽ. Đây là điều kiện thuận lợi giúp các ngân hàng tăng cường khả năng huy động vốn và tín dụng đến những vùng tiềm năng. Và đây cũng là yếu tố quan trọng nhất giúp cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. - Sự sôi động của thị trường chứng khoán trong năm vừa qua đã khiến các dịch vụ thẻ, mở tài khoản của cá nhân và tổ chức nhộn nhịp hơn. Điều này cùng với một số dịch vụ khác về quản lý tài chính doanh nghiệp và cá nhân đã mang lại những nguồn thu đáng kể cho các ngân hàng. Theo số liệu mới công bố của NHNN, đến nay (2/2008) cả nước có 32 tổ chức phát hành thẻ, với tổng số lượng thẻ là 8,3 triệu thẻ; 4.300 máy ATM; 23.000 điểm bán hàng hoá và dịch vụ chấp nhận thanh toán thẻ (POS). Trong đó 85% lượng máy ATM phân bố tại các thành phố lớn. Hiện có 10 tổ chức trên toàn quốc có lượng ATM nhiều nhất sau: Bảng 2.1: số máy ATM của một số NH 15
  16. 2.1.2. Những tồn tại cần khắc phục:: - Hiện nay hầu hết các ngân hàng đều chưa xây dựng được một chiến lược cạnh tranh dài hạn rõ ràng, đảm bảo tính khả thi cao dựa trên lợi thế riêng có, mà chủ yếu vẫn kinh doanh theo chiến lược ngắn hạn, thậm chí là “chụp giật, bóc ngắn - cắn dài”. - Khuôn khổ Luật Pháp điều chỉnh hoạt động Ngân hàng nói chung phần nào còn mang nhiều dấu ấn của cơ chế mệnh lệnh hành chính và cơ chế xin - cho. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN nói chung còn bị giới hạn so với thông lệ quốc tế - Hoạt động Ngân hàng theo Luật hiện hành còn bị thu hút nhiều vào nhiệm vụ quản lý Nhà nước hơn là việc phát huy các thiên chức của NHTW. - Các Ngân hàng đặc biệt là NHTMNN của Việt Nam hiện tại vẫn bị đánh giá là kém phát triển và chậm hội nhập, do hạn chế về công nghệ, tài chính, vốn và trình độ quản lý. Đến nay, cả 5 NHTMNN với tổng số vốn thuộc sở hữu nhà nước cũng chỉ đạt khoảng 19.400 tỷ đồng, hệ số an toàn bình quân toàn hệ thống chỉ đạt dưới 5%, trong khi tỷ lệ tương ứng theo thông lệ quốc tế phải đạt tối thiểu 8%. Mặt khác, hoạt động của các NHTMNN lại chịu không ít rủi ro bởi có tới 70% vốn huy động là vốn ngắn hạn, nguồn vốn có kỳ hạn trên 5 năm chỉ chiếm khoảng 7%, nhưng các NH hiện nay đang phải sử dụng tới 30-35% vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. - Chất lượng tài sản thấp, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm nhưng vẫn còn ở tỷ lệ cao nhất là các NHTMNN (tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2007 là 2,2%, có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm. Hệ thống báo cáo chưa minh bạch, khả năng sinh lời thấp, chi phí quản lý cao Đồ thị 2.1: Tỷ lệ nợ xấu ở các nhóm ngân hàng. 16
  17. - Các sản phẩm dịch vụ mặc dù đã có sự cải tiến đáng kể so với cách đây 5-7 năm, nhưng vẫn còn rất đơn điệu, phần lớn chú trọng đến các nghiệp vụ huy động – cho vay, thanh toán, ngân quỹ, còn đối với các sản phẩm dịch vụ mới như: quản lý tài sản, vốn, kinh doanh chứng khoán, tư vấn tài chính, bảo hiểm, đầu tư chưa thực sự phát triển. - Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. “Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống”. - Nguồn nhân lực có trình độ và chuyên môn cao như đội ngũ chuyên gia quản lý giỏi về cơ chế chính sách, luật lệ quốc tế còn thiếu rất nhiều. Chưa đổi mới lề lối, phương thức làm việc, tư duy kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ NH. - Các ngân hàng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, trong đó có việc tìm kiếm khách hàng để giải nguồn vốn huy động. Thị phần tín dụng cho vay cũng đang gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ thị trường chứng khoán, công ty tài chính, các quỹ đầu tư, bảo hiểm - Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn cũng có nghĩa chi phí huy động vốn của các ngân hàng cao hơn. Chưa hết, lạm phát tính đến quý I -2008 đã lên đến 9% một kỷ lục mới trong nhiều năm qua, các ngân hàng sẽ phải tiếp tục tăng lãi suất huy động để giữ chân cũng như thu hút khách hàng. 2.2. Những cơ hội và thách thức trong thời gian tới. 2.2.1. Những cơ hội: - Với thị trường khoảng 87 triệu dân và tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ ngân hàng còn rất thấp (khoảng 10%) như hiện nay và có tới 95% giao dịch thanh toán tại Việt Nam sử dụng tiền mặt, 50% doanh thu của các NHTM đến từ ngân hàng những thành phố lớn, điều này cho thấy ngành ngân hàng ở nước ta có tiềm năng rất lớn. 17
  18. - Việt Nam đã gia nhập sân chơi thế giới nên môi trường pháp lý sẽ thuận lợi hơn và cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng công bằng hơn. - Nhu cầu dịch vụ ngân hàng và tài chính gia tăng: Gia nhập WTO sẽ làm tăng nhu cầu về dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng quốc tế. Do các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường hàng hoá quốc tế, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, đồng thời, các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài cũng có nhiều cơ hội thâm nhập và xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Việt Nam nên các luồng vốn chu chuyển thông qua hệ thống tài chính, ngân hàng cũng gia tăng. Đồng thời, gia nhập WTO là động lực đối với sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam. Quá trình hội nhập quốc tế buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, nâng cao năng lực và kinh doanh có hiệu quả hơn. Vì vậy, môi trường kinh doanh ngân hàng có mức độ rủi ro thấp hơn, hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả hơn.Và sự hiệu quả của khách hàng chính là hiệu quả của ngân hàng. - Trong lộ trình thực hiện đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006- 2010 và định hướng đến 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg ngày 29-12-2006. Ngày 24/8/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước. Chỉ thị này đã đem lại nhiều cơ hội mới cho các ngân hàng. - Trong năm 2008 sẽ có khoảng trên 30 ngân hàng kết nối liên thông thanh toán thẻ với nhau, trong đó có các đơn vị phát hành thẻ lớn như 4 ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng cổ phần như Đông Á với tổng số khoảng 7 triệu thẻ, 4.300 máy ATM và khoảng 22 ngàn điểm chấp nhận thẻ trên toàn quốc. Như vậy, với sự kết nối này, gần như toàn bộ thị trường thẻ Việt Nam đã có thể liên thông với nhau. - Nâng cao năng lực cạnh tranh: Việc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng sẽ phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ thúc đẩy hiệu quả không chỉ trong huy động, phân bổ các nguồn vốn mà còn thúc đẩy hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng. Ngoài ra, mở cửa thị trường tài chính dẫn đến quá trình sắp xếp lại thị trường và hoạt động ngân hàng theo hướng chuyên môn hóa tùy theo thế mạnh cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Hơn nữa, quá trình hội nhập sẽ tạo ra những ngân hàng có quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả. Khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết hợp tác với các đối tác nước ngoài trong chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và khai thác thị trường. Hội nhập quốc tế cũng tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh do mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với khu vực thị trường mới, các nhóm khách hàng có mức độ rủi ro thấp. 18
  19. - Tiếp thu công nghệ ngân hàng và trình độ quản lí: gia nhập WTO sẽ thúc đẩy sự học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ công nghệ và quản trị ngân hàng. Đây là điều kiện tốt để tiếp thu các công nghệ ngân hàng và các kỹ năng quản lý tiên tiến thông sự liên kết, hợp tác kinh doanh, các khoản hỗ trợ kỹ thuật của các ngân hàng nước ngoài cho các ngân hàng trong nước. Sự tham gia điều hành, quản trị của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước sẽ tạo điều kiện cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh của các ngân hàng trong nước. Các ngân hàng trong nước có nhiều thuận lợi trong hỗ trợ về tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức mới của các ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế; hỗ trợ xây dựng năng lực quản trị ngân hàng tiên tiến, tăng cường khả năng phòng ngừa và xử lý rủi ro nhờ áp dụng công nghệ ngân hàng, kỹ năng quản trị, phát triển sản phẩm mới. - Sự kết hợp giữa ngân hàng trong nước với các ngân hàng, tập đoàn tài chính lớn trên thế giới có chi nhánh hay văn phòng đại diện tại Việt Nam (như sự hợp tác của Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Standar Chactered, Ngân hàng Techcombank và Ngân hàng HSBC, Ngân hàng Phương Nam và Tập đoàn Tài chính Hana (Hàn Quốc), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội và Tập đoàn tài chính Mỹ The Clearwater Capital Partners (CCP) ) đã đem đến cho ngân hàng những cơ hội cho việc phát triển ngân hàng ngày càng hiện đại hơn, chuyên nghiệp hơn. Như những kinh nghiệm trong việc quản lý việc huy động tiền gởi, quản lý chất lượng cho các khoản cho vay, phát triển dư nợ, mở rộng các sản phẩm, dịch vụ của ngành, ứng dụng công nghệ mới - Tiệp cận thị trường vốn quốc tế và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nước: Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng sẽ giúp khơi thông thu hút nguồn vốn thể hiện ở việc các ngân hàng trong nước có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và chi phí cơ hội. Do các hạn chế về đầu tư tài chính được dỡ bỏ, các ngân hàng trong nước sẽ linh hoạt hơn trong việc phản ứng, điều chỉnh hành vi của mình theo các diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để tối đa hóa cơ hội sinh lời và giảm thiểu rủi ro. Sự hiện diện của các thể chế tài chính quốc tế sẽ giúp cho các ngân hàng trong nước tiếp cận được dễ dàng hơn với thị trường vốn quốc tế. Tự do hoá tài chính làm giảm chi phí vốn do giảm mức độ rủi ro trên thị trường nội địa, thị trường tài chính trong nước trở nên có tính thanh khoản lớn hơn, vì vậy, cả các trung gian tài chính và doanh nghiệp đều được hưởng lợi. 2.2.2.Một số thách thức: - Trước thách thức mới của quá trình hội nhập hiện nay, đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải chuyển sang giai đoạn mới là phát triển theo chiều sâu với nhiệm vụ: cơ cấu lại các NH thương mại, 19
  20. cổ phần hoá các NH thương mại Nhà nước, tăng quy mô vốn của các NH và cải thiện năng lực quản trị điều hành. - Vốn điều lệ và vốn tự có có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và đặc biệt đối với NHTM. Vốn điều lệ là tiềm lực tài chính, là điều kiện đảm bảo an toàn trong hoạt động tài chính của NHTM, là uy tín của NHTM để tạo lòng tin với công chúng. Vậy mà hiện nay vốn điều lệ của NHTM VN còn nhỏ bé, kể cả các NHTM Quốc doanh, khoảng từ 2.000 - 3.000 tỷ đồng, tương đương với khoảng 130 - 150 triệu USD. Việc tăng vốn nhanh sẽ làm gia tăng áp lực lên quá trình phát triển kinh doanh của các ngân hàng. Theo Nghị định 141/CP về danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng thì các ngân hàng thương mại cổ phần và liên doanh đến cuối năm 2008 phải đạt mức vốn tối thiểu 1.000 tỷ đồng và đến cuối năm 2010 tất cả các ngân hàng thương mại phải có vốn tối thiểu là 3.000 tỷ đồng. Nếu không sẽ chịu các biện pháp xử lý, kể cả thu hồi giấy phép hoạt động. Bảng 2.2: Vốn điều lệ của một số ngân hàng: Ngoài những ngân hàng trên, hiện nhiều ngân hàng cũng đang xây dựng kế hoạch điều chỉnh vốn điều lệ trong năm 2008. Tuy nhiên, các phương án tăng vốn của những ngân hàng này vẫn đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa thể công bố đến nhà đầu tư. Việc phát hành thêm cổ phiếu tăng vốn của ngân hàng trong năm nay chủ yếu thông qua hình thức thưởng cổ phiếu hoặc bán với giá ưu đãi bằng mệnh giá, thay vì "treo" giá cao như 2 năm trước đây. Nguyên nhân là do cổ phiếu ngân hàng không còn hấp dẫn giới đầu tư như trước đây. Đồng thời, nhiều ngân hàng đã điều chỉnh lợi 20
  21. nhuận năm 2008 so với kế hoạch dự kiến ban đầu, vì diễn biến của thị trường tiền tệ đang tạo nhiều gánh nặng lên vai các ngân hàng. Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức an toàn của ngân hàng là tỷ trọng vốn tự có so với tổng tài sản có rủi ro. Điều 81 - Luật các tổ chức tín dụng 12/1997 đã quy định tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn này. Theo thông lệ quốc tế, tỷ trọng này tối thiểu là 8%. Vậy mà các NHTM VN mới chỉ đạt mức cao nhất là gần 5%. Mức vốn tự có nhỏ bé còn làm hạn chế khả năng mở rộng cho vay bảo lãnh do quy định của Luật các tổ chức tín dụng - Điều 79: Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Điều này hạn chế NHTM cho vay bảo lãnh các dự án lớn. - Trong năm 2008 dự báo sẽ có tới 50 ngân hàng thương mại cổ phần và khoảng 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Khoảng chục ngân hàng cổ phần mới sẽ chính thức nhập cuộc năm nay. Chưa hoạt động nhưng một số thành viên đã mạnh dạn đặt mục tiêu lợi nhuận, điều này hứa hẹn một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ và sôi động trong ngành ngân hàng. - Với sự phát triển “nóng” của thị trường chứng khoán và thị trường kinh doanh bất động sản trong giai đoạn qua, một phần nguồn tiền trong nền kinh tế đã chuyển sang đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản. Do đó lượng tiền tạm thời nhàn rỗi gởi vào các ngân hàng không còn như trước nữa. Một phần thị phần của ngân hàng trong lĩnh vực huy động vốn đã bị san sẽ cho các lĩnh vực này. Tuy nhiên, nếu xét về mặt cho vay để đầu tư vào 2 lĩnh vực này thì dư nợ hiện tại không phải là một con số nhỏ. Số tiền giải ngân cho những khoản vay này lớn đến nổi NHNN phải khống chế lại tỷ lệ cho vay kinh doanh chứng khoán với tỷ lệ dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của ngân hàng (theo quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN về việc cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán và việc ban hành công văn ngưng trong việc cho vay kinh doanh bất động sản. - Hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay vẫn mang tính chất "độc canh". Sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như: quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ v.v. - Môi trường pháp lý cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa thật sự hoàn thiện. Mà đối với hoạt động ngân hàng trong môi trường hội nhậphiện nay thì đây là vấn đề được xem là cấp bách. Việc chỉnh sửa, bổ sung, mà việc này lại liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, vào sự thay đổi nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của người dân, do vậy việc thực hiện không phải dễ dàng. Nó đòi hỏi phải có thời gian và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ sở hạ tầng kinh tế, trình độ của người làm luật 21
  22. - Tính bảo mật cơ sở dữ liệu cũng là một vấn đề đáng lo của ngành ngân hàng, trong vòng 2 năm trở lại đây cuộc sống của chúng ta ngày càng dựa dẫm vào Internet nhiều hơn, nên hệ quả là số vụ tấn công nhằm vào thanh toán trực tuyến, ngân hàng, giao dịch chứng khoán và mạng xã hội ảo cũng tăng theo. - Hội nhập kinh tế thế giới là một xu hướng tất yếu của tất cả các ngành, nghề trong nền kinh tế. Tuy nhiên điều này không chỉ mang lại những cơ hội mới mà nó còn mang lại cả những rủi ro, thách thức đáng kể cho toàn bộ nền kinh tế. Những biến động của một nền kinh tế sẽ nhanh chóng lan rộng ra khắp khu vực và toàn cầu. Chính vì thế hội nhập kinh tế đồng nghĩa là việc ghánh chụi rủi ro và sống chung với rủi ro. Trong nền kinh tế này, ngân hàng và doanh nghiệp có mối quan hệ rất chặt chẽ với nha như nhiều NHTM VN đã nói: sự thành đạt của khách hàng cũng là sự thành đạt của ngân hàng. Điều này có nghĩa là các ngân hàng phải cùng ghánh chịu rủi ro của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Vấn đề đặt ra là các ngân hàng Việt Nam phải làm sao quản trị được các rủi ro đó. - Ở nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng, các hình thức tổ chức tín dụng khác cũng ngày càng đa dạng, như: các công ty tài chính, quỹ đầu tư, bảo hiểm và thị trường chứng khoán Điều này đồng nghĩa với việc các ngân hàng phải cạnh tranh quyết liệt với các TCTD về thị phần huy động vốn lẫn cho vay. 2.3. Triển vọng phát triển của ngành trong tương lai: 2.3.1. Định hướng phát triển các ngân hàng trong thời gian tới - Các NHTMNN và các NHTM có cổ phần chi phối của Nhà nước đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong hệ thống ngân hàng về quy mô hoạt động, năng lực tài chính, công nghệ, quản lý và hiệu quả kinh doanh. Các NHTMNN cùng với NHTMCP trong nước đóng vai trò nòng cốt trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các TCTD nước ngoài và các TCTD phi ngân hàng khác góp phần bảo đảm sự phát triển hoàn chỉnh, an toàn và hiệu quả của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các NHTM Việt Nam với chất lượng dịch vụ cao và thương hiệu mạnh. - Tiếp tục cơ cấu lại toàn diện các NHTM theo Đề án cơ cấu lại các NHTMNN và Đề án củng cố, chấn chỉnh các NHTMCP, cụ thể: - Tăng cường năng lực thể chế (cơ cấu lại tổ chức và hoạt động): Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các NHTM từ trung ương đến chi nhánh. Đổi mới tổ chức bộ máy quản lý, kinh doanh ở hội sở chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị và ban điều hành. Bộ phận giúp việc Hội đồng quản trị ít nhất gồm có Ban Kiểm soát/Kiểm toán, Hội đồng/Ủy ban quản lý rủi ro. 22
  23. Mở rộng quan hệ đại lý, hợp tác kinh doanh, phát triển sản phẩm, ứng dụng và chuyển giao công nghệ với các tổ chức tài chính nước ngoài. Xúc tiến hiện diện thương mại của các NHTM VN tại các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Mở rộng quy mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực tự kiểm tra, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn và hiệu quả kinh doanh. Bảo đảm để cơ quan kiểm toán nội bộ, hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động độc lập và chuyên nghiệp. Phát triển hệ thống thông tin tập trung và quản lý rủi ro độc lập, tập trung toàn hệ thống. Phát triển các hệ thống quản lý của NHTM phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế và thực tiễn của các NHTM Việt Nam. - Tăng cường năng lực tài chính (Cơ cấu lại tài chính): Lành mạnh hoá và nâng cao một cách nhanh chóng và căn bản năng lực tài chính của các NHTM để bảo đảm các NHTM có đủ năng lực tài chính (về quy mô và chất lượng). Tiếp tục tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối của các NHTMNN. Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp nhập; hợp nhất; mua lại. Kiên quyết xử lý các NHTMCP yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể, phá sản các NHTMCP theo quy định pháp luật, song đảm bảo không gây tác động lớn về mặt kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho các NHTM mua, bán, hợp nhất, sáp nhập để tăng khả năng cạnh tranh và quy mô hoạt động. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong dài hạn. - Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các ngân hàng có tiềm lực tài chính, công nghệ, quản lý và uy tín mua cổ phiếu, tham gia quản trị, điều hành NHTM Việt Nam. Về lâu dài, nhà nước chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc tỷ lệ cổ phần lớn tại một số ít NHTMNN được cổ phần hoá tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng và yêu cầu quản lý, bảo đảm an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao nguyên tắc thương mại, kỷ luật thị trường trong hoạt động của các NHTM. - Đổi mới căn bản cơ chế quản lý đối với các NHTMNN và các TCTD khác. Theo đó, các TCTD được thực sự tự chủ (về tài chính, hoạt động, quản trị điều hành, tổ chức bộ máy, nhân sự), hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và được hoạt động trong khuôn khổ pháp lý minh bạch, công khai, bình đẳng. Quan hệ giữa NHNN với các TCTD không chỉ là quan hệ quản lý nhà nước mà còn là quan hệ kinh tế trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường, minh bạch, xoá bỏ 23
  24. bao cấp, đặc quyền, thiên vị và độc quyền kinh doanh. Xoá bỏ cơ chế đại diện chủ sở hữu của NHNN đối với các NHTMNN. NHNN đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động tiền tệ, ngân hàng thông qua việc ban hành các quy định, chính sách, điều tiết thị trường tiền tệ và tổ chức thực hiện giám sát an toàn cũng như việc chấp hành các quy định pháp luật trong hoạt động tiền tệ, ngân hàng. 2.3.2. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước ngoài: Hội nhập là quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có thời gian cần thiết cho sự chuyển đổi đồng thời phải thực hiện một cách đồng bộ việc cải cách cả tổ chức và hoạt động quản lý, cả tổ chức và hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng để có thể phát huy tối đa cơ hội và giảm thiểu những bất lợi trong tiến trình hội nhập. Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo cam kết song phương và đa phương sẽ làm tăng số lượng đối thủ cạnh tranh có tiềm lực về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý và gia tăng các áp lực cạnh tranh trên thị trường nội địa do nới lỏng các hạn chế cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng Việt Nam đang trong tình trạng vốn nhỏ, năng lực tài chính yếu, chất lượng tài sản có thấp. Nợ xấu của các ngân hàng còn lớn, trình độ quản lý ngân hàng còn yếu và khả năng chống đỡ rủi ro của các ngân hàng Việt Nam còn thấp. Hầu hết các ngân hàng còn thiếu chiến lược kinh doanh bền vững, chủ yếu tăng theo chiều rộng bằng tăng tài sản có, mở rộng tín dụng, không chú trọng nâng cao chất lượng tài sản và khả năng sinh lời. Bên cạnh đó, công nghệ ngân hàng còn lạc hậu; các ngân hàng cũng chưa thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu, hệ thống thanh toán nội bộ còn yếu; kiểm tra, kiểm toán chưa hiệu quả; hệ thống thông tin quản lý tập trung và hệ thống kế toán, quản lý tài chính chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt khác, đội ngũ cán bộ của hệ thống ngân hàng tuy khá đông nhưng trình độ am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp trong nước, quốc tế, các nguyên tắc của WTO còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Không chỉ hạn chế về dịch vụ, nhân lực, tài chính, các ngân hàng Việt Nam còn phải đối mặt với hàng loạt các thách thức khác như những rủi ro ngoại sinh từ thị trường tài chính khu vực và quốc tế; mất dần lợi thế cạnh tranh về quy mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối Từ thực tế trên có thể nói sự cạnh tranh của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước ngoài là rất yếu. hiện tại thì cuộc cạnh tranh chỉ mới bắt đầu nhưng nếu các ngân hàng không đổi mới không chú trọng đầu tư vào công nghệ cũng như phát triển các dịch vụ ngân hàng thì thị 24
  25. phần của các ngân hàng trong nước sẽ mất đi đáng kể theo các chuyên gia nước ngoài dự đoán thì hoạt động mua lại và sáp nhập (M&A) sẽ là một lĩnh vực phát triển với tốc độ nhanh trong bối cảnh tự do hóa hoạt động ngân hàng theo các cam kết với WTO và dự đoán trong vòng từ năm đến bảy năm nữa, ở Việt Nam sẽ chỉ còn một nửa số ngân hàng so với hiện nay. 2.3.3. Khả năng phát triển thị phần của ngành ngân hàng trong thời gian tới: Trong thời gian đến khối NH thương mại cổ phần sẽ bức phá và sẽ chiếm dần thị phần của khối quốc doanh. Hiện tại, thị phần ngân hàng đang tạm chia từ 56,9% của khối quốc doanh, 3,3% của ngân hàng phát triển và ngân hàng chính sách, 26,5% của khối thương mại cổ phần, 9,4% của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh, 3,9% thuộc về công ty tài chính, cho thuê tài chính và quỹ tín dụng nhân dân Đồ thị 2.2: Thị phần ngành ngân hàng. Nguồn: Tổng hợp các báo và tạp chí. Như vậy, khối NHTM nhà nước vẫn chiếm thị phần lớn trên thị trường huy động và cho vay vốn, cho dù tỷ trọng của khối này đã giảm xuống đáng kể (66,1% năm 2006 xuống 61,6% 6 tháng năm 2007) nhưng về số tuyệt đối vẫn tăng lên ( 6 tháng đầu năm đạt 94.472 tỷ đồng). Trong khi đó, thị phần của khối NHTM cổ phần đã dần tăng lên từ 21,3% vào cuối năm 2006 lên 24,2% vào giữa năm 2007. Đây có thể coi là một thành công rất đáng ghi nhận của khối NHTM cổ phần vào thời điểm kênh huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng nói chung và khối NHTM cổ phần nói riêng. Chịu tác động chung của thị trường vốn là khối các tổ chức tín dụng (TCTD) phi ngân hàng, vốn huy động và 25
  26. đi vay của khối có sự sụt giảm về thị phần của toàn hệ thống các TCTD mặc dù về số tuyệt đối các tổ chức này vẫn tăng lên 14.130 tỷ đồng so với cuối năm 2006. 2.3.4. Khả năng tăng trưởng doanh thu và cắt giảm chi phí trong hoạt động của ngân hàng: Vốn đầu tư cho nền kinh tế của hệ thống NH thời kỳ này sẽ tạo ra tăng trưởng ở thời kỳ sau, ít nhất là 6 tháng. Như vậy trong các tháng cuối năm cũng như năm 2008 và các năm tới có thể khẳng định nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có tốc độ phát triển cao không chỉ dư vốn cho vay của hệ thống NH mà còn do tốc độ chu chuyển vốn trong thanh toán, khả năng huy động vốn để đáp ứng cho các kênh đầu tư khác: đầu tư trên TTCK, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thành lập quỹ đầu tư và doanh nghiệp. 2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng: 2.4.1. Nền kinh tế: - Năm 2007, Việt Nam được đánh giá là con rồng kinh tế mới với bước tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua (8,5%), trở thành một trong những nền kinh tế năng động và hứa hẹn nhất châu Á. Mặc dù gặp nhiều khó khăn như cơn sốt giá dầu, thiên tai, dịch bệnh nhưng thị trường tài chính Việt Nam tiếp tục có bước phát triển mạnh với tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu đạt xấp xỉ 40% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt 17% GDP. Bảng 2.3: GDP qua các thời kì: - Các NHTM mở rộng huy động vốn bằng nhiều hình thức và giải pháp khác nhau như: mở rộng mang lưới các chi nhánh, phòng giao dịch trên phạm vi toàn quốc nhằm đảm bảo cho việc huy động vốn được thuận tiện hơn, dễ dàng hơn. Hiện đại hóa công nghệ gắn liền với tác phong giao dịch của nhân viên giao dịch thể hiện sự tôn trọng của ngân hàng với khách hàng cũng là một cách để nâng cao hiệu quả huy động vốn cho các NHTM. Thêm vào đó việc các NHTM tạo cho khách hàng một sự lựa chọn linh hoạt trong việc gởi tiền đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng rất cần thiết và tạo cho khách hàng một sự thỏa mãng, anh toàn. Nếu các NHTM nâng cao năng lực của mình hơn nữa trong việc huy động tiền gởi thì khả năng thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn vì dù sao đi nữa ngân hàng vẫn là một kênh huy động tiền gởi tiết kiện truyền thồng và hầu như là an toàn tuyệt đối trong thị trường. 26
  27. - Theo thống kê của một số tổ chức thì nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20-25%, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Cụ thể là trong năm 2000 vồn huy động của hệ thống ngân hàng tăng 26,5% so với năm trước, năm 2001 tăng 25,5%, năm 2002 tăng 17,7%, năm 2003 tăng 24,94%, năm 2004 tăng khoảng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%. - Nguồn vốn huy động của toàn hệ thống ngân hàng trong năm qua vẫn tăng một phần do thu nhập của người dân nhìn chung tăng. Trong khi chứng khoán chỉ sôi động ở những thành phố lớn (chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) thì hệ thống mạng lưới các NHTM ngày càng được mở rộng. Ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng đã trở nên quen thuộc với mọi tầng lớp dân cư, từ thành thị đến nông thôn, miền núi Mặt khác gửi tiền vào ngân hàng vẫn có sự đảm bảo chắc chắn hơn về độ an toàn vốn và cũng có mức sinh lời nhất định mà không phải mạo hiểm như đầu tư mua chứng khoán. - Nền kinh tế phát triển hoạt động đầu tư,sản xuất, thương mại xuất nhập khẩu, phát triển mạnh sẽ có nhiều hoạt động giao dịch thanh toán tại ngân hàng. - Kinh tế phát triển thu nhập của người dân cao ổn định và nhu cầu tiêu dùng từ đó cũng được nâng cao dẫn đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới. 2.4.2. Lãi suất: - Lãi suất là một yếu tố chủ đạo ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Việc điều chỉnh lãi suất phù hợp để huy động vốn tốt nhất là một vấn đề nghệ thuật. hiện các ngân hàng đang chạy đua về lãi suất để thu hút khách hàng. Tuy có sự can thiệp của ngân hàng Nhà nước nhưng các ngân hàng cạnh tranh nhau mạnh mẽ thông qua các hình thức khác như thương vàng, ô tô - Tuy nhiên lãi suất cũng là một con dao hai lưỡi cho cá ngân hàng. Nếu chính sách về lãi suất mà ngân hàng đưa ra không phù hợp thì chính lãi suất sẽ làm cho ngân hàng lâm vào tình huống khó khăn. Khi một ngân hàng tăng lãi suất thì xét trong ngắn hạn có thể thu hút được lượng tiền gởi nhiều hơn. Nhưng cần phải xét lại nguyên nhân tăng lãi suất đó liệu có phải là do ngân hàng hoạt động thật sự hiệu quả đang có nhu cầu đầu tư vào một dự án lớn mà với mức lãi suất hiện thời không đảm bảo huy động đủ vốn hay do ngân hàng đang trong tình trạng bị thiếu hụt vốn đầu vào, mức độ tin cậy của ngân hàng không cao nên phải dùng công cụ giá để cạnh tranh với các ngân hàng khác. 27
  28. - Cuộc chạy đua lãi suất trong thơi gian qua đã làm tăng lãi suất cho vay vốn thị trường, tức là làm tăng chi phí vốn vay của doanh nghiệp và người kinh doanh, từ đó làm tăng giá thành sản phẩm và dịch vụ, tác động tăng giá trên thị trường xã hội đẩy lạm phát tăng cao. - Lãi suất đầu vào của NHTM, tức lãi suất huy động vốn tăng cao, cộng với chi phí cao do tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh, chi phí bù lỗ cho việc mua tín phiếu NHNN, nhưng lãi suất cho vay tăng chậm, khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đầu vào thu hẹp. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng dư nợ chậm hơn tốc độ tăng huy động vốn. Cả hai nhân tố đó làm cho lợi nhuận của NHTM ngày càng thấp, làm ảnh hưởng đến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, uy tín của NHTM. - Việc NHNN yêu cầu các NHTM tăng dự trữ bắt buộc và mua 24.000 tỷ đồng trong những tháng đầu năm 2008 đã đưa các ngân hàng vào cuộc chạy đua lãi suất. Trong những ngày cuối tháng 2/2008 lãi suất huy động tiền gởi của các NHTM đã thay đổi liên tục và chỉ trong thời gian hết sức ngắn ngủi mức tăng lãi suất đã đạt được mức kỷ lục hơn 12%/ năm ở hầu hết các kỳ hạn tiền huy động. Việc các NHTM ồ ạt tăng lãi suất như vay đã làm cho luồn tiền di chuyển một cách nhanh chóng từ ngân hàng có lãi suất thấp sang ngân hàng có lãi suất cao. Do đó nguồn huy động của các ngân hàng không được ổn định trong khi các ngân hàng vẫn tiến hành cho vay bình thường. Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có thể kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là một công cụ quan trọng của NHTW trong thực hiện CSTT. Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi muốn điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất của mình, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng. Ngoài ra, NHTW có thể quản lý trực tiếp lãi suất của các TCTD đối với nền kinh tế thông qua quy định các mức lãi suất cụ thể về cho vay và huy động. Tuy nhiên hình thức quản lý trực tiếp lãi suất này chỉ phù hợp tại các nước có hệ thống tài chính tiền tệ chưa phát triển, và xu hướng chung là giảm dần sự quản lý trực tiếp này. 2.4.3. Thị trường chứng khoán: - Hiện nay, hoạt động huy động vốn và cho vay đang chiếm khoảng 60%, cá biệt lên tới 90%, tỷ trọng lợi nhuận của các NHTM. Con số này đang đứng trước sự chia sẻ lớn từ sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán. 28
  29. - Khi TTCK phát triển một cách mạnh mẽ và trở nên đại chúng những năm vừa qua, việc đầu tư và kinh doanh chứng khoán không cón bó hẹp ở những đối tượng có thu nhập cao nữa mà nó đã lan rộng ra khắp các tầng lớp dân cư từ những người nội trợ đến những người buôn bán nhỏ lẻ với một số vốn góp tích lũy cũng có thể tham gia. - Với đặc điểm là những khoản lợi nhuận thu về từ kinh doanh chứng khoán nhanh hơn và có thể nhiều hơn so với tiền gởi tiết kiệm ngân hàng thì việc các ngân hàng phải chia sẻ thị phần cho TTCK là điều tất nhiên. - Việc dòng vốn nhàn rỗi trong dân đang ngày càng đổ dồn vào thị trường chứng khoán, thay thế thói quen gửi tiết kiệm tại ngân hàng, đặt ngành này trước sức ép cạnh tranh mới. - Các doanh nghiệp lâu nay chỉ quen đến ngân hàng vay vốn, nay có thêm một kênh huy động vốn trung và dài hạn khá hữu hiệu là phát hành cổ phiếu qua thị trường chứng khoán”. Vì vậy, “sức hút của thị trường chứng khoán đối với các tổ chức, cá nhân đang gây một ảnh hưởng không nhỏ đối với thị trường nguồn ngắn hạn và cả trung-dài hạn tại các ngân hàng. T R Trong năm qua hầu hết các nhà lãnh đạo của các ngân hàng đều thừa nhận rằng tính đại chúng và sự hấp dẫn của TTCK đã làm cho việc huy động vốn của các ngânhàng đang bị chậm lại. Nhưng TTCK cũng đem lại lợi ích cho NH chính các công ty chứng khoán, nơi mà khách hàng mở tài khoản cũng là khách hàng của các ngân hàng. Do đó mặc dù một phần phải chia sẻ thị phần cho TTCK, một mặt các ngân hàng thu hút vốn trong dân cư lại thông qua các công ty chứng khoán. 29
  30. - Nhiều khách hàng kê khai vay vốn ngân hàng để kinh doanh nhưng thực tế là để đổ vào chứng khoán. Điều này gây khó khăn cho việc đánh giá những tác nhân vĩ mô tới hoạt động tài chính ngân hàng và đặt hệ thống này trước những tác động bất lợi khi thị trường chứng khoán gặp rủi ro. 2.5. Đánh giá về cổ phiếu ngành ngân hàng. Cổ phiếu ngân hàng - được mệnh danh là “cổ phiếu vua" đang thoái vị, mặc dù ngành ngân hàng trong năm 2007 rất sôi động và đạt được những thành tựu lớn nhưng hiện tại cổ phiếu ngân hàng vân kém hấp dẫn với các nhà đầu tư song song với việc giảm giá, việc phát hành thêm cổ phiếu thưởng cho cổ đông để tăng vốn điều lệ của các ngân hàng cổ phần nhưng tính thanh khoản đang suy yếu từng ngày. Giá cổ phiếu nhiều ngân hàng đang mất dần tính thanh khoản những ngày gần đây, cho dù có nhiều thông tin tích cực hỗ trợ. Hiện các nhà đầu tư chưa thể phân tích một cách đầy đủ những lợi hại đối với từng NH, nhưng tâm lý chung là e ngại lợi nhuận trong năm nay sẽ giảm. Giá cổ phiếu DongA Bank còn 42.000-43.000 đồng/CP, giảm hơn 4 lần so với cùng kỳ năm trước. Thê thảm hơn, cổ phiếu của một số ngân hàng quy mô vừa và nhỏ như: ABBANK, VietA Bank, Southern Bank, OCB tính thanh khoản luôn trong trạng thái suy yếu dần. Bảng 2.4: Giá cổ phiếu của một số ngân hàng. Có thể nói, giá cổ phiếu ngân hàng đang có nhiều thông tin tốt hỗ trợ, nhưng vẫn khó hút được sự quan tâm của nhà đầu tư. Năm 2008 được xem là năm thực sự khó khăn của ngành ngân hàng. Thực tế là nhiều ngân hàng bắt đầu điều chỉnh kế hoạch lợi nhuận so với dự kiến đưa ra đầu năm (Cụ thể, Sacombank đưa ra mục tiêu đạt 2.000 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2008, thay vì 2.500 tỷ đồng như dự kiến ban đầu. Eximbank cũng cho hay, nếu tình hình khó khăn trên thị trường 30
  31. tiền tệ kéo dài thì mục tiêu đạt 1.500 tỷ đồng lợi nhuận năm nay (tăng gấp đôi 2007) cũng rất cam go. ABBank đã tính đến việc điều chỉnh lợi nhuận năm 2008 từ 555 tỷ đồng xuống còn khoảng 500 tỷ đồng ). 2.5.1. Vì sao cổ phiếu ngân hàng kém hấp dẫn nhà đầu tư? Vì sao nhà đầu tư quay lưng với cổ phiếu ngân hàng? Phải chăng cổ phiếu ngân hàng đã tăng quá cao so với giá trị thực và bây giờ buộc phải điều chỉnh để giá và giá trị thực cân bằng? Hay sau các đợt tăng vốn rầm rộ, cổ phiếu ngân hàng đã bị pha loãng hết mức? Liệu có một sự vô lý nào không khi các ngân hàng vẫn tăng trưởng cao, vẫn trả cổ tức trên 20%/năm, có ngân hàng tới 30- 40%/năm mà giá cổ phiếu lại không bằng những công ty “thường thường bậc trung” trên sàn niêm yết?. Sự thiếu vắng yếu tố nước ngoài trong giao dịch cổ phiếu ngân hàng. Cả hai ngân hàng đã lên sàn là ACB và Sacombank đều đã đầy “room” 30%. Vì thế cho dù cổ phiếu ngân hàng hấp dẫn đến đâu chăng nữa, nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể len chân. Với những ngân hàng chưa niêm yết, nhà đầu tư nước ngoài cá nhân cũng không thể mua như nhà đầu tư trong nước. Sở hữu một cổ phiếu ngân hàng, họ cũng phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Các tổ chức nước ngoài chỉ còn cách đàm phán, mua 10-15% cổ phần của mỗi ngân hàng. Mà đã thương lượng, là mất thời gian, công sức, phải hỗ trợ kỹ thuật, chưa kể các đối tác phải hợp “gu” nhau. Hàng loạt các cuộc đàm phán mua bán cổ phần ngân hàng không thành công mới đây là thí dụ. Sức ép của “cơn bão” thắt chặt tiền tệ. “Cho dù có nỗ lực đến đâu thì trước mắt, hoạt động của ngành NH năm 2008 sẽ không thuận lợi như năm 2007. Lợi nhuận sẽ bị “teo” đi. chính sách của Nhà nước đã làm cho các NH bất ngờ, nó đã làm ảnh hưởng không chỉ cho thị trường chứng khoán mà cho cả ngành NH. Chỉ số lạm phát tăng cao, đồng tiền VND tăng giá cũng làm giảm độ hứng khởi của nhà đầu tư với cổ phiếu ngân hàng. Một điều quan trọng nữa là tâm lý của nhà đầu tư bây giờ đã thay đổi. Chơi chứng khoán không còn thắng lớn như trước nữa mà thua nhiều hơn khi thị trường chứng khoán liên tục giảm mạnh. Chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng nhà nước khi rút bớt tiền khỏi lưu thông chống lạm phát đã hé mở được những yếu kém của một số ngân hàng. Vì vậy, nhiều nhà đầu tư đã giảm niềm tin đối với nhóm cổ phiếu này. Ngân hàng thường xuyên phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ theo lộ trình. Mỗi khi phát hành thêm cổ phiếu ngân hàng lại sẽ thường xuyên bị pha loãng làm cho giá cổ phiếu giảm. 31
  32. Đồng thời, cổ phiếu ngân hàng hiện đang có độ trơ rất lớn đối với thông tin bán cổ phần cho nước ngoài. Trước đây chỉ cần có tin Ngân hàng A sắp bán cổ phiếu cho nước ngoài là giá tăng chóng mặt, còn bây giờ ngược lại. Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng, đặc biệt là các NHTMCP trong thời gian qua. mạng lưới hoạt động cũng đã làm chóng mặt khách hàng, hàng loạt các chi nhánh, phòng giao dịch trên khắp tỉnh thành cả nước nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu giao dịch của tất cả đối tượng khách hàng. Các ngân hàng luôn phải chịu sự kiểm tra giám sát rất khắt khe của NHNN nên không thể vượt rào trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Ngân hàng càng tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, lại càng bất ổn định. Vì chính họ cũng không thể tìm được cho mình nguồn khách đầu tư an toàn dẫn đến tình trạng cổ phiếu được thổi phồng lên như bong bóng rồi lại xẹp xuống tức thì. Thị trường đã nhận ra một số NH không có khả năng sử dụng vốn một cách hiệu quả. Các chỉ số tài chính như P/E, PEG, ROE đều không hấp dẫn. Các NH này không hề có khả năng gầy dựng nghiệp vụ NH chính thống, lượng vốn huy động được từ cổ đông, NH lại đem dùng vào việc gửi tiết kiệm ở các NH khác hoặc cho các cổ đông “đại gia” của mình vay. 2.5.2. Một số lưu ý khi đầu tư vào cổ phiếu ngành ngân hàng:: Vốn tự có lớn (Strong capital base). Vốn tự có lớn là một con số cần được đưa ra xem xét trước khi đầu tư vào môt ngân hàng. Các nhà đầu tư có thể quan sát một vài thước đo. Đầu tiên, đơn giản nhất là tỉ số vốn cổ phần trên tài sản (equity-to- assets ratio), tỉ số này càng cao thì ngân hàng đó càng tốt. Thật khó khăn để có một quy tắc vận dụng chung bởi vì mức vốn biến đổi theo mỗi trường hợp tuỳ thuộc vào một số yếu tố chẳng hạn như rủi ro của khoản vay đó, nhưng hầu hết các ngân hàng lớn mà chúng tôi phân tích đều có các tỉ số về vốn trong khung từ 8% đến 9%. (định mức do Morningstar cung cấp). Tất cả các thước đo này được tìm thấy trong báo cáo tài chính của các ngân hàng, và nhà đầu tư nên so sánh chúng với trung bình của ngành, cũng như với các ngân hàng khác để tìm ra đâu là ngân hàng thành công. ROE (return on Equity) và ROA (return on assets). Các thước đo này là các tiêu chuẩn phổ biến nhưng không chính thức (de facto standard) . Nói chung các nhà đầu tư nên quan sát những ngân hàng mà tạo ra ROE từ trung bình cho đến cao. Tuy nhiên, các nhà đầu tư cũng nên quan tâm đến các ngân hàng kiếm được một mức ROE không 32
  33. chỉ là quá thấp so với mức chuẩn của ngành này, mà còn quá cao so với ngành. Tỉ số ROE trong khoảng từ 15%-20% là cao, từ 30% trở lên là rất cao. Một điều mà nhà đầu tư cần phải hiểu được rằng, nhiều ngân hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và có ROE vào khoảng 30% hoặc thậm chí là cao hơn chỉ bởi vì dự phòng quá ít cho sự thua lỗ các khoản vay. Hay một ngân hàng dễ dàng nâng lợi nhuận của ngân hàng trong ngắn hạn bằng cách dự phòng thấp hoặc tăng đòn bẩy trên bảng cân đối kế toán, và điều này có thể là rủi ro lớn trong dài hạn. Vì lí do này, thật cần thiết để xem xét thêm tỉ số ROA của ngân hàng đó có ở mức cao hay không nữa. Nói chung, thường có một sự phù hợp nhất định giữa ROA và ROE. Đối với ngân hàng, một ROA cao sẽ là trong khoảng 1.2% đến 1.4%(định mức do Morningstar cung cấp). Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam có tỉ số ROE trung bình trong năm 2005 là khoảng 21%. Trong khi đó tỉ số này của khu vực châu Á là 16%. Dấu hiệu này cho thấy sự thành công của các ngân hàng Việt Nam, tuy nhiên bạn cần so sánh tỉ số này giữa các ngân hàng để xác định xem ai là người thành công nhất. Tỷ số ROA (năm 2007). Đồ thị 2.3: ROA của một số ngân hàng năm 2007 (Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng) 33
  34. Tỷ số ROE (năm 2007) Đồ thị 2.4: ROE của một số ngân hàng năm 2007. (Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng) Tỉ số hiệu quả hoạt động (efficiency ratios). Tỉ số hiệu quả hoạt động đo lường chi phí không có lãi vay, hay chi phí hoạt động, như một phần trăm của thu nhập ròng. Về cơ bản, tỉ số này nói cho bạn biết ngân hàng được quản lí hiệu quả như thế nào. Các ngân hàng tốt có tỉ số hiệu quả hoạt động thường dưới 55% (tỉ số này càng thấp là càng tốt). Hãy quan sát các ngân hàng có tỉ số hoạt động hiệu quả như một bằng chứng rằng các chi phí của nó nằm trong tầm kiểm soát. Đồ thị 2.5:Chỉ số hoạt động của một số ngân hàng. 34
  35. Lợi nhuân biên tế từ chênh lệch lãi suất (Net interest margins). Một thước đo đơn giản khác là phải xem xét đến lợi nhuân biên tế từ chênh lệch lãi suất. Tỉ số này chính là tỉ lệ phần trăm giữa thu nhập ròng từ lãi so với tổng tài sản bình quân. Ý nghĩa của tỉ số này cho chúng ta biết, 1 đồng trong tổng tài sản bình quân sẽ mang lại đựoc bao nhiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng .Đối với các ngân hàng Việt Nam thì tỉ số này khá quan trọng vì phần lớn thu nhập ròng của ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Theo định mức do Morningstar cung cấp, thì lợi nhuận biên tế này của ngành chỉ dao động trong khung từ 3% đến 4%. Nhà đầu tư nên theo dõi tỉ số này theo thời gian để nhận ra khuynh hướng. Doanh thu vững mạnh. Lịch sử cho thấy một ngân hàng thành công có thể cung cấp những dịch vụ mới đi kèm với những dịch vụ truyền thống giúp làm gia tăng thu nhập phi lãi suất cùng với thu nhập có được từ chênh lệch lãi suất. một thực tế hiển nhiên ngành ngân hàng VN có quá ít các dịch dụ tài chính, thu nhập chính của họ từ hoạt động truyền thống. Hãy để mắt tới 3 chỉ tiêu chính: (1) tỷ lệ thu nhập lãi ròng, (2) tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng doanh thu và (3) tốc độ tăng trưởng thu nhập phi lãi. Chỉ tiêu đầu tiên có thể có mức thay đổi lớn tùy thuộc những yếu tố kinh tế, môi trường lãi suất và khu vực mà tổ chức tín dụng tập trung cho vay, cho nên tốt nhất là so sánh chỉ tiêu này của ngân hàng với những con số tương tự của các tổ chức tín dụng tương tự. Hãy tin chắc rằng bạn so sánh những ngân hàng tương tự với nhau và rằng bạn hiểu được chiến lược của ngân hàng. Như thường lệ hãy xem xét những con số trong một khoảng thời gian để có được cảm nhận về khuynh hướng. Giá trên giá trị sổ sách. Bởi vì bảng cân đối kế toán của ngân hàng hầu hết bao gồm các tài sản tài chính với nhiều mức độ thanh khoản khác nhau, giá trị sổ sách là một đại diện tốt cho giá trị cổ phiếu của ngân hàng. Giả sử tài sản và nợ của ngân hàng gần bằng giá trị được ghi sổ, giá trị của ngân hàng sẽ là giá trị sổ sách. Đối với bất kỳ phần bù nào cao hơn mức đó, có nghĩa là các nhà đầu tư đang trả cho sự tăng trưởng trong tương lai và những thu nhập vượt mức. Những chỉ tiêu trên nên dùng như là điểm khởi đầu cho việc tìm kiếm những cổ phiếu ngân hàng tốt. Nhìn chung, chúng tôi nghĩ rằng cách bảo vệ tốt nhất cho các nhà đầu tư chọn cổ phiếu của ngành dịch vụ tài chính trong đó có ngành ngân hàng là tính kiên nhẫn và một giác quan hoài nghi tốt. Hãy lập một danh mục trên giấy các ngân hàng mà trông có vẻ hứa hẹn và tìm hiểu hoạt động kinh doanh của họ trong một thời gian. Hãy cảm nhận loại hình cho vay mà các ngân hàng này tiến hành, cách thức kiểm soát rủi ro, chất lượng quản trị và khối lượng vốn chủ sở hữu mà ngân hàng đang nắm giữ. Tóm lại cần quan tâm sến các điểm sau: 35
  36. Một ngân hàng thường hứng chịu ba rủi ro sau và vì thế nhà đầu tư hãy nên xem xét ban lãnh đạo ngân hàng quản trị chúng như thế nào. Các rủi ro đó là: rủi ro tín dụng (credit), rủi ro thanh toán (liquidity) và rủi ro lãi suất. Các nhà đầu tư nên tập trung tìm kiếm các ngân hàng mà nắm giữ vốn cổ phần lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh trong ngành (hay có tỉ số vốn cổ phần trên tổng tài sản cao hơn) và tất nhiên ngân hàng đó phải có sự dự phòng đúng mức cho sự thua lỗ của các khoản vay có thể xãy ra trong tương lai. Các ngân hàng quản lí tốt luôn có sự cân đối phù hợp giữa thời lượng (duration) tài sản và thời lượng (duration) của nợ. Nghĩa là , các ngân hàng luôn tài trợ cho các khoản vay dài hạn bằng nợ dài dạn hoặc tiền gửi có kì hạn, chứ không phaỉ tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn. Nhà đầu tư hãy nên tránh các ngân hàng thực hiện trái với điều này. Các ngân hàng có nhiều lợi thế cạnh tranh. Chúng có thể vay tiền tại mức lãi suất thấp, sau đó cho vay với lãi suất cao hơn. Có hiệu quả kinh tế theo quy mô cao nhờ có mạng lưới phân phối. Đặc điểm của ngân hàng là thâm dụng vốn làm ngăn cản các đối thủ mới. Các nhà đầu tư nên tìm kiếm các ngân hàng có vốn tự có lớn, đồng thời có ROA và ROE cao, và khả năng tạo ra tăng trưởng thu nhập đều đặn. So sánh các ngân hàng tương tự nhau theo thước đo P/B có thể là một cách tốt để chắc rằng bạn không trả quá cao cho chứng khoán của một ngân hàng. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM: 3.1. Lộ trình hội nhập của ngành ngân hàng Việt Nam: -Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy hệ thống NH Việt Nam từng bước cải cách nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới . Một hệ thống NH hữu hiệu trở thành kênh dẫn nhập vốn quan trọng và hàng đầu sẽ đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm cho nền kinh tế để đạt đến thành công của công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Vì vậy lĩnh vực NH cần nhanh chóng hội nhập cùng với hệ thống NH khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống NH có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. 36
  37. Các giải pháp đẩy mạnh hội nhập quốc tế NH tại Việt Nam : Hội nhập quốc tế của ngành NH đặt ra những yêu cầu thách thức để thực hiện chính sách mở cửa lĩnh vực dịch vụ NH song song với quá trình tăng cường cải cách hệ thống NH nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho nền kinh tế cần phải tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau: Thứ nhất, nhanh chóng xây dựng chiến lược, chiến thuật thích hợp để đảm bảo cho quá trình hội nhập ngân hàng thành công, mang lại lợi ích thật sự cho nền kinh tế Việt Nam. Thứ hai, xây dựng môi trường pháp lý ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế Việt Nam và hệ thống NH phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế. - Từng bước xoá bỏ các cơ chế bao cấp, bảo hộ đối với các NHTM VN đồng thời nới rộng dần các hạn chế đối với NH nước ngoài đi đôi với củng cố, lành mạnh hoá các NHTM Việt Nam chính sách hiện hành - Xây dựng các khung pháp lý đảm bảo sân chơi bình đẳng, an toàn cho các loại hình NHTM trên lĩnh vực tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đầu tư và các nghiệp vụ tài chính khác - Từng bước thiết lập và áp dụng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ- NH như: chuẩn mực về tỉ lệ an toàn trong hoạt động NH, phân loại, trích lập và sử dụng dự phòng bù đắp rủi ro, bảo hiểm tiền gửi thông qua việc tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản để môi trường pháp lý về hoạt động NH phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ ba, nâng cao vai trò của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ. - Hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp quá sâu của chính phủ các cơ quan, tổ chức đối với các hoạt động của NHNN. - Tiếp tục hoàn thiện các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang gián tiếp. - Đẩy mạnh và phát triển thị trường liên NH : Từng bước hoàn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên NH về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của thị trường này, đặc biệt là các công cụ phái sinh như: forward, swap, option, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá, lãi suất; tập trung xây dựng và hoàn thiện các quy chế cho thị trường tiền tệ. Mở rộng thành viên tham gia giao dịch trên thị trường cho tất cả các TCTD kể cả các chi nhánh lớn của các NHTM quốc doanh, NHCP, NHLD chi nhánh NH nước ngoài đều có thể tham gia bình đẳng trên thị trường liên NH. Bổ sung và đa dạng hóa các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường như tín phiếu kho bạc nhà nước, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu nhằm từng bước tạo tiền đề thuận lợi cho các NHTM khai thác vốn trên thị trường tiền tệ nhanh chóng và hiệu quả giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cân đối nguồn vốn để cho vay. Thứ tư, tiếp tục cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. 37
  38. - Các NH tiếp tục đẩy mạnh việc chấn chỉnh củng cố hệ thống ngân hàng, kiện toàn các NHTM NN, sắp xếp lại các NHTMCP theo đề án của Chính phủ và NHNN Việt Nam . - Tăng vốn điều lệ NHTM nhằm nâng cao năng lực tài chính ngân hàng nhằm đạt tỷ lệ an toàn trên vốn theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, giám sát từ xa và công tác kiểm toán nội bộ trên cơ sở hiện đại hoá hệ thống thông tin, chế độ báo cáo thống kê, triển khai mô hình cung cấp và dự báo thông tin. Thứ sáu, xây dựng thí điểm và đưa vào áp dụng mô hình tổ chức NHTM hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế. Tiến hành cơ cấu tổ chức lại và quản lý các NHTM theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ của một NH đa năng, thay thế dần cho việc quản lý theo chức năng và nghiệp vụ hiện nay, đồng thời nâng cao trình độ quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ - tài sản có, và kiểm soát nội bộ, nhằm để tạo tiền đề xây dựng một số tập đoàn tài chính mạnh, có khả năng hoạt động như một NH quốc tế. 3.2. Xây dựng một hệ thống pháp luật cho sự phát triển ngành ngân hàng: Nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập mạnh mẽ với thế giới nhưng lĩnh vực ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế do còn nhiều bất cập về hệ thống pháp luật, nhiều luật và các văn bản dưới luật thuộc lĩnh vực ngân hàng trái ngược nhau, không còn phù hợp với thực tiễn. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và các cam kết nước ta đã ký khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc sửa đổi luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng là một yêu cầu cấp bách đã được ấn định thời gian và thông qua trong chương trình xây dựng luật năm 2008 của Quốc hội khoá XII. Đây là hai luật có tính nhạy cảm và phức tạp, cần được xem xét kỹ lưỡng để sửa đổi, bổ sung phạm vi và mức độ khá lớn để bảo đảm phù hợp với điều kiện và đặc điểm của nước ta cũng như các yêu cầu nước ta đã ký về lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng khi gia nhập WTO Thứ nhất, nhận thức lại khái niệm dịch vụ ngân hàng và thống nhất quan niệm về dịch vụ ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế. Theo quy định chung của Hiệp định GATS, không có một khái niệm riêng cho dịch vụ ngân hàng mà trên thực tế, dịch vụ này (giống như dịch vụ về bảo hiểm và chứng khoán) được coi như một loại hình dịch vụ tài chính. Cũng theo Hiệp định này, dịch vụ tài chính là bất kì dịch vụ nào có tính chất tài chính, do một nhà cung cấp dịch vụ tài chính của một thành viên thực hiện.Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác. 38
  39. Như vậy, theo thông lệ quốc tế, dịch vụ ngân hàng là khái niệm rất rộng, bao gồm tất cả các hoạt động ngân hàng của một tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, đối chiếu với pháp luật Việt Nam hiện hành tại, quan niệm về dịch vụ ngân hàng lại được hiểu khá hẹp, không bao gồm hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng. Sự khác biệt này có thể dẫn tới những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật Việt Nam đối với các hoạt động ngân hàng do tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng của các nước thành viên WTO thực hiện tại Việt Nam. Điều đó cho thấy yêu cầu cần thiết và cấp bách của việc thay đổi quan niệm về dịch vụ ngân hàng trong pháp luật Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính hợp lí của khái niệm dịch vụ ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế như Hiệp định GATS đã ghi nhận. Sự thay đổi này tất yếu dẫn đến những thay đổi quan trọng trong pháp luật hiện hành ở Việt Nam về mỗi loại hình dịch vụ ngân hàng, chẳng hạn như các quy định về nhận tiền gửi, cấp tín dụng hay các quy định về dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ bảo quản hiện vật quý và dịch vụ tín thác Thứ hai, quy định chặt chẽ hơn về các điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng nhưng đồng thời phải đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong hoạt động cấp giấy phép. Giải pháp này nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường sau khi đã được cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Quan trọng hơn, đây còn là giải pháp nhằm nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của các quy định về quản lí, giám sát từ phía Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng, góp phần làm giảm chi phí giao dịch và chi phí gia nhập thị trường của các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam. Thứ ba, trên cơ sở nhận thức lại về vai trò của Nhà nước và các hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng nên chuyển giao một số vấn đề hiện đang được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng sang cho Hiệp hội ngân hàng quy định, ví dụ như các quy định về điều kiện giao dịch; quy trình nghiệp vụ giao dịch; điều lệ mẫu và hợp đồng mẫu; nội quy và quy chế hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường. Sự phân quyền này là hợp lí bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường, cho dù đối với lĩnh vực kinh doanh đặc thù như lĩnh vực dịch vụ ngân hàng thì Nhà nước cũng chỉ nên can thiệp bằng các quy định có tính chất nền tảng và ở tầm vĩ mô còn các quy định liên quan đến chuyên môn và nghiệp vụ kinh doanh của các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng thì nên để cho các hiệp hội nghề nghiệp (ví dụ như Hiệp hội ngân hàng) quy định có tính hướng dẫn. Giải pháp này vừa làm giảm gánh nặng quản lí của Nhà nước, vừa phát huy được vai trò tích cực của hiệp hội nghề nghiệp trong quá trình tham gia quản lí, giám sát đối với thị trường, đặc biệt là loại hình thị trường có nhiều đặc thù về nghiệp vụ kinh tế như thị trường dịch vụ ngân hàng. 39
  40. Thứ tư, sửa đổi, bổ sung và ban hành thêm một số quy định nhằm đảm bảo tính minh bạch và tính hiệu quả cho pháp luật ngân hàng. Giải pháp này được xem là cần thiết và có tính đột phá nhằm cải thiện nhanh chóng môi trường kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam. Các quy định cần được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhằm minh bạch hóa môi trường pháp lí cho hoạt động kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam bao gồm: - Sửa đổi các quy định về điều kiện cấp giấy phép đối với các tổ chức nước ngoài có hoạt động dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, theo hướng đảm bảo sự bình đẳng về các điều kiện cấp giấy phép giữa tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trong nước với tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam theo hướng bổ sung thêm quy định về việc cấp giấy phép hoạt động ngân hàng tại Việt Nam cho các tổ chức nước ngoài không phải là tổ chức tín dụng. Giải pháp này nhằm đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch của pháp luật Việt Nam về việc tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các tổ chức nước ngoài muốn cung ứng dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam. Đây cũng chính là cách để Việt Nam thực hiện đúng các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng. - Sửa đổi quy định về chủ thể gửi tiền tiết kiệm tại tổ chức tín dụng theo hướng cho phép mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài, kể cả các tổ chức kinh doanh đều được gửi tiết kiệm tại ngân hàng bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. - Sửa đổi các quy định về huy động vốn theo hướng quy định bình đẳng về giới hạn an toàn trong hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. - Sửa đổi, bổ sung các quy định về dịch vụ thanh toán theo hướng quy định bình đẳng về quyền phát hành thẻ và cung cấp không giới hạn các dịch vụ thẻ tại Việt Nam giữa các tổ chức tín dụng nước ngoài và các tổ chức tín dụng trong nước. - Sửa đổi các quy định về cho thuê tài chính hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng cho thuê tài chính, bao gồm cả động sản và bất động sản. Giải pháp này không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu thực tế của cả bên thuê và bên cho thuê trong quá trình cung cấp và sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính mà còn đảm bảo cho pháp luật Việt Nam về dịch vụ cho thuê tài chính phù hợp hơn với thông lệ quốc tế 40
  41. 3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngành nhân hàng và chuẩn bị nhân lực cho tương lai: - Sự ra đời của hàng loạt ngân hàng mới cùng với nhu cầu mở rộng mạng lưới của các ngân hàng hiện nay đang khiến cơn sốt nhân lực trong lĩnh vực này ngày một nóng bỏng. Nhiều công ty tài chính, chứng khoán, quỹ đầu tư ra đời cũng càng đổ thêm dầu vào lửa. Hiện nay cả nước đã có 25 ngân hàng thương mại cổ phần, 6 ngân hàng quốc doanh, 44 ngân hàng đại diện nước ngoài, 4 ngân hàng 100% vốn nuóc ngoài chưa kể các ngân hàng đang đợi nhà nước cấp phép thành lập cộng thêm hàng loạt chi nhánh, phòng giao dịch được “tăng cường” khắp các tỉnh, thành đã đẩy “cầu” nhân sự lên mức “báo động đỏ”. Ta có thể nhẩm tính như sau: Để có một điểm giao dịch cần tối thiểu 10 người, mở một chi nhánh mới cần ít nhất 20-30 người, và để “ra mắt” một NH mới “khiêm tốn” lắm phải có trên 100 người. Như vậy, chưa cần nắm con số chính xác nhưng nhắm mắt cũng ước đoán được số lượng nhân viên buộc phải có lớn như thế nào. Theo tính toán sơ bộ, 30.000 người là số lượng nhân viên cần cho ngành tài chính – ngân hàng trong năm nay và đến năm 2012 sẽ cần ít nhất là 1,8 triệu người. Ví dụ như: Habubank chỉ trong 1 năm đã có thêm 30 chi nhánh và điểm giao dịch mới, VP bank có thêm gần 60 điểm, ngân hàng Á Châu trong năm vừa qua đã mở trên 100 chi nhánh và dự định trong năm 2008 sẽ mở thêm khoảng 150 chi nhánh, phòng giao dịch. - Với tốc độ mở ngân hàng như vậy thì tốc độ đào tạo sinh viên về ngành này cũng không hề thua kém, theo thống kê thì đến cuối 2007 cả nước có 33 trường đào tạo ngành tài chính - ngân hàng trình độ đại học, 16 trường cao đẳng, 8 trường trung cấp chuyên nghiệp với trên 63.000 sinh viên chính quy và trên 30.000 sinh viên hệ vừa học vừa làm tốt nghiệp ra trường hằng năm Với số lượng sinh viên ra trường lớn như vậy nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực cho ngành này hiện nay. Không đáp ứng được nhu cầu hiện nay có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân sau: việc đào tạo tại các trường chưa chú ý đến nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực trong xã hội cũng như chưa gắn với thị trường lao động, sinh viên ra trường khi đi phỏng vấn chưa thể hiện được những tố chất mà nhà tuyển dụng yêu cầu như năng động. - Từ những áp lực về lượng đã dẫn đến sự dễ dãi về chất trong việc tuyển dụng nhân sự đó là điều nhận thấy ở tất cả các ngân hàng hiện nay vì hầu hết các NH hiện nay đang trong tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng, trừ các vị trí quản lý cấp cao ra thì các vị trí còn lại chỉ đòi hỏi ứng viên những yêu cầu cơ bản như tốt nghiệp đại học, các ứng viên chỉ cần nắm được những kiến thức nghiệp vụ căn bản đã được học tại trường là đạt yêu cầu không yêu cầu về kinh nghiệm làm việc hay 41
  42. phải tốt nghiệp loại khá, giỏi Do đó, việc đào tạo lại và bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên mới được coi là việc tất yếu nên hiện nay hầu hết các NH đều xây dựng Trung tâm đào tạo của riêng mình. - Từ những yếu tố nêu trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho những sinh viên năm 3,4 ngành tài chính- ngân hàng. Chưa bao giờ mà sinh viên ngành tài chính – ngân hàng lại có thể dễ dàng tìm cho mình một công việc thích hợp như hiện nay. Mặc dù, chỉ là sinh viên năm cuối chưa được nhận bằng tốt nghiệp nhưng vẫn được nhận vào làm hẳn hoi với mức lương gần 2 triệu đồng/ tháng, tính ra mỗi sinh viên có thể nhận được 60.000đồng/ngày với công việc là ngồi đọc sách. Với đủ mọi cách để giữ chân những sinh viên năm cuối, các ngân hàng đã dùng những chiến thuật của mình như trao học bổng cho sinh viên nhưng với điều kiện ràng buộc là phải phục vụ cho ngân hàng mình đã nhận học bổng từ 3-5 năm để đáp ứng cho nhu cầu khan nhân lực hiện nay. - Tuy nhiên, cần phải có những giải pháp cụ thể để có thể đào tạo được một đội ngũ nhân viên đủ cả về lượng và chất phục vụ cho ngành tài chính – ngân hàng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để ngành này có thể cạnh tranh được với khu vực và thế giới như: + Hạn chế đào tạo theo hướng sinh viên chỉ ngồi lắng nghe trong khi giảng viên đứng giảng 100%, mà nên kết hợp theo hướng kết hợp giữa thầy và trò, giảng viên nên giao cho sinh viên về nhà làm bài trước sau đó lên thuyết trình và cuối cùng thầy cô tổng kết lại. Như vậy, sẽ làm cho sinh viên năng động hơn. + Cần phải tăng cường “trao đổi” các giáo viên có chất lượng cao giữa các trường lẫn nhau đồng thời nâng cao chất lượng giảng viên của mình bằng cách tạo cơ hội cho giảng viên trường mình đi học ở nước ngoài. + Các trường đại học , cao đẳng nên liên kết với các ngân hàng đào tạo theo hướng mà họ yêu cầu, đặt hàng. Mỗi năm, các trường phải liên kết với các ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các sinh viên thực tập để họ nhanh chóng ứng dụng được các kiến thức đã học. + Ngoài ra, các trường cần thống nhất hệ thống bài tập và câu hỏi kiểm tra, có thể lập ngân hàng bài tập và câu hỏi kiểm tra trên mạng cho sinh viên; xây dựng phần mềm mô phỏng tác nghiệp của ngành TC-NH; đẩy mạnh đưa chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh vào trong nhà trường; đồng thời xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành TC-NH phục vụ quản lý Nhà nước và nhiệm vụ đào tạo 3.4. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Trung Ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ: 42
  43. - Điều 3 Luật NHNN 1997 khẳng định: “Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hằng năm trong mối tương quan với cân đối ngân sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh tế Chính phủ xây dựng CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hằng năm trình Quốc hội quyết định; tổ chức thực hiện CSTT quốc gia; quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hằng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; quyết định các chính sách cụ thể khác và các giải pháp thực hiện ”. Điều 4 Luật NHNN 1997 quy định: “Chính phủ thành lập Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia để tư vấn cho Chính phủ trong việc quyết định những vấn đề thuộc về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ về CSTT. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia do Chính phủ quy định.” Như vậy, hiện tại mặc dù được quy định là NHTW của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng thẩm quyền của NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT còn hạn chế, NHNN có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. NHNN chỉ là cơ quan xây dựng dự án CSTT Quốc gia để Chính phủ trình Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện; việc quyết định lượng tiền bổ sung vào lưu thông hằng năm cũng do Chính phủ quyết định, NHNN có trách nhiệm điều hành trong phạm vị đã được duyệt, Trong khi chức năng NHTW chưa được khẳng định rõ nét, NHNN lại có trách nhiệm thực hiện nhiều nhiệm vụ thuộc về chức năng quản lý nhà nước. - Thêm vào đó trong suốt thời gian qua mục tiêu và vai trò của Ngân hàng Nhà nước còn nhập nhằn với nhau, chưa được xác định, phân biệt rõ ràng. Khi mà mục tiêu của NHTW không được xác định một cách chính xác, rõ ràng thì vai trò của nó cũng khó mà phân định được một cách đúng đắn, đặc biệt là trong quan hệ với các ngành kinh tế khác như Tài chính, Kế hoạch và đầu tư Trong điều kiện kinh tế thị trường, hầu hết các NHTW trên thế giới đều xác định mục tiêu của mình là: “duy trì sự ổn định của giá cả”. Vậy mục tiêu của NNHTW VN trong thời gian tới là gì ? - Theo đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ( ban hành kèm theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ ) thì nhiệm vụ của NHNN nhằm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng, go1pn phần tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển bền vững kinh tế-xã hội. NHNN độc lập, tự chủ trong việc xây dựng, điều hành CSTT, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của NHNN trong việc tổ chức thực hiện chiến lược, xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở phân định rõ quyền hạn, nhiệm vụ và hạn chế sự can thiệp của các cơ quan liên quan vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, pháp 43
  44. luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Như vậy một câu hỏi tiếp tục được đặt ra là “phải xây dựng một NHNN độc lập với Chính phủ, tự chủ theo mô hình nào? Theo tiêu chí nào?” - Thêm vào đó sự biến đổi không ngừng của nền kinh tế chuyển đổi trong bối cảnh hội nhập đã khiến cho pháp luật ngân hàng Việt Nam bộc lộ dần những hạn chế và bất cập thể hiện rõ nhất ở quy định vị trí pháp lí, chức năng, cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan phát hành tiền quốc gia hay Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (NHNNVN). Nhiều quy định hiện hành của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam đã và đang thể hiện lối tư duy và cách tiếp cận cũ, mang nhiều dấu ấn của cơ chế quản lí hành chính bao cấp trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các quy định này tỏ ra không phù hợp với thông lệ chung trên thế giới về địa vị pháp lí của cơ quan phát hành tiền quốc gia. Điều đó được thể hiện ở các khía cạnh chủ yếu sau đây: - Theo thông lệ của quốc tế thì cơ quan đứng đầu và điều hành hệ thống ngân hàng của một nước sẽ là ngân hàng trung ương của nước đó. Nhưng ở Việt Nam hiện nay lại là “Ngân hàng nhà nước”. Các chức năng của Ngân hàng nhà nước hiện nay cũng được quy định theo hướng quá coi trọng chức năng quản lí nhà nước về ngân hàng, trong khi chức năng ngân hàng trung ương lại được quan tâm không thỏa đáng, chỉ phản ánh được khía cạnh sở hữu của nhà nước đối với cơ quan đặc biệt này chứ không phản ánh được bản chất là ngân hàng trung ương của nước Việt Nam và các chức năng vốn có của nó so với các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. - Mô hình tổ chức của NHNNVN hiện nay còn quá nặng nề, cồng kềnh và hoạt động chưa hiệu quả. Mô hình này dường như chỉ nhằm thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước chứ không có nhiều tác dụng trong việc thực hiện chức năng của một ngân hàng Trung ương. -Các quy định về hoạt động của Ngân hàng nhà nước còn thể hiện tư duy sử dụng mạnh mẽ các biện pháp hành chính trong quá trình quản lí nhà nước cũng như thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và giám sát an toàn đối với hệ thống ngân hàng. => Từ những thực trạng về NHNN hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về ngân hàng trung ương ở Việt Nam cần hướng tới các giải pháp lớn sau đây: - Việc cần làm đầu tiên là nên đổi tên “ Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam” thành “Ngân Hàng Trung ương Việt Nam”. Và theo dự kiến tháng 06/2009 thì NHNN sẽ trở thành NHTW. Vấn đề này có vẻ như chỉ mang tính hình thức nhưng tên gọi này cũng dễ dàng được thế giới chấp nhận hơn vì đó là một thông lệ của quốc tế và có thể đó là một sự thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào sân chơi toàn cầu. - Ngân hàng Nhà nước không được độc lập hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ, lại có thể bị can thiệp, chi phối bởi các chính sách khác của Chính phủ như chính sách tài khóa, mục tiêu tăng 44
  45. trưởng - NHNN phải được quyền quyết định các định hướng, giải pháp trong xây dựng và điều hành CSTT quốc gia cũng như trong việc thực hiện các chức năng khác của NHTW. Tất nhiên, song song với các thẩm quyền được trao, NHNN phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành CSTT và thực hiện các chức năng của NHTW. - Cần tránh khuynh hướng cho rằng, nâng cao vai trò độc lập của NHTW nghĩa là NHTW thoát ly hoàn toàn khỏi Chính phủ mà nó thể hiện ở 3 tiêu thức cơ bản: mức độ quyết định của NHTW trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, mức độ tự chủ về ngân sách, ảnh hưởng của áp lức chính trị tác động đến vấn đề tổ chức và hoạt động của NHTW. Mục tiêu cuối cùng của CSTT và cũng là mục tiêu hoạt động của NHTW là ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHTW với Chính phủ nhằm bảo đảm hoạt động của NHTW hỗ trợ tốt cho các chương trình kinh tế của Chính phủ. -Tiến tới thực hiện Chính sách lạm phát mục tiêu. Lạm phát mục tiêu là một trong những khuôn khổ CSTT mà theo đó, NHTW hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu trung dài hạn về lạm phát và NHTW cam kết đạt được những mục tiêu này. Để làm được điều này, NHNN phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát và tự mình đặt ra các công cụ của CSTT. Bên cạnh đó, dân chúng cũng phải được thông báo về khuôn khổ CSTT và việc thực hiện CSTT. - Tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự của NHNN. Theo đó, nhiệm kỳ của Ban lãnh đạo NHTW có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ. Như vậy, quá trình ra quyết định của NHTW sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ thành lập Chính phủ, chu kỳ lập kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ bị ảnh hưởng một khi Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ. - Để đảm bảo tính độc lập về hoạt động, cần có qui định cụ thể về chức năng “Là ngân hàng của Chính phủ” theo hướng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức, và lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các ngân hàng thương mại vay. 3.5. Phân định một cách rõ ràng quyền lực của Ngân hàng nhà nước với Bộ tài chính: Để phân biệt rõ quyền lực của NHNN và Bộ Tài Chính trước tiên ta phải làm rõ các khái niệm sau: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ . - Chính sách tài khoá là chính sách thu chi của Chính phủ hay còn gọi là chính sách ngân sách do Bộ Tài chính chịu trách nhiệm thực hiện. Còn chính sách tiền tệ là việc thực hiện tổng thể 45