Đề tài Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp và những giải pháp góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty chè Việt nam

doc 81 trang nguyendu 4110
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp và những giải pháp góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty chè Việt nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_phan_tich_tinh_hinh_tai_chinh_doanh_nghiep_va_nhung_g.doc

Nội dung text: Đề tài Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp và những giải pháp góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty chè Việt nam

  1. Lời mở đầu  Như ta đã biết, nhận thức- quyết định và hành động là bộ ba biện chứng của quản lý khoa học, có hiệu quả toàn bộ cá hoạt động kinh tế trong đó nhận thức giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc xác định mục tiêu và sau đó là các nhiệm vụ cần đạt tới trong tương lai. Như vậy nếu nhận thức đúng, người ta sẽ có các quyết định đúng và tổ chức thực hiện kịp thời các quyết định đó đương nhiên sẽ thu được những kết quả như mong muốn. Ngược lại, nếu nhận thức sai sẽ dẫn tới các quyết định sai và nếu thực hiện các quyết định sai đó thì hậu qủa sẽ không thể lường trước được. Vì vậy phân tích tình hình tài chính là đánh giá đúng đắn nhất những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra, trên cơ sở đó kiến nghị các biện pháp để tận dụng triết để những điểm mạnh và khắc phục các điểm yếu. Tình hình tài chính doanh nghiệp là sự quan tâm không chỉ của chủ doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng như các nhà đầu tư, người cho vay, Nhà nước và người lao động. Qua đó họ sẽ thấy được thực trạng thực tế của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh, và tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh. Thông qua phân tích họ có thể rút ra được những quyết định đúng đắn liên quan đến doanh nghiệp và tạo điều kiện naang cao khả năng tài chính của doanh nghiệp. Là một sinh viên ĐH Thương Mại, chuẩn bị bước vào môi trường kinh doanh, em nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, kết hợp với quá trình thực tập tại Tổng công ty chè Việt nam càng giúp em khẳng định rõ điều đó. Được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo- Tiến sĩ Nguyễn Quang Hùng- người thầy đã khuyến khích sở thích lâu dài của em trong việc nghiên cứu môn phân tích hoạt động kinh doanh, nên em chọn đề tài: “Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp và những giải pháp góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty chè Việt nam” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Thực hiện đề tài này với mục đích dựa vào tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty để phân tích, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp hợp lý trong việc quản trị tài chính, để sử dụng tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp một cách có hiệu quả. 1
  2. Luận văn của em trình bày thành 3 phần chính như sau: Phần I: Cơ sở lý luận của hoạt động phân tích tình hình tài chính. Phần II: Phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty chè Việt nam. Phần III: những giải pháp góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty. Lời cảm ơn Trong bản luận văn này, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo -Tiến sĩ Nguyễn Quang Hùng-người thầy đã luôn ở bên cạnh và tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài tốt nghiệp của mình. Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, các cô giáo trường ĐH Thương Mại, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa Kế toán Tài Chính- những người đã dạy dỗ, hướng dẫn em trong những năm tháng học tập tại trường. Em xin chân trọng cảm ơn các cô, các chú Phòng Kế toán- Tài chính của Tổng công ty chè Việt nam đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong việc cung cấp những thông tin có liên quan đến tài chính của Tổng công ty, cũng như góp ý kiến, tạo điều kiện cho em hoàn thành bản luận văn này. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè là chỗ dựa giúp em hoàn thành tốt việc học tập nghiên cứu của mình trong suốt bốn năm học tập vừa qua. Em xin chân thành cảm ơn Phần I Cơ sở lý luận của hoạt động phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp I / Bản chất chức năng tài chính doanh nghiệp. 1 / Bản chất, vai trò của tài chính doanh nghiệp. 1.1/ Bản chất của tài chính doanh nghiệp. 1.1.1/Nội dung của các mối quan hệ tài chính. Tài chính là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Nó có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế 2
  3. khác. Mối quan hệ tác động qua lại này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó thường xuyên giữa phân phối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Phân phối vừa phản ánh kết quả của sản xuất và trao đổi, lại vừa là điều kiện cho sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và liên tục. Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân và là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính. Vì tại đây diễn ra quá trình tạo lập và chu chuyển vốn gắn liền với qua trình sản xuất, đầu tư, tiêu thụ và phân phối. Tài chính- thoạt nhìn chúng ta lại hiểu là tiền tệ, như một doanh nghiệp sẽ phải trích một khoản tiền lương để trả cho cán bộ công nhân viên. Khi tiền lương tham gia phân phối giữa các loại lao động có trình độ nghề nghiệp khác nhau và điều kiện làm việc khác nhau. Tài chính tham gia phân phối sản phẩm quốc dân cho người lao động thông qua quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền lương và các quỹ phúc lợi công cộng khác. Do vậy giữa tài chính và tiền là hai phạm trù kinh tế khác nhau. Tài chính cũng không phải là tiền tệ, và cũng không phải là quỹ tiền tệ. Nhưng thực chất tiền tệ và quỹ tiền tệ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn bên trong nó là những quan hệ kinh tế đa dạng. Nhân loại đã có những phát minh vĩ đại trong đó phải kể đến việc phát minh ra tiền, mà nhờ đó người ta có thể quy mọi hoạt động khác nhau về một đơn vị đo thống nhất, và trên cơ sở đó có thể so sánh, tính toán được với nhau. Như vậy tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài chính nói chung và hoạt động tài chính doanh nghiệp nói riêng. Thông qua phương tiện này, các doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều hoạt động khác nhau trong mọi lĩnh vực, nếu như chúng ta chỉ nhìn bề ngoài thì chỉ thấy các hoạt động đó hoạt động tách riêng nhau, nhưng thật ra lại gắn bó với nhau trong sự vận động và chu chuyển vốn, chúng được tính toán và so sánh với nhau bằng tiền. Do vậy toàn bộ các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong doanh nghiệp thể hiện nội dung của tài chính doanh nghiệp. Nó bao gồm các quan hệ tài chính sau: + Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Xuất phát từ mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như những mối quan hệ về phân phối và phân phối lại dưới hình thức giá trị của cải vật chất sử dụng và sáng tạo ra ở các doanh nghiệp. Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: đó là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu thành phần vốn kinh doanh, phân phối thu nhập giữa các thành viên 3
  4. trong nội bộ doanh nghiệp; các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp và công nhân viên chức. Các mối quan hệ này đều thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở doanh nghiệp như: vốn cố định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài chính nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước. Thể hiện trong việc các doanh nghiệp nộp thuế cho chính phủ và sự tài trợ của chính phủ trong một số trường hợp cần thiết để thực hiện vai trò can thiệp vào kinh tế của mình. ở nước ta do còn thành phần kinh tế quốc doanh nên sự tài trợ của nhà nước được thể hiện rõ bằng việc bảo đảm một phần vốn pháp định cho các doanh nghiệp.Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả và nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đất nước sẽ được nhà nước chú trọng đầu tư vốn nhằm giúp doanh nghiệp phát triển tốt hơn. Cũng trong quá trình hoạt động kinh doanh này, các doanh nghiệp nhà nước phải nộp các khoản thuế, phí, lệ phí như các doanh nghiệp khác và còn phải nộp thuế sử dụng vốn cho ngân sách nhà nước. Khoản thu này chiếm tỉ trọng lớn trong thu ngân sách giúp nhà nước có nguồn để phục vụ cho quốc kế dân sinh nói chung và tạo hành lang pháp lý để bảo vệ nền kinh tế cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế và hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc không hoạt động ở những then chốt, nhà nước sẽ cho cổ phần hoá. Nghĩa là toàn bộ số vốn của doanh nghiệp theo dạng này sẽ bao gồm : Cổ phần của nhà nước, cổ phần của doanh nghiệp và cổ phần của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp bán cổ phần của mình cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thì lúc đó sẽ có các cổ phần của cán bộ công nhân viên. ở một chừng mực nào đó, khi thị trường chứng khoán Việt Nam vận hành thì cổ phần đó sẽ được mua đi bán lại trên thị trường và nảy sinh ra cổ phần xã hội. Trong điều kiện đó mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước với doanh nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước còn tham gia vào nền kinh tế với tư cách là một cổ đông. + Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức tài chính trung gian. Hiện nay các tổ chức tài chính trung gian ở nước ta mới chỉ hiện rõ nét bằng hoạt động của các ngân hàng thương mại và của công ty bảo hiểm. Nhưng để có một nền kinh tế thị trường phát triển tất yếu phải có sự thiết lập các hình thức phong phú, đa dạng trong lĩnh vực môi giới về vốn. Nhằm biến những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức khác thành những nguồn vốn dành để đầu tư cho kinh tế. 4
  5. + Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhau. Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình thanh toán các sản phẩm và dịch vụ, trong việc góp vốn liên doanh, vốn cổ phần và chia lợi nhuận do vốn liên doanh cổ phần mang lại. Cùng với sự phát triển của các yếu tố cấu thành trong nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ về kinh tế giữa các doanh nghiệp có xu thế ngày càng tăng lên. Các hoạt động đó đan xen vào nhau và tự điều chỉnh theo các quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ và khả năng thu hút lợi nhuận. + Quan hệ giữa các doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài phát sinh trong quá trình vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế trên thế giới. Nền kinh tế thị trường gắn liền với chính sách mở cửa, các hoạt động giữa các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức kinh tế nước ngoài ngày càng có xu thế hoà nhập lẫn nhau, hợp tác với nhau để phát huy hết khả năng và thế mạnh của mình trong việc khai thác các nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh để có chi phí ít nhất với hiệu quả kinh tế cao nhất. 1.1.2 Bản chất của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội. Hay, tài chính doanh nghiệp là những mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. 1.2 / Vai trò của tài chính doanh nghiệp. Vai trò của tài chính doanh nghiệp được ví như những tế bào có khả năng tái tạo, hay còn được coi như “ cái gốc của nền tài chính”. Sự phát triển hay suy thoái của sản xuất- kinh doanh gắn liền với sự mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài chính. Vì vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý ; sau đó nó còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Song song với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước đã hoạch định hàng loạt chính sách đổi mới nhằm xác lập cơ chế quản lý năng động như các chính sách khuyến khích đầu tư kinh doanh, mở rộng khuyến khích giao lưu vốn. Trong điều kiện như vậy, tài chính doanh nghiệp có vai trò sau: 5
  6. 1.2.1/ Tài chính doanh nghiệp- một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh. Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có một yếu tố tiền đề - đó là vốn kinh doanh. Trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp trước đây, vốn của các doanh nghiệp nghiệp nhà nước được nhà nước tài trợ hầu hết. Vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn không được đạt ra như một nhu cầu cấp bách, có tính sống còn với doanh nghiệp. Chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần, các doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận cùng song song tồn tại trong cạnh tranh, cho việc đầu tư phát triển những ngành nghề mới nhằm thu hút được lợi nhuận cao đã trở thành động lực và là một đòi hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, khi đã có nhu cầu về vốn, thì nảy sinh vấn đề cung ứng vốn. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai thác thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và phát triển của mình. 1 2 2/ Tài chíh doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả. Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khe khắt; sản xuất không phải với bất kỳ giá nào. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được phản ánh bằng các chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu tài chính, bằng các số liệu của kế toán và bảng tổng kết tài sản. Với đặc điểm này, người cán bộ tài chính có khả năng phân tích, giám sát các hoạt động kinh doanh để một mặt phải bảo toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh. 1.2.3/ Tài chính doanh nghiệp có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh doanh. Khác với nền kinh tế tập trung, trong nền kinh tế thị trường các quan hệ tài chính doanh nghiệp được mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ thống ngân hàng thương mại, với các tổ chức tài chính trung gian khác, các thành viên góp vốn đầu tư liên doanh và những quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp Những quan hệ tài chính trên đây chỉ có thể được diễn ra khi cả hai bên cùng có lợi và trong khuôn khổ của pháp luật. Dựa vào khả năng này, nhà quản lý có thể sử dụng các công cụ tài chính như đầu tư, xác định lãi suất, tiền lương, tiền thưởng để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh. 6
  7. 1.2.4/ Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Thông qua các chỉ tiêu tài chính như: hệ số nợ, hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu các thành phần vốn có thể dễ dàng nhận biết chính xác thực trạng tốt, xấu trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính, đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựnghệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính và duy trì nề nếp chế độ phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. 2./ Chức năng của tài chính doanh nghiệp. 2.1/ Chức năng huy động và phân phối nguồn vốn. Một doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh được thì cần phải có vốn và quyền sử dụng nguồn vốn bằng tiền của mình một cách chủ động. Tuy nhiên cũng cần phảI làm rõ một vấn đề là: Các nguồn vốn được lấy ở đâu ? Làm thế nào để có thể huy động được vốn ? Trước đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung ngân sách nhà nước cấp toàn bộ vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc thiết lập các xí nghiệp quốc doanh. Hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế khác nhau, nhiều xí nghiệp quốc doanh đã tỏ ra sự yếu kém của mình. Thực trạng đó đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói chung và các nhà quản lý tài chính nói riêng một vấn đề là: làm thế nào để đưa các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đó thoát khỏi tình trạng hiện nay ? Chính sự bất ổn định này đã tạo ra một sự chưa được nhất quán trong việc định hình các nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, dù thay đổi cụ thể như thế nào chăng nữa thì mọi doanh nghiệp với mọi hình thức sở hữu trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ đều có thể huy động được vốn từ các nguồn sau: -Vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp đối với doanh nghiệp nhà nước được xác định trên cơ sở biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn giao đó. Khi mới thành lập nhà nước hoặc cấp trên cấp vốn đầu tư ban đầu để công ty thực hiện sản xuất kinh doanh phù hợp với quy mô và ngành nghề. Số vốn này thường bằng hoặc lớn hơn số vốn pháp định. Sau quá trình hoạt động nếu thấy cần thiết, nhà nước sẽ cấp bổ sung vốn cho doanh nghiệp để phục vụ cho việc phát triển sản xuất kinh doanh. 7
  8. - Vốn tự bổ sung: là vốn nội bộ của doanh nghiệp bao gồm: + Phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp + Phần lợi nhuận sau khi đã nộp thuế + Phần tiền nhượng bán tài sản (nếu có) -Vốn liên doanh liên kết : đó là sự góp tiền hoặc góp tài sản của các doanh nghiệp khác để cùng với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. - Vốn vay: chủ yếu là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Ngoài các loại vốn nói trên, các doanh nghiệp còn có thể huy động vốn của cán bộ công nhân viên và doanh nghiệp sẽ trả lãi cho số vốn vay đó theo lãi suất ngân hàng. Qua đó ta hình dung ra được, quá trình thành lập doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn đầu tư tối thiểu. Đối với doanh nghiệp nhà nước số vốn này do ngân sách nhà nước cấp có thể là 100% hoặc tối thiểu là 51%. Còn đối với các Công ty cổ phần, Công ty TNHH thì số vốn đầu tư ban đầu được hình thành từ việc đóng góp vốn hoặc hùn vốn của các cổ đông dưới hình thức cổ phần. Mức vay vốn được quy định theo từng doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển kinh doanh, trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp vẫn phải tiếp tục đầu tư trung và dài hạn vì vậy doanh nghiệp có thể huy động vốn bên trong doanh nghiệp như vốn tự tài trợ. Nếu như nguồn tự tài trợ mà nhu cầu đầu tư dài hạn vẫn không đáp ứng được thì doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài như các hình thức đã nêu ở trên. Với chức năng tổ chức vốn, tài chính doanh nghiệp không đơn thuần chỉ thực hiện việc huy động vốn mà còn phải tiến hành phân phối vốn sao cho với số vốn pháp định, vốn tự có và các nguồn vốn huy động, doanh nghiệp có thể sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Muốn vậy, trong từng thời kỳ kinh doanh doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu về vốn là bao nhiêu và kết cấu như thế nào là hợp lý. 2.2/ Chức năng phân phối. Sau khi huy động vốn và đã sử dụng nguồn vốn đó sẽ thu được kết quả là việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp tiến hành phân phối kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. ở nước ta, do tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, hình thức sở hữu khác nhau, cho nên quy mô và phương thức phân phối ở các loại hình doanh nghiệp cũng khác nhau. Sau mỗi kỳ kinh doanh, số tiền mà doanh nghiệp thu được bao gồm cả giá vốn và chi phí phát sinh. Do vậy các doanh nghiệp có thể phân phối theo dạng chung như sau: 8
  9. - Bù đắp chi phí phân bổ cho hàng hoá đã tiêu thụ bao gồm: + Trị giá vốn hàng hoá. + Chi phí lưu thông và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã đã bỏ ra như lãi vay ngân hàng, chi phí giao dịch, lợi tức trái phiếu. + Khấu hao máy móc. - Phần còn lại sau khi bù đắp các chi phí được gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp. Phần lợi nhuận này, một phần phải nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế, phần còn lại tuỳ thuộc vào quy định của từng doanh nghiệp mà tiến hành chia lãi liên doanh, trả lợi tức cổ phần, trích lập các quỹ doanh nghiệp. 2.3 / Chức năng giám đốc. Đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc bằng đồng tiền với việc sử dụng chức năng thước đo giá trịvà phương tiện thanh toán của tiền tệ. Khả năng này biểu hiện ở chỗ, trong quá trình thực hiện chức năng phân phối, sự kiểm tra có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô của việc phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của việc phân phối qua các quỹ tiền tệ. Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra thường xuyên vì giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm phát hiện những ưu điểm để phát huy, tồn tại để khác phục. Hoạt động tài chính diễn ra trên mọi lĩnh vực của quá trình tái sản xuất xã hội trên tầm vĩ mô và vi mô. Trong các hoạt động đó tài chính không chỉ phản ánh kết quả sản xuất mà còn thúc đẩy phát triển. Động lực để thúc đẩy nhanh nền sản xuất xã hội không chỉ phụ thuộc vào sự phân phối cân bằng, hợp lý và cân đối giữa các bộ phận mà còn trực tiếp phụ thuộc vào sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm nghặt mọi hoạt động tài chính. Nội dung giám đốc tài chính là giám đốc sự vận động và chu chuyển của nguồn vốn tiền tệ với hiệu quả sử dụng vốn, giám đốc việc lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch, các định mức kinh tế tài chính, giám đốc quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, quá trình hạch toán kinh tế và giám đốc việc chấp hành các chính sách về tài chính. Thực hiện quản lý tài chính đã khẳng định, để thực hiện triệt để và có hiệu quả việc giám đốc tài chính cần phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phù hợp với cơ chế chính sách quản lý kinh tế và thực tiễn sản xuất kinh doanh. Thông qua đó giúp cho việc thực hiện các giải pháp tối ưu nhằm làm lành mạnh tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. II/ Khái niệm và ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp. 1/ Khái niệm và mục đích phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 1.1/ Khái niệm. 9
  10. Trước hết ta tìm hiểu xem phân tích như thế nào ? Phân tích trong lĩnh vực tự nhiên được hiểu là sự chia nhỏ sự vật hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tượng đó như phân tích các chất hoá học bằng những phản ứng, phân tích các vi sinh vật bằng kính hiển vi. Còn trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng. Do đó việc phân tích phải bằng những phương pháp trừu tượng. C Mác đã chỉ ra rằng: " Khi phân tích các hình thái kinh tế xã hội thì không thể sử dụng hoặc kính hiển vi, hoặc những phản ứng hoá học. Lực lượng của trừu tượng phải thay thế cái này hoặc cái kia". (Mác- Ănghen toàn tập, tập 23- NXB " Tác phẩm chính trị" Matscova 1951 trang 6). Phân tích kinh doanh là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình và các kết quả kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, bằng các phương pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút ra tính quy luật và xu hướng phát triềncủa các hiện tượng nghiên cứu. Phân tích kinh doanh gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất kinh doanh chưa phát triển, yêu cầu thông tin cho quản lý chưa nhiều, chưa phức tạp, công việc phân tích cũng được tiến hành chỉ là những phép tính cộng trừ giản đơn. Khi nền kinh tế càng phát triển, những đòi hỏi về quản lý nền kinh tế quốc dân không ngừng tăng lên. Để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh ngày càng cao và phức tạp, phân tích kinh doanh được hình thành và ngày càng hoàn thiện với hệ thống lý luận độc lập. Quá trình đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển các bộ môn khoa học. F Ănghen đã chỉ rõ: "Nếu một hình thái vận động là do một hình thái vận động khác phát triển lên những phản ánh của nó, tức là những ngành khoa học khác cũng phải từ ngành này phát triển ra một ngành khác một cách tất yếu". ( F Ănghen : Phương pháp biện chứng tự nhiên NXB Sự thật 1963 trang 401-402). Là một môn khoa học độc lập, phân tích kinh doanh có đối tượng nghiên cứu riêng. Nói chung, lĩnh vực nghiên cứu của phân tích kinh doanh không ngoài các hoạt động sản xuất kinh doanh như là một hiện tượng kinh tế, xã hội đặc biệt: Để phân chia tổng hợp và đánh giá các hiện tượng của hoạt động kinh doanh, đối tượng nghiên cứu của phân tích kinh doanh là những kết quả kinh doanh cụ thể, được thể hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế, với sự tác động của các tác nhân kinh tế. Kết quả kinh doanh thuộc đối tượng phân tích có thể là kết quả riêng biệt của từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh như mua hàng, bán hàng, sản 10
  11. xuất ra hàng hoá, hoặc có thể là kết quả tổng hợp của cả một quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp. Vậy thế nào là phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ? Và mục đích của việc phân tích này ra sao ? Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. 1.2/ Mục đích. Như chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong thể tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu- biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp .Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa. Bởi vậy phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu sau: -Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ những thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác để họ có thể ra các quyết định về đầu tư, tín dụng và các quyết định tương tự. Thông tin phải dễ hiểu đối với những người có một trình độ tương đối về kinh doanh và về các hoạt động kinh tế mà muốn nghiên cứu các thông tin này. -Phân tích tình hình tài chính cũng nhằm cung cấp thông tin quan trọng nhất cho chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của những khoản thu bằng tiền từ cổ tức hoặc tiền lãi. Vì các dòng tiền của các nhà đầu tư liên quan với các dòng tiền của doanh nghiệp nên quá trình phân tích phải cung cấp thông tin để giúp họ đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của các dòng tiền thu thuần dự kiến của doanh nghiệp. -Phân tích tình hình tài chính cũng phải cung cấp tin về các nguồn lực kinh tế, vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, các tình huống làm biến 11
  12. đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. Đồng thời qua đó cho biết thêm nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các nguồn lực này và các tác động của những nghiệp vụ kinh tế, giúp cho chủ doanh nghiệp dự đoán chính xác quá trình phát triển doanh nghiệp trong tương lai. Qua đó cho thấy, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối chiếu số liệu, so sánh số liệu về tài chính thực có của doanh nghiệp với quá khứ để định hướng trong tương lai. Từ đó, có thể đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản lý doanh nghiệp và tìm ra các biện pháp sát thực để tăng cường các hoạt động kinh tế và còn là căn cứ quan trọng phục vụ cho việc dự đoán, dự báo xu thế phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2/ ý nghĩa của phân tích tình hình tài chính. Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, phân tích tình hình tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân chủ doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài có liên quan đến tài chính của doanh nghiệp. 2.1/ Đối với nhà quản trị doanh nghiệp. Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân tích tài chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên ngoài do nhà phân tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Do đó thông tin đầy đủ và hiểu rõ về doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để có thể phân tích tài chính tốt nhất. Vì vậy nhà quản trị doanh nghiệp còn phải quan tâm đến nhiều mục tiêu khác nhau như tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, hạ chi phí thấp nhất và bảo vệ môi trường. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được mục tiêu này khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Như vậy hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông tin nhằm thực hiện cân bằng tài chính, nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua để tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó định hướng các quyết định của ban giám đốc tài chính, quyết định đầu tư, tài trợ, phân tích lợi tức cổ phần. 2.2/ Đối với các nhà đầu tư. Mối quan tâm của họ chủ yếu vào khả năng hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn và sự rủi ro. Vì thế mà họ cần thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng của doanh nghiệp. Các nhà 12
  13. đầu tư còn quan tâm đến việc điều hành hoạt động công tác quản lý. Những điều đó tạo ra sự an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư. 2.3 / Đối với các nhà cho vay. Mối quan tâm của họ hướng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Qua việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, họ đặc biệt chú ý tới số lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để từ đó có thể so sánh được và biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Giả sử chúng ta đặt mình vào trường hợp là người cho vay thì điều đầutiên chúng ta chú ý cũng sẽ là số vốn chủ sở hữu, nếu như ta thấy không chắc chắn khoản cho vay của mình sẽ đựoc thanh toán thì trong trường hợp doanh nghiệp đó gặp rủi ro sẽ không có số vốn bảo hiểm cho họ. Đồng thời ta cũng quan tâm đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì đó chính là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay. 2.4 / Đối với cơ quan nhà nước và người làm công. Đối với cơ quan quản lý nhà nước, qua việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, sẽ đánh giá được năng lực lãnh đạo của ban giám đốc, từ đó đưa ra các quyết định đầu tư bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước nữa hay không. Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư người lao động có nhu cầu thông tin cơ bản giống họ bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ. Sơ đồ 1: Nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng sử dụng khác nhau. Đối tượng Cần quyết Yếu tố cần dự đoán cho Các câu hỏi trả lời nhận được sử dụng định cho các tương lai từ các thông tin có dạng câu hỏi thông tin mục tiêu Nhà quản Điều hành -Lập kế hoạch cho tương lai. -Chọn phương án trị doanh hoạt động sản -Đầu tư dài hạn nào sẽ có hiệu quả nghiệp xuất kinh -Chiến lược sản phẩm và cao nhất ? doanh thị trường -Nên huy động nguồn đầu tư nào ? Nhà đầu tư Có nên đầu tư -Giá trị đầu tư nào sẽ thu -Năng lực của vào doanh được trong tương lai. doanh nghiệp trong nghiệp hay -Các lợi ích khác có thể điều kiện kinh không ? thu được. doanh và huy động 13
  14. vốn đầu tư như thế nào ? Nhà cho Có nên cho -Doanh nghiệp có khả -Tình hình công nợ vay doanh nghiệp năng trả nợ theo đúng hợp của doanh nghiệp. vay vốn hay đồng hay không ? -Lợi tức có được chủ không ? -Các lợi ích khác đối với yếu từ hoạt động các nhà cho vay nào ? -Tình hình và khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Cơ quan Các khoản -Hoạt động của doanh - Có thể có biến nhà nước và đóng góp cho nghiệp có thích hợp và động gì về vốn và người làm nhà nước hợp pháp không? thu nhập trong công Có nên tiếp -Doanh nghiệp có thể tăng tương lai ? tục hợp đồng thêm thu nhập cho người hay không làm công không? Qua sơ đồ trên cho thấy doanh nghiệp là một tế bào của một nền kinh tế nên hoạt động của chúng phản ánh tình hình phát triển hay suy thoái của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Qua đó sẽ giúp cho các nhà quản lý tài chính ở tầm vĩ mô thấy được thực trạng của nền kinh tế quốc gia, xây dựng kế hoạch và các chính sách phù hợp nhằm làm cho tình hình tài chính doanh nghiệp nói riêng và tình hình tài chính quốc gia nói chung ngày càng có sự tăng trưởng. Kết luận: Phân tích tình hình tài chính có thể ứng dụng theo nhiều chiều khác nhau như với mục đích tác nghiệp ( chuẩn bị các quyết định nội bộ) và với mục đích thông tin (trong hoặc ngoài doanh nghiệp ). Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho người sử dụng thấy được thực trạng hoạt động tài chính, từ đó xác định được nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng đến từng hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó có những biện pháp hữu hiệu và ra các quyết định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh / Qua đó thấy được ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp mà công việc này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý, các tổ chức công cộng. Nhất là, thị trường vốn ngày càng phát triển đã tạo 14
  15. nhiều cơ hội để phân tích tài chính thực sự có ích và cần thiết trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. III/ Các phương pháp sử dụng trong phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 1/Phương pháp chung. Là phương pháp xác định trình tự bước đivà những nguyên tắc cần phải quán triệt khi tiến hành phân tích một chỉ tiêu kinh tế nào đó. Với phương pháp này là sự kết hợp triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác- LêNin làm cơ sở. Đồng thời phải dựa vào các chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ. Phải phân tích đi từ chung đến riêngvà phải đo lường được sự ảnh hưởng và phân loại ảnh hưởng. Tất cả các điểm trên phương pháp chung nêu trên chỉ được thực hiện khi kết hợp nó với việc sử dụng một phương pháp cụ thể. Ngược lại các phương pháp cụ thể muốn phát huy tác dụng phải quán triệt yêu cầu của phương pháp chung. 2/ Các phương pháp cụ thể. Đó là những phương pháp phải sử dụng những cách thức tính toán nhất định. Trong phân tích tình hình tài chính, cũng như phạm vi nghiên cứu của luận văn, em xin được đề cập một số phương pháp sau: 2.1/ Phương pháp so sánh. So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy để tiến hành so sánh phải giải quyết những vấn đề cơ bản, cần phải đảm bảo các điều kiện đồng bộ để có thể so sánh được các chỉ tiêu tài chính. Như sự thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán. Đồng thời theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. -Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu số gốc để so sánh là trị số của chỉ tiêu kỳ trước (nghĩa là năm nay so với năm trước ) và có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. -Kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo, kỳ kế hoạch. -Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian. Trên cơ sở đó, nội dung của phương pháp so sánh bao gồm: + So sánh kỳ thực hiện này với kỳ thực hiện trước để đánh giá sự tăng hay giảm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và từ đó có nhận xét về xu hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp. 15
  16. +So sánh số liệu thực hiện với số liệu kế hoạch, số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành, của doanh nghiệp khác để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp được hay chưa được. +So sánh theo chiều dọc để xem tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự thay đổi về lượng và về tỷ lệ của các khoản mục theo thời gian. 2.2/ Phương pháp cân đối. Là phương pháp mô tả và phân tích các hiện tượng kinh tế mà giữa chúng tồn tại mối quan hệ cân bằng hoặc phải tồn tại sự cân bằng. Phương pháp cân đối thường kết hợp với phương pháp so sánh để giúp người phân tích có được đánh giá toàn diện về tình hình tài chính. Phương pháp cân đối là cơ sở sự cân bằng về lượng giữa tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn, giữa nguồn thu, huy động và tình hình sử dụng các loại tài sản trong doanh nghiệp. Do đó sự cân bằng về lượng dẫn đến sự cân bằng về sức biến động về lượng giữa các yếu tố và quá trình kinh doanh. 2.3 / Phương pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính vì nó dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Phương pháp tỷ lệ giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loại tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn. Qua đó nguồn thông tin kinh tế và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn. Từ đó cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ như: + Tỷ lệ về khả năng thanh toán : Được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. + Tỷ lệ và khả năng cân đối vốn, cơ cấu vốn và nguồn vốn: Qua chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính. + Tỷ lệ về khả năng hoạt động kinh doanh : Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp. + Tỷ lệ về khả năng sinh lời: Phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp. Kết luận: Các phương pháp trên nhằm tăng hiệu quả phân tích. chúng ta sẽ sử dụng kết hợp và sử dụng thêm một số phương pháp bổ trợ khác như phương pháp liên hệ phương pháp loại trừ nhằm tận dụng đầy đủ các ưu điểm của chúng để thực hiện mục đích nghiên cứu một cách tốt nhất. 16
  17. IV/ Nhiệm vụ, nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 1/Nhiệm vụ phân tích . Nhiệm vụ của phân tích tình hình tài chính là trên cơ sở các nguyên tắc về tài chính doanh nghiệp và phương pháp phân tích mà tiến hành phân tích đánh giá thực trạng của hoạt động tài chính, vạch rõ những mặt tích cực và tiêu cực của việc thu chi tiền tệ, xác định nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố. Từ đó đề ra các biện pháp tích cực nhằm nâng cao hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2/ Nội dung của phân tích. Xuất phát từ các nhiệm vụ trên ta thấy sự phát triển của một doanh nghiệp dựa vào nhiều yếu tố như: +Các yếu tố bên trong : Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, tính chất của sản phẩm, quy trình công nghệ, khả năng tài trợ cho tăng trưởng. + Các yếu tố bên ngoài: Sự tăng trưởng của nền kinh tế, tiến bộ khoa học kỹ thuật, chính sách tiền tệ, chính sách thuế. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trườngcó sự quản lý vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp đều được bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Đối với mỗi doanh nghiệp, ngoài chủ doanh nghiệp quan tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp còn có các đối tượng khác quan tâm đến như các nhà đầu tư, các nhà cung cấp, các nhà cho vay Chính vậy mà việc thường xuyên phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho người sử dụng thông tin nắm được thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính. Từ đó đưa ra các biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh. Từ những lý luận trên nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ đánh giá đầy đủ nhất và là bức tranh toàn cảnh khái quát về tình hình tài chính doanh nghiệp. 2.1/ Đánh giá khái quát về tình hình tài chính doanh nghiệp. ở phần này, bao gồm các vấn đề sau: - Phân tích tình hình biến động tài sản. - Phân tích tình hình biến động nguồn vốn. - Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn. 2.2/ Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.3/ Phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp. - Phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản lưu động. - Phân tích hiệu quả tài sản lưu động. - Phân tích tình hình quản lý hiệu quả sử dụng tài sản cố định. 17
  18. 2.4/ Phân tích tình hình quản lý và sử dụng nguồn vốn. - Phân tích tình hình công nợ phải trả. - Phân tích tình hình và khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. Toàn bộ các nội dung trên sẽ được nghiên cứu và trình bày một cách cụ thể ở phần II của luận văn. V / Cơ sở nguồn tài liệu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Tài liệu quan trọng nhất được sử dụng trong phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là các báo cáo tài chính như : Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và tình hình cụ thể của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là những báo cáo được trình bày hết sức tổng quát, phản ánh một cách tổng hợp nhất về tình hình tài sản, các khoản nợ, nguồn hình thành vốn, tình hình tài chính, cũng như kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu để đánh giá tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua giúp cho việc kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn và khả năng huy động vốn vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hệ thống báo cáo tài chính, Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một tư liệu cốt yếu trong hệ thống thông tin về các doanh nghiệp. 1. Bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định ( thời điểm lập báo cáo). Bảng cân đối kế toán có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý doanh nghiệp số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu của tài sản, nguôn vốn và cơ cấu vốn hình thành các tài sản đó. Thông qua bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp sẽ có rất nhiều đối tượng qua tâm với mỗi đối tượng sẽ quan tâm tới một mục đích khác nhau. Tuy nhiên để đưa ra quyết định hợp lý, phù hợp với mục đích của mình cần phải xem xét tất cả những gì cần phải thông qua bảng cân đối kế toán để định hướng cho việc nghiên cứu tiếp theo. Bảng cân đối kế toán được trình bày thành hai phần: Phần tài sản và phần nguồn vốn. Kết cấu của bảng cân đối kế toán tối thiểu gồm ba cột: Chỉ tiêu, số đầu năm, số cuối kỳ. Hai phần tài sản và nguồn vốn có thể được bố trí hai bên hoặc hai phần, cho nên tổng tài sản luôn bằng tổng nguồn vốn. Nếu cụ thể hoá ta có: Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn 18
  19. Hoặc Tài sản lưu động và + Tài sản cố định và = Nợ phải trả + Nguồn vốn đầu tư ngắn hạn đầu tư dài hạn chủ sở hữu Phần tài sản. Phản ánh toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. -Về mặt kinh tế: Phần tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các tài sản của doanh nghiệp đang tồn tại dưới mọi hình thức: Tài sản vật chất như tài sản cố định hữu hình, tồn kho, tài sản cố định vô hình như giá trị bằng phát minh sáng chế, hay tài sản chính thức như các khoản đầu tư, khoản phải thu, tiền mặt. Qua xem xét phần này cho phép đánh giá tổng quát năng lực sản xuất và quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của doanh nghiệp. - Về mặt pháp lý: Số tiền “tài sản” thể hiện số vốn thuộc quyền quản lý và sử dụng lâu dài của doanh nghiệp. Tài sản chia thành hai loại: + Loại A: Tài sản lưu động và vốn đầu tư ngắn hạn- Đây là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp mà thời gian sử dụng, thu hồi luân chuyển trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. + Loại B: tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Phản ánh toàn bộ giá trị còn lại của tài sản cố định, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, các khoản ký quỹ, ký cược của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Phần nguồn vốn Phản ánh những nguồn vốn mà doanh nghiệp quản lý và đang sử dụng vào thời điểm lập báo cáo. - Về mặt kinh tế: Khi xem xét nguồn vốn các nhà quản trị doanh nghiệp thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng. - Về mặt pháp lý: Các nhà quản lý doanh nghiệp thấy được trách nhiệm của mình về tổng số vốn được hình thành từ các nguồn khác nhau như vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng và các đối tượng khác, các khoản nợ phải trả, các khoản nộp vào ngân sách. Các khoản phải thanh toán với công nhân viên. Các nguồn vốn: + Loại A: Nợ phải trả: Đây là số vốn mà doanh nghiệp vay ngắn hạn hay dài hạn. Loại vốn này, doanh nghiệp chỉ được dùng trong một thời kỳ nhất định, tới kỳ hạn phải trả lại cho chủ nợ. 19
  20. + Loại B: Vốn chủ sở hữu: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, các quỹ doanh nghiệp và phần kinh phí sự nghiệp được ngân sách nhà nước cấp. Bảng cân đối kế toán của một doanh nghiệp nh- sau Mẫu số B01-DN Tài sản Nguồn vốn A/. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn A/. Nợ phải trả I. Tiền I. Nợ ngắn hạn II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn II. Nợ dài hạn III. Các khoản phải thu III. Nợ khác IV. Hàng tồn kho V. Tài sản lưu động khác B/. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn B/. Nguồn vốn chủ sở hữu I. Tài sản cố định I. Nguồn vốn- quỹ II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn II. Nguồn kinh phí III. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang IV. Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn Tổng tài sản Tổng nguồn vốn 2) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được chi tiết theo hoạt động sản xuất kinh doanh chính, phụ, các hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động bất thường phát sinh trong kỳ báo cáo. Ngoài ra còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Cũng qua số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh người ta có thể nhận biết sự dịch chuyển của tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Đồng thời nó cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp.Trên cơ sở đó, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh là lãi hay lỗ trong năm. Ngoài ra, nó còn giúp nhà phân tích so sánh với các kỳ trước và với các doanh nghiệp khác cùng ngành để nhận biết khái quát kết quả hoạt 20
  21. động của doanh nghiệp và xu hướng vận động nhằm đưa ra các quyết định quản lý, quyết định tài chính phù hợp. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh được chia làm 3 phần + Phần I: Báo cáo lãi, lỗ. Phần này phân tích kết quả hoạt động kinh doanh và có thể khái quát phần lãi, lỗ qua sơ đồ sau: + Phần II. Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Phần này bao gồm các chỉ tiêu phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với nhà nước về các khảon như: nộp thuế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn Các chỉ tiêu phản ánh trong phần này theo dõi số còn phải nộp kỳ trước chuyển sang; số phải nộp phát sinh trong kỳ, số còn phải nộp chuyển sang kỳ sau theo cột tương ứng. Trong đó: Số còn phải nộp = Số còn phải nộp kỳ + Số phải nộp - Số đã nộp chuyển sang kỳ sau trước chuyển sang trong kỳ trong kỳ +Phần III. Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm Phần này gồm các chỉ tiêu phảnánh số thuế GTGT được khấu trừ, đã khấu trừ vf còn được khấu trừ; số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại và còn được hoàn lại; số thuế GTGT được miễn giảm, đã miễn giảm và còn được miễn giảm. Tóm lại, do những thông tin mà bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cung cấp phục vụ đắc lực cho công tác phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nên đây là những tài liệu chủ yếu được sử dụng trong phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Ngoài ra, để việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp chính xác, sát với tình hình thực tế chungcủa nền kinh tế người phân tích cần kết hợp sử dụng các thông tin trong các tài liệu khác như: + Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. + Báo cáo chi tiết về các khoản công nợ phải thu và phải trả theo các đối tượng + Báo cáo giải trình và tình hình tăng giảm tài sản, nguồn vốn. 21
  22. Sơ đồ Phần I. Tổng doanh thu - (Chiết khấu bán hàng + Giảm giá hàng bán + Hàng bán bị trả lại) Doanh thu thuần Giá vốn hàng bán Lợi nhuận gộp Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh Lợi nhuận hoạt động tài chính và Thu nhập hoạt Chi phí hoạt động hoạt động bất thường động tài chính tài chính Thu nhập hoạt Chi phí hoạt động động bất thường bất thường Tổng lợi nhuận trước thuế Thuế thu nhập phải nộp Lợi nhuận thuần sau thuế của các hoạt động 22
  23. Phần II Phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty chè Việt Nam I/ Vài nét về đặc điểm kinh doanh của Tổng công ty. 1/ Đặc điểm của Tổng công ty chè VN. Trong sự biến động chung của tình hình kinh tế trong nước và thế giới và sự biến động của thị trường chè nói riêng trong những năm gần đây thì sự hoạt động rời rạc của các xí nghiệp chế biến công nông nghiệp chè không còn phù hợp nữa, cho nên, Tổng công ty chè Việt Nam đã được thành lập theo Quyết định số 90/Ttg ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ và theo Quyết định số 394 Nhà nước - TCCB/QĐ ngày 29/12/1995 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn bao gồm 22 công ty và 6 đơn vị sự nghiệp, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực sản xuất, chế biến và kinh doanh chè. Mục tiêu chủ yếu của việc thành lập này là có được một tổ chức Nhà nước chuyên quản lý về chè và các lĩnh vực liên quan đến chè để khai thác thế mạnh của nông nghiệp Việt nam, tạo công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động cũng như làm nhiệm vụ xuất khẩu quan trọng đối với quốc gia và đóng góp rất căn bản cho sự phát triển kinh tế- xã hội vùng trung du, miền núi. Tổng công ty chè Việt nam có trụ sở chính đặt tại 46 Tăng Bạt Hổ, Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội, với tổng số nhân viên là 200 người. Hình thức hoạt động chủ yếu là kinh doanh xuất nhập khẩu các loại nông sản, chè, vật tư, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng, hình thức sở hữu vốn là sở hữu nhà nước. Tiền thân của Tổng công ty là liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt nam. Ngoài việc tiến hành sản xuất, chế biến, kinh doanh, Tổng công ty còn giúp bộ chủ quản thực hiện một số chức năng quản lý nhà nước đối với ngành chè. Từ khi thành lập đến nay, Tổng công ty đã trở thành một tổ chức sản xuất kinh doanh tập trung vào nhiệm vụ xuất khẩu chè và phát triển trên cơ sở sản xuất kinh doanh đa dạng, là đơn vị sản xuất kinh doanh lớn nhất trong ngành chè, nòng cốt của Hiệp hội chè Việt nam, tiêu biểu về kinh nghiệm tổ chức, hoạt động và các thử nghiệm, cải tiến, đổi mới cơ chế quản lý liên tục trong hệ thống quốc doanh nông nghiệp. Thành tích của Tổng công ty là một quá trình tích tụ kinh nghiệm hoạt động trong 1/4 thế kỷ qua, đặc biệt thể hiện tập trung trong thời kỳ đổi mới(1989-1999). 23
  24. Tổng công ty có nhiệm vụ kinh doanh chè; bao gồm xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư, nghiên cứu cải tạo giống chè, trồng trọt, chế biến, tiêu thụ, xuất nhập khẩu sản phẩm chè, vật tư, thiết bị ngành chè, tiến hành các hoạt động kinh doanh khác theo pháp luật, cùng với chính quyền địa phương chăm lo phát triển kinh tế- xã hội ở các vùng trồng chè, đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng kinh tế mới xây dựng mối quan hệ kinh tế và hợp tác đầu tư khuyến nông khuyến lâm với các thành phần kinh tế để phát triển trồng chè, góp phần thực hiện việc xoá đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi núi trọc và cải tạo môi sinh. Trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế, lãnh đạo Tổng công ty đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc cải tiến, đổi mới cơ chế quản lý để phục vụ các mục tiêu chiến lược lâu dài, mạnh dạn thử nghiệm đổi mới toàn diện và liên tục các mặt cơ bản như: + Thực hiện cơ chế khoán mới trong nông nghiệp. + ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, phát triển công nghệ mới. + Đầu tư xây dựng quy hoạch vùng nguyên liệu và hiện đại hoá công nghiệp chế biến. + Mở rộng thị trường. Nên trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tích xuất sắc. Cho đến nay sau 25 năm hoạt động, Tổng công ty chè đã đựơc tặng thưởng 2 Huân chương lao động hạng nhì, 18 Huân chương lao động hạng 3, 15 bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và 15 cờ thi đua của Bộ cùng nhiều phần thưởng và danh hiệu cao quý của Đảng, nhà nước các đoàn thể và tổ chức xã hội. Tổng công ty chè Việt nam là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng được mở tài khoản tại các ngân hàng theo quy định của nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ mẫu về tổ chức hoạt động của Tổng công ty. 2/ Tổ chức bộ máy của Tổng công ty. Tổng công ty chè Việt nam bao gồm 10 phòng ban với 22 đơn vị đầu mối trực thuộc, nằm ở toàn bộ các tỉnh ở Việt nam, do vậy mô hình bộ máy quản lý của văn phòng Tổng công ty là: 24
  25. Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức bộ máy của văn phòng Tổng công ty Hội đồng quản trị Các hội đồng Tổng giám đốc Ban kiểm soát tư vấn Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Chi Các Phòng Phòng Phòng tổ Phòng Phòng Văn Trạm Chi nhánh phòng kế hoạch tài chính chức lao kỹ thuật kỹ thuật phòng vật nhánh Tổng kinh đầu tư kế toán động công nông Tổng tư Tổng công ty doanh thanh tra nghiệp nghiệp công ty Cổ Loa công ty tại Hải tại HCM Phòng Như vậy, Tổng công ty chè Việt nam là đơn vị sản xuất kinh doanh có quy mô tương đối lớn. ở văn phòng Tổng công ty, hội đồng quản trị(HĐQT) thực hiện các chức năng quản lý, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng công ty theo nhiệm vụ Nhà nước giao, giúp việc cho HĐQT là ban kiểm soát và các hội đồng tư vấn. Người có quyền điều hành cao nhất trong Tổng công ty là Tổng giám đốc, là đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách nhiệm trước HĐQT, trước Bộ trưởng bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng công ty. Phó Tổng giám đốc giúp việc Tổng giám đốc theo sự phân công của Tổng giám đốc, một người phụ trách mảng kinh doanh chung của toàn Tổng công ty, người thứ hai phụ trách về công việc đầu tư sản xuất của Tổng công ty. 25
  26. Còn các phòng ban chức năng tiến hành các hoạt động theo chuyên môn và theo qui định của Tổng công ty. Như phòng kế toán-tài chính : Tập trung sổ sách tài khoản, là nơi thực hiện quản lý, kiểm tra tài chính, tổng hợp số liệu kế toán toàn Tổng công ty, kiểm tra và hướng dẫn việc thực hiện chế độ tài chính- kế toán và công tác kế toán tại các đơn vị trực thuộc, đồng thời cung cấp số liệu kịp thời đầy đủ, chính xác cho Ban giám đốc. * Tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh của Tổng công ty bao gồm 22 đơn vị thành viên và mô hình tổ chức bộ máy kế toán của Tổng công ty. Tổng công ty tổ chức công tác theo hình thức phân tán: áp dụng đối với các đơn vị trực thuộc có tổ chức kế toán riêng từ khâu lập chứng từ, các nghiệp vụ phát sinh từ cơ sở và ghi vào sổ kế toán, cuối tháng gửi toàn bộ về Tổng công ty để kiểm tra, tổng hợp lên báo cáo chung toàn Tổng công ty. Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán của Tổng công ty. Kế toán Tổng công ty Chi nhánh Chi nhánh hải phòng t.p hồ chí minh Các đơn vị thành viên hạch toán độc lập Đối với mô hình kế toán tập trung bao gồm hai chi nhánh Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh. Chi nhánh Hải Phòng, không có tổ chức kế toán riêng tổ chức kế toán ở đơn vị này chỉ giải quyết việc thu thập chứng từ ban đầu phát sinh ở đơn vị mình cuối tháng gửi toàn bộ về văn phòng kế toán Tổng công ty để kiểm tra và tổng hợp. Chi nhánh ở TP. Hồ Chí Minh có điểm khác biệt là: bộ phận kế toán ở đay vẫn tiến hành hạch toán quyết toán cuối cùng nhưng hàng năm kế toán ở văn phòng Tổng công ty cử người vào kiểm tra để đưa vào báo cáo tổng hợp của văn phòng Tổng công ty. Tổng công ty chè Việt nam áp dụng hình thức kế toán: Chứng từ ghi sổ, về báo cáo tài chính, Tổng công ty áp dụng các loại biểu: 26
  27. Biểu 01-DN- “Bảng cân đối kế toán” Biểu 02-DN -“Kết quả hoạt động kinh doanh “ Biểu 03-DN -“ Lưu chuyển tiền tệ” Biểu 09-DN -“Thuyết minh báo cáo tài chính “ Về hệ thống chứng từ kế toán, Tổng công ty áp dụng hệ thống chứng từ kế toán theo quy định số186 TC /CĐKT ngày 14/03/1995 của Bộ Tài Chính. Về chế độ kế toán áp dụng hệ thống kế toán doanh nghiệp theo quy định số 1141TC /CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ Tài Chính. Về phương pháp kế toán, Tổng công ty áp dụng phương pháp kế toán kê khai thường xuyên và niên độ kế toán từ 01/01/N đến 31/12/N. Ta có thể khái quát mô hình tổ chức bộ máy kế toán của văn phòng Tổng công ty. Kế toán trưởng phụ trách chung về toàn bộ công tác hạch toán kế toán, thống kê của Tổng công ty, có các quyền hạn và nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Phó phòng kế toán I phụ trách từng khâu trong toàn bộ công tác hạch toán kế toán, vừa tiến hành kế toán từng nghiệp vụ nhỏ vừa kiểm tra tổng thể cân đối, đảm bảo chính xác và nhanh chóng. Thủ quỹ chịu trách nhiệm bảo quản, thu chi tiền mặt theo đúng chế độ hiện hành. Sơ đồ 4: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán ở văn phòng Tổng công ty Trưởng phòng kế toán Phó phòng i Phó phòng II Kế toán bộ phận Nhập Xuất Trả Tổng Tổng khẩu KHTC Thanh Thủ khẩu uỷ tiền Tài sản Công hợp hợp sản mua toàn toán tiền quỹ thác chè cố định nợ quyết xuất kinh bán ngành mặt ngoại tệ cho và sản toán doanh thiết bị chuyển CSSX xuất thuế toàn khoản vật tư ngành 27
  28. II / Phân tích tình hình tài chính tại Tổng công ty chè Việt nam 1/Đánh giá khái quát về tình hình tài chính doanh nghiệp Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ cung cấp một cách tổng quát nhất tình hình tài chính trong kỳ kinh doanh là khả quan hay không khả quan. Điều đó cho phép chủ doanh nghiệp thấy rõ thực chất của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và dự báo được khả năng phát triển hay chiều hướng suy thoái của doanh nghiệp, trên cơ sở đó có những giải pháp hữu hiệu. Để có một cách nhìn tổng thể về tình hình tài chính của doanh nghiệp ta sẽ đi tìm hiểu lần lượt khái quát về tình hình biến động vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp, qua đó thấy được mối liên hệ giữa tài sản và nguồn vốn để đánh giá được tình hình phân bố, huy động và sử dụng vốn, nguồn vốn phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1/ Phân tích khái quát tình hình biến động về tài sản và nguồn vốn. 1.1.1/ Phân tích khái quát tình hình biến động về tài sản. Ta tiến hành so sánh tổng tài sản của Tổng công ty cuối năm 1999 so với cuối năm 1998 để thấy được sự biến động về số tiền, tỷ lệ. Bên cạnh đó so sánh giá trị và tỷ trọng của các bộ phận cấu thành tài sản qua 2 năm để thấy nguyên nhân ảnh hưởng ban đầu tới quy mô Tổng công ty. Nếu như tài sản của Tổng công ty tăng lên, điều này chứng tỏ quy mô của Tổng công ty tăng lên và ngược lại, tài sản của Tổng công ty giảm xuống sẽ phản ánh quy mô kinh doanh của Tổng công ty giảm đi. Để làm rõ hơn việc đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ta tiến hành so sánh giữa tài sản với các chỉ tiêu phanr ánh kết quả kinh doanh đó là doanh thu và lợi nhuận. Khi tài sản của Tổng công ty tăng, doanh thu và lợi nhuận cũng tăng thì đánh giá là tình hình sử dụng và quản lý tài sản có hiệu quả. Còn ngược lại, tài sản của doanh nghiệp giảm, doanh thu và lợi nhuận giảm thì đánh giá sử dụng tài sản là không tốt. Ngoài ra, chúng ta cần phải phân tích sự phân bổ cơ cấu vốn của Tổng công ty có hợp lý hay không. Là một Tổng công ty phụ trách toàn bộ các đơn vị thành viên nhưng nhiệm vụ chính của Tổng công ty vẫn là kinh doanh nên nêú tài sản lưu động mà chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng lên thì đánh giá là hợp lý. Ta lập biểu phân tích sau: 28
  29. Biểu 1: Phân tích tình hình biến động về tài sản ĐVT: 1000đ Năm 1998 Năm 1999 So sánh Các chỉ tiêu TT TT Tỷ lệ TT Số tiền Số tiền Số tiền (%) (%) (%) (%) 1.Tổng tài sản bq 470.953.052 100,0 472.709.523 100,0 1.756.471 0,37 0 -Loại A 441.854.795 93,82 433.198.779 91,64 -8.656.016 -1,96 -2,18 -Loại B 29.098.257 6,18 39.510.744 8,36 10.412.487 +35,78 +2,18 2. Doanh thu 1.129.093.000 980.621.000 -148.472.000 -13,15 3. Lợi nhuận 46.403.231 32.806.538 -13.596.693 -29,3 Qua biểu 1 cho thấy tổng tài sản năm 1999 tăng 0,37% so với năm 1998 tương ứng tăng 1.756.471(nđ), trong khi đó TSLĐ và ĐTNH lại giảm 1,96% tương ứng với số tiền giảm 8.656.016 (nđ) và TSCĐ và ĐTDH lại tăng 35,78% với số tiền tăng 10.412.487 (nđ). Như vậy, sự phân bổ vốn của Tổng công ty là hợp lý vì Tổng công ty vừa có nhiệm vụ hoạt động kinh doanh vừa có nhiệm vụ sản xuất cho nên việc đâù tư vào TSCĐ là hết sức cần thiết. Mặc dù vậy hoạt động kinh doanh của Tổng công ty năm 1999 không hiệu quả bằng năm 1998 cụ thể: Tuy tài sản năm 1999 tăng so với năm 1998, nhưng tổng doanh thu lại giảm 13,15% ứng với số tiền giảm 148.472.000(nđ), và lợi nhuận của Tổng công ty cũng giảm là 29,3%. Trên đây là sự biến động khái quát về tài sản của Tổng công ty, trong nội dung này ta còn tiến hành phân tích khái quát sự biến động về nguồn vốn của Tổng công ty. 1.1.2/ Phân tích khái quát tình hình biến động về nguồn vốn. Nguồn vốn của doanh nghiệp được chia làm 2 loại: + Loại A: Nguồn vốn với công nợ phải trả; phản ánh tình hình công nợ của doanh nghiệp và đây là nguồn vốn được tài trợ từ bên ngoài. + Loại B: Nguồn vốn chủ sở hữu ; phản ánh khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp và đây là nguồn vốn được tài trợ trong doanh nghiệp. Phân tích tình hình biến động của nguồn vốn để đánh giá sự huy động vốn đảm bảo cho quá trình kinh doanh thông qua việc so sánh tổng nguồn vốn qua 2 năm 1998 và 1999. Qua đó các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các đối tượng quan tâm khác thấy đượcc mức độ tự chủ, chủ động trong kinh doanh hay những khó 29
  30. khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu. Điều đó thể hiện qua việc xác định hệ số tự chủ tài chính và hệ số công nợ phải trả. Hệ số tự chủ Nguồn vốn chủ sở hữu tài chính = Tổng nguồn vốn Tổng công nợ phải trả Hệ số nợ = Tổng số nguồn vốn Hệ số nợ có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với hệ số tự chủ tài chính nghĩa là : Nếu hệ số tự chủ tài chính > 0,5 và có xu hướng tăng hệ số nợ 0,5 thì đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp là không tốt, khả năng tự chủ tài chính không cao. Để phân tích ta lập biểu sau: Biểu 2: Phân tích khái quát tình hình biến động về nguồn vốn ĐVT:1000đ Cuối năm 1998 Cuối năm 1999 So sánh Chỉ tiêu ST TT(%) ST TT(%) ST TL(%) TT Loại A 458.216.832 88,13 276.195.999 64,91 -182.020.833 -39,72 -23,22 Loại B 61.727.652 11,87 149.278.561 35,09 87.550.909 +141,83 +23,22 Cộng NV 519.944.484 100 425.474.560 100 -94.469.924 -18,17 0 Hệ số tự chủ 0,12 0,35 +0,23 192 tài chính Hệ số nợ 0,88 0,65 -0,23 -26,14 Qua biểu số liệu trên ta thấy tổng nguồn vốn kinh doanh của Tổng công ty giảm 18,17 % tương ứng với số tiền giảm 94.469.924(nđ). Điều này cho thấy Tổng công ty đang gặp khó khăn trong việc huy động vốn nhưng trên thực tế tình hình tài chính của Tổng công ty vẫn khả quan bởi vì: 30
  31. Nguồn công nợ phải trả của Tổng công ty cuối năm 1999 giảm 39,72% tương ứng với số tiền giảm là 182.020.833(nđ). Trong khi đó, nguồn vốn chủ sở hữu tăng 141,83% tương ứng với số tiền tăng 87.550.909 (nđ). Bên cạnh đó ta nhận thấy tỷ trọng giữa hai khoản mục này có sự biến động mạnh như: Nguồn vốn chủ sở hữu của Tổng công ty cuối năm 1998 chỉ chiếm 11,87% nhưng đến cuối năm 1999 đã tăng lên 23,22%, nguyên nhân tăng như vậy là do khoản nợ phải trả giảm, chứng tỏ việc điều chỉnh kết cấu nguồn vốn của Tổng công ty là hợp lý, giúp Tổng công ty tăng được khả năng tự chủ về tài chính. Mặt khác ta thấy hệ số nợ của Tổng công ty cuối năm 1999 so với cuối năm 1998 giảm 0,23 lần chứng tỏ trong kỳ Tổng công ty đã cố gắng trong việc trang trải các khoản nợ, còn hệ số tự chủ tài chính cũng đã tăng lên 0,23 lần so với cuối năm 1998 tuy hệ số tự chủ còn thấp nhưng ta cũng ghi nhận sự cố gắng phấn đấu của Tổng công ty trong việc giảm sức ép nợ vay từng bước chủ động về vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua đây tạo điều kiện giúp đỡ cho Tổng công ty có khả năng huy động được nguồn vốn. Như vậy qua phần 1.1, ta đã có một cách nhìn khái quát về tình hình tài chính của Tổng công ty chè Việt nam. Nhưng đây mới là biến động ban đầu, chưa đủ để biểu hiện tình hình tài chính của Tổng công ty. Do đó, để thấy được những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình trên và có cơ sở đánh giá chính xác ta đi vào phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn. 1.2 / Phân tích mối quan hệ giữa TS và NV. Muốn nắm được tình hình chung về hoạt động tài chính của doanh nghiệp ta cần phải xem xét mối quan hệ này. Trên phương diện lý thuyết, mỗi doanh nghiệp đều có nguồn vốn chủ sở hữu để trang trải cho các loại tài sản phục vụ cho hoạt động kinh doanh mà không phải đi vay, đi chiếm dụng. Theo quan điểm của luân chuyển vốn, tài sản của doanh nghiệp có hai loại bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Hai loại này được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu. Tức là: Cân đối1:B.Nguồn vốn = A. Tài sản [I +II + IV + V(2,3) + VI ] + B, Tài sản (I,II,III) Cân đối 1 : Chỉ là cân đối mang tính lý thuyết, nghĩa là với nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp đủ trang trải các loại tài sản cho các hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc đi chiếm dụng. Trong thực tế thường xảy ra một trong hai trường hợp. Vế trái > Vế phải. Trường hợp này doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm dụng. 31
  32. Vế trái Vế phải. thể hiện việc không sử dụng hết nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay cho quá trình kinh doanh, nên bị các đơn vị khác chiếm dụng. Trong trường hợp này số vốn công ty bị chiếm dụng lớn hơn số vốn đi chiếm dụng, cụ thể: [(3-8 ) I + III ] A. Nguồn vốn lớn hơn số vốn bị chiếm dụng, ta có [(3-8 ) I + III ] A. Nguồn vốn > [ III + (1+4+5) V ] A. Tài sản + IV. B. Tài sản Mặt khác, do tính chất cân bằng của bảng cân đối kế toán, tổng số tài sản luôn luôn bằng tổng số nguồn vốn nên tổng hợp cân đối 1 và 2 ta có: Cân đối 3: (A + B ) Tài sản = (A + B ) Nguồn vốn Căn cứ vào số liệu thu thập được của Tổng công ty chè Việt nam ta có thể phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn của Tổng công ty như sau: Cân đối 1: B. Nguồn vốn = A. Tài sản ( I + II + IV + V(2,3) ]+ B. Tài sản ( I + II + III ) Biểu 3:Biểu phân tích cân đối 1 ĐVT : 1000 đ 1999 B. Nguồn vốn A. TS( I + II + IV + V(2,3) ]+ B. TS( I + II + III) So sánh Cuối năm 61.277.652 43.276.533 + 53.565.123 + 9.254.986 -77.232.573 32
  33. 1998 +32.504.601 = 138.601.225 Cuối năm 46.527.632 + 40.193.407 + 9.232.478 149.278.561 + 25.295.622 1999 +28.029.422 = 123.982.939 Biểu 3, cho thấy, nguồn vốn chủ sở hữu cuối năm 1998 không đủ trang trải cho những hoạt động cơ bản, cụ thể là cuối năm 1998 nguồn vốn chủ sở hữu không đủ bù đắp là 77.232.573 (nđ). Nhưng cuối năm 1999 nguồn vốn chủ sở hữu đã đủ để trang trải cho hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp thừa nguồn vốn là 25.295.622 (nđ). Điều này khẳng định mức độ đảm bảo về vốn cuối năm 1999 tốt hơn cuối năm 1998 và để xem xét thêm về nguồn vốn chủ ta phân tích tiếp cân đối 2. Biểu 4: Biểu phân tích cấn đối 2 ĐVT:1000đ Năm 1999 B. NV + A. NV [ I (1,2) + II ] A. TS ( I + II + IV + V(2,3) + B. TS So sánh Cuối năm 466.695.019 138.601.225 328.093.794 1998 Cuối năm 390.404.110 123.982.939 266.421.171 1999 Với số liệu ở bảng trên, ta thấy nguồn vốn vay và nguồn vốn chủ sở hữu cuối năm 1998 và cuối năm 1999 đều sử dụng không hết vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo phân tích ở cân đối 1 thì cuối năm 1998 Tổng công ty thiếu một lượng vốn là 77.232.573 (nđ), Tổng công ty đã huy động thêm được một lượng vốn là: 405.417.367(nđ), điều này cho thấy Tổng công ty bị các đơn vị khác chiếm dụng và ta có : + Vốn đi chiếm dụng = [(3 - 8 ) I + III ] A. NV = [I- (1,2)I + III ] A. NV Cuối năm 1998 = 366.144.847- 316.862.733 + 3.520.352 = 52.802.466 Cuối năm 1999 = 209.490.209- 180.300.000 + 5.880.241 = 35.070.450 + Vốn bị chiếm dụng = [ III + (1+4+5) V ] A. TS + IV.B. TS Cuối năm 1998 = [ 373.843.328 + 7.499.912 ] = 381.343.240 Cuối năm 1999 = 297.134.565 + 8.357.056 = 305.491.621 33
  34. Như vậy, cuối năm 1998 doanh nghiệp chiếm dụng 52.802.466 (nđ), trong khi đó số vốn bị chiếm dụng lại lớn hơn rất nhiều 381.343.240. Cuối năm 1999 cũng vậy doanh nghiệp bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn nhiều hơn, nhưng so với cuối năm 1998 thì cuối năm 1999 Tổng công ty đi chiếm dụng vốn ít hơn. Vậy để nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh, yêu cầu cần thiết đối với Tổng công ty là cần tìm mọi biện pháp thu hồi công nợ để thúc đẩy quá trình thanh toán đúng hạn. 2 / Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có tài sản bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Việc đảm bảo đầy đủ nhu cầu về tài sản là một vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả. Để đảm bảo có đủ tài sản cho hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần tập trung các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động, hình thành nguồn vốn. Nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành trước hết từ các nguồn của bản thân chủ sở hữu. Sau nữa hình thành từ nguồn vốn vay và nợ hợp pháp. Cuối cùng nguồn vốn được hình thành từ các nguồn bất hợp pháp. Có thể phân loại các nguồn vốn ( nguồn tài trợ ) thành hai loại: - Nguồn tài trợ thường xuyên: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp được sử dụng thường xuyên lâu dài vào hoạt động kinh doanh, bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay nợ dài hạn, trung hạn(trừ vay - nợ quá hạn). - Nguồn tài trợ tạm thời: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp tạm thời sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong một khoảng thời gian ngắn. Thuộc nguồn tài trợ tạm thời trong các khoản vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn và các khoản vay- nợ quá hạn; các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, người mua. Có thể khái quát nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp qua sơ đồ sau: Sơ đồ 5: Nguồn tài trợ tài sản - TSCĐ hữu hình - Vốn chủ sở hữu Tài -TSCĐ vô hình - Vay dài hạn, trung hạn Thường sản - TSCĐ thuê mua - Nợ dài hạn, trung hạn Xuyên cố Tổng - Đầu tư dài hạn Nguồn định số vv - Vay ngắn hạn tài - Tiền tài sản Tài -Nợ phải thu - Nợ ngắn hạn Tạm 34
  35. sản - Đầu tư ngắn hạn Thời trợ lưu - Hàng tồn kho - Chiếm dụng bất hợp pháp động vv Khi xem xét sự bù đắp của các loại nguồn vốn cho các loại tài sản căn cứ vào thời gian sử dụng của từng loại nguồn vốn và tính chất của từng loại tài sản thì nguồn vốn thường xuyên nên để bù đắp cho TSCĐ và ĐTDH, còn nguồn vốn tạm thời nên để bù đắp cho TSLĐ và ĐTNH. Khi phân tích ta có thể xem xét các trường hợp sau: -Trường hợp 1: TSLĐ được bù đắp bởi hai nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời. Nguồn vốn thường xuyên Nguồn vốn tạm thời > 1 1 TSCĐ & ĐTDH TSLĐ & ĐTNH Đối với Tổng công ty chè Việt nam ta lập biểu phân tích sau Biểu số 5: Biểu phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh ĐVT : 1000đ Chỉ tiêu Cuối năm Cuối năm So sánh 35
  36. 1998 1999 ST Tỉ lệ (%) 1. TSLĐ & ĐTNH 478.184.897 388.212.660 -89.972.237 -18,82 2. TSCĐ & ĐTDH 41.759.587 37.261.900 -4.497.687 -10,77 3.NVTX 61.727.652 149.278.561 +87.550.909 +141,83 4.NV tạm thời 458.216.832 276.195.999 -182.020.833 - 39,72 5.NVTX / TSCĐ &ĐTDH 1,16 1,01 +2,33 +138,69 NVTT / TSLĐ & ĐTNH 0,96 0,71 -0,25 -26,04 Qua biểu số liệu trên ta thấy sự bù đắp của nguồn tài trợ cho các loại tài sản thuộc trường hợp 1. Trường hợp tốt nhất đối với doanh nghiệp vì nguồn vốn thường xuyên thừa để bù đắp cho nhu cầu về tài sản cố định mà còn tài trợ một phần cho tài sản lưu động điều đó tiếp tục lại được khẳng định rằng Tổng công ty có khả năng tự chủ được về vốn so với cuối năm 1998. Đặc biệt ta nhận thấy tính chủ động trong kinh doanh của Tổng công ty cuối năm 1999 tốt hơn cuối năm 1998 vì tỷ lệ NVTX / TSCĐ & ĐTDH tăng so với cuối năm 1998 là 138,69% tương ứng với tăng 2,33 lần. Bên cạnh đó, Tổng công ty chè Việt nam còn có nhiệm vụ chủ yếu là vừa hoạt động điều hành sản xuất, vừa có hoạt động kinh doanh, điều đó đòi hỏi Tổng công ty phải có một lượng vốn lưu động thường xuyên là cao và đó cũng chính là điều mà chúng ta cần phân tích. + Phân tích nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên: Là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động bao gồm: Các khoản phải thu, hàng tồn kho; các TSLĐ khác( trừ tiền). Khi đó Nhu cầu vốn lưu động = Các tài sản lưu động - (Nợ ngắn hạn + thường xuyên (trừ tiền) Nợ khác) Khi nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0, chứng tỏ nguồn vốn ngắn hạn bên ngoài không đủ cho nhu cầu vốn, doanh nghiệp phải huy động thêm nguồn vốn dài hạn để tài trợ. Khi nhu cầu vốn lưu động < 0, cho thấy nguồn vốn ngắn hạn bên ngoài thừa để tài trợ cho lượng vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp cần. Căn cứ vào số liệu thu thập được ta lập biểu sau: Biểu số 6: Phân tích nhu cầu vốn thường xuyên. 36
  37. ĐVT 1000 đ So sánh Chỉ tiêu Cuối năm 1998 Cuối năm 1999 ST Tỉ lệ (%) 1.Các khoản phải thu 373.843.328 297.134.565 -76.708.763 -20,52 2. Hàng tồn kho 53.565.123 40.193.407 -13.371.716 -24,96 3. TSLĐ khác 7.499.912 8.357.056 857.144 +11,43 4. Nợ ngắn hạn 366.141.847 209.490.209 -156.651.638 -42,78 5. Nợ khác 3.520.352 5.880.241 2.359.889 +67,04 6.NC vốn LĐTX 65.246.164 130.314.578 +65.077.414 +99,76 Qua biểu 6 ta thấy nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cuối năm 1999 > 0 tức là nguồn vốn ngắn hạn bên ngoài không đủ bù đắp cho các sử dụng ngắn hạn nên doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn dài hạn để tài trợ. Mặc dù các khoản tài sản lưu động giảm mạnh các khoản phải thu giảm 20,51%, hàng tồn kho giảm 33,27%, trong khi đó TSLĐ khác lại tăng nhưng số tăng không nhiều so với TSLĐ thực có. Vì vậy Tổng công ty cần phải giảm hơn nữa mặt hàng tồn kho để không bị đọng vốn, qua đó sẽ giảm được khoản nợ ngắn hạn và nợ khác. + Phân tích vốn lưu động thường xuyên Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính. Chỉ tiêu này cho biết: - Liệu doanh nghiệp đó có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không ? -TSCĐ có được tài trợ vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? Từ đó ta lập biểu phân tích sau: Biểu 7: Biểu phân tích vốn lưu động thường xuyên ĐVT: 1000 đ So sánh Chỉ tiêu Cuối năm 1998 Cuối năm 1999 ST Tỉ lệ (%) 1. TSCĐ & ĐTDH 41.759.587 37.261.900 -4.497.687 -10,77 2. NVCSH 61.727.652 149.278.561 87.550.909 +141,83 3. Nợ dài hạn 88.554.634 60.825.849 -27.728.789 -31,31 4. VLĐTX(2 + 3-1) 108.522.698 172.842.210 +64.319.512 +59,27 37
  38. Qua việc phân tích trên, một lần nữa khẳng định rõ nét việc TSCĐ được tài trợ vững chắc bởi nguồn vốn dài hạn và mức độ tài trợ có sự tăng trưởng, cụ thể vốn lưu động thường xuyên cuối năm 1999 so với cuối năm 1998 tăng về số tiền là 64.319.512(nđ), tương ứng là 59,27%. Điều này giúp cho doanh nghiệp ngày một đáp ứng tốt hơn yêu cầu về vốn trong việc thanh toán công nợ phải trả và khả năng thanh toán ngày càng cao. Để thấy khả năng sẵn sàng thanh toán ngay các khoản nợ bằng tiền hay nói cách khác là thể hiện số vốn bằng tiền của doanh nghiệp, ta tiến hành so sánh giữa vốn lưu động thường xuyên với nhu cầu để thấy được mối liên hệ giữa chúng. Ta lập bảng phân tích sau: 38
  39. Biểu số 8: Biểu phân tích vốn lưu động thường xuyên với nhu cầu. ĐVT: 1000đ So sánh Chỉ tiêu Cuối năm 1998 Cuối năm 1999 ST Tỉ lệ (%) 1. VLĐTX 108.522.698 172.842.210 +64.319.512 +59,27 2.NC VLĐ TX 65.246.164 130.314.578 +65.068.414 +69,73 3. Vốn bằng tiền (1-2) 43.275.534 42.527.632 -748.902 -1,73 Qua biểu phân tích trên ta thấy do nhu cầu vốn lưu động cuối năm 1999 quá cao trong khi đó nguồn vốn lưu động không đáp ứng đủ. Do vậy chênh lệch giữa số cuối năm 1999 giảm so với cuối năm 1998 là 57.654.584( nđ), tương ứng giảm tỷ lệ 63,49%. Điều đó chứng tỏ cuối năm 1999 doanh nghiệp đã tăng sử dụng tiền mặt lên nhiều, tức là doanh nghiệp đã đưa tiền vào lưu thông dẫn đến lượng vốn bằng tiền giảm. Qua việc phân tích này ta thấy Tổng công ty có khả năng tự chủ được về vốn, thể hiện qua vốn lưu động thường xuyên > 0 và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0, chứng tỏ toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được tài trợ vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn. Cũng qua đó giúp cho doanh nghiệp có thể thanh toán được các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính của doanh nghiệp được đánh giá là tốt. 3 / Phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Như ta đã biết tài sản của doanh nghiệp bao gồm TSLĐ & TSCĐ. Trong đó TSLĐ là tất cả những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp trong thời gian sử dụng, thu hồi và luân chuyển trong một chu kỳ kinh doanh dưới một năm. Còn tài sản cố định là những tài sản của doanh nghiệp có thời gian sử dụng dài trong nhiều chu kỳ kinh doanh. Phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp là sự đánh giá biến động của các bộ phận cấu thành tài sản của doanh nghiệp. Để từ đó thấy được trình độ sử dụng vốn, việc phân bổ giữa các loại tài sản trong quá trình hoạt động kinh doanh có hiệu quả và hợp lý hay không, để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong nội dung này ta sử dụng phương pháp so sánh để phân tích, bằng cách lập biểu phân tích để xác định sự tăng, giảm về số tiền, tỷ lệ và sự thay đổi về tỷ trọng của từng loại, từng mục tài sản để từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá. 39
  40. Do đặc điểm chu chuyển của TSLĐ và yêu cầu quản lý đối với tài sản này trong quá trình kinh doanh phức tạp hơn so với TSCĐ, đồng thời do bộ phận tài sản này chiếm tỷ trọng > trong tổng tài sản của doanh nghiệp cho nên ta phân tích về TSLĐ trước rồi sau đó mới phân tích TSCĐ. 3.1/ Phân tích tình hình quản lý và sử dụng TSLĐ. Trong các doanh nghiệp khác nhau thì sự vận động của TSLĐ có những đặc điểm khác nhau. Sự khác nhau đó do đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định. Việc quản lý và sử dụng TSLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì TSLĐ là phương tiện kinh doanh của DNTM và thường chiếm tỷ trọng lớn( trên50%) tổng tài sản. Do đặc điểm của TSLĐ có tốc độ chu chuyển nhanh nên đòi hỏi người phân tích phải hết sức quan tâm nhằm đánh giá đúng mức độ của việc sử dụng tài sản đó đã đem lại cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.1.1 / Phân tích chung tình hình TSLĐ. Để phân tích, ta lập biểu phân tích nhằm đánh giá cơ cấu các khoản mục cấu thành TSLĐ của doanh nghiệp. Biểu số 9: Biểu phân tích chung tình hình quản lý và sử dụng TSLĐ ĐVT :1000đ Cuối năm 1998 Cuối năm 1999 So sánh Chỉ tiêu TT TT Tỷ lệ TT Số tiền Số tiền Số tiền (%) (%) (%) (%) 1/ Tiền 43.276.533 9,05 42.527.632 10,95 -748.901 -1,73 +1,9 2/.Cáckhoản phải thu 373.843.328 78,18 297.134.565 76,54 -76.708.763 -20,52 -1,64 3/ Hàng tồn kho 53.565.123 11,20 40.193.407 10,35 -13.371.716 -24,96 -0,85 4/TSLĐ khác 7.499.912 1,57 8.357.056 2,15 +857.144 +11,43 0,58 Tổng cộng 478.184.897 100,0 388.212.660 100,0 -89.972.237 -18,82 0 Qua số liệu ở bảng trên ta thấy TSLĐ cuối năm 1999 so với cuối năm 1998 giảm 18,82%, tương ứng giảm 89.972.237(nđ). Nguyên nhân giảm là do các loại TSLĐ của doanh nghiệp cuối năm 1999 đều giảm so với cuối năm 1998, đặc biệt là khoản phải thu và hàng tồn kho là hai khoản chiếm tỷ trọng giảm mạnh. Các khoản phải thu cuối năm 1999 so với cuối năm 1998 giảm 20,52%, tương ứng giảm 76.708.763(nđ), làm cho tỷ trọng giảm 1,64%. Nguyên nhân là do cuối năm 1999 doanh nghiệp đã thu được một số khoản mà khách hàng nợ. 40
  41. Hàng tồn kho cuối năm 1999 giảm so với cuối năm 1998 là 24,96%, tương ứng giảm 13.377.766(nđ), nguyên nhân hàng tồn kho giảm là do doanh nghiệp chú trọng nhiều đến chất lượng sản phẩm, cạnh tranh được với mặt hàng chè trên thế giới. Xét về tỷ trọng thì cuối năm 1999 giảm 0,85% so với cuối năm 1998 đó cũng chính là sự thể hiện lượng hàng tiêu thụ năm 1999 nhiều hơn năm 1998. Cuối năm 1999 TSLĐ khác tăng 11,43%, tương ứng tăng 857.144(nđ) so với cuối năm 1998 điều đó thể hiện Tổng công ty đã thu hồi được các khoản tạm ứng và thanh toán các khoản chi phí trả trước. Xét về tỷ trọng thì TSLĐ khác tăng 0,58%, đây là loại tài sản không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh do đó việc tăng với một tỷ lệ nhỏ như vậy không làm ảnh hưởng nhiều đến việc kinh doanh. Tuy nhiên đây là loại tài sản có tính lưu động cao do đó Tổng công ty cũng cần có kế hoạch và biện pháp quản lý, sử dụng hợp lý nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng vốn, tận dụng tối đa các nguồn vốn vào mục đích kinh doanh. Để hiểu rõ hơn về tài sản này ta tiến hành phân tích chi tiết từng loại tài sản lưu động của doanh nghiệp. 3.1.1.1/ Phân tích tình hình sử dụng vốn bằng tiền. Vốn bằng tiền của Tổng công ty chè Việt nam bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển. Vốn bằng tiền là khoản đáp ứng cho việc chi trả mọi hoạt động của doanh nghiệp, nhất là khi doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán ngay. Đây là loại tài sản dễ bị thất thoát và chiếm dụng nhất do đó cần phải được quản lý và sử dụng hợp lý, đúng mục đích. Dựa vào số liệu thu thập được ta tính biểu sau: Biểu 10: Biểu phân tích tình hình vốn bằng tiền. ĐVT: 1000đ Cuối năm 1998 Cuối năm1999 So sánh Chỉ tiêu TT TT Tỷ lệ TT Số tiền Số tiền Số tiền (%) (%) (%) (%) 1. Tiền mặt tại quỹ 105.204 0,24 291.042 0,68 185.838 176,6 +0,34 2.Tiền gửi ngân hàng 43.171.329 99,76 42.236.590 99,32 -934.739 -2,2 -0,34 3. Tiền đang chuyển - - - - - - - Tổng cộng 43.276.533 100,0 42.527.632 100,0 -748.901 -1,73 0 41
  42. Dựa vào số liệu tính toán ở bảng trên ta thấy, tình hình vốn bằng tiền là hợp lý vì tỷ trọng tiền gửi ngân hàng chiếm phần lớn(99,32%) và mức độ tiền mặt tại quỹ mặc dù tăng nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ 0,34%. Ta nhận thấy, mặc dù lượng tiền khá cao song doanh nghiệp không để tiền tồn quỹ nhiều mà chủ yếu gửi ngân hàng vì đây là phương thức an toàn nhất giúp cho vốn của doanh nghiệp được sinh lợi trong thời gian chưa sử dụng đến, góp phần đẩy nhanh vòng quay của tiền. Bên cạnh đó vốn bằng tiền cuối năm 1999 giảm so với cuối năm 1998 là 1,73%, tương ứng lượng tiền giảm 748.901(nđ) chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng tiền nhiều vào hoạt động kinh doanh. Điều đó phù hợp với nhận định trên là do biến động của giá cả và tình hình chè trên thế giới làm cho các khoản chi phí của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp phải sử dụng nhiều tiền hơn để mua sắm máy móc thiết bị mới phục vụ cho yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời ta thấy doanh nghiệp thanh toán trước thời hạn một số khoản vay ngắn hạn nhằm giảm mức độ rủi ro trong kinh doanh. 3.1.1.2. Phân tích tình hình các khoản phải thu. Phân tích chi tiết các khoản phải thu cho ta thấy được cụ thể sự tăng lên hoặc giảm đi từ việc tiêu thụ hàng hoá. Từ đó phản ánh rõ nét nhất chất lượng của công tác tài chính. Để phân tích ta lập biểu sau. Biểu 11: Biểu phân tích tình hình các khoản phải thu. ĐVT:1000 đ Cuối năm 1998 Cuối năm1999 So sánh Chỉ tiêu TT TT Tỷ lệ TT Số tiền Số tiền Số tiền (%) (%) (%) (%) 1. Phải thu khách hàng 294.293.177 78,72 210.156.210 70,73 -84.136.967 -28,59 -7,99 2. Trả trước cho người bán 1.583.941 0,42 6.611.351 2,23 +5.027.410 317,4 +1,81 3. Phải thu nội bộ. 7.686.444 2,06 4.384.661 1,48 -3.401.783 -44,26 -0,58 4. Phải trả nội bộ 78.377 0,02 80.192 0,03 1.815 2 +0,01 5. Phải thu hàng hợp tác- Balan 67.653.465 18,1 69.653.465 23,44 +2.000.000 +2,96 +5,34 6. Các khoản phải thu khác 3.208.157 0,86 6.837.388 2,3 3.629.231 113,12 +1,44 7. Các khoản phải trả khác 465.519 0,12 1.261.500 0,42 795.981 170,99 +0,3 8. Dự phòng phải thu khó đòi ( 1.125.751 ) (0,3) ( 1.850. 202) (0,63) -724.451 -64,35 -0,33 Cộng 373.843.328 100,0 297.134.565 100,0 -76.708.763 -20,52 0 42
  43. Dựa vào số liệu tính toán ở bảng trên ta nhận thấy các khoản phải thu cuối năm 1999 so với cuối năm 1998 giảm 20,52%, tương ứng giảm 76.708.763(nđ). Nguyên nhân là do: + Phải thu khách hàng cuối năm 1999 giảm so với cuối năm 1998 là 28,59%, tương ứng giảm 84.136.967(nđ), điều đó cho thấy doanh nghiệp tạo được uy tín trong kinh doanh hàng bán được đều không bị chiếm dụng vốn. Trong khi đó các khoản phải thu nội bộ cũng giảm, càng thể hiện rõ doanh nghiệp đã dần thu hồi được tiền bán hàng của mình. + Khoản trả trước cho người bán cuối năm 1999 so với cuối năm 1998 tăng 317,4% tương ứng 5.027.410(nđ) cho ta thấy doanh nghiệp dùng một lượng tiền mặt để trang trải trước trong kinh doanh một phần tạo tốt mối quan hệ với người bán để hàng được giao đúng kỳ hạn, đáp ứng tốt nhu cầu về chất lượng mà doanh nghiệp dự kiến. + Phải thu hàng hợp tác- Balan và các khoản phải thu khác tăng điều đó cho thấy doanh nghiệp đã thực hiện chính sách, “ lùi một bước tiến hai bước” như ta đã biết trong kinh doanh phải có tính cạnh tranh, vậy làm thế nào để vừa cạnh tranh vừa thúc đẩy được doanh số bán ra nhiều thì qua đó cho thấy doanh nghiệp đã áp dụng chính sách tốt tạo điều kiện thuận lợi hơn và giữ được những bạn hàng thân tín. Xét về tỷ trọng thì khoản phải thu của khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, chiếm 70,73% giảm so với cuối năm 1998 là 7,99% chứng tỏ tình hình phải thu của khách hàng ngày càng có xu hướng giảm. Tỷ trọng các khoản phải thu khác của Công ty tăng lên nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ trên tổng số các khoản phải thu đặc biệt là hàng hợp tác- Balan tăng là 5,34%. Chứng tỏ tình hình quản lý các khoản phải thu của Công ty cần phải chú trọng hơn trong những năm tới. 3.1.1.3/ Phân tích tình hình hàng tồn kho. Hàng tồn kho là một bộ phận quan trọng trong tổng số TSLĐ. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nào cũng có một lượng hàng hoá để dự trữ bởi vì có những sản phẩm chỉ bán theo thời kỳ nhất định, nếu không có sự dự trữ trước sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Hoặc là dự trữ nhiều quá cũng có thể gây ứ đọng vốn và lãng phí chi phí bảo quản. Còn nếu dự trữ hàng hoá quá ít sẽ mất cơ hội trong kinh doanh. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là; tuỳ thuộc vào từng quy mô kinh doanh từng thời điểm kinh doanh mà dự trữ hàng hoá cho phù hợp, không nên lãng phí cũng như gây khó khăn cho doanh nghiệp. Căn cứ vào các khoản mục hàng tồn kho của Tổng công ty chè Việt nam ta lập bảng phân tích sau: 43
  44. Biểu số 12: Biểu phân tích hàng tồn kho. ĐVT:1000 đ Cuối năm 1998 Cuối năm1999 So sánh TT TT Tỷ lệ TT Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền (%) (%) (%) (%) 1.CFSX dở dang - 0 890.028 2,21 +890.028 0 +2,21 2. Hàng hoá 45.858.944 85,61 34.281.443 85,29 -11.577.501 -25,25 -0,32 3. Hàng gửi bán 7.706.129 14,39 5.021.936 12,49 -2.684.256 -34,83 -1,9 Cộng 53.565.123 100,0 40.193.407 100,0 -13.371.716 -24,96 0 Ta nhận thấy hàng tồn kho của Tổng công ty cuối năm 1999 giảm so với cuối năm 1998 là 24,9% tương ứng giảm 13.371.716(nđ), nguyên nhân của kết quả này là do: + Lượng hàng tồn kho cuối năm 1999 giảm so với cuối năm 1998 là 25,25% tương ứng giảm 11.577.501(nđ). Nguyên nhân là do doanh nghiệp bán được hàng hoá nhất là cuối năm thị trường chè bán rất chạy, cho nên hàng tồn kho của doanh nghiệp giảm là điều hợp lý. + Chi phí sản xuất dở dang tăng so với đầu kỳ chứng tỏ doanh nghiệp đã lường trước được những biến động của thị trường chè thế giới, cho nên phải tăng thêm phần này để đáp ứng kịp hơn với yêu cầu của thị trường. + Qua đây ta thấy cuối năm 1999 lượng hàng gửi bán của doanh nghiệp cũng giảm 34,83%, tương ứng số tiền giảm 2.684.256(nđ), thể hiện doanh nghiệp đã tiêu thụ được nhiều hàng hoá do có mối quan hệ làm ăn lâu dài nên lượng hàng gửi bán giảm cũng là hết sức hợp lý, nhưng bên cạnh đó vấn đề đặt ra trước tiên đối với doanh nghiệp là đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá nên hàng gửi bán trong năm 1999 có thể giảm là hợp lý nhưng năm sau liệu có tốt không ? Vậy doanh nghiệp phải đảm bảo mức hàng gửi bán một phần để cung cấp sản phẩm tới nhiều nơi, mở rộng mạng lưới tiêu thụ hơn nữa, từ đó tăng thêm thị phần cho sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường thế giới. 3.1.2/ Phân tích hiệu quả TSLĐ. 3.1.2.1 Phân tích chung Hiệu quả chung về sử dụng TSLĐ được phản ánh qua các chỉ tiêu như sức sản xuất sức sinh lợi của vốn lưu động. + Sức sản xuất của vốn lưu Tổng doanh thu thuần 44
  45. động = Vốn lưu động bình quân Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần. + Sức sinh lợi của vốn Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh lưu động = Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Căn cứ vào số liệu thu thập được của Tổng công ty chè Việt nam, ta lập biểu sau: Biểu số 13: Biểu phân tích hiệu quả sử dụng TSLĐ. ĐVT:1000 đ So sánh Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Tỉ Số tiền lệ(%) 1.Tổng doanh thu thuần 1.117.428.554 974.791.418 -142.637.136 -12,76 2.Lợi nhuận thuần hoạt động kinh doanh 69.596.641 43.070.991 -26.525.650 -38,11 3. Vốn lưu động bình quân 441.854.795 433.198.779 -8.656.016 -1,96 4. Sức sản xuất của VLĐ 2,53 2,25 -0,28 -11,07 5. Sức sinh lợi của VLĐ 0,16 0,10 -0,06 -37,5 Qua số liệu trên ta thấy: năm 1999 cứ một đồng giá trị TSLĐ đem lại 2,25 đ DTT, giảm 11,07% tương ứng giảm 0,28 đ so với năm 1998. Đồng thời một đồng giá trị TSLĐ cũng đem lại 0,1 đ lợi nhuận thuần, giảm 37,5% tương ứng giảm 0,06 đ so với năm 1998. Điều này cho thấy hiệu quả sử dựng TSLĐ của doanh nghiệp trong năm 1999 có xu hướng giảm. Nguyên nhân là do doanh thu bán hàng giảm 12,76% so với năm 1998 nên ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSLĐ. (TSLĐ giảm 1,96% so với năm trước). 3.1.2.2/ Phân tích tốc độ luân chuyển của vốn kinh doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất ( dự trữ -sản xuất - tiêu dùng ). Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả sử đụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, ta có chỉ tiêu sau: 45
  46. + Số vòng quay của Tổng doanh thuần ( theo giá vốn ) vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng tăng chứng tỏ hiệu quả sử dựng vốn tăng và ngược lạil +Số ngày chu chuyển Thời gian của kỳ phân tích của vốn lưu động = Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng thời gian của kỳ phân tích theo quy ước 1 năm là 360 ngày. + Suất hao phí vốn Vốn lưu động bình quân lưu động = Doanh thu thuần (theo giá vốn ) Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng TSLĐ. Qua đó có thể biết được để có một đồng chu chuyển thì cần bao nhiêu đồng giá trị TSLĐ. Với số liệu thu thập được của Tổng công ty, ta lập biểu phân tích sau: Biểu số 14: Biểu phân tích tốc độ chu chuyển TSLĐ. ĐVT:1000 đ So sánh Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Số tiền Tỉ lệ(%) Doanh thu thuần (giá vốn) 942.310.910 864.745.868 -77.565.042 -8,23 TSLĐ bình quân 441.854.795 433.198.779 -8.656.016 -1,96 Số vòng quay của vốn lưu động 2,1326 1,9962 -0,1364 -6,22 Số ngày chu chuyển của vốn lưu động 168,808 180,34 +11,53 +6,83 Suất hao phí vốn lưu động 0,469 0,538 0,069 +14,78 Qua số liệu trên ta thấy tốc độ chu chuyển của TSLĐ trong năm 1999 giảm đi cụ thể: Số vòng quay của vốn lưu động giảm 6,22% tương ứng giảm 0,1364 vòng. Trong khi đó số chu chuyển của TSLĐ lại tăng 6,63% tương ứng tăng 11,19 ngày. Đồng thời giá trị TSLĐ cần thiết để tạo ra 1 đồng chu chuyển đã tăng lên 0,069 đ giá trị TSLĐ, ứng với tỷ lệ tăng là 14,78%. 46
  47. (+) Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyểnTSLĐ. Do tốc độ chu chuyển TSLĐ được đo bằng các chỉ tiêu khác nhau nên các nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển cũng khác nhau. Cụ thể qua công thức: Số ngày của một Thời gian của kỳ phân tích vòng chu chuyển = Số vòng chu chuyển Hay Số ngày của một Thời gian của kỳ phân tích * TSLĐ bình quân vòng chu chuyển = Doanh thu thuần Ký hiệu:- Số ngày của một vòng chu chuyển = SN -Thời gian của kỳ phân tích = T -Doanh thu thuần = M -Tài sản lưu động bình quân = TSLĐbq Như vậy tốc độ chu chuyển TSLĐ được thể hiện qua các nhân tố sau: - Thời gian thời kỳ phân tích : như ta đã biết đó là thời gian thực tế để doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp mà thời gian có thể qui ước khác nhau, trên thực tế tại Tổng công ty chè ta quy ước là 360/ năm, do vậy nó không ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển. - Tài sản lưu động bình quân.áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn ta có: T * T * TSLĐbq0 360 * 433.198.779 - 360 * 441.854.795 SN do = TSLĐbq1 - = TSLĐbq M1 864.745.868 M1 = 180,34 - 183,95 = -3,61 ngày 47
  48. do TSLĐbq -3,61 Tỷ lệ SN = * 100 = * 100 = -2,14% SN0 168,81 - Doanh thu thuần (theo giá vốn). T * TSLĐbq1 T * TSLĐbq0 SN do M = - = 183,95 - 168,81 M1 M0 = 15,14 ngày do TSCĐbq 15,14 Tỷ lệ M = * 100 = * 100 = 8,97% SN0 168,81 Nhận xét: Ta thấy TSLĐbq năm nay so với năm trước giảm 1,96% nên đã làm cho số ngày của 1 vòng chu chuyển 2,14% tương ứng giảm 3,61 ngày. Do doanh thu thuần (tính theo giá vốn) năm nay giảm so với năm trước là 8,23% nên đã làm cho số ngày của một vòng chu chuyển năm nay tăng 8,97% tương ứng tăng 15,14 ngày. Cộng ảnh hưởng: SN = ( -3,61) + 15,14 = 11,53 (ngày) Tỷ lệ SN =-2,14 + 8,97% = 6,83% Do chịu tác động tăng giảm của 2 nhân tố trên mà số ngày của 1 vòng chu chuyển năm nay tăng so với năm trước là 11,52 ngày. Như vậy tốc độ chu chuyển TSLĐ của doanh nghiệp năm 1999 rất chậm và nguyên nhân của việc tốc độ giảm là do chủ quan từ phía doanh nghiệp. Từ công thức xác định số vòng chu chuyển và số ngày chu chuyển của TSLĐ ta có: DTT( theo giá vốn) Số ngày của một vòng TSLĐbq = * chu chuyển TSLĐ Thời gian của kỳ phân tích 48
  49. Giá trị TSLĐ tiết kiệm(-) Doanh thu bình quân 1 Chênh lệch số ngày của hay lãng phí(+) do tốc độ = ngày (theo giá vốn) * một vòng luân chuyển giữa chu chuyển kỳ phân tích với kỳ gốc 864.745.868 = * (180,34 - 168,81) 360 = +27.695.888 (nđ) Như vậy doanh nghiệp đã lãng phí một lượng vốn khá lớn( 27.695.888 nđ). Qua việc xác định các nguyên nhân ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển TSLĐ để tìm ra biện pháp hữu ích giúp doanh nghiệp tăng tốc độ chu chuyển vốn như: + Cung cấp cho doanh nghiệp tình hình mua hàng hoá đầy đủ, kịp thời đảm bảo chất lượng giúp cho quá trình tiêu thụ được tốt hơn. + Rút ngắn thời gian mà TSLĐ còn lưu lại trong từng quá trình sẽ đẩy nhanh tốc độ chu chuyển. (+) Tốc độ chu chuyển hàng tồn kho. - Vòng chu chuyển Doanh thu ( theo giá vốn) hàng tồn kho = Tồn kho bình quân Vòng chu chuyển hàng tồn kho phản ánh số ngày cần thiết để lượng hàng tồn kho quay được một vòng. - Số ngày chu chuyển Thời gian của kỳ phân tích hàng tồn kho = Số vòng chu chuyển hàng tồn kho Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để lượng hàng tồn kho quay được một vòng. Trong đó: + Thời gian của kỳ phân tích được lấy là 360 ngày + Hàng tồn kho bình quân tính theo phương pháp bình quân giản đơn. Ta lập biểu sau: 49
  50. Biểu số 15: Biểu phân tích tốc độ chu chuyển hàng tồn kho ĐVT: 1000 đ So sánh Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Số tiền Tỉ lệ(%) 1. Doanh thu ( theo giá vốn) 942.310.910 864.745.868 -77.565.042 -8,23 2. Tồn kho bình quân 50.907.042 46.879.265 -4.027.777 -7,91 3. Số vòng chu chuyển 18,51 18,45 -0,06 -0,32 4. Số ngày chu chuyển 19,45 19,51 +0,06 +0,31 Qua bảng trên ta thấy tốc độ chu chuyển hàng tồn kho của Công ty năm 1999 giảm so với năm 1998, cụ thể: Số vòng chu chuyển năm 1999 là 18,45 vòng, giảm hơn so với năm 1998 là 0,06 vòng. Số ngày chu chuyển năm 1999 là 19,51, tăng 0,06 vòng so với năm 1998 Số vòng chu chuyển giảm đi, số ngày chu chuyển tăng lên, chứng tỏ lượng hàng tồn kho vẫn còn nhiều. Vì vậy doanh thu năm 1999 giảm hơn so với năm 1998 là tất yếu và dẫn đến ảnh hưởng tốc độ chu chuyển TSLĐ chung của toàn doanh nghiệp. (+) Phân tích tốc độ chu chuyển công nợ ngắn hạn. - Số vòng chu chuyển Tổng doanh thu bán chịu thực tế các khoản phải thu = Bình quân các khoản phải thu Chỉ tiêu này cho biết mức độ hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả của việc thu hồi công nợ. Đối với Tổng công ty thì doanh thu bán chịu thực tế chiếm 80% còn 20% doanh thu là thu tiền ngay. - Số ngày trung bình để thu Thời gian của kỳ phân tích được các khoản phải thu = Số vòng lưu chuyển các khoản phải thu Chỉ tiêu này phản ánh khoảng thời gian cần thiết để thu được các khoản phải thu. Với số liệu thu thập được tại Công ty, ta lập biểu phân tích sau: 50
  51. Biểu số 16: Biểu phân tích tốc độ chu chuyển công nợ phải thu ĐVT : 1000 đ So sánh Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Số tiền Tỉ lệ(%) 1. Doanh thu bán chịu 893.942.842 779.833.134 -114.109.708 -12,76 2.Các khoản phải thu bình quân 363.701.420 335.488.947 -28.212.473 -7,76 3. Số vòng chu chuyển 2,458 2,324 -0,134 -5,45 4. Số ngày chu chuyển 146,46 154,91 +8,45 -5,77 Ta thấy số vòng chu chuyển các khoản phải thu năm 1999 cũng giảm so với năm 1998 điều đó cho thấy tốc độ thu hồi vốn của Tổng công ty còn rất chậm và bị các đối tác chiếm dụng vốn. Bên cạnh đó số ngày chu chuyển còn quá dài và tăng so với năm 1998 là 8,45 ngày. Việc thu hồi công nợ chậm làm cho số vốn của doanh nghiệp bị thiếu nhưng một mặt nó lại thể hiện sự tin tưởng vào bạn hàng. Nhưng để đạt kết quả kinh doanh cao hơn thì trong thời gian tới doanh nghiệp nên nghiên cứu thời gian, số lượng các khoản nợ theo từng đối tượng nợ cho phù hợp để tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn nhiều trong khi thiếu vốn để đầu tư cho hoạt động kinh doanh. 3.2/ Phân tích tình hình quản lý hiệu quả sử dụng TSCĐ. TSCĐ là tư liệu lao động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, cụ thể là nó tham gia vào nhiều vòng chu chuyển hàng hoá. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp TSCĐ có thể tăng hoặc giảm về giá trị do đầu tư mới hoặc nhượng bán. 3.2.1 Phân tích tình hình quản lý sử dụng TSCĐ. Quản lý sử dụng TSCĐ là việc làm hết sức cần thiết đối với doanh nghiệp, nó góp phần giúp cho hoạt động kinh doanh phát triển. Do đó doanh nghiệp phải thường xuyên chú ý tới việc mua sắm, trích khấu hao và giá trị còn lại của TSCĐ. Căn cứ vào số liệu thực tế của Tổng công ty chè Việt nam ta lập biểu sau: Biểu 17: Tình hình quản lý sử dụng TSCĐ. ĐVT: 1000 đ So sánh Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Số tiền Tỉ lệ(%) Nguyên giá TSCĐ hữu hình 15.399.010 16.499.208 +1.100.198 +7,14 Giá trị hao mòn luỹ kế 6.144.023 7.266.730 1.122.707 +18,27 51
  52. Giá trị hao mòn còn lại 9.854.986 9.232.478 -22.508 -0,24 Dựa vào số liệu ở trên ta thấy trong năm 1999 doanh nghiệp đã đầu tư mua sắm TSCĐ nên nguyên giá TSCĐ cuối năm 1999 so với cuối năm 1998 tăng 7,14% tương ứng tăng1.100.198(nđ). Điều này thể hiện doanh nghiệp đã chú ý đến việc đầu tư theo chiều sâu, nhằm mục đích sản xuất kinh doanh lâu dài của doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó giá trị hao mòn luỹ kế của TSCĐ cuối năm 1999 tăng so với cuối năm 1998 là 18,27%, tương ứng tăng 1.122.707(nđ). Điều đó làm cho gía trị còn lại của TSCĐ giảm 0,24%, tương ứng giảm 22.508(nđ), một lý do cơ bản là trong năm 1999 doanh nghiệp được phép trích khấu hao nhanh theo quy định của nhà nước như điện thoại di động, máy Fax, máy vi tính Một vấn đề cần quan tâm trong nội dung này là hiệu quả sử dụng TSCĐ. 3.2.2 / Phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ. Cho ta biết việc sử dụng TSCĐ của Công ty đem lại kết quả kinh doanh ra sao, để đảm bảo được tính toán chính xác trong TSCĐ phục vụ trong kỳ, với nội dung này ta sử dụng các chỉ tiêu sau: (+) Sức sản xuất của Doanh thu thuần TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy đồng doanh thu thuần. (+) Sức sinh lợi của Lợi nhuận thuần hoạt động kinh doanh TSCĐ = Nguyên giá TSCĐbq Chỉ tiêu mức sinh lợi TSCĐ cho biết 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại bao nhiêu đồng lãi gộp. Nguyên giá bình quân TSCĐ (+) Suất hao phí TSCĐ = Doanh thu thuần 52