Đề tài Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty dệt may xuất nhập khẩu Huy Hoàng

doc 75 trang nguyendu 4180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty dệt may xuất nhập khẩu Huy Hoàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_nghien_cuu_cac_giai_phap_nham_phat_trien_thi_truong_t.doc

Nội dung text: Đề tài Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty dệt may xuất nhập khẩu Huy Hoàng

  1. Lời mở đầu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu sự chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam. Đất nước ta chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế từ cơ chế hành chính, tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quẩn lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo cơ chế mới này tất cả các thành phần kinh tế đều được tự do phát triển, tự mình tìm thị trường kinh doanh, tự hạch toán kinh doanh, mở rộng thị trường của mình. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn có lãi, có chỗ đứng trên thị trường thì sẽ tồn tại, nếu doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ thì sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có một chiến lược sản xuất kinh doanh cụ thể, đúng đắn và có hiệu quả. Một trong những chiến lược phát triển mà bất kì doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải chú trọng đó chính là chiến lược về tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh nghiệp không xác định được chiến lược tiêu thụ sản phẩm một cách đúng đắn thì sẽ gây ra sự tồn đọng hàng hoá, làm chậm vòng quay của vốn sản xuất dẫn đến sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn, doanh nghiệp sẽ làm ăn không có lãi. Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ngày càng mang tính cấp thiết đối với mọi doanh nghiệp nó đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa của các cấp lãnh đạo và đặc biệt là các bộ phận phòng ban làm công tác tiêu thụ. Chỉ có như vậy doanh nghiệp mới có thể đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt khi thực hiện hội nhập nền kinh tế. Trong bối cảnh như trên công ty dệt may Huy Hoàng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Qua thời gian thực tập tại công ty em nhận thức được sự cần thiết phải có biện pháp để nghiên cứu đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm một cách hợp lý, phù hợp. Được sự hướng dẫn tận tình của hai cô giáo Uông Thị Phương Mai và Lê Thị Kim Hoa, cùng sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các anh, chị cán bộ công nhân viên của công ty dệt may Huy Hoàng, em đã mạnh dạn chọn thực hiện đề tài: “Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty dệt may xuất nhập khẩu Huy Hoàng”. 1
  2. Với mục tiêu nhằm phân tích thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt may Huy Hoàng, trên cơ sở thành tựu đạt được và các khó khăn mà công ty gặp phải, kết hợp giữa lý thuyết và thực tế em đã đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lí luận cơ bản về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp Chương II: Thực trạng sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của Công ty Dệt may Huy Hoàng trong thời gian qua. Chương III: Một số biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt may Huy Hoàng. Do trình độ nhận thức còn có hạn, thời gian thực tập tại công ty không nhiều, những thiếu sót xuất hiện trong chuyên đề này là điều không tránh khỏi. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô cùng các cô, chú và các anh, chị trong công ty để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Bình, ngày 5 tháng 7 năm 2005. Sinh viên thực hiện. Nguyễn Quang Vinh 2
  3. Nội dung Chương I: Một số vấn đề lí luận cơ bản về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp I. Một số vấn đề lí luận chung về tiêu thụ: 1. Khái niệm về tiêu thụ: Tiêu thụ là một quá trình đưa sản phẩm từ nhà cung cấp đến người sử dụng cuối cùng nhằm mục đích để thu được tiền. ý nghĩa: Qua tiêu thụ sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và kết thúc một vòng luân chuyển vốn. Có tiêu thụ sản phẩm mới có vốn để tiến hành tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Qua tiêu thụ tính hữu ích của sản phẩm mới được xác định hoàn toàn. Có tiêu thụ được sản phẩm mới chứng tỏ được năng lực kinh doanh của công ty. Sau quá trình tiêu thụ công ty không những thu hồi được tổng số chi phí có liên quan đến việc chế tạo và tiêu thụ sản phẩm mà còn thực hiện được giá trị lao động thặng dư. Đây là nguồn quan trọng để tích luỹ vào ngân sách vào các quỹ của xí nghiệp nhằm mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ công nhân viên. 2. Vai trò, nhiệm vụ của hoạt động tiêu thụ sản phẩm: Đánh giá đúng tình hình tiêu thụ về mặt số lượng, chất lượng và mặt hàng, đánh giá tính kịp thời của tiêu thụ. Tìm ra những nguyên nhân và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tiêu thụ. Đề ra các biện pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ cả về mặt khối lượng lẫn chất lượng. 3
  4. Mục đích: Qua tiêu thụ sản phẩm không những thu được lợi nhuận mà còn giúp công ty tái sản xuất mở rộng sản xuất. Quan hệ Maketing và tiêu thụ sản phẩm: Tiêu thụ sản phẩm nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chính sách Maketing của công ty và chính sách Maketing thực hiện chính là nhằm tiêu thu sản phẩm. Qua tiêu thụ các thông tin phản hồi sẽ được bộ phận Maketing xử lý để đưa ra chính sách phù hợp hơn. 3.Yêu cầu đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm: Hoạt động tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp sản xuất. Hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp có thuận lợi, có thu được hiệu quả thì vốn của doanh nghiệp mới được quay vòng nhanh, mới có hiệu quả, hoạt động sản xuất của doanh nghiệp mới có thể diễn ra một cách liên tục và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do vậy, đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cũng có những yêu cầu cụ thể sau đây: - Hoạt động tiêu thụ sản phẩm phải được tiến hành một cách nhanh nhất, thuận lợi nhất, an toàn và đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng sản phẩm. -Hoạt động tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo được tính lâu dài của mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. -Đảm bảo tiêu thụ nhanh chóng sản phẩm và đảm bảo thời gian thu hồi vốn nhanh nhất. - Đảm bảo uy tín và chất lượng của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng thông qua các chính sách hậu mãi và tiếp thị sản phẩm. II. Nội dung của hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp: 1. Nghiên cứu và dự báo thị trường: Trong kinh doanh muốn kinh doanh trên lĩnh vực nào thì ta phải tìm hiểu rõ những yếu tố văn hoá, xã hội con người ở nơi mà trong đó diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu nhu cầu thị trường thực chất là tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu sức mua của người tiêu dùng để xác 4
  5. định đâu là thị trường trọng điểm đâu là thị trường tiềm năng của công ty. Việc xác định này là vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh bất kể doanh nghiệp đó hoạt động trong lĩnh vực nào. Vì vậy nghiên cứu nhu cầu thị trường là khâu đầu tiên của quá trình kinh doanh, đó là việc tìm kiếm và khai thác cơ hội kinh doanh xuất hiện trên thị trường. Mục đích của việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là xác định khả năng bán một loại mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng trên thị trường. Nếu ta xác định thị trường quá hẹp thì có thể làm cho công ty bỏ lỡ thời cơ kinh doanh. Còn nếu ta xác định thị trường quá rộng thì sẽ làm cho các nỗ lực và tiềm năng của công ty bị lãng phí làm cho sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Thị trường thích hợp với doanh nghiệp là thị trường phù hợp với mục đích và khả năng của doanh nghiệp. Do vậy việc nghiên cứu thị trường có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiêu thụ sản phẩm. *Nội dung của việc nghiên cứu nhu cầu thị trường: Phân tích cầu:nhằm xác định nhu cầu thực sự của thị trường về hàng hoá, xu hướng biến động từng thời kì trong từng khu vực để thấy được đặc điểm của nhu cầu ở từng khu vực. Trong đó phải nghiên cứu các vấn đề sau: + Khách hàng mà doanh nghiệp nhằm vào. + Khu vực tiêu thụ. + Sản phẩm thay thế. + Các nhân tố ảnh hưởng tới cầu. Phân tích tình hình cạnh tranh trên thị trường nhằm tìm hiểu rõ về các đối thủ cạnh tranh của mình hiện tại và tương lai bởi vì nó tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty cần chú ý tới việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh của mình về số lượng, khả năng cung ứng, khả năng tài chính, kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụv v. Cần phải nghiên cứu kỹ phản ứng của các đối thủ cạnh tranh trước các biện pháp về giá, quảng cáo khuyến mại của công ty. Phân tích mạng lưới tiêu thụ: nhằm đáp ứng, phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Bên cạnh đó công ty cần nghiên cứu tổ chức mạng lưới tiêu thụ sao cho phù hợp với điều kiện của mìnhnhằm đạt hiệu quả tốt nhất. 5
  6. *Phương pháp thu thập thông tin: Thông tin được lấy từ: Báo, tạp chí, ấn phẩm, báo cáo. Phương pháp này thường áp dụng để nghiên cứu khái quát về thị trường, lập danh sách những thị trường có triển vọng mà công ty cần tập trung khai thác. Nhược điểm: của phương pháp này là khó khăn trong việc lựa chọn thông tin từcác nguồn khác nhau, thông tin có thể bị cũ, thông tin không chính xác, không đầy đủ, độ tin cậy không cao. Ưu điểm : Dễ thực hiện tiết kiệm chi phí. Thông tin sơ cấp thu được khi sử dụng một số phương pháp như: Quan sát, thực nghiệm thăm dò, phỏng vấn. Sau khi thu thập các thông tin cần thiết công ty cần phải tiến hành xử lý thông tin để loại bỏ những thông tin không quan trọng, chưa chính xác, không thuyết phục. Trên cơ sở đó xây dựng phương án kinh doanh có tính khả thi. Trên cơ sở các phương án đưa ra doanh nghiệp tiến hành đánh giá lựa chọn và quyết định phương án có hiệu quả nhất. ý nghĩa của việc nghiên cứu thị trường: + Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, công ty nâng cao khả năng thích ứng với thị trường của các sản phẩm do mình sản xuất ra và tiến hành tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá mà thị trường đòi hỏi. + Doanh nghiệp có thể dự đoán hàng hoá tiêu thụ trên thị trường. + Thông qua nghiên cứu thị trường doanh nghiệp xác định được đối thủ cạnh tranh, điểm mạnh, điểm yếu của họ. *Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh: Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm đến các đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh là người đang chiếm giữ một phần thị phần và giành giật một phần khách hàng của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải tìm cách để nắm bắt, phân tích các thông tin về đối thủ như: Chính sách giá, chính sách phân phối, chính sách sản phẩm v.v từ đó có các biện pháp phù hợp. 2.Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm: 2.1. Chính sách sản phẩm: Để có được chiến lược sản phẩm đúng đắn bên cạnh việc tìm hiểu các nhu cầu về thị trường và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp thì doanh nghiệp 6
  7. phải nghiên cứu kỹ chính sách sản phẩm hợp lý thì mới nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, hạn chế rủi ro tốt nhất.Chính sách sản phẩm là nền móng cho quá trình phát triển kinh doanh.Bởi vì nếu chính sách sản phẩm không đảm bảo một sự tiêu thụ chắc chắn thì những hoạt động trên có thể bị thất bại. Khi nói đến chính sách sản phẩm thì cần phải phân tích chu kỳ sống của sản phẩm: Một chu kỳ sống của sản phẩm thông thường phải trải qua bốn giai đoạn: Thâm nhập- tăng trưởng- chín muồi- suy thoái. Chu kỳ sống của bất cứ sản phẩm nào cũng gắn với một thị trường nhất định. Bởi vì sản phẩm có thể đang ở giai đoạn suy thoái ở thị trường này nhưng có thể đang ở giai đoạn phát triển của thi trường khác. Việc nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm giúp công ty hành động trong lĩnh vực tiếp thị một cách hiệu quả nhằm kéo dài hơn chu kỳ sống của sản phẩm, tăng lợi nhuận mà một sản phẩm đem lại cho công ty toàn bộ đời sống của nó. - Giai đoạn thâm nhập: Sản phẩm được đưa vào thi trường nhưng tiêu thụ rất chậm do hàng hoá được ít người biết đến. Chi phí cho một đơn vị sản phẩm là rất lớn. Trong giai đoạn này doanh nghiệp thường bị lỗ. Nhiệm vụ của giai đoạn này đối với doanh nghiệp là: giữ bí mật công nghệ, thiết bị, thiết lập các kênh phân phối, thăm dò thị trường và tăng cường quảng cáo. -Giai đoạn tăng trưởng: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng nhanh do thị trường đã chấp nhận thị trường mới. Chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm giảm nhanh. Việc mở rộng hay tấn công vào những phân đoạn mới của thị trường là tương đối thuận tiện. Cần phải sử dụng các nguồn lực để: + Cải tiến chất lượng và phát triển mẫu mã mới. + Khai thác các đoạn thị trường mới. Tìm kiếm các kênh tiêu thụ mới. - Giai đoạn bão hoà: Đây là giai đoạn kéo dài nhất nó được đặc trưng bởi số lượng bán ra ổn định. ở cuối giai đoạn này khối lượng hàng hoá bán ra giảm dần. Trong giai đoạn này thì chi phí kinh doanh tính cho một đơn vị sản phẩm thấp nhất, lãi tính cho một đơn vị sản phẩm cao nhất do khối lượng sản 7
  8. phẩm bán ra lớn nhất nên tổng lợi nhuận thu được lớn nhất. Khi sản lượng tiêu thụ bị chững lại và giảm xuống, doanh nghiệp cần có ngay các biện pháp, chính sách để khai thác thị trường ở giai đoạn tiếp sau. - Giai đoạn suy thoái: Đặc trưng của giai đoạn này là khối lượng sản phẩm tiêu thụ giảm rất nhanh.Nếu không giảm sản lượng sản xuất thì khối lượng sản phẩm tồn kho lớn dần dẫn tới lợi nhuận giảm nhanh. Nếu tình trạng này kéo dài thì doanh nghiệp có thể bị thua lỗ nặng dẫn tới phá sản. Doanh nghiệp cần phải tìm những biện pháp hữu hiệu để khắc phục như: cải tiến sản phẩm, quảng cáo, chuẩn bị sẵn những sản phẩm thay thế để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục. Nghiên cứu phân tích chu kỳ sống của sản phẩm hiểu biết tỷ mỷ vấn đề này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà kinh doanh. Vì nó giúp cho các nhà kinh doanh hiểu biết được bản chất của vấn đề phát triển sản phẩm mới từ đó tìm mọi cách nâng cao lợi nhuận giảm thiểu rủi ro. 2.2. Chính sách giá cả: Việc quy định mức giá bán cho một sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gọi là chính sách giá. Việc định giá sản phẩm là một quyết dịnh quan trọng đối với doanh nghiệp vì giá cả sản phẩm luôn được coi là công cụ mạnh mẽ hữu hiệu trong sự cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Xác định giá cả cho hàng hoá là một quá trình gồm 6 bước: + Bước 1: Công ty xác định mục tiêu hay những mục tiêu Marketing của mình như: đảm bảo sống sót, tăng tối đa lợi nhuận trước mắt, giành vị trí dẫn đầu về thị phần hay chất lượng sản phẩm hàng hoá. + Bước 2: Công ty xây dựng cho mình đồ thị đường cầu thể hiện số lượng hàng hoá chắc chán sẽ bán được trên thị trường trong một khoảng thời gian cụ thể theo các mức giá khác nhau. + Bước 3: Công ty tính toán xem tổng chi phí của mình thay đổi như thế nào khi mức sản xuất khác nhau. + Bước 4: Công ty nghiên cứu mức giá của các đối thủ cạnh tranh để sử dụng chúng làm căn cứ để xác định vị trí giá cả cho hàng hoá của mình. 8
  9. + Bước 5: Công ty lựa chọn cho mình một trong những phương pháp hình thành giá sau: chi phí bình quân cộng lãi, phân tích điều kiện hoà vốn và đảm bảo lợi nhuận mục tiêu, xác định giá căn cứ vào giá trị cảm nhận của hàng hoá, xác định giá trên cơ sở giá hiện hành. + Bước 6: Công ty quyết định giá cuối cùng cho hàng hoá có lưu ý đến sự chấp nhận về mặt tâm lý đối với sản phẩm đó và nhất thiết phải kiểm tra xem giá đó có phù hợp với những mục tiêu của chính sách giá cả mà công ty đang thi hành không và những người phân phối, những nhà kinh doanh, các đối thủ cạnh tranh, những người cung ứng, khách hàng có chấp nhận nó hay không. 2.3. Chính sách giao tiếp khuyếch trương: Đây cũng là một trong những chính sách quan trọng về tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Mỗi khi có một sản phẩm mới ra đời, doanh nghiệp cần phải có một chính sách khuyếch trương quảng cáo cho sản phẩm một cách có hiệu quả để sản phẩm có thể đến được nhu cầu tiêu dùng của người tiêu dùng. Một sản phẩm có thể tiêu thụ một cách có hiệu quả là sản phẩm mang lại cho người tiêu dùng cảm giác quen thuộc và sẽ nghĩ ngay đến sản phẩm đó khi có nhu cầu sử dụng. Chính sách giao tiếp khuyếch trương sản phẩm chính là các chính sách về giới thiệu, quảng cáo và tiếp thị sản phẩm đến với người tiêu dùng. Do vậy, khi bất kì một sản phẩm mới nào bắt đầu được tung ra thị trường thì ngoài việc xây dựng các chính sách về giá, chính sách phân phối, chính sách về sản phẩm để có thể cạnh tranh với các sản phẩm khác và tồn tại trên thị trường thì các nhà quản trị cũng cần phải xây dựng một chính sách giao tiếp khuyếch trương, tiếp thị, qảng cáo cho sản phẩm đến được với người tiêu dùng. 2.4. Chính sách phân phối: Phân phối là toàn bộ các công việc để đưa một sản phẩm hoặc dịch vụ từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng có nhu cầu đảm bảo về chất lượng thời gian, số lượng, chủng loại mà người tiêu dùng mong muốn. 9
  10. Kênh phân phối là con đường mà hàng hoá được lưu thông từ các nhà sản xuất đến người tiêu dùng, nhờ nó mà khắc phục được những ngăn cách dài về thời gian địa điểm và quyền sở hữu giữa người sản xuất Với người tiêu dùng. Do vậy mỗi doanh nghiệp cần phải tìm ra kênh phân phối hiệu quả nhất cho mình. Hình 9 : Sơ đồ các kênh phân phối. Nhà SX Người TD Nhà SX Người bán lẻ Người TD Nhà SX Người bán sỉ Người bán lẻ Người TD Nhà SX Người bán Người bán Người bán Người TD Sỉ lớn Sỉ nhỏ lẻ Các kênh phân phối được phân loại theo số cấp cấu thành chúng. Kênh không cấp( kênh tiêu thụ trực tiếp): Gồm các nhà sản xuất bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng. Phương thức bán là bán tại công ty, bán lưu động. Kênh một cấp: Bao gồm một người trung gian.Trên các thị trường người tiêu dùng người trung gian này thường là người bán lẻ. Còn trên thị trường hàng tư liệu sản xuất thì người trung gian là người đại lý tiêu thụ hay người môi giới. Kênh hai cấp Bao gồm hai người trung gian. Trên thị trường thì những người này thường là người bán sỉ và người bán lẻ. Kênh ba cấp: Gồm ba nhà trung gian. Đối với kênh tiêu thụ trực tiếp do trực tiếp quan hệ với người tiêu dùng và thị trường nên dễ nắm bắt được thị hiếu, tình hình tiêu thụ hàng hoá từ đó 10
  11. dễ tạo uy tín với khách hàng. Phương thức phân phối trực tiếp diễn ra chậm, công tác thanh toán phức tạp, doanh nghiệp là người chịu rủi ro. Đối với kênh tiêu thụ gián tiếp thì việc phân phối diễn ra nhanh chóng, công tác thanh toán đơn giản. Nếu xảy ra rủi ro thì sau khi giao hàng các tổ chức trung gian phải chịu trách nhiệm . Mặc dù vậy ở kênh gián tiếp này công ty không quan hệ trực tiếp với thị trường, với người tiêu dùng nên rất khó kiểm tra đánh giá phản hồi từ phía khách hàng. Trên thực tế doanh nghiệp thường sử dụng cả kênh tiêu thụ trực tiếp và kênh tiêu thụ gián tiếp. Doanh nghiệp vừa bán sản phẩm của mình cho trung gian vừa mở cửa hàng bán sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng phát huy được ưu điểm của cả hai phương thức trên. Khi xây dựng kênh phân phối doanh nghiệp cần tính đến: + Đặc điểm thị trường, sản phẩm. + Đặc tính kỹ thuật của sản phẩm. + Đặc điểm của đối thủ cạnh tranh. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm: 1. Nhóm nhân tố khách quan: 1.1.Nhu cầu của thị trường: Thị trường là nhân tố quan trọng trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Có thể nói, thị trường chính là môi trường sống của các doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại nếu tách khỏi thị trường, hoạt động trái với các quy luật phát triển của thị trường. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động dựa theo quy luật phát triển của thị trường mà không thể điều chỉnh thị trường được, do vậy thị trưồng tiêu thụ chính là nhân tố khách quan điều chỉnh trực tiếp, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bất kì một doanh nghiệp nào khi đầu tư vào một loại sản phẩm đều phải xét đến nhu cầu của thị trường để có những chính sách đầu tư hợp lí cho sản phẩm. 1.2. Đối thủ cạnh tranh : Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm đến các đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh là người đang chiếm giữ một phần 11
  12. thị phần và giành giật một phần khách hàng của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải tìm cách để nắm bắt, phân tích các thông tin về đối thủ như: Chính sách giá, chính sách phân phối, chính sách sản phẩm v.v từ đó có các biện pháp phù hợp. 1.3. Các điều kiện tự nhiên, địa lí Các điều kiện địa lí, tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm. Điều kiện tự nhiên, thiên nhiên sẽ quyết định chi phí vận chuyển của hàng hoá, do đó ảnh hưởng đến giá thành cuối cùng của sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Đồng thời, các điều kiện tự nhiên cũng sẽ làm cho chi phí quảng cáo và tiếp thị sản phẩm đến tay người tiêu dùng tăng lên do đó sẽ làm cho quy mô và hiệu quả của hoạt động tiếp thị sản phẩm sẽ giảm. 2. Nhóm nhân tố chủ quan: Những nguyên nhân thuộc về bản thân công ty ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ bao gồm : Giá, chất lượng sản phẩm, công tác tiếp cận thị trường, tổ chức tiêu thụ.v.v + Giá bán sản phẩm là một nhân tố ảnh hưởngđến khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ( xét cả về giá trị và hiện vật) ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. Giá bán tăng lên làm cho doanh thu tăng trong điều kiện giả định khối lượng sản phẩm bán ra không đổi. Tuy nhiên cần chú ý rằng khi giá bán tăng lên không những khối lượng sản phẩm bán ra sẽ giảm do nhu cầu giảm, một khi thu nhập của người tiêu dùng không tăng, mức độ tăng giảm khối lượng sản phẩm tiêu thụ còn phụ thuộc vào mức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuả hàng hoá, giá trị sử dụng của hàng hoá. Những sản phẩm đơn giản khối lượng sản phẩm tiêu thụ thay đổi ít phụ thuộc vào giá cả. Ngược lại những sản phẩm hàng hoá cao cấp, xa xỉ khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ giảm khi giá cả tăng lên. Vì vậy, công ty cần quyết định khối lượng sản phẩm tiêu thụ và giá cả như thế nào cho hợp lý nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. + Chất lượng sản phẩm : Là tập hợp những đặc tính không thể thiếu được của các sản phẩm. Nó được xác định bằng các thông số kỹ thuật có thể so sánh đo lường được. Càng hoạt động trong môi trường cạnh tranh mạnh, 12
  13. chất lượng càng cần thiết vì nó là một trong các nhân tố chủ yếu để quyết định sức cạnh tranh cuả công ty. Nó tác động tới lợi nhuận và uy tín của công ty trên thị trường. Công ty không thể bán được nhiều, không thể giữ uy tín với khách hàng nếu sản phẩm của công ty chất lượng tồi. Chất lượng sản phẩm tốt có thể làm cho tốc độ tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn và ấn tượng tốt hơn đối với khách hàng. Chính vì thế công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Công tác tổ chức tiêu thụ: Bao gồm các khâu khác nhau từ việc thiết kế mạng lưới tiêu thụ, quảng cáo khuyến mại Nếu công tác tổ chức tiêu thụ không tốt sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ quá trình kinh doanh. Và ngược lại nếu tổ chức tốt thì công ty sẽ tiêu thụ nhiều sản phẩm hơn, doanh thu tăng , vòng quay vốn lưu động tăng, giảm chi phí dự trữ bảo quản Vì vậy công ty cần lựa chọn tổ chức tiêu thụ sao cho phù hợp với đặc tính của sản phẩm và quy mô sản xuất. Bên cạnh đó công ty còn tổ chức các hoạt động hỗ trợ như: Quảng cáo, khuyến mại, dịch vụ sau bán hàng, hội họp để tạo dựng lòng tin của khách hàng đối với công ty. VI. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp: 1. Lượng sản phẩm tiêu thụ: Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, lượng sản phẩm tiêu thụ là những sản phẩm đã xuất kho thành phẩm để giao cho khách hàng và đã nhận được tiền. Xác định lượng sản phẩm trong năm phải căn cứ vào sản lượng sản xuất của sản phẩm, hợp đồng kinh tế ký kết với khách hàng, nhu cầu thị trường, khả năng đổi mới phương thức thanh toán và tình hình tiêu thụ sản phẩm tiêu thụ của năm trước. Lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ kế hoạch của doanh nghiệp được xác định theo công thức. Qkh = Q- Q1 - Q.2 Trong đó: Qkh : Lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ kỳ kế hoạch. Q: Khối lượng sản phẩm sản xuất kỳ kế hoạch. Q1 : Lượng sản phẩm sản xuất tồn kho đầu kỳ. Q2 : Lượng sản phẩm sản xuất tồn kho cuối kỳ. 13
  14. 2. Doanh thu: Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có khoản thu nhập lớn nhất và thường xuyên là doanh thu bán hànghoá và dịch vụ hay còn gọi là doanh số bán hàng của doanh nghiệp. Điều quan trọng đối với doanh nghiệp là bán được hàng hoá, thu hút được nhiều khách hàng và mở rộng được thị trường. Sự đa dạng hoá hàng hoá và dịch vụ cho phép mở rộng được nhu cầu của khách hàng, thoả mãn nhu cầu nhiều vẻ và đa dạng của khách hàng, cho phép tăng được số lượng hàng hoá và dịch vụ bán ra. Doanh thu của doanh nghiệp được xác định theo công thức: TR=  Qi x Pi. TR: Doanh thu của doanh nghiệp. Qi: Khối lượng hàng hoá, dịch vụ i. Pi: Giá cả hàng hoá dịch vụ i. Doanh thu của doanh nghiệp phụ thuộc vào khối lượng hàng hoá và dịch vụ bán ra và phụ thuộc vào gía cả hàng hoá và dịch vụ đó. Trong cơ chế thị trường nếu khối lượng hàng hoá dịch vụ bán ra càng nhiều thì giá cả hàng hoá dịch vụ sẽ hạ xuống và ngược lại theo quy luật cung cầu. Vì vậy đối với mỗi loại hàng hoá dịch vụ trên mỗi thị trường cần phải tính toán doanh thu biên( MR) bằng chi phí biên( MC ). MR= MC. Từ đó mới quyết định lượng cung hàng hoá và dịch vụ. Khối lượng hàng hoá dịch vụ bán ra của doanh nghiệp nhiều hay ít, giá cả cao hay thấp còn phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng hàng hoá nhu cầu của khách hàng dung lượng thị trường, địa điểm bán hàng, phương thức phân phối và bán hàng. 3. Lợi nhuận và mức doanh lợi: Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đây chính là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là phần dôi ra ngoài những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. 14
  15. LN= TR- TC = (P - ATC)x Q. LN: Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. TR: Tổng doanh thu bán hàng của doanh nghiệp TC: Tổng chi phí của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều cố gắng nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Các doanh nghiệp chỉ đạt được lợi nhuận tối đa khi MR= MC. Khi xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài giá trị tuyệt đối lợi nhuận ta còn sử dụng chỉ tiêu mức doanh lợi. Có ba cách tính mức doanh lợi khác nhau. - Tính trên vốn kinh doanh: Mức doanh lợi = Tổng lợi nhuận/ vốn kinh doanh. - Tính trên doanh số bán hàng thực hiện. Mức doanh lợi = tổng lợi nhuận/ Doanh thu. - Tính trên chi phí kinh doanh. Mức doanh lợi=Tổng lợi nhuận /Tổng chi phí kinh doanh. Ngoài ra người ta thường có tính đến mức tăng trưởng hàng năm của doanh lợi đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Mức tăng trưởng = Doanh lợi năm kế hoạch/ Doanh lợi năm gốc. 4. Năng suất lao động: Năng suất lao động là một chỉ tiêu cơ bản của một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Năng suất lao động cao hay thấp là một yếu tố quyết định đến giá thành sản phẩm và đặc biệt nó có ảnh hưởng hai chiều đến công tác tiêu thụ sản phẩm. Năng suất lao động cao góp phần làm giảm giá thành sản phẩm, từ đó có khả năng hạ thấp giá bán sản phẩm trên thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tiêu thụ sản phẩm. Việc tiêu thụ sản phẩm được thực hiện tốt có điều kiện để kích thích sản xuất phát triển, có những biện pháp động viên thực tế đến sản xuất nhờ đó mà năng suất lao động được nâng cao. Năng suất lao động được xác định bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian của một cá nhân hay tập thể. 15
  16. Năng suất lao động của cá nhân= Q/T. Q: Là số lượng sản phẩm cá nhân sản xuất trong kỳ kế hoạch. T: Thời gian kỳ kế hoạch( 1 tháng, 3 tháng). Năng suất lao động bình quân= Q/ Tx Số người lao động. Q: Số lượng sản phẩm của đơn vị cả một dây truyền sản xuất trong kỳ kế hoạch. T: Thời gian kỳ kế hoạch. Số người lao động: Số người lao động thực tế của đơn vị. 5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động: Vốn cố định là một giá trị ứng ra để đầu tư vào các tài sản cố định nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn này sẽ tham gia vào quá trình sản xuất và tiêu hao dần theo sự hao mòn của tài sản cố định. Hiệu quả sử dụng vốn cố định là những kết quả mà doanh nghiệp đạt được trong việc bảo toàn vốn cố định. Bảo toàn vốn cố điịnh là bảo toàn được năng lực sản xuất của tài sản cố định. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp phải thực hiện quản lý chặt chẽ không để mất mát tài sản cố định, thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo dưỡng sửa chữa, mua sắm tài sản cố định nhằm duy trì và nâng cao năng lực của tài sản cố định, đồng thời doanh nghiệp cần chủ động đổi mới tài sản cố định. Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên và liên tục . Vốn lưu động tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất nó được thu hồi toàn bộ sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh . Vòng quay của vốn lưu động nhanh hay chậm hay nói cách khác một chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dài hay ngắn thể hiện rõ hiệu suất của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trực tiếp đánh giá hiệu quả của công tác tiêu thụ sản phẩm . 16
  17. V. Nội dung của phương pháp phân tích tình hình tiêu thụ : 1. Phân tích chung tình hình tiêu thụ: Phân tích chung tình hình tiêu thụ là xem xét đánh giá sự biến động của khối lượng sản phẩm tiêu thụ xét ở toàn công ty và đối với từng mặt hàng đồng thời xem xét mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ để thấy khái quát tình hình tiêu thụ và những nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng đến tình hình đó. Sản phẩm của công ty chỉ được xem là tiêu thụ khi công ty xuất kho sản phẩm gửi tiêu thụ và thu được tiền hoặc được khách hàng chấp nhận thanh toán. Phương pháp phân tích: áp dụng phương pháp so sánh: So sánh doanh thu thực tế tính theo giá bán kế hoạch(hoặc giá cố định) với doanh thu kế hoạch tính theo giá bán kế hoạch(hoặc giá cố định) về cả số tuyệt đối lẫn số tương đối. Tỷ lệ hoàn ( Khối lượng tiêu thụTT* giáTT) thành kế hoạch = tiêu thụ chung(Khối lượng tiêu thụKH* giá KH). So sánh khối lượng sản phẩm tiêu thụ thực tế với kế hoạch và năm trước của từng loại sản phẩm , đồng thời so sánh tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ với tỷ lệ hoàn thành kế hoạch sản xuất sản phẩm hàng hoá. 2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ mặt hàng chủ yếu: Phân tích tình hình thực hiện kế hoach tiêu thụ không chỉ dừng lại ở việc đánh giá tình hình tiêu thụ về mặt khối lượng sản phẩm mà còn phải tiếp tục phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ những mặt hàng chủ yếu.Bởi vì công ty không thực hiện tốt kế hoạch tiêu thụ mặt hàng chủ yếu sẽ ảnh hưởng tình hình tài chính của công ty,tình hình sản xuất, kinh doanh làm giảm uy tín của công ty. Nguyên tắc phân tích là: Không lấy giá trị mặt hàng tiêu thụ vượt mức bù cho những mặt hàng không hoàn thành kế hoạch tiêu thụ. Trình tự phân tích: Căn cứ vào tỷ lệ hoàn thành kế hoạch mặt hàng đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ của công ty. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ từng loại sản phẩm để thấy được nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình trên. 17
  18. Chương II: Thực trạng sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của Công ty Dệt may Huy HOàng trong thời gian qua I. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của doanh: 1. Lịch sử ra đời và phát triển của doanh nghiệp: 1.1.Tên công ty: Công ty trách nhiệm hữu hạn dệt may Huy HOàng 1.2 Trụ sở chính: Khu công nghiệp Chùa Tổng-La Phù- Hoài Đức- Hà Tây Điện thoại: 034.650318 Fax: 034.650319 Email: dmhuyhoang0905@fpt.vn 1.3. Nghành nghề kinh doanh chủ yếu: Sản xuất và kinh doanh các sản phẩm may mặc và hàng dệt kim, sản phẩm khăn, vải Denim. Gia công và chế biến các sản phẩm từ sợi các loại, sợi dệt kim, sợi Denim. 1.4. Quá trình hình thành và phát triển: Tháng 4 năm 1993 công ty xuất nhập khẩu thiết bị Việt Nam( Techno import) ký hợp đồng với công ty Union matex cộng hoà liên bang Đức về việc cung cấp thiết bị công nghệ cho một nhà máy kéo sợi có 100000 cọc sợi. Ngày 16 tháng 4 năm 1993 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây ra quyết định cho phép xây dựng dệt may Huy Hoàng đặt tại khu Công nghiệp Chùa Tổng-La Phù-Hoài Đức-Hà Tây. *Các giai đoạn phát triển của công ty dệt may Huy Hoàng: Quá trình xây dựng và phát triển của công ty được đánh dấu bằng ba giai đoạn chính: Giai đoạn 1: Từ năm 1994 đến năm 1996 đây là giai đoạn xây dựng và lắp đặt trang thiết bị. Ngày 21tháng 11 năm 1996 các hạng mục cơ bản chính được hoàn thành và chính thức bàn giao công trình cho nhà máy quản lí. 18
  19. Giai đoạn 2: Từ năm 1996 đến năm 2000 là giai đoạn vừa sản xuất vừa hoàn thiện. Công ty đã xây dựng thêm một phân xưởng dệt kim ngày 31 tháng 7 năm 1999 với công suất 1000 tấn mỗi năm. Giai đoạn 3: Từ năm 2000 đến nay là giai đoạn phát triển sản xuất. Tháng 4 năm 2001 lãnh đạo công ty quyết định chuyển đổi tổ chức hoạt động của nhà máy sợi thành xí nghiệp liên hiệp sợi dệt kim Huy Hoàng. Tên giao dịch là Công ty xuất nhập khẩu Huy Hoàng với cơ cấu tổ chức là các phòng chức năng và các phân xưởng sản xuất. Công ty dệt may Huy Hoàng là công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm các phân xưởng sản xuất sau: - Phân xưởng sản xuất sợi. - Phân xưởng dệt . - Phân xưởng nhuộm. - Phân xưởng may số 1. - Phân xưởng may số 2. - Phân xưởng may số 3. - Phân xưởng bao gói sản phẩm. - Đơn vị dịch vụ. 2. Chức năng nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp: *Chức năng: Chức năng chính của công ty là sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng: Sợi các loại, vải dệt kim , sản phẩm dệt kim , sản phẩm khăn, vải Denim, sản phẩm Denim, mũ và các loại nguyên vật liệu trang thiết bị chuyên nghành dệt may: bông, sơ, hoá chất, thuốc nhuộm, máy móc. *Nhiệm vụ: -Xây dựng thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh. -Thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. -Chăm lo đời sống tinh thần cho người lao động. 3. Cơ cấu tổ chức quản lí và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: 3.1. Chế độ quản lý: Giám đốc của công ty là người đại diện pháp nhân của công ty điều hành mọi hoạt động của công ty theo chế độ một thủ trưởng. Giám đốc chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả kinh doanh của công ty. 19
  20. Giúp việc cho giám đốc có các phó giám đốc điều hành và kế toán trưởng do Giám đốc chọn và đề nghị bộ bổ nhiệm. Các bộ phận quản lý cấp đốc công các phân xưởng thành viên trở xuống do giám đốc bổ nhiệm. Hình 2: Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty dệt may Huy Hoàng Giám đốc PGĐ điều hành kỹ thuật PGĐ điều hành kinh doanh Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng KCS điều Kế kế xuất hành Toán Hoạch nhập sản thị khẩu xuất trường Phân Phân Phân Phân Phân Phân Phân Đơn xưởng xưởng xưởng xưởng xưởng xưởng xưởng vị bao sợi dệt số nhuộm may may may 3 dịch gói SP 1 2 vụ Phó giám đốc điều hành kỹ thuật- sản xuất: Giúp việc cho giám đốc có nhiệm vụ điều hành tiến độ kỹ thuật trong ngắn hạn và dài hạn. Chỉ đạo việc nghiên cứu thiết kế kỹ thuật và theo dõi quá trình công nghệ, chất lượng sản phẩm. Là người có quyền đề nghị xét thưởng, kỷ luật trong phạm vi kỹ thuật, đề nghị nâng bậc cho công nhân sản xuất, duyệt các thiết kế, định mức Phó giám đốc điều hành kinh doanh: Là người chịu trách nhiệm trước giám đốc về các lĩnh vực cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng các 20
  21. phương án sản xuất kinh doanh, phân tích các hoạt động kinh tế, tính toán hiệu quả kinh tế, chăm lo đời sống cán bộ công nhân viên. 3.2. Các phòng ban chức năng: Đứng đầu các phòng ban chức năng là các trưởng phòng. Phòng tài chính kế toán: Giúp việc cho giám đốc về toàn bộ công tác hạch toán thống kê tài chính, xây dựng kế hoạch tài chính, xây dựng các định mức chi phí, tìm nguồn vốn để thực hiện công tác hạch toán kế toán thống kê theo chế độ hiện hành. Phòng xuất nhập khẩu: Xác định mục tiêu phương hướng kinh doanh xuất nhập khẩu. Tìm kiếm đầu vào đầu ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Phòng KCS: Có nhiệm vụ giúp việc cho tổng giám đốc chức năng kiểm tra chất lượng sản phẩm. Nhiệm vụ của trung tâm là nâng cao, kiểm tra chất lượng sản phẩm, xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm. Phòng điều hành sản xuất:Có nhiệm vụ điều tiết công việc sản xuất của công ty nói chung và của các nhà máy thành viên nói riêng. Phòng kế hoạch thị trường: Có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở nghiên cứu thị trường. Các phân xưởng sản xuất: Phân xưởng sợi: Có nhiệm vụ sản xuất ra các loại sợi cotton, PE với các chỉ số kỹ thuật khác nhau để bán và phục vụ cho các phân xưởng sản xuất trong công ty. Sản phẩm sợi thành phẩm được kiểm tra đóng gói nhập vào kho. Phân xưởng dệt vải: Có nhiệm vụ dệt vải từ sợi theo các quy định của công ty để phục vụ cho phân xưởng may. Phân xưởng may: May gia công các loại áo dệt kim theo kế hoạch, sau đó nhập kho. Công ty hoạt động có hiệu quả theo hai cấp quản lý, cấp công ty và cấp phân xưởng sản xuất với các chức năng thể hiện ở các mặt sau: Tiêu thụ sản phẩm. Công nghệ. Cung ứng vật tư. 21
  22. Lao động tiền luơng. Tài chính kế toán. Kế hoạch. Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty theo hình thức trực tuyến chức năng. Theo cơ cấu này các bộ phận chức năng không ra mệnh lệnh trực tiếp cho các đơn vị sản xuất mà chỉ hướng dẫn với tư cách là cơ quan tham mưu cho giám đốc để thông qua giám đốc quyết định. Đồng thời các bộ phận này có quyền đề xuất chỉ dẫn và kiểm soát việc thực hiện các chỉ tiêu đó của cấp dưới. 4. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp: 4.1.Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm: Hình1 : Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty dệt may. Sợi Dệt Nhuộm May Cung Mắc Đốt lông Cắt Bông Hồ Nấu tẩy May Chải Go khổ Nhuộm Là Vải Ghép Dệt vải Sản phẩm Thô Hoàn tất Đóng kiện Bao gói Sợi con Kiểm gấp Bán ra thị trường Đậu xe Nhập kho 22
  23. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty có thể chia ra nhiều giai đoạn riêng biệt, gián đoạn về mặt thời gian không đòi hỏi tính liên tục chặt chẽ trong quá trình gia công chế biến như từ bông kéo thành sợi, từ sợi dệt thành vải, từ vải mộc nhuộm in hoa thành vải thành phẩm, từ vải thành phẩm cắt may thành các sản phẩm quần áo đều tiến hành ở những phân xưởng sản xuất riêng biệt. Trong mỗi giai đoạn công nghệ sản xuất được thực hiện ở một số phân xưởng sản xuất. Sản phẩm của từng giai đoạn sản xuất như: Sợi, vải mộc, vải thành phẩm, sản phẩm may đều có giá trị sử dụng độc lập và có thể được tiếp tục chế biến trong nội bộ công ty hoặc bán ra ngoài thị trường. * Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm sợi: Cung bông: Bông, xơ được xé nhỏ từ các kiện bông nguyên liệu. Mỗi miếng bông có khối lượng 100g- 150gam được đưa vào máy bông để làm thành những miếng nhỏ 1mg- 1,5mg sau được đưa sang máy chải. Chải: Tại đây bông được loại trừ đến mức tối đa các tạp chất, xơ kết. Máy chải làm cho các xơ duỗi thẳng hơn và song song với nhau theo hướng ra của cúi tạo thành cúi chải. Ghép: Các cúi chải, từ 6-8 cúi chải có cùng độ nhỏ được đưa vào máy ghép tạo thành cúi ghép đồng thời các suốt kéo dài để muốt làm cho các sơ duỗi thẳng. Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng về các loại sợi có tỷ lệ thành phần cotton và PE khác nhau việc pha trộn được tiến hành trong giai đoạn này. Thô: Các cúi ghép được đưa sang máy thô để kéo dài tạo săn, làm nhỏ các cúi ghép và tăng độ bền. Bán thành phẩm của bước công việc này là các quả sợi thô. Kéo sợi con: Làm nhỏ sợi thô thành sợi con và xe sợi săn bằng cách xoắn cho sợi có độ săn cần thiết để tạo độ bền cho sợi con. Đậu xe( Đánh ống): Các quả sợi con được tháo ra và cuốn lại thành những quả sợi lớn có hình dáng kích thước phù hợp. Khi quấn sợi con được làm sạch. Tại những chỗ quá dầy hoặc quá mỏng sợi sẽ bị cắt đứt, các đầu sợi được nối lại đúng kiểu. Quả sợi là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất. 23
  24. 4.2. Đặc điểm về sản phẩm. Các mặt hàng của công ty Dệt may xuất nhập khẩu Huy Hoàng bao gồm: Các loại sợi, sản phẩm dệt kim , khăn, vải Denim Mặt hàng sợi: Công ty có 50.000 cọc sợi, sản lượng trên 3500 tấn mỗi năm. Chỉ số Ne trung bình 36/1 với nhiều chủng loại sợi như sợi cotton, sợi PE. Mặt hàng sợi là sản phẩm truyền thống và chủ lực của công ty. Nguyên liệu đầu vào cho sản xuất là bông xơ phải nhập từ nước ngoài.Mặt hàng sợi của công ty được đánh giá là có chất lượng cao trên thị trường. Mặt hàng dệt kim bao gồm : Vải dệt kim các loại như Rib, Lacol, Single, Interlack. Sản lượng 120 tấn mỗi năm và các sản phẩm may dệt kim như các loại quần áo cho người lớn, trẻ em với số lượng khoảng 2,5 triệu sản phẩm trong đó xuất khẩu 1,5 triệu sản phẩm mỗi năm. Đặc điểm của mặt hàng dệt kim là vải dệt kim có độ co dãn lớn, nguyên liệu đầu vào là sợi chất lượng cao chải kỹ, công đoạn nhuộm khá phức tạp. Sản phẩm dệt kim của công ty có ba chủng loại chính: áo dệt kim có cổ(Poloshirt), áo dệt kim cổ bo( T shirt+ Hineck), quần áo thể thao. Chất lượng sản phẩm dệt kim của công ty được đánh giá là tốt so với các sản phẩm dệt kim trong nưóc tuy nhiên đối với thị truờng nước ngoài sản phẩm của công ty chỉ đạt chất lượng trung bình. Mặt hàng khăn: Bao gồm khăn tắm , khăn ăn, khăn mặt với sản lượng 350 tấn mỗi năm . Đây là những sản phẩm công ty sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng của những khách hàng quen thuộc. Mẫu mã không phong phú nhưng yêu cầu chất lượng cao chủ yếu dùng để xuất khẩu. II. Tình hình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong thời gian qua: Từ trước năm 2002 công ty dệt may Huy Hoàng chủ yếu bán ra thị trường các loại sợi 100% cotton và sợi Peco được làm từ nguyên liệu chính là bông thiên nhiên và sơ tổng hợp Polyeste. Sau năm 2002 trở lại đây công ty đã thực hiện chiến lược mở rộng sản xuất, đa dạng hoá mặt hàng. Hiện nay ngoài 24
  25. mặt hàng chủ lực là sợi công ty còn sản xuất các mặt hàng như: khăn, hàng dệt kim, vải Denim. Công ty luôn thực hiện phương trâm sản xuất là chỉ đưa vào kế hoạch sản xuất mặt hàng đã kí hợp đồng và chắc chắn sẽ được tiêu thụ trên thị trường Bảng 10 : Bảng kết quả tiêu thụ các mặt hàng của công ty dệt may Hà Nội. Đơn vị tính : Triệu đồng. So sánh tình hình thực Các chỉ Năm hiện các năm ( ĐVT %) tiêu 2002 2003 2004 2003/2002 2004/2003 Tổng 47.331 55.898 53.580 109,3204 97,54719 doanh thu Sợi 28.880 28.295 27.397 97,9743 96,82629 Dệt kim 14.107 15.579 14.837 110,4345 95,23718 Khăn 3.750 4.903 4.647 130,7467 94,77871 Denim 4.954 5.870 5.749 118,4901 97,93867 Mũ 375 686 947 18,29333 138,04666 Khác 593 562 947 94,77234 168,5053 Qua bảng trên ta thấy rằng tổng doanh thu của công ty năm 2003 tăng khá mạnh so với năm 2002 nhưng sang năm 2004 lại giảm xuống. Cụ thể là: Tổng doanh thu năm 2003đạt 55.898 triệu đồng tăng 9% so với năm 2002, sang năm 2004 thì tổng doanh thu lại giảm 2,5%. Nhìn chung tình hình thực hiện doanh thu năm 2003 tăng mạnh so với năm 2002 nhưng đến năm 2004 thì giảm điều này chứng tỏ thị trường biến động rất không ổn định. Tình hình thực hiện chỉ tiêu doanh thu các mặt hàng năm 2003 như sau: Doanh thu mặt hàng sợi đạt 2.829 triệu đồng, dệt kim đạt 1.557 triệu đồng, khăn đạt 490 triệu đồng và Denim lần đầu tung ra thị trường cũng đạt 587 triệu đồng. Ta có thể so sánh với hai năm 2002và 2004. So với năm 2002 thì doanh thu mặt hàng sợi giảm 2,1% nhưng doanh thu sản phẩm dệt kim tăng 10,4%, doanh thu sản phẩm khăn tăng mạnh 30%. 25
  26. So với năm 2004 thì doanh thu mặt hàng sợi giảm 3,2%, doanh thu sản phẩm dệt kim giảm 4,8%, doanh thu sản phẩm khăn giảm 5,3%, Denim giảm 3,1%. Nhìn chung tình hình tiêu thụ các sản phẩm của công ty tốt. Mặt hàng Denim lần đầu được đưa vào sản xuất và tiêu thụ nhưng đã có dấu hiệu đáng mừng, doanh thu năm 2004 đạt 5,75 tỷ đồng, mặt hàng mũ đạt 0,94 tỷ đồng. Doanh thu của các mặt hàng qua các năm 2002, 2003, 2004 có sự biến động mà nguyên nhân chính ở đây là công ty không tìm được đối tác tiêu thụ thay thế khi các bạn hàng truyền thống giảm khối lượng đặt mua sản phẩm. Bảng 11: Tỷ trọng doanh thu giữa các mặt hàng của công ty dệt may Huy Hoàng. Chỉ tiêu Tỷ trọng(%) Sợi 51% Dệt kim 27,8% Khăn 8,7% Denim 10% Sp khác 2,5% Tổng 100% Hình12: Biểu đồ tỷ lệ doanh thu giữa các loại sản phẩm của công ty. Denim 10% Khác 2.50% Sợi Khăn 8.70% Dệt kim Khăn Denim Khác Sợi 51% Dệt kim 27.80% Nhìn biểu đồ trên ta thấy rằng hai mặt hàng sợi và dệt kim chiếm 78,8% tổng doanh thu, trong đó doanh thu mặt hàng sợi là 51% còn doanh thu mặt 26
  27. hàng dệt kim là 27,8%. Sản phẩm sợi và dệt kim mang lại phần lớn doanh thu cho công ty do đó công ty luôn đặt trọng tâm vào hai mặt hàng này, luôn có kế hoạch sản xuất đáp ứng nhu cầu mọi lúc mọi nơi. Bên cạnh đó doanh thu do sản phẩm Denim mang lại là một bất ngờ lớn do đây là mặt hàng lần dầu tiên công ty sản xuất và tung ra thị trường. 1.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ. 1.1.1. Nhu cầu thị trường. Một công ty muốn có thể sản xuất kinh doanh hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phẩm nào đó thì phải nghiên cứu nhu cầu thị trường, những sở thích tâm lý người mua trong môi trường nội địa hay một môi trường xuất khẩu. Công ty muốn tiêu thụ tốt sản phẩm của mình thì phải có những chính sách nghiên cứu kỹ môi trường, vị trí, địa điểm cần thiết để có thể tung sản phẩm của mình ra thị trường đó. Bảng 13 : Bảng tình hình tiêu thụ các sản phẩm năm 2004. Tỷ trọng Tỷ trọng Sản phẩm ĐVT Xuất khẩu Nội địa trong nước nước ngoài Sợi Tấn 76 1159 93,9% 6,1% SP dệt kim Sp 350 150 30% 70% Khăn 1000c 618 141 19% 81% Denim 1000m 5 245 98% 2% Nhìn vào bảng trên ta thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 2004 đối với công ty là tốt. Sợi là một sản phẩm truyền thống của công ty tuy là một mặt hàng chính nhưng chủ yếu tiêu thụ trong nước với sản lượng 1159 tấn chiếm tỷ trọng 93,9%, xuất khẩu chỉ đạt 76 tấn chiếm tỷ trọng 6,1%. Vì đối với thị trường trong nước vẫn còn nhiều công ty vẫn phải nhập nguyên liệu của công ty dệt may Hà Nội bởi vì công ty có máy móc thiết bị hiện đại, đặc biệt là sợi có nhiều chủng loại có chỉ số cao. Còn đối với thị trường nước ngoài thì sợi 27
  28. vẫn chưa đáp ứng được cũng bởi một số nước có yêu cầu quá cao so với công ty nên công ty chưa thể đáp ứng được. Sản phẩm dệt kim : Là một mặt hàng mới của công ty nhưng chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Năm 2004 tỷ trọng chiếm 70%. Sản phẩm khăn: Là một sản phẩm có mẫu mã phong phú với nhiều chủng loại: Khăn xương cá, khăn Jacquard, khăn trơn, khăn đổi mầu, khăn thảm . Mặt hàng này chủ yếu xuất khẩu, thị trường tiêu thụ chủ yếu là Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc, Anh. Như vậy nhu cầu trong nước đối với mặt hàng này là rất thấp. Sản phẩm Denim: Hiện nay trong nước rất ít công ty sản xuất ra loại vải bò nên thị trường tiêu thụ vẫn chỉ là trong nước. Cần phải nghiên cứu nhu cầu thị trường để xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty, trên cơ sở nghiên cứu thị trường công ty có khả năng nâng cao được khả năng thích ứng với thị trường của mỗi sản phẩm do mình sản xuất ra từ đó đẩy mạnh khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty. + Phân đoạn đúng thị trường mục tiêu và tiềm năng Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu tức là công ty phải phân chia rõ ràng các khu vực kinh doanh của mình, qua điều tra nghiên cứu thị trường để dự đoán và xác định thị trường có triển vọng nhất trên cơ sở những thông tin thu được công ty tiến hành nghiên cứu Maketing từ đó giúp cho công ty so sánh nhiều thị trường hay chọn ra một hay nhiều thị trường có triển vọng tốt thông qua quy mô cơ cấu thị trường, nghiên cứu phân tích các địa bàn khác nhau theo những tiêu thức khác nhau đồng thời công ty phải xem xét đánh giá sự ảnh hưởng của môi trường ngoài tầm kiểm soát của công ty. Quá trình phân tích Maketing để lựa chọn thị trường mục tiêu là chiến lược kinh doanh có tác động chủ yếu đến sự tiêu thụ của công ty. Công tác phân đoạn thị trường để lựa chọn thị trường mục tiêu được chia làm ba giai đoạn chính. 28
  29. * Giai đoạn khảo sát: Công ty tiến hành thẩm vấn thăm dò và tập chung vào các nhóm để hiểu sâu hơn những động cơ thái độ và hành vi của người tiêu dùng. Sử dụng những kết quả thu được công ty soạn thảo một mẫu phiếu câu hỏi để thu nhập những số liệu về: -Những tính chất và xếp hạng tầm quan trọng của chúng. -Mức độ biết đến nhãn hiệu và xếp hạng nhãn hiệu. -Các dạng sử dụng sản phẩm. -Thái độ với những loại sản phẩm. - Những số liệu về nhân khẩu học , tâm lý và phương tiện truyền thông ưa thích của những người trả lời. * Giai đoạn phân tích: Công ty áp dụng các cách phân tích yếu tố đối với các số liệu để loại bỏ những biến cố liên quan chặt chẽ sau đó áp dụng cách phân tích cụm để tạo ra những đoạn thị trường khác nhau nhiều nhất. Như là sản phẩm dệt kim đối với thị trường trong nước có sự chênh lệch giữa thị trường thành thị và nông thôn. Trung bình giá sản phẩm quần áo dệt kim có giá khoảng trên dưới 40.000đ/sp với mức giá này thì không thể bán được ở nông thôn Việt Nam. Qua đó công ty sẽ đánh giá lại xem xét lại toàn bộ viẹc lựa chọn thị trường hay mở rộng thêm thị trường đó có phù hợp không nhưng vẫn đảm bảo tính quan trọng, tính khả thi, đồng thời phải tự tìm hiểu đặc tính của công ty mình ở mỗi giai đoạn đối với mặt hàng của mình. Sau khi phân đoạn thị trường thì công ty phải xác định thị trường mục tiêu, sao cho thị trường đó hấp dẫn nhất để xâm nhập có hiệu quả, những yếu tố sau đây cần được xem xét thu thập về thị trường: + Doanh số bán ra hiện nay của loại hàng này. + Tỷ lệ tăng dự kiến của doanh số. + Mức lãi đã đánh giá được. + Mức độ cạnh tranh. + Các yêu cầu về tiếp thị. 29
  30. Khu vực thị trường tốt nhất là khu vực có doanh số cao, mức tăng trưởng mạnh, mức lãi lớn, ít cạnh tranh và mức tiếp thị đơn giản. Thông thường chẳng có khu vực nào trội hơn hẳn về các mặt đó, nên công ty cần cân nhắc. Sau khi xác định các khu vực công ty phải tìm khu vực nào phù hợp với khả năng sản xuất kinh doanh của công ty nhất. Như vây công ty tìm được khu vực hấp dẫn một cách khách quan và đủ khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường đó. 1.1.2. Đối thủ cạnh tranh. * Các đối thủ cạnh tranh trong thị trường sợi Thị trường sợi trong nước luôn tồn tại sự cạnh tranh gay gắt và đối thủ cạnh tranh cùng nằm trong tổng công ty Việt Nam. + Tại phía bắc đối thủ cạnh tranh của công ty có thể kể đến đó là công ty dệt Vĩnh Phúc,dệt 8/3, công ty dệt Nam Định, dệt may Hà Nội Các công ty này xét về qui mô và năng lực máy móc thiết bị đã quá lạc hậu không được đầu tư và đôỉ mới thường xuyên, xuống cấp nghiêm trọng. Chính vì vậy chất lượng sản phẩm sợi sản xuất ra chất lượng kém hơn so với sản phẩm của công ty dệt may Huy Hoàng sản xuất đặc biệt là những loại sợi có chỉ số cao và các loại sợi chải kỹ để dệt ra những loại vải cao cấp thì các công ty này không thể sản xuất được. Bộ máy của những công ty này được mua sắm từ lâu như công ty Vĩnh Phú có thâm niên là 25 năm, công ty dệt 8/3 là 35 năm, đặc biệt là công ty dệt Nam Định có thâm niên hơn 100 năm và trong thời gian qua công ty gặp phải những khủng hoảng nghiêm trọng. + Tại khu vực phía nam các công ty sản xuất sợi như công ty dệt Huế, công ty dệt Quảng Nam Đà Nẵng, công ty dệt Nha Trang, công ty dệt Việt Thắng, công ty dệt Thành Công Trừ công ty dệt Nha Trang còn lại công ty khác đều là xí nghiệp cũ để lại máy móc trang thiết bị của Đức, Mỹ,Pháp nhưng lạc hậu và xuống cấp nhiều. Tuy nhiên do đóng trên địa bàn thành phố HCM, một thành phố đầy năng động, cho nên những năm gần đây các công ty này đã nhanh chóng đầu tư và mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản xuất, do vậy một vài công ty đã đưa ra thị trường sản phẩm chất lượng cao. Đối với công ty dệt Nha Trang ra đời cùng với công ty 30
  31. dệt may Hà Nội, máy móc thiết bị do Nhật trang bị nhưng những năm qua công ty đã tập chung nâng cao thiết bị đầu tư và mở rộng sản xuất nên chất lượng sản phẩm được nâng cao rõ rệt và thị trường của nó đuợc tập chung chủ yếu tại thành phố HCM. Như vậy đối với sản phẩm sợi trong cả nước thị trường chủ yếu vẫn là thành phố HCM. Các đối thủ cạnh tranh của công ty cũng tập chung ở đây, cạnh tranh trên thị trường này điểm yếu của công ty dệt may Hà Nội là so với đối thủ cạnh tranh của mình là: - Công ty ở xa thị trường( khoảng 2000 km) cho nên nắm bắt thông tin không được kịp thời chính xác có thể bị chậm hơn đối thủ cạnh tranh. - Thị trường xa nên chi phí cho việc bao gói, bảo quản vận chuyển để giao cho khách hàng cao do đó giá bán tăng chính vì vậy tại thành phố HCM nhiều cơ sở dệt tư nhân nếu trực tiếp mua bán với công ty thì chi phí cao vì vậy phải mua sợi thông qua các cửa hàng thương mại( do những cơ sở này mỗi lần mua với số lượng không lớn). - Do thị trường xa nên tiến độ giao hàng phải chậm hơn đối thủ cạnh tranh. Mặc dù có nhiều điểm bất lợi hơn so với các đối thủ cạnh tranh song công ty cũng có những thế mạnh của mình như: - Chất lượng sợi của công ty đã có uy tín trên thị trường, chúng ta thấy rằng bên cạnh sự cạnh tranh trong nước thì sợi Trung Quốc nhập lậu vào nước ta tuy chất lượng kém nhưng giá rẻ do vậy thu hút rất nhiều khách hàng quen thuộc của công ty. Nhưng do chất lượng quá thấp cuối cùng khách hàng lại quay lại sử dụng sợi của công ty và sợi nhập lậu của Trung Quốc không còn chỗ đứng trên thị trường. Phải nói rằng công ty đã giữ chữ tín với khách hàng phía nam nói riêng và cả nước nói chung. * Đối thủ cạnh tranh trên thị trường sản phẩm dệt kim. Các đối thủ cạnh tranh trong nước: + Tại thị trường phía bắc có các công ty: Dệt kim Đông Xuân, Dệt kim Thắng Lợi và dệt may Thăng Long, dệt may Hà Nội. Hai công ty dệt may Thăng Long và dệt kim Thắng Lợi từ khi chuyển sang cơ chế thị trường hầu như không còn trụ vững, riêng công ty dệt kim Đông Xuân thành lập từ năm 31
  32. 1960 máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu nhưng lại có kinh nghiệm dày dặn về sản xuất loại sản phẩm này, đồng thời khách hàng cũng biết nhiều về sản phẩm của công ty này. Những năm gần đây công ty có đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại hợp tác sản xuất với nước ngoài nhưng vẫn chưa thoả mãn nhu cầu của thị trường, mặt khác sản phẩm nội địa của công ty này còn nghèo nàn về chủng loại, mẫu mã, chất lượng không cao nên không đủ sức cạnh tranh. + Tại miền nam : Hiện nay có hai công ty sản phẩm dệt kim là công ty dệt Nha Trang và công ty dệt Thành Công đây cũng là đối thủ cạnh tranh chính của công ty dệt may Huy Hoàng tại thị trường trong nước trong giai đoạn hiện nay và cả những năm tới. Về quy mô và mức độ hiện đại công nghệ sản xuất sản phẩm dệt kim thì hai công ty này hơn công ty dệt may Huy Hoàng. Tuy nhiên việc tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt may Huy Hoàng diễn ra chủ yếu ở thị trường phía bắc, còn các công ty phía nam chưa mạnh dạn tung sản phẩm ra thị trường phía bắc, lý do là sản phẩm dệt kim ở khu vực phía bắc và phía nam gần như là khác nhau. Miền nam chủ yếu là hàng nóng ngắn tay phù hợp với thời tiết, còn ngoài bắc ngoài hàng này còn có hàng dày dài tay mặc mùa xuân, mùa thu và các áo dài tay cao cổ, bộ quần áo xuân thu, bộ quần áo mùa đông rất hợp với người tiêu dùng. Ngoài ra còn kể đến các đơn vị tư nhân, gia công sản xuất các mặt hàng dệt kim nhái lại của công ty, những sản phẩm tương đối khác so về chất lượng mẫu mã, nhưng giá thành lại hạ hơn so với giá của công ty. Các đối thủ cạnh tranh ngoài nước: Ngoài các đối thủ cạnh tranh trong nước thì công ty còn phải đương đầu với sản phẩm dệt kim nhập ngoại tràn lan cả bằng đường chính thức và không chính thức từ Trung Quốc, Đài Loan, Singapore thời gian qua hàng nhập ngoại đã chiếm lĩnh thị phần lớn trong nước, đặc biệt là phải kể đến hàng nhập ngoại từ Trung Quốc vào Việt Nam với khối lượng lớn. Những hàng này có chất lượng kém như hàng mỏng hay mầu sắc không bền nhưng bù lại chúng có: Mẫu mã phong phú và đa dạng, mầu sắc hài hoà bao gói đẹp , tiện lợi nhanh thay đổi mốt, các chủng loại sản phẩm có thể đáp ứng được nhu cầu cho mọi đối tượng. 32
  33. Giá bán sản phẩm vừa phải hoặc rất rẻ, đây là yếu tố quan trọng để mặt hàng này thâm nhập vào Việt Nam, đặc biệt là vùng có thu nhập thấp như nông thôn vùng sâu vùng xa. Như vậy việc cạnh tranh với hàng nhập ngoại là một vấn đề khó khăn và cấp bách đối với doanh nghiệp Việt Nam trong đó có công ty dệt may Huy Hoàng. Những đối thủ cạnh tranh trong nước và hàng ngoại nhập ồ ạt vào Việt Nam khiến cho công ty đã phải mua sắm những thiết bị mới, các thiết bị dệt, nhuộm may, hàng dệt kim có nhiều máy chuyên dùng đắt tiền nhất là may nhuộm và các công đoạn hoàn tất mà các đối thủ cạnh tranh không đầu tư cho sản xuất được. Do vậy sản phẩm dệt kim của công ty vẫn được ưa chuộng, vì so với trong nước chất lượng vải tốt hơn, mầu sắc đảm bảo không phai. So với hàng Trung Quốc giá rẻ nhưng qua tiêu dùng mọi người thấy chất lượng may sản phẩm dệt kim công ty dệt may Huy Hoàng tốt hơn nên sản phẩm này ngày càng có vị thế trên thị trường nội địa và được người tiêu dùng ưa thích. Bên cạnh những điểm mạnh mà công ty có thể đứng vững trước đối thủ cạnh tranh, thì điểm yếu của hàng dệt kim của công ty là: chủng loại chưa phong phú, giá thành tương đối cao. Hiện nay công ty đang cố gắng đa dạng hoá sản phẩm nhằm khắc phục điểm yếu của mình mặt khác công ty đang có gắng nghiên cứu để giảm giá thành sản phẩm. * Đối thủ cạnh tranh trên thị trường sản phẩm Denim Qua việc nghiên cứu thị trường vải bò của nước ta hiện nay có hai công ty sản xuất vải bò trong nước là công ty dệt Phong Phú và công ty liên doanh Jumbo chủ yếu sản xuất bò mộc. Hiện nay vải bò ngoại nhập chủ yếu từ Trung Quốc. Vì vậy công ty đã xây dựng dây truyền sản xuất vải bò và đến ngày 1/7/2001 công ty tiến hành khánh thành nhà máy Denim để tiến hành sản xuất vải bò nhằm đáp ứng nhu câù của thị trường về vải bò và sẽ là nơi cung ứng duy nhất ở miền bắc cho các đơn vị sản xuất vải bò. 1.1.3. Khả năng đáp ứng của công ty. Nguyên vật liệu mà công ty sử dụng trong quá trình sản xuất là bông xơ. Công ty phải tự tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu. Các nguồn bông xơ trong nước chỉ đáp ứng được 10% của quá trình sản xuất của công ty còn lại phaỉ 33
  34. nhập ngoại. Thời gian đầu công ty nhập chủ yếu từ Liên Xô sau đó do sự phát triển của công ty nên đòi hỏi nguyên liệu tăng công ty phải khai thác thêm nguồn cung ứng từ các nước Mỹ, Nam Phi, Đài Loan Tuy nhiên trong thời gian qua giá bông có nhiều biến động làm ảnh hưởng tới tiến độ sản xuất của công ty, vì nhập ngoại nên phải phụ thuộc vào phía nước ngoài làm giảm uy tín của công ty và hạn chế việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty. * Ưu điểm: ưu điểm nổi bật nhất của công ty dệt may Huy Hoàng là đã nhanh nhạy kịp thời thích nghi với cơ chế mới của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy mà công ty đã có những quan niệm đúng đắn, những việc làm đúng đắn trong công tác tiêu thụ sản phẩm . Công ty duy trì những khách hàng thường xuyên giữ vững thị trường đã có, liên tục thăm dò và mở rông thị trường mới. Do đó công ty đã đem lại một hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Công ty đã quan tâm mạnh vào quá trình đầu tư nâng cấp thiết bị nâng cấp dây truyền sản xuất, phần nào góp phần duy trì chất lượng thiết bị, chất lượng sản phẩm . Công ty liên tục mở rộng sản xuất đa dạng hoá sản phẩm liên tục thay đổi mẫu mã thay đổi chủng loại kích cỡ sản phẩm để liên tục đáp ứng nhu cầu khách hàng. Nhờ đó sản phẩm của công ty đã có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường góp phần vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh, giữ vững sản xuất. Chính sách làm vừa lòng khách hàng coi khách hàng như thượng đế được công ty nhất quán thực hiện. Điều này được thể hiện qua cách thức ký kết hợp đồng và lựa chọn hợp đồng, qua tác phong phục vụ khách của nhân viên các cửa hàng thương mại dịch vụ các cơ sở cắt may trực tiếp của công ty. Do đó công ty đã giữ vững được thị trường, tạo uy tín cao đối với các khách hàng sợi và tạo được những thị trường hàng may, hàng khăn mặc dù sản phẩm của công ty trên thị trường vẫn còn là mới và non trẻ. Với các sản phẩm của công ty sản xuất kinh doanh công ty đã phân biệt một cách rõ rệt, từ đó có những phương pháp nghiên cứu, áp dụng sản xuất 34
  35. kinh doanh khác nhau nhằm tối đa hoá các nghiệp vụ kinh tế cũng như các nghiệp vụ tiêu thụ sản phẩm . Quá trình quản lý công nghệ, thiết bị, quản lao động, tổ chức sản xuất được công ty thực hiện với hiệu quả cao góp phần giảm chi phí sản xuất, hạ được giá bán sản phẩm từ đó tăng được tính cạnh tranh của các sản phẩm của công ty. Quá trình lập kế hoạch sản xuất được thực hiện một cách có khoa học và hợp lý. Các chủng loại mặt hàng được quyết định sản xuất, quyết định đưa vào phân phối với số lượng bao nhiêu chất lượng như thế nào được tính toán cụ thể, qua số liệu nhiều năm và qua khách hàng yêu cầu. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để công ty thực hiện tiêu thụ sản phẩm một cách có hiệu quả nhất. Các dịch vụ tiêu thụ sản phẩm mà công ty áp dụng thực hiện đem lại những hiệu quả rất cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Các nghiệp vụ phục vụ tốt cho quá trình tiêu thụ sản phẩm như : đóng gói, bảo quản mẫu mã , nhãn hiệu hàng hoá và đặc biệt là khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm được công ty đánh giá cao đảm bảo sản phẩm tới tay người tiêu dùng sẽ làm hài lòng và yên tâm về mọi yêu cầu đòi hỏi. Đó là những ưu điểm chính nổi bật của công ty dệt may Huy Hoàng trong công tác tiêu thụ sản phẩm . Những ưu điểm này chính là những yếu tố quan trọng góp phần để công ty tồn tại và phát triển trong cơ chế hiện nay. Công ty dệt may Huy Hoàng luôn có những hợp đồng ký kết ổn định đôi khi quá tải trong khi các công ty khác không thu hút được một hợp đồng nào dù là những hợp đồng nhỏ. Tuy nhiên do những khách quan cũng như những thay đổi về cách nghĩ còn chậm hơn sự vận động biến đổi của thực tại khách quan của nền kinh tế Việt Nam hiện nay nên công ty dệt may Huy Hoàng còn tồn tại những hạn chế trong công tác tiêu thụ sản phẩm. * Nhược điểm : Khâu nghiên cứu thị trường còn để ngỏ nhiều đoạn thị trường và chưa có được sự chủ động trên thị trường. Thị trường tiêu thụ sợi chưa xâm nhập được một khối lượng lớn vào thị trường Hà Nội, mặc dù tại đây có rất nhiều cơ sở 35
  36. dệt may có thể tiêu thụ một sản lượng sợi lớn. Thị trường sợi cung cấp cho các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã dệt may hầu như chưa có trong khi thời gian gần đây các cơ sở này đang có xu hướng phát triển mạnh. Thị trường may mặc, khăn bông còn tiêu thụ chậm với khối lượng nhỏ trên thị trường nội địa. Mẫu mã sản phẩm chưa được đa dạng hoá tối đa. Điều này thể hiện ở sản phẩm sợi, công ty còn sản xuất những loại sợi giá thành cao, không đáp ứng được nhu cầu về hàng rẻ của các cơ sở dệt may thủ công. Các sản phẩm may mặc vẫn còn sản xuất theo các mẫu mã thiết kế của các hợp đồng xuất khẩu nên chưa phù hợp với thị hiếu của người Việt Nam . Dây truyền sợi còn chênh lệch nhau về trình độ công nghệ nên khó khăn trong việc điều hành các dây truyền này sản xuất với những mẫu mã chủng loại khác nhau. Ngoài ra khâu ký kết hợp đồng đôi khi còn xảy ra những hạn chế dẫn tới những khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng như: Không đảm bảo tiến độ giao hàng, không đảm bảo chất lượng hàng hoá. Sở dĩ còn tồn tại những hạn chế trên là do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan sau: + Khách quan: Thị trường tiêu thụ sợi tập chung ổn định. Số đơn đặt hàng cho sợi có đọ ổn định cao dẫn tới rất hiếm khi dây truyền phải ngừng sản xuất để tìm kiếm đơn hàng. Hơn nữa sợi của công ty có chất lượng cao, giá đắt hơn các cơ sở kéo sợi khác nên các công ty dệt may ở Hà Nội, các cơ sở tư nhân, các hợp tác xã sản xuất hàng dệt may nội địa khó có thể chấp nhận giá này. Thị trường tiêu thụ hàng dệt kim xuất khẩu có khối lượng lớn phải căng tải liên tục mà cũng không đảm bảo hợp đồng nên có những thời kỳ phải đi gia công thuê. Do tranh thủ khách hàng, giữ vững thị trường hàng may nên các đơn hàng được ký kết đôi khi còn chủ quan. Thị hiếu người tiêu dùng Việt Nam còn đang mải mê với các mặt hàng nhập ngoại của Trung Quốc, Thái Lan, nên chưa tập chung nhiều đến hàng dệt kim nội địa. Các sản phẩm may mặc nhập khẩu Trung Quốc, Thái Lan tràn lan thị trường Việt Nam đã gây khó khăn lớn cho sản phẩm dệt kim của công ty ở thị trường nội địa. 36
  37. + Chủ quan: Công ty chưa thành lập được một đội ngũ chuyên nghiệp cho công tác Maketing tiếp cận thị trường. Hiện nay công việc này do hai phòng: Kinh doanh và xuất nhập khẩu thực hiện với hình thức kiêm nhiệm đã thể hiện rõ những bất hợp lý và những hạn chế nhất định. Việc tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh trước một hợp đồng kinh tế còn thực hiện chưa nhanh do phương tiện và khả năng tin học còn kém . Thực ra đây là một hạn chế chung của cả nước. 1.2.Phân tích các chính sách Maketing- mix trong tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt may Huy Hoàng: *Chính sách sản phẩm: Trong những năm gần đây công ty đã có chính sách phát triển sản phẩm mới, đồng thời với việc cải tiến và đa dạng hoá mặt hàng truyền thống. Đối với mặt hàng truyền thống là sợi và dệt kim thì tình hình cu thể như sau: Đối với mặt hàng sợi: Công ty đã thực hiên đa dạng hoá mặt háng sợi do nhu cầu của thị trường may mặc đòi hỏi phải có nhiều loại sợi khác nhau để dệt. Từ chỗ chỉ sản xuất các loại sợi ban đầu theo thiết kế là: Ne32cotton, Ne20 cotton, Ne8 cotton, Ne45 peco 65/35( 65% sợi PE, 35% sợi cotton), Ne40 Peco65/35, Ne60Peco 65/35. Cho đến hiện nay công ty công ty đã sản xuất được nhiều mặt hàng bao gồm nhiều chủng loại khác nhau. Bảng 14 : Bảng một số mặt hàng sợi chính của công ty. STT Tên sản phẩm sợi STT Tên sản phẩm sợi 1 Ne45 Pe 13 NePE100% 2 Ne40Pe 14 Ne45 83/14 chải thô 3 Ne30 cotton 15 Ne30 83/17 chải thô 4 Ne32 cotton chải kỹ 16 Ne30 65/35 chải thô 5 Ne32 cotton chải thô 17 Ne20 65/35 chải thô 6 Ne20 cotton chải thô 18 Ne10 OE 7 Ne30 cotton chải kỹ 19 Ne32/2 65/35 8 Ne23 cotton chải thô 20 Ne42/2 65/35 dệt kim 9 Ne60 65/35 chải kỹ 21 Ne40/2 cotton chải kỹ 10 Ne45 65/35 chải kỹ 22 Ne60/2 65/35dệt kim 11 Ne32 65/35 chải kỹ 23 Ne32/2 cotton chải thô 12 Ne30 65/35 chải kỹ 24 Ne20/2 cotton chải thô 37
  38. Từ sáu mặt hàng truyền thống ban đầu hiện nay công ty đã sản xuất được 24 mặt hàng sợi để đáp ứng nhu đa dạng hoá hàng hoá của khách hàng, một mặt công ty sản xuất các mặt hàng thuộc về thế mạnh của mình, mặt khác công ty đã nghiên cứu sự phát triển mạnh của sản phẩm dệt kim để sản xuất các loại sợi dùng làm nguyên liệu sản xuất vải dệt kim. Đây cũng chính là các loại sợi mà công ty đang có ưu thế trên thị trường, đó là những loại sợi chải kỹ và Peco chải kỹ có chuốt Paraphin với nhiều tỷ lệ pha trộn khác nhau. Những loại sợi này chủ yế tiêu thụ ở TP Hồ Chí Minh. Nhờ mở rộng mặt hàng sợi tiêu thụ công ty đã từng bước tăng được doanh thu của sản phẩm sợi. Bình quân hàng tháng doanh thu của sản phẩm sợi đạt khoảng 30 tỷ đồng với sản lượng tiêu thụ bình quân khoảng 95 tấn sợi. Hiện nay công ty đang nghiên cứu một số loại sợi mới để tung ra thị trường đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Mặc dù chiếm ưu thế ở thị trường trong nước nhưng số lượng sản phẩm sợi của công ty được xuất khẩu chưa nhiều. Nguyên nhân chính là do chất lượng sợi của công ty chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế( ISO 9000), đây là một vấn đề nan giải đối với công ty. Đối với sản phẩm dệt kim: Hiện nay công ty cũng đang thực hiện chính sách đa dạng hoá sản phẩm dệt kim để thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng. Từ chỗ chỉ sản xuất các mặt hàng làm theo yêu cầu của khách hàng nước ngoài cho đến nay công ty đã sản xuất một số sản phẩm sau: áo Polo shirt, áo Hineck+ T shirt, bộ thể thao bộ, quần áo xuân thu v v. Trong đó hai loại xuất khẩu chính của công ty là áo Polo shirt và áo Hineck+ T shirt. Một số nguyên nhân khiến cho vài năm trước đây sản phẩm dệt kim không được người tiêu dùng trong nước chấp nhận là do sản phẩm dệt kim làm theo đơn đặt hàng từ phía nước ngoài cả về kiểu dáng lẫn chất lượng, một số sản phẩm không đạt tiêu chuẩn của họ thì được đem bán ở trong nước. Do đó kích thước không phù hợp với người Việt Nam, giá cả quá cao, mẫu mã mầu sắc không phù hợp với thị hiếu của người dân. Hiện nay chính sách sản phẩm của công ty là chủ yếu vẫn sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng ngoài ra sản xuất với số lượng nhỏ vài mặt hàng mà công ty có thế mạnh. 38
  39. Nghiên cứu mốt trên thế giới, dựa vào kiểu dáng của các nhà tạo mẫu nước ngoài để chọn ra những mẫu phù hợp với công ty là một biên pháp phát triển sản phẩm của công ty. Những năm gần đây công ty đã đưa ra vài kiểu áo mang nhãn hiệu nước ngoài như: Adidad, Mike Đây là biện pháp khá đơn giản và tiết kiệm tuy vậy nó không mang tính chiến lược lâu dài. Bằng cách sản xuất thử các kiểu mẫu thêu, mẫu áo sau đó tung ra thị trường. Mỗi lô sản xuất thử 5200 sản phẩm. Sau đó công ty đo lường phản hồi từ phía khách hàng và đưa ra quyết định cũng là một biện pháp phát triển sản phẩm của công ty. Một biện pháp phát triển sản phẩn mới mà công ty đang sử dụng đó là sao chép sản phẩm xuất khẩu để bán trong nước. Ưu điểm của biện pháp này là tiết kiệm chi phí thiết kế sản phẩm mới, có thể sản xuất được hàng loạt nhưng hiệu quả biện pháp này không cao. * Chính sách giá : Mặc dù trọng tâm của cạnh tranh hiện nay đã chuyển sang chất lượng sản phẩm nhưng việc cân nhắc định giá vẫn ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Công ty dệt may Hà Nội áp dụng một chính sách giá cả linh hoạt dựa trên yếu tố chính là chi phí sản xuất và những yếu tố ảnh hưởng của thị trường. Bảng 15 :Bảng giá bán một số sản phẩm sợi chính của công ty. Tên sản phẩm sợi Đơn vị tính Giá bán Ne30 65/35 Kg 31.000 VNĐ Ne45 65/35 Kg 35.000 VNĐ Ne8 OE Kg 26.000 VNĐ Ne11 OE Kg 28.000 VNĐ Ne20 cotton Kg 30.000 VNĐ Ne45 83/17 Kg 29.000 VNĐ Ne32 cotton Kg 36.000 VNĐ Ne CK Kg 4 USD Ne CK Kg 3,9 USD Ne CK Kg 3,7 USD (Nguồn: Phòng Kế hoạch thị trường ). 39
  40. Bảng16: Bảng giá bán sản phẩm dệt kim. Tên sản phẩm Đơn vị tính Giá bán Hàng xuất khẩu - áo Polo shirt vải Lacost Sản phẩm 3,5 USD - áo Hineck+ Tshirt Sản phẩm 1,59 USD - Bộ thể thao vải Interlock Bộ 10,5 USD Hàng nội địa - áo Polo shirt ngắn tay Sản phẩm 30.000 VNĐ - áo Polo shirt dài tay Sản phẩm 32.000 VNĐ - áo T Shirt Sản phẩm 26.000 VNĐ - bộ quần áo trẻ em Bộ 32.000 VNĐ - áo Hineck Sản phẩm 34.000 VNĐ Giá bán các sản phẩm của công ty hiện nay tương đương với giá bán của các đối thủ cạnh tranh nhưng do đã có uy tín lâu năm trên thị trường về chất lượng sản phẩm nên giá bán của các công ty hoàn toàn có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Với chủng loại hàng hoá đa dạng nên công ty có nhiều cách định giá khác nhau đối với từng loại mặt hàng.Ta có thể tập hợp thành các bước sau: + Xác định mục tiêu đặt giá. + Xác định nhu cầu đối với sản phẩm. + Xác định chi phí. + Xác định giá, chất lượng của các đối thủ cạnh tranh. + Lựa chọn phương pháp thuế đặt giá. Công ty áp dụng cho các đại lý của mình như sau: Các đại lý phải bán đúng giá quy định của công ty và giá bán sản phẩm sẽ thay đổi phù hợp theo từng thời điểm. Cuối mỗi tháng công ty và đại lý đối chiéu lượng hàng hoá đại lý nhận bán và lượng tiền bán hàng đại lý đã nộp trả để công ty sẽ trích trả cho đại lý tiền hoa hồng là: 1/ Tỷ lệ hoa hồng cho mùa hè( từ 01/3 đến 30/9) : 8% trên doanh thu trước thuế. 40
  41. Nếu doanh thu một tháng đạt hơn hoặc bằng80 triệu đồng thì được cộng thêm 2% tỷ lệ hoa hồng trên phần doanh thu vượt. Nếu doanh thu 1tháng đạt hơn hoặc bằng100 triệu đồng thì được cộng thêm 2,2% tỷ lệ hoa hồng trên phần doanh thu vượt. Nếu doanh thu một tháng đạt hơn hoặc bằng150 triệu đồng thì được cộng thêm 2,5% tỷ lệ hoa hồng trên phần doanh thu vượt. 2/ Tỷ lệ hoa hồng cho mùa đông(từ 01/10 đến 29/2): 6% trên doanh thu trước thuế. Nếu doanh thu một tháng đạt hơn hoặc bằng80 triệu đồng thì được cộng thêm 1% tỷ lệ hoa hồng trên phần doanh thu vượt. Nếu doanh thu 1tháng đạt hơn hoặc bằng100 triệu đồng thì được cộng thêm 1,2% tỷ lệ hoa hồng trên phần doanh thu vượt. Nếu doanh thu một tháng đạt hơn hoặc bằng150 triệu đồng thì được cộng thêm 1,5% tỷ lệ hoa hồng trên phần doanh thu vượt. *Chính sách xúc tiến bán. Công ty đã áp dụng các chính sách xúc tiến bán với các hình thức: Quảng cáo trên báo, tham gia hội chợ triển lãm, hội nghị khách hàng. Nhưng thực sự công ty chưa trú trọng, quan tâm đúng mức. Đối với quảng cáo: công ty đã quảng cáo trên một số báo, tạp chí nhưng chưa thu được hiệu quả do hình thức quảng cáo nghèo nàn, nội dung quảng cáo chỉ nêu lên được thông báo chưa gây sự chú ý thu hút khách hàng. Công ty chưa có chính sách quảng cáo hợp lý, Chưa có những đánh giá về tác dụng của quảng cáo. Công ty thường tham gia hội chợ, triển lãm như: Hội chợ thương nghiệp tại giảng võ, hội chợ Quang Trung, hội chợ thời trang do tổng công ty dệt may tổ chức. Chính nhờ tham gia các hội chợ này công ty có thể ký được các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm mặt khác công ty có thể đánh giá về sản phẩm của mình sao cho phù hợp. Vào cuối mỗi năm công ty tổ chức hội nghị khách hàng và mời những đại diện của khách hàng lớn qua đó công ty đưa ra những ưu nhược điểm của các sản phẩm và lắng nghe những yêu cầu góp ý của khách hàng về các mặt 41
  42. của công ty. Thông qua các hình thức hội nghị này công ty có thể phát huy mặt mạnh và khác phục những mặt yếu của mình nhằm thoả mãn tốt hơn yêu cầu của khách hàng. 1.3 Phân tích chung tình hình tiêu thụ sản phẩm. 1.3.1Phân tích tình hình tiêu thụ theo cơ cấu mặt hàng. Là doanh nghiệp nhà nước đứng đầu nghành về sản xuất sợi trong nước sản phẩm của công ty dệt may Hà Nội khá đa dạng và có thể chia làm các loại chính sau: Sợi đơn các loại, sợi xe, quần áo dệt kim, khăn Bảng 17 : Bảng tình hình tiêu thụ các sản phẩm của công ty 2002- 2004. Các chỉ ĐVT So sánh(%) Năm tiêu 2002 2003 2004 2003/2002 2004/2003 Sợi đơn Tấn 1235 1371 1300 111 94,8 Sợi xe Tấn 184 217 208 117,8 96,2 Dệt kim 1000c 414 527 500 127 94,7 Khăn 1000c 999 842 763 84,3 90,6 Quy đổi Tấn 66 79 70 121 88,4 khăn Mũ 1000c 35 53 375 152 - Vải 1000m 410 301 250 73,5 82,3 Denim SP Denim 1000c 35 36 586 102 - ( Nguồn báo cáo thực hiện các chỉ tiêu- phòng KHTT). Tình hình tiêu thụ theo sản lượng của công ty năm 2004 xét các mặt hàng chính như sau: Sản lượng sợi đơn tiêu thụ đạt 1,3 nghìn tấn sợi xe đạt 208 tấn, sản phẩm dệt kim tiêu thụ : 0,5triệu sản phẩm , Khăn 70 tấn, vải Denim 0,25 triệu mét, sản phẩm Denim 58 nghìn chiếc. Nhung khi so sánh với năm 2004 với năm 2002 ta thấy hầu hết các chỉ tiêu đối với các mặt hàng đều tăng cụ thể sản lượng sợi đơn tiêu thụ 2004 tăng 42
  43. 5,26 %so với năm 2002, sợi xe tăng 13,2 %, sản phẩm dệt kim tăng 20,7%, khăn tăng 7,1%. Nhưng khi so sánh với năm 2003 ta thấy sản lượng tiêu thụ đối với các mặt hàng đều giảm . Sản lượng sợi đơn tiêu thụ giảm 5,2%, sợi xe giảm 3,8% sản phẩm dệt kim giảm 5,3%, khăn giảm 11,6% Nguyên nhân: Mặt hàng sợi tiêu thụ chủ yếu ở thị trường trong nước. Nó thuộc hàng tư liệu sản xuất tiêu thụ khoảng 2/3 ở thị trường miền nam . Sản lượng tiêu thụ của công ty phụ thuộc vào việc nhận được đơn đặt hàng của các công ty dệt may miền nam do vậy khi số lượng đơn đặt hàng giảm thì sản lượng của công ty giảm. * Phân tích tình hình tiêu thụ mặt hàng sợi Sợi là mặt hàng khoảng 50 % tổng doanh thu của toàn công ty. Điều này cho thấy trong tương lai đây cũng vẫn là mặt hàng chính của công ty. Mặt hàng sợi mà công ty dệt may Huy Hoàng bán ra hiện nay trên thị trường là các loại sợi 100% cotton và các loại sợi Peco, chúng được làm từ hai vật liệu chính là bông tự nhiên(cotton) và sơ tổng hợp(polyeste). Bảng 18 : Bảng tình hình tiêu thụ sợi của công ty. So sánh% So sánh% Các chỉ tiêu ĐVT 2002 2003 2004 2003/2002 2004/2003 Sợi đơn nồi Tấn 1203 1185 1120 98,5 94,4 cọc Sợi OE Tấn 31 185 180 - 97 Sợi xe Tấn 184 217 208 118 96,2 Năm 2002 sản lượng sợi đơn nồi cọc của công ty dệt may Hà Nội tiêu thụ là 1203 tấn, sợi OE là 31 tấn, sợi xe tiêu thụ đạt 184 tấn. Tuy nhiên công ty còn bộc lộ một số hạn chế sau sản lượng sợi đơn nồi cọc là mặt hàng chủ lực( chiếm tỷ trọng khoảng 97%) sau vài năm tăng trưởng đã có dấu hiệu chững lại và giảm sút, Năm 2003 chỉ tiêu tiêu thụ sợi đơn nồi cọc bằng 98,5 % 43
  44. năm 2002. Sợi OE và sợi xe tăng nhanh rõ rệt khiến cho doanh thu tiêu thụ sản phẩm sợi rất ổn định. Nhưng sang năm 2004sản lượng sợi đơn nồi cọc tiêu thụ 1120 Tấn, sợi OE là 180 Tấn, sợi xe tiêu thụ 208 tấn , so với năm 2003 đều giảm . Sợi đơn nồi cọc giảm 5,6 % so với năm 2003, sợi OE giảm 3%, sợi xe giảm 3,8 %. Nói chung việc tiêu thụ sản phẩm trong ba năm qua tăng giảm liên tục đã ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty, có lúc công ty phải sản xuất ba ca liên tục khi thì sản xuất cầm chừng. Do vậy công ty cần có biện pháp chủ động tìm kiếm và xử lí đơn đặt hàng tránh phụ thuộc quá nhiêù vào một số khách hàng chính. * Phân tích tình hình tiêu thụ đối với mặt hàng dệt kim: Bên cạnh mặt hàng sợi thì mặt hàng dệt kim đứng thứ hai về doanh thu, nó mang lại khoản 27,8 % tổng doanh thu của công ty. Bảng 19: Bảng tình hình tiêu thụ hàng dệt kim của công ty Nguồn: (Phòng Kế hoạch thị trường). Năm Năm Năm So sánh So sánh Các chỉ tiêu ĐVT 2002 2003 2004 2003/2002 2004/2003 A. Hàng may 1000c 4.13 527 499 127% 94,7% -áoPoloshirt 1000c 268 290 284 108% 98,0% -áo Hineck 1000c 52 87 85 167% 98,0% Bộ thể thao 1000bộ 65 80 75 123% 93,8% Bộ xuân thu 1000bộ 26 49 47 188% 95,9% Sản phẩm 1000c 2 21 8 - 39% khác B. Vải dệt 1000m 2 2,9 2,7 113% 92,9% kim 44
  45. Bảng 20 :Bảng tỷ trọng các sản phẩm may dệt kim. Chỉ tiêu Tỷ trọng 1. áo polo shirt 56,9% 2. áo Hineck + T shirt 17,1% 3. Quần áo thể thao 15,5% 4.Quần áo xuân thu 9,4% 5. Khác 1,1% Tổng 100% Nhìn chung tình hình tiêu thụ sản phẩm dệt kim của công ty năm 2003 là khá. Hàng may đạt 0,5 triệu chiếc, trong đó ba mặt hàng chính là: áo polo shirt( chiếm tỷ trọng56,9%) tiêu thụ đạt 290 nghìn chiếc, bộ thể thao tiêu thụ là 800 nghìn bộ , bộ xuân thu ( chiếm tỷ trọng 9,4%) tiêu thụ là:49 nghìn bộ. So sánh với tình hình tiêu thụ năm 2002 thì năm 2003 hầu hết chỉ tiêu các mặt hàng tiêu thụ đều tăng rất mạnh. Hàng may tăng 27%, trong đó áo Polo shirt tăng 8%, áo Hineck+ Tshirt tăng 67%,bộ thể thao tăng 23%, bộ xuân thu tăng 88%. Khi so sánh tình hình tiêu thụ năm 2004 kết quả lại trái ngược. Năm 2004 hầu hết các chỉ tiêu mặt hàng tiêu thụ đều giảm. Hàng may giảm 5,3%, trong đó áo polo shirt giảm 2%, áo Hineck+T shirt giảm 2%, bộ thể thao giảm 6,4 %, bộ quần áo xuân thu giảm 4,1%. Mặc dù các mặt hàng tiêu thụ hàng dệt kim của công ty vẫn ở mức cao trong vài năm gần đây nhưng nó đã có những dấu hiệu biến động mà nguyên nhân chính ở đây là Nhật Bản khách hàng nhập khẩu mặt hàng dệt kim lớn nhất của công ty cắt giảm số lượng đặt hàng. Do vậy công ty cần có các chính sách để tìm kiếm thêm các mặt hàng mới, tránh phụ thuộc quá nhiều vào một khách hàng. * Phân tích tình hình tiêu thụ mặt hàng khăn và Denim: Ngoài hai mặt hàng chính là sợi và dệt kim trong vài năm gần đây công ty sản xuất thêm một số mặt hàng khác để thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm. Trong số đó bao gồm khăn và Denim. 45
  46. Bảng 21:Bảng tình hình tiêu thụ sản phẩm Denim và khăn. Các chỉ ĐVT Năm Năm Năm So sánh So sánh tiêu 2002 2003 2004 2003/2002 2004/2003 Tổng sp 1000c 999 842 763 88,4% 90,6% khăn -Khăn 1000c 375 310 292 83,5% 94,1% xương cá - Khăn 1000c 352 307 280 87,4% 91,1% Jacquar -Khăn trơn 1000c 262 222 191 84,6 86,2% -Khăn khác 1000c 9 2 15 27,3% - -SP Denim 1000m 410 301 250 73,5% 82,9% (Nguồn: Phòng Kế hoạch thị trường). Bảng 22: Bảng tỷ trọng các sản phẩm khăn. Các chỉ tiêu Tỷ trọng - Khăn xương cá 38,2% -Khăn Jacquar 36,8% -Khăn trơn 25% Tổng 100% Tình hình thực hiện tiêu thụ vải Denim của công ty hai năm 2002, 2003 là tốt. Mặc dù sản phẩm lần đầu tiên được tung ra thị trường nhưng đã đem lại những dấu hiệu chứng tỏ đây là một mặt hàng mới đầy triển vọng. Vải denim năm 2003 tiêu thụ 0,3014 triệu mét. Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm khăn của năm 2003 so với năm 2002 như sau: Khi xét về mặt số lượng giảm 11,6% , trong đó khăn xương cá ( chiếm tỷ trọng là 38,2%) giảm 16,5%, khăn Jacquar(tỷ trọng 36,8%)giảm 12,6%, khăn trơn(tỷ trọng 25%) giảm 15,4%. 46
  47. 1.3.2. Phân tích tình hình tiêu thụ theo thị trường: Với số dân hơn 80 triệu người, gần 100 triệu vào năm 2010 nước ta là một thị trường đầy tiềm năng của các doanh nghiệp dệt may. Trong số hơn 300 doanh nghiệp dệt may, công ty dệt may Huy Hoàng là công ty chuyên sản xuất kinh doanh các loại sợi vải, quần áo dệt kim . Sản phẩm sợi của công ty tiêu thụ chủ yếu ở thị trường nội địa. Các công ty trong nghành dệt ở cả phía bắc và phía nam ( trừ những đơn vị tự kéo sợi để dệt luôn) đều mua sợi của Hanosimex- đơn giản chỉ là lý do chất lượng. Trên thị trường phía nam do sản phẩm của công ty có chất lượng cao nên rất có uy tín, mặc dù giá sợi có cao hơn công ty khác từ 1000- 2000đ/kg song mức tiêu thụ vẫn không hề giảm. Các công ty làm hàng xuất khẩu luôn tìm đến sợi của công ty nên thị phần của công ty ngày càng mở rộng, vị thế ngày càng cao. Bảng 23 : Thị phần công ty dệt may Hà Nội tại thị trường TP Hồ Chí Minh. TT Tên công ty Thị phần 1 Công ty Dệt Vĩnh Phú 2,08 2 Công ty dệt Đông Nam 2,91 3 Công ty dệt Thành Công 3,75 4 Công ty dệt Việt Thắng 4,16 5 Công ty dệt Phước Long 5,2 6 Công ty dệt Hoà Thọ 6,25 7 Công ty dệt Nam Định 7,08 8 Công ty dệt 8-3 9,2 9 Công ty dệt sợi Huế 11,3 10 Công ty dệt Thắng Lợi 13,6 11 Công ty dệt Nha Trang 16,2 12 Công ty dệt Huy Hoàng 1,827 47
  48. Có thể nói thị trường tiêu thụ sản phẩm sợi của công ty là TP Hồ Chí Minh, chiếm 18,27 % thị phần của thị trường này. Đối với các sản phẩm quần áo dệt kim thời gian qua cũng có nhiều khởi sắc. Các cửa hàng của công ty mọc lên khắp các đường phố đông người qua lại , lượng khách hàng vào mua là khá đông. Tuy nhiên mặc dù thị trường trong nước là rất lớn lại đang phát triển với tốc độ cao và nhu cầu ngày càng đa dạng nhưng dường như công ty dệt may Hà Nội vẫn đứng ngoài cuộc. Một điều nghịch lý là trong khi các doanh nghiệp ra sức làm hàng xuất khẩu, thậm chí gia công cho nước ngoài với giá thuê rẻ mạt thì thị trường trong nước bị thao túng bởi hàng nhập ngoại( chủ yếu là hàng Trung Quốc). Phải chăng là kinh doanh xuất khẩu có lợi hơn? Điều này chỉ đúng một khía cạnh nào đó còn xét một cách toàn diện về mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp thì hoàn toàn không phải như vậy. Công ty dệt Hà Nội cũng mắc phải tình trạng này, mặc dù tiêu thụ trong nước chiếm khoảng 50% doanh thu nhưng chủ yếu là tiêu thụ sợi và hàng dệt kim . Nhờ chính sách mở cửa nền kinh tế và xu thế chuyển dịch nghành dệt may nên công ty Hanosimex có điều kiện giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới. Sản phẩm của công ty đã thâm nhập vào các thị trường Mỹ, EU, Nhật,Hàn Quốc là khá cao nhưng công ty vẫn chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ chưa tới 0,01%. Ví dụ như trên thị trường EU. Bảng 24 :Doanh thu và thị phần hàng may mặc của công ty trên thị trường EU. Đơn vị: Tr USĐ. Năm 2002 2003 2004 Kim nghạch xuất 0,28 0,25 0,13 khẩu Kim nghạch nhập 4,2932 4,5723 4,8192 khẩu của EU Thị phần của 0,0006 0,0005 0,00027 công ty(%) Nguồn: Công ty dệt may Hà Nội. 48
  49. Ngoài ra còn những thị trường khác như Nga, các nước Đông Âu, Đông Nam Trung Đông, công ty còn đang cố gắng khôi phục hoặc đang thâm nhập và cũng là những thị trường đầy tiềm năng mà công ty có thể khai thác và phát triển. Vì đó là những thị trường có yêu cầu không quá cao do vậy nó phù hợp với khả năng của công ty. Các mặt hàng của công ty được tiêu thụ ở thị trường trong nước và xuất khẩu với các tỷ trọng khác nhau. Do đó khi phân tích tình hình tiêu thụ theo thị trường cần phải chia ra các mặt hàng với các thị trường khác nhau. 1.3.2.1. Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm sợi theo thị trường. Sản phẩm sợi của công ty được tiêu thụ chính ở thị trường nội địa, xuất khẩu chiếm tỷ trọng không đáng kể. Bảng 25 : Bảng tình hình tiêu thụ sợi trên thị trường(Nguồn: Phòng KHTT). Đơn vị tính: Tấn. Thị trường Năm 2003 Năm2004 Tỷ trọng - Nội địa 1271 1159 93,9% + Phía nam 1144 1019 + Phía bắc 127 139 - Xuất khẩu 100 76 6,1% 1371 1235 Tổng Qua bảng trên ta thấy sản phẩm sợi của công ty chủ yếu tiêu thụ ở thị trường trong nước chiếm 93,9%, xuất khẩu chiếm khoảng 6% không đáng kể so với tiềm năng của công ty. Năm 2004 sản lượng sợi tiêu thụ giảm 10% so với năm 2003. Đối với thị trường nội địa thì thị trường miền nam chiếm hơn 85%, thị trường phía bắc chỉ chiếm 15%. Nhìn chung khách hàng mua sợi của công ty dệt may Hà Nội là các công ty dệt nhà nước. Họ mua sợi về làm nguyên liệu về dệt vải, ngoài ra còn có các công ty kinh doanh thương mại mua sợi về bán cho các tổ chức không có điều kiện mua hàng trực tiếp với công ty. 49
  50. Tại khu vực phía bắc: Khách hàng truyền thống của công ty của công ty ở khu vực này là công ty dệt vải công nghiệp, công ty dệt kim Hà Nội, công ty dệt kim Đông Xuân. Trong vài năm gần đây một số khách hàng mới là: Tổ hợp sản xuất Hoàng Thị Loan, công ty chỉ khâu Hà Nội, công ty dệt kim Thắng Lợi. Tại khu vực phía nam: Khách hàng ở khu vực này là công ty dệt Đông á, công ty may Gia Định, công ty Trung Tín, công ty TNHH Vĩnh Thành, Nguyên Long. Trong tổng khối lượng sợi bán ra thì tại TP Hồ Chí Minh chiếm khoảng 87%. Đối với thị trường nước ngoài: Hai khách hàng chính là Hàn Quốc, Đài Loan. Mặc dù nhu cầu về sợi ở thị trường nước ngoài là rất lớn nhưng tình hình xuất khẩu sợi của công ty chưa tương xứng với tiềm năng của mình.Một số nguyên nhân chính khiến cho chất lượng sợi của công ty chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường Quốc Tế là: + Máy móc công nghệ kéo sợi của công ty nếu so sánh với các công ty trong nước thì có thể coi là hiện đại. Nhưng khi so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới thì máy móc của công ty lạc hậu khoảng 10 năm so với hiện nay. + Nguyên liệu cho kéo sợi chất lượng cao thông thường cao gấp 1,5 lần so với nguyên liệu thường. Nếu công ty mua nguyên liệu chất luợng cao này để kéo sợi trên thiết bị hiện có của công ty thì chất lượng sợi không đảm bảo nên hiệu quả kinh tế đem lại không cao. + Việc đổi mới trang thiết bị công nghệ hiện đại đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn. Để sản xuất sợi chất lượng cao thì phải cần thiết đổi mới thiết bị công nghệ hiện có, nhưng với tình hình tài chính hiện nay của công ty thì khó có thể đổi mới được công nghệ sản xuất. * Phân tích tình hình tiêu thụ hàng dệt kim theo thị trường. Mặt hàng dệt kim chiếm khoảng 30% tổng doanh thu của công ty song khác với mặt hàng sợi thị trường chính của hàng dệt kim là xuất khẩu. 50
  51. Bảng 26: Tình hình tiêu thụ hàng trong nước và xuất khẩu. ĐVT: Sản phẩm. Tổng sản Trong Nước Tỷ trọng tiêu Tỷ trọng tiêu Năm phẩm tiêu thụ nước ngoài thụ trong nuớc thụ nước ngoài 2001 511 102 409 19,9% 80,1% 2002 414 94 319 23% 77% 2003 527 159 368 31% 69% 2004 500 150 350 30% 70% Nguồn: Phòng KHTT. Nhìn chung trong những năm qua tổng sản phẩm dệt kim tiêu thụ không ổn định cả ở thị trường trong và ngoài nước. Đối với thị trường nước ngoài tỷ trọng tiêu thụ năm 2001 là 81%, năm 2002 là 77%, năm 2004 giảm xuống còn 70%. Số lượng sản phẩm tiêu thụ ở nước ngoài tăng giảm phụ thuộc chủ yếu vào việc công ty ký hợp đồng xuất khẩu ít hay nhiều với phía đối tác nước ngoài. Hiện nay đối với thị trưòng nước ngoài thì thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt kim của công ty bao gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,Đứcv v. Trong đó Nhật Bản là thị trường truyền thống lớn nhất chiếm tỷ trọng hơn 80% hàng dệt kim xuất khẩu. Do đó thị trường này phải được công ty hết sức coi trọng trong tương lai. Đối với thị trường trong nước tỷ trọng tiêu thụ trong nước năm 2001 là 19,9%, năm 2002 là 23%, năm 2004 là 30%. Tỷ trọng tiêu thụ trong nước đang tăng dần đây là dấu hiệu đáng mừng của công ty. Tuy nhiên số lượng sản phẩm tiêu thụ trong nước đang tăng dần đây là dấu hiệu đáng mừng đối với công ty. Tuy nhiên số lượng sản phẩm tiêu thụ trong nước là không ổn định. Năm 2001 tiêu thụ 102 nghìn sản phẩm, năm 2004 giảm xuống còn 95 nghìn sản phẩm , năm 2003 tăng mạnh lên 158 nghìn sản phẩm năm 2003 tăng mạnh lên 158 nghìn sản phẩm, năm 2004 chững lại. Nguyên nhân của tình hình tăng giảm này là do các công ty dệt kim trong nước tăng cường trú trong vào thị truờng nội địa, hàng dệt kim của Trung Quốc, Thái Lan,Hàn Quốc nhập vào nước ta vì vậy công ty cần có chính sách để đối phó với tình trạng này 51
  52. * Phân tích tình hình tiêu thụ khăn và Denim. Hai mặt hàng vải Denim và khăn chiếm khoảng 17% tổng doanh thu của công ty. Mặt hàng vải Denim lần đầu tiên được sản xuất và tiêu thụ nhưng đã khẳng định được đây là mặt hàng có tiềm năng trong tương lai gần của công ty. Bảng 28: Bảng tình hình tiêu thụ khăn và vải Denim. Tỷ trọng Tỷ trọng nước Các chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2004 trong nước ngoài Tổng sản 1000c 763 19% 81% phẩm khăn Xuất khẩu 618 -Nội địa 141 -Vải Denim 1000m 250 98% 2% - Nội địa 240 - Xuất khẩu 5 (Nguồn: Phòng KHTT) Đối với mặt hàng vải Denim lần đầu tiên được công ty sản xuất và bán ra trên thị trường vào năm 2003 nhưng đã tiêu thụ được 250nghìn mét vải, trong đó chủ yếu tiêu thụ ở trong nước khoảng 98%, ở thị trường nước ngoài chỉ tiêu thụ được 5 nghìn mét chiếm 2% chủ yếu là bán chào hàng với các đối tác nước ngoài. Đây là mặt hàng có nhiều tiềm năng trong tương lai do đó công ty cần nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng để đưa ra các chính sách phù hợp. Sản phẩm khăn tiêu thụ năm 2004 đạt 763 nghìn chiếc trong đó xuất khẩu chiếm 81%, tiêu dùng nội địa chiếm 19%. Công ty nên có chính sách hướng về xuất khẩu để thu được giá trị cao hơn. 1.3.3. Phân tích tình hình tiêu thụ theo các kênh phân phối. Việc tiêu thụ sản phẩm đạt kết quả cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào các kênh phân phối. Kênh phân phối được tổ chức cụ thể ra sao lại tuỳ thuộc 52
  53. vào đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp, công ty dệt may Huy Hoàng trong quá trình tiêu thụ sản phẩm của mình đã sử dụng hai loại kênh phân phối là kênh trực tiếp và kênh gián tiếp. Hình29: Sơ đồ kênh phân phối của công ty. Nhà sản xuất Người TD Nhà sản xuất Người bán lẻ Người TD Nhà sản xuất Người bán sỉ Người bán lẻ Người TD Nhà sản xuất Người bán Người bán Người Người sỉ lớn sỉ nhỏ bán lẻ TD Người bán sỉ: Là những cửa hàng bán các sản phẩm được lấy trực tiếp từ công ty dệt may Huy Hoàng nên giá cả được tính theo giá bán buôn. Người bán lẻ: Là những cửa hàng bán các sản phẩm được lấy qua các cửa hàng bán sỉ được bán ra thị trường theo giá của thị trường. Bảng 30: Tình hình tiêu thụ theo các kênh. Sợi Dệt kim Khăn Khối Khối Tỷ Khối Tỷ Tỷ lượng lượng trọng lượng trọng trọng(%) ( Tấn) ( Cái) (%) ( Tấn) (%) Trực tiếp 1157 89 350 75 55 78 Gián tiếp 143 11 150 25 15 22 Tổng 1300 100 500 100 70 100 Nguồn: Phòng KHTT. 53
  54. Đối với mặt hàng sợi do là hàng hoá tư liệu sản xuất nên công ty bán trực tiếp là chính khoảng 89% tương đương với 1157 tấn, bán gián tiếp chỉ chiếm 11%. Sợi của công ty được cung cấp cho thị trường miền nam thông qua việc bán trực tiếp cho: Công ty dệt Đông á, công ty may Gia Định, công ty TNHH Tiến Tiến, công ty TNHH Hiệp Hoà, Vĩnh Thành, công ty Trung Tín Thị trường miền Bắc chỉ tiêu thụ khoảng 17% bao gồm các khách hàng như: công ty dệt vải công nghiệp, công ty dệt 8/3, nhà máy chỉ khâu Hà Nội Đối với mặt hàng dệt kim và khăn thì công ty chủ yếu là bán thông qua sự đặt hàng của các công ty nước ngoài, mặt hàng khăn là 70% thông qua các khách hàng lớn của Nhật và Hàn Quốc. Sau đó sản phẩm của công ty được phân phối tiếp hay tiêu dùng. Sau đó sản phẩm của công ty được phân phối tiếp hay tiêu dùng thì công ty không được biết. Đây là vấn đề công ty cần nghiên cứu tìm hiểu kỹ bởi vì chỉ có thể nghiên cứu tìm hiểu rõ khách hàng của mình thì công ty mới đưa ra các chính sách nhằm thoả mãn tốt hơn. Để tiếp cận dễ dàng hơn với nhóm khách hàng mục tiêu nhằm đẩy mạnh lượng hàng hoá tiêu thụ, công ty đang từng bước mở rộng các đại lý của mình. Các đại lý sẽ nhận được hoa hồng tính theo doanh thu bán hàng. Hàng mà các đại lý nhận của công ty nếu không bán được có thể gửi trả lại công ty. 1.3.4. Những nhận xét về công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. *Những điểm mạnh và kết quả đạt được của công ty. Thông qua phần thực trạng của công ty chúng ta có thể thấy sản lượng tiêu thụ hàng năm là khá lớn, công ty đã biết chọn các thị trường chính trong nước như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh để có các chiến lược nhằm ổn định và phát triển thị trường tiêu thụ của công ty. Công ty gần như độc quyền trong việc sản xuất một số loại sợi có chỉ số cao do đó công ty có thế mạnh rất lớn trong việc tiêu thụ sản phẩm này đối với thị trường nội địa. Công ty đã có những thay đổi đáng kể như nhãn mác, cách bao gói. Hiện nay công ty có các loại hộp giấy, hộp carton. Mặt khác công ty cũng rất trú trọng nguồn nguyên liệu mới, mẫu mã mới để tạo ra sự phong phú đa dạng 54
  55. cho sản phẩm của mình nhằm làm cho khách hàng cảm thấy thoải mái. Sản phẩm của công ty có chất lượng cao, uy tín hình ảnh tốt, nhãn hiệu của công ty đã khá phổ biến và hiện đang được ưa chuộng. Công tác kiểm tra thị trường được triển khai khá mạnh. Thị trường luôn được củng cố và xây dựng kịp thời đối với các thị trường có tiềm năng lớn trong nước như Hải Phòng, Quảng Ninh Bên cạnh đó công ty đã trú trọng tìm kiếm thêm thị trường nước ngoài mới như Mỹ, Canađa Đây là những thị trường đầy tiềm năng đang mở ra nhiều triển vọng cho công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. Giá cả sản phẩm của công ty luôn ổn định trong những năm vừa qua và có xu hướng ổn định trong tương lai hơn nữa nếu đem so sánh với giá của các đối thủ cạnh tranh giá của công ty tương đối thấp do vậy đây là một lợi thế cạnh tranh rất lớn cho công ty. Có được điều này là vì công ty có được lợi thế quy mô lớn và với lịch sử phát triển khá lâu nên tiết kiệm được khấu hao máy móc. *Những mặt tồn đọng và nguyên nhân. Mặc dù công ty đã đạt được khá nhiều thành tích khả quan trong suốt thời gian kể từ khi bước vào nền kinh tế thị trường nhưng cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót và bất cập. Về hình thức thì sản lượng tiêu thụ của công ty khá lớn nhưng tình hình tiêu thụ lại không ổn định nguyên nhân chính ở đây là công ty quá phụ thuộc vào một số khách hàng lớn. Nếu so sánh với các nước trong khu vực thì công nghệ kéo sợi của công ty còn khá lạc hậu. Do vậy chất lượng sợi của công ty sản xuất ra chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế nên chưa thể xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Đối với sản phẩm dệt kim công ty chưa quan tâm tới thị trường trong nước để cho hàng dệt kim Trung Quốc tràn ngập. Việc nghiên cứu thiết kế chế tạo mẫu mốt để bán ở thị trường trong và ngoài nước làm tăng giá trị của sản phẩm cũng chưa được công ty coi trọng. Hiện nay công ty rất bị động trong kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nguyên vật liệu đầu vào phải nhập từ nước ngoài, sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng của khách. Khi số lượng đặt hàng nhiều để đảm bảo chất lượng 55
  56. thời gian công ty phải từ chối bớt một số mặt hàng khác, nếu đơn đặt hàng số lượng nhỏ thì công ty không tận dụng hết năng lực sản xuất của mình nên hiệu quả kinh tế không cao. Công tác nghiên cứu thị trường chứa sâu: Công ty chưa có biện pháp cụ thể cho việc lấy thông tin chính xác từ các đối thủ cạnh tranh của mình, chưa thường xuyên nắm bắt sự biến động của thị trường công ty kiểm soát, một số cán bộ quản lý khu vực thị trường còn lơi lỏng, chưa tham mưu đắc lực cho công ty. Cho đến nay công ty chưa thực hiện một cuộc nghiên cứu thị trường chính thức nào. Việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới còn kém thông tin về thị trường chưa sát thực do vậy việc tiêu thụ khá bấp bênh và gặp rất nhiều khó khăn. Hệ thống kênh phân phối của công ty khá đơn giản, giữa các thành viên của kênh hầu như không có sự liên kết, không có mối quan hệ ràng buộc sâu sắc, sự trung thành được tạo lập trên cơ sở lợi ích. Công ty chỉ giữ quan hệ với các khách hàng trực tiếp còn các nhà bán lẻ và người tiêu dùng cuối cùng thì công ty hầu như không có liên hệ nào cả. Việc thực hiện các chính sách xúc tiến bán của công ty quá sơ sài và thiếu sự kiểm tra, đánh giá về hiệu quả do vậy hiệu quả do nó mang lại là không cao. Ma trận SWOT của công ty: Trong ma trận ta kết hợp các cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu của công ty để có thể hình thành nên các chính sách tối ưu có thể. 56
  57. Hình 31: Ma trận SWOT. Những điểm mạnh(S) Những điểm yếu(W) - dây truyền sản xuất - nguyên vật liệu phải nhập đồng bộ ngoại - đội ngũ cán bộ mạnh - đội ngũ nghiên cứu thị Ma trận SWOT trường chưa tốt - các khách hàng trung - hoạt động xúc tiến bán chưa thành tốt - tình hình tài chính tốt - chủ yếu dựa vào đơn đặt hàng của khách hàng cũ Các cơ hội(O) Các chiến lược(SO) Các chiến lược(WO) - tăng trưởng kinh tế cao - đẩy mạnh sản xuất các -thay thế nguyên vật liệu nhập - quan hệ quốc tế được mở sản phẩm chất lượng cao khẩu bằng nguyên liệu trong rộng. nước - thu nhập của người dân -mở rộng sản phẩm - thuê chuyên gia nghiên cứu ngày càng cao thị trường và thiết ké sản phẩm mới Các mối đe doạ(T) Các chiến lược(TS) Các chiến lược( TW) - nguồn nguyên liệu trong -Tăng cường nghiên cứu - thay đổi mẫu mã, bao bì. nước chưa đáp ứng được thị trường - không chủ động cung -duy trì sản xuất sản phẩm đáp ứng nguyên vật liệu ứng nhu cầu trong nước bằng - các đối thủ cạnh tranh nguyên vật liệu nội địa quyết liệt 57
  58. Chương III Một số biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt may Huy Hoàng I. Cơ sở đưa ra các giải pháp: 1.1. Phương hướng kinh doanh của nghành: Theo số liệu thống kê và nhận xét của một số chuyên gia kinh tế thì nhu cầu hàng dệt may ngày càng tăng ở hầu hết các nước trên thế giới. Tổng giá trị hàng dệt may chiếm phần lớn trong tỷ trọng cán cân thương mại quốc tế chỉ sau chế tạo điện tử và khoáng sản. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghiệp sản xuất hàng dệt may ngày càng phát triển. Theo đánh giá của bộ công nghiệp nhẹ thì nghành dệt may đã có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước. Mặc dù vậy nghành công nghiệp dệt may vẫn còn nhiều yếu kém cần khắc phục. Thị trường của nghành rất rộng lớn cả xuất khẩu và nội địa nhưng vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Hàng năm nuớc ta còn phải nhập khẩu một số lượng rất lớn cả vải và quần áo may sẵn. Xu hướng này vẫn tiếp tục tăng trong khi đó các sản phẩm may của chúng ta sản xuất vẫn tiêu thụ rất chậm. Như vậy trong tương lai khi nước ta tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á( AFTA) thì khả năng của sản phẩm dệt may sẽ càng khó khăn phức tạp hơn. Kể từ năm 1991 tới nay hàng năm kim nghạch xuất khẩu của nước ta bình quân tăng 20% trong đó kim nghạch hàng dệt may tăng khá nhanh đứng thứ hai về xuất khẩu chỉ sau mặt hàng dầu thô. Việc nước ta ký hiệp định hàng dệt may với cộng đồng chung Châu Âu đã tạo cho nghành dệt may một thị trường xuất khẩu rộng lớn với dân số khoảng 400 triệu người, mức tiêu thụ vải bình quân hàng năm trên một đầu người là 17kg. Đây là một thị trường lớn mà công ty cần chú trọng nghiên cứu để thâm nhập. Bên cạnh đó là thị trường khổng lồ là Mỹ cũng cần phải xem xét hết sức nghiêm túc sau khi hiệp thương mại Việt Mỹ đã ký. Theo báo cáo của nghành thương mại Việt Nam thì ở Mỹ nhu cầu may mặc rất lớn nhưng 58
  59. hầu hết là nhập khẩu. Không có một nhà máy, xí nghiệp may nào đặt tại Mỹ, hàng năm nước Mỹ nhập khẩu khoảng 30 tỷ USD hàng may mặc, mứctiêu thụ vải bình quân theo đầu người là 27 kg mỗi năm. Vừa qua thủ tướng chính phủ ban hàng quyết định 55/2001/QĐ- TTG ngày 23 tháng 4 năm 2001 phê duyệt chiến lược phát triển và một số cơ chế chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược hàng dệt may đến năm 2012 với nội dung như sau: Điều một: Nêu rõ mục tiêu phát triển nghành dệt may trở thành một trong những nghành công nghiệp trọng điểm mũi nhọn xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Tập chung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, trình độ chuyên môn hoá cao, đa dạng hoá sản phẩm, thiết kế mẫu hợp thời trang, tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm , tiến tới cung cấp phụ tùng lắp ráp và chế tạo thiết bị chuyên nghành dệt may trong nước, tăng tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nộiđịa lên 70%. Phấn đấu đến năm 2010 sẽ thu hút khoảng 4,5 triệu lao động với sản lượng bông xơ sợi tổng hợp 120 nghìn tấn, sợi các loại 300 nghìn tấn, vải lụa thành phẩm 1,4 tỷ mét, 500 triệu sản phẩm dệt kim, may mặc 1600 triệu sản phẩm với kim nghạch xuất khẩu đạt 9 tỷ USD. Điều hai: Ghi rõ những chính sách để hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển nghành dệt may như sau: Được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước với lãi suất ưu đãi. Trong đó 50% vay với lãi suất bằng 50% mức lãi suất hiện hành với thời gian vay kéo dài 12 năm. Được coi là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và được hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước. Trong trường hợp cần thiết sẽ được chính phủ bảo lãnh khi mua thiết bị trả chậm. Khuyến khích các 59