Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của trung tâm kinh doanh thương mại dịch vụ mía đường I
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của trung tâm kinh doanh thương mại dịch vụ mía đường I", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_tai_mot_so_giai_phap_thuc_day_hoat_dong_kinh_doanh_cua_tr.doc
Nội dung text: Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của trung tâm kinh doanh thương mại dịch vụ mía đường I
- Lời mở đầu Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến quan trọng,chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, đã đặt các nghành ,các doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh gay gắt, bên cạnh đó là các biến động khoa học ,công nghệ,kinh tế ,chính trị , mang đến cho doanh nghiệp những cơ hội, nhưng cũng đặt các doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh ngày càng biến động, phức tạp và nhiều rủi ro thách thức. Vì vậy kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải hết sức năng động ,nhạy bén, linh hoạt trước sự biến động của môi trường để khai thác ,tận dụng các cơ hội và hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách ,chiến lược,kế hoạch ,đồng thời phải quản lí được mọi hoạt động như mua ,bán ,dự trữ, lao động ,vốn chi phí ,điều chỉnh hoạt động kinh doanh linh hoạt thích ứng với mọi biến động của thị trường ,trong mối quan hệ kinh tế đa dạng và phức tạp .Trung tâm kinh doanh thương mại dịch vụ mía đường I là một đơn vị tiêu biểu cho loại hình doanh nghiệp thương mại nhỏ ở Việt Nam ,hiện nay,đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như sự canh tranh ,sự ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh, trong khi đó vốn kinh doanh thiếu phải vay lãi xuất cao, để lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, điều đó đặt ra cho không chỉ trung tâm mà các doanh nghiệp thương mại hiện nay ở Việt Nam làm như thế nào để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của mình ,nâng cao hiệu quả và mở rộng thị trường kinh doanh. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này ,trong thời gian thực tập tại trung tâm em xin chọn đề tài "Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của trung tâm kinh doanh thương mại dịch vụ mía đường I " làm đề tài nghiên cứu . 2
- Phụ lục Lời mở đầu Chương I: Cơ sở lí luận về hoạt động kinh doanh I-Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường . 1-Doanh nghiệp thương mại và chức năng của nó . 2- Các loại hình doanh nghiệp thương mại . 3-Các yêu cầu và mục đích của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường . II- Nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh thương mại : 1-Hoạt động nghiên cứu thị trường. 2- Huy động và sử dụng hợp lí các nguồn đưa vào kinh doanh . 3- Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ . 4- Quản trị vốn, chi phí và nhân sự trong kinh doanh . III-Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại : 1-Các yếu tố khách quan . 2- Các yếu tố chủ quan . 3-Một số chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh của trung tâm kinh doanh thương mại dịch vụ mía đường : I-Lịch sử hình thành và phát triển của trung tâm 1-Lịch sử hình thành và phát triển của trung tâm . 2-Chức năng hoạt động của trung tâm . 3-Nhiệm vụ và quyền hạn của trung tâm 4-Chế độ hoạt động tài chính 5-Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động kinh doanh của trung tâm . 6-Mối quan hệ của trung tâm với các đơn vị khác . 3
- II- Đặc điểm hoạt động kinh doanh của trung tâm : 1-Đặc điểm mặt hàng kinh doanh . 2-Đặc điểm thị trường kinh doanh . III-Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của trung tâm : 1-Các nhân tố khách quan . 2-Các nhân tố chủ quan . IV-Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của trung tâm . 1-Hoạt động nghiên cứu thị trường . 2-Hoạt động mua hàng . 3-Hoạt động bán hàng . 4-Chi phí kinh doanh . 5-Hoạt động dự trữ . 6-Khách hàng . 7-Đối thủ cạnh tranh. 8- kết quả hoạt động kinh doanh của trung tâm V-Nhận xét hoạt động kinh doanh của trung tâm : 1-ưu điểm . 2-Nhược điểm . 3-Nguyên nhân . Chương III: I-Phương hướng và mục tiêu kinh doanh của trung tâm trong thời gian tới II- Các giải pháp . III-Điều kiện và tiền đề để thực hiện các giải pháp . IV-Một số kiến nghị . 4
- Chương I. Lý luận về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại I. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường. 1. Doanh nghiệp thương mại và chức năng của nó. Sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất đã làm tăng thêm lực lượng sản xuất xã hội, nảy sinh nền sản xuất hàng hóa. Quá trình sản xuất bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Chuyên môn hoá đã tạo sự cần thiết phải trao đổi sản phẩm giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Sự trao đổi này bắt đầu với tính chất ngẫu nhiên, hiên vật, dần dần phát triển mở rộng cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, khi tiền tệ ra đời làm cho quá trình trao đổi sản phẩm mang hình thái mới là lưu thông hàng hoá với các hoạt động mua và bán. Quá trình lưu thông hàng hoá tất yếu đòi hỏi một sự hao phí lao động xã hội nhất định trong quan hệ trao đổi hàng hóa trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng, lao động đó là cần thiết và có ích cho xã hội, nhằm chuyển đổi hình thái giá trị từ H-T và lĩnh vực lao động đó cũng đòi hỏi được chuyên môn hoá cao, lao động trong lĩnh vực lưu thông nhằm giúp đỡ cho các nhà sản xuất khỏi việc phân phối, trao đổi để tập trung chuyên môn hoá cao hơn, nâng coa năng suất và hiệu quả lao động do yêu cầu khách quan của hoạt động sản xuất kinh doanh, ngành lưu thông hàng hoá- ngành thương mại dịch vụ ra đời. Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá có một loại người chuyên dùng tiền tổ chức mua hàng hoá từ nơi này sang bán ở nơi khác người ta gọi là những nhà buôn ( thương nhân ), những người hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá chuyên nghiệp, đó là người kinh doanh thương mại. Giữa các nhà kinh doanh thương mại và nhà sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tuân theo những quy định nhất định, mối quan hệ này thể hiện thông qua hoạt động của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế hàng hóa. Như vậy doanh nghiệp thương mại là một đơn vị kinh doanh được thành lập với mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực lưu 5
- thông hàng hoá bao gồm đầu tư tiền của, công sức và tài năng vào lĩnh vực mua bán hàng hoá đáp ứng nhu cầu của thị trường nhằm kiếm lợi nhuận. * Chức năng của doanh nghiệp thương mại : Giống như các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp thương mại cũng là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp pháp thực hiện các hoạt động kinh doanh để thu lợi nhuận, tuy nhiên doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá vì vậy chức năng của doanh nghiệp thương mại có những điểm khác so với các doanh nghiệp khác, nó là tiêu thức để phân biệt doanh nghiệp thương mại với các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp xây dựng. Doanh nghiệp thương mại có những chức năng cơ bản sau : Thứ nhất là chức năng lưu chuyển hàng hóa trong nền kinh tế nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của xã hội về các loại hàng hoá và dịch vụ. Để thực hiện tốt chức năng này doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu, nắm vững các nhu cầu thị trường trên cơ sở đó tìm kiếm nguồn hàng và tổ chức lưu thông hàng hoá một cách hợp lý, có hiệu quả, bên cạnh đó các doanh nghiệp thương mại còn phải thiết lập và mở rộng các quan hệ giao dịch thương mại, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý vào các kênh và thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng . Thứ hai là thực hiện chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông, thực hiện chức năng này doanh nghiệp thương mại phải tham gia hoàn thiện sản phẩm như phân loại, đóng gói, chọn lọc, sơ chế, lắp ráp, ghép đồng bộ, vận chuyển, tiếp nhận, bảo quản. Với chức năng này, hàng hoá qua doanh nghiệp được duy trì và tăng thêm gía trị sử dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng, đồng thời nâng cao khả năng thâm nhập thị trường của hàng hoá kinh doanh. Thứ ba là tham gia vào tổ chức sản xuất : doanh nghiệp thương mại là hậu cần cho sản xuất, phục vụ tiêu dùng, đại diện cho các đơn vị tiêu dùng quan hệ với các doanh nghiệp sản xuất để đặt hàng, ký kết hợp đồng do đó pahỉ là người am hiểu nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng để hướng dẫn sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường về số lượng, chất lượng, cơ cấu, giá cả, kịp thời gian. Doanh nghiệp thương mại đại diện cho người sản xuất quan hệ với người tiêu dùng, thực hiện chức năng này doanh nghiệp thương mại kkhông chỉ đơn thuần là lưu thông hàng hoá mà phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu 6
- khách hàng giúp người sản xuất chiếm lĩnh thị trường đồng thưòi tham gia giới thiệu quảng cáo sản phẩm giúp cho người sản xuất mở rộng thị trường. Doanh nghiệp thương mại là trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng, các doanh nghiệp đảm bảo sự cân đối cung cầu hàng hoá, tổ chức sự vận động hợp lý của sản phẩm hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp thương mại là trung tâm thông tin về thị trường, qua hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại góp phần phân bố lại sản xuất xã hội, hình thành các ngành nghề mới. * Nhiệm vụ của doanh nghiệp thương mại : Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp đều có nhiệm vụ chung sau đây : - Hoạt động kinh doanh phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường, thực hiện đầy đủ các cam kết với khách hàng về sản phẩm, dịch vụ, giải quyết thoả đáng quan hệ lợi ích với các chủ thể kinh doanh và chủ thể khác theo nguyên tắc bình đẳng và có lợi. - Bảo toàn, tăng tưởng vốn và mở rộng quy mô kinh doanh, chăm lo đời sống của người lao động trong doanh nghiệp, tạo đủ việc làm, tăng thêm thu nhập, thực hiện phân phối cong bằng quỹ khen thưởng, phúc lợi. - Tuân thủ các quy định cảu nhà nước về môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh và trật tự xã hội, chấp hành các quy định về chế độ hạch toán kế toán, kiểm toán, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước. Bên cạnh nhiệm vụ chung giống như doanh nghiệp khác, doanh nghiệp thương mại còn có nhiệm vụ cụ thể sau : - Đẩy mạnh tốc độ chu chuyển của sản phẩm trong nền kinh tế quốc dân, tổ chức tốt công tác thu mua, phân phối và giảm bớt các khâu trung gian, giảm chi phí kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đặc biệt là chi phí lưu thông. - Phải thoả mãn kịp thời, đầy đủ và thuận lợi các nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ của khách hàng, tạo nguồn thu mua có chất lượng tốt, ổn định, giá cả phải chăng. - Đẩy mạnh các hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông và phát triển các hoạt động dịch vụ thương mại đó là các hoạt động phục vụ cho hoạt động mua bán, dự trữ, bảo quản nhằm đảm bảo thuận tiện cho khách hàng. 7
- - Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý và mở rộng mạng lưới kinh doanh trên thị trường trọng điểm và thị trường tiềm năng. 2. Các loại hình doanh nghiệp thương mại. Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghệp thương mại rất phong phú, tuy nhiên căn cứ vào tính chất các mặt hàng kinh doanh, doanh nghiệp thương mại được chia thành 3 loại chính đó là : - Doanh nghiệp kinh doanh chuyên môn hoá: là loại hình doanh nghiệp chỉ kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có cùng công dụng, trạng thái hoặc tính chất và loại hình kinh doanh này có đặc điểm với cùng một mặt hàng có công dụng như nhau nhưng có nhiều nhãn hiệu, kiểu dáng, mẫu mã, nhiều hãng sản xuất khác nhau cho phép khách hàng so sánh, lựa chọn hàng phù hợp với yêu cầu của mình. Với loại hình doanh nghiệp này, trình độ chuyên môn hoá ngày càng được nâng cao, có thể tổ chức tốt các nghiệp vụ trong khâu mua, bán, bảo quản và tổ chức cá hoạt động dịch vụ phục vụ theo yêu cầu, doanh nghiệp còn có thể nắm bắt được thông tin về thị trường, giá cả tốt hơn. Tuy nhiên với hình thức kinh doanh này, mức độ rủi ro cao đặc biệt khi nhu cầu đột ngột giảm hoặc có hàng hoá thay thế. Để kinh doanh chuyên môn hoá đòi hỏi tổ chức kinh doanh ở nơi có nhu cầu lớn, ổn định. - Loại hình doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp : là các doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng có công dụng, trạng thái, tính chất khác nhau, với loại doanh nghiệp này mức độ rủi ro ít hơn bởi vì khi có biến động trong nhu cầu của mặt hàng này thì vẫn còn doanh thu từ mặt hàng khác, tốc độ lưu chuyển vốn kinh doanh nhanh, tuy nhiên trình độ chuyên môn hoá không sâu, trong điều kiện cạnh tranh khó thắng được đối thủ, kinh doanh nhỏ nên không kiếm được lợi nhuận siêu ngạch, đòi hỏi nguồn vốn kinh doanh lớn, hệ thống mạng lưới kinh doanh phải bố trí ở những nơi nhu cầu nhỏ lẻ. - Loại hình kinh doanh đa dạng hoá : là loại hình doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng, nhiều lĩnh vực nhằm tận dụng lao động, cơ sở vật chất và phân tán rủi ro. Tuy nhiên với hình thức này đòi hỏi vốn lớn, người quản lý phải là người giỏi, nắm được bí quyết trong sản xuất, phân phối, bán hàng để có khả năng cạnh tranh. 8
- 3. Yêu cầu và mục đích của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường. - Đặc trưng của nền kinh tế thị trường : + Trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động kinh doanh đều phải dựa vào thị trường, điều đó phát huy tính chủ động, sáng tạo của các doanh nghiệp và tăng được khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước sự thay đổi của thị trường. + Hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng hơn và cạnh tranh trở nên khốc liệt không những chỉ giữa người bán với người mua mà còn cạnh tranh giữa người mua với người bán, người mua với người mua. + Trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp đều nằm trong mối quan hệ đa dạng và phức tạp. - Yêu cầu với doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường: + Doanh nghiệp thương mại thực hiện chức năng lưu thông, thực hiện chu trình T- H – T’ vì vậy điều trước tiên khi tham gia vào thị trường doanh nghiệp phải có vốn. + Phải thực hiện hành vi mua, bán, mục đích của doanh nghiệp thương mại là mua hàng để bán kiếm lợi nhuận vì vậy đồi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu của khách hàng và tìm nguồn hàng để đáp ứng. + Không chỉ đối với doanh nghiệp thương mại mà còn với các doanh nghiệp nói chung để có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường đòi hỏi sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải bảo toàn và phát triển vốn. - Mục đích của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường : Chúng ta biết rằng kinh doanh là hoạt động đầu tư tiền của, sức lao động vào một lĩnh vực nào đó nhằm kiếm lợi nhuận, đó là mục tiêu chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu cuối cùng đó thì bất cứ doanh nghiệp nào trên thị trường cũng phải đối mặt với cạnh tranh, giành vị thế và không ngừng mở rộng thị trường, thu hút khách hàng, mở rộng quy mô kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, phục vụ tốt nhất các nhu cầu của khách hàng qua đó giành phần chiếm lĩnh những khu vực thị trường chính có thể tìm kiếm vị trí đứng đầu để mục đích cuối cùng là thu được lợi nhuận lớn nhất, cho nên trong những giai đoạn khác nhau, tình hình thị trường cung cầu có biến động khác nhau có thể là thuận lợi hoặc khó khăn cho 9
- các doanh nghiệp . Để duy trì, mở rỏọng kinh doanh phải xác định mục tiêu của mình trên cơ sở có thể không phải là lợi nhuận mà chấp nhận lỗ để duy trì kinh doanh khi thị trường có biến động bất lợi. Vì vậy việc lựa chọn mục tiêu thường xếp theo hình tháp để xác định mục tiêu quan trọng nhất, mục tiêu phải thực hiện trước tiên ở từng giai đoạn, nhìn chung mỗi doanh nhgiệp thường tập trung vào 3 mục tiêu cơ bản đó là : + Lợi nhuận : Cơ chế thị trường cho phép các doanh nghiệp tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh và tự chủ trong kinh doanh tức là lấy thu bù chi đảm bảo lợi nhuận, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của họ. Khác với nền kinh tế tập trung trước đây nhà nước can thiệp quá sâu vào kinh doanh từ khâu kế hoạch cho đến kinh doanh cái gì, cho ai và như thế nào, lãi nộp nhà nước cho nên các doanh nghiệp không quan tâm đến lợi nhuận, sang cơ chế thị trường lợi nhuận đóng vai trò quan trọng, là nguồn động lực tích cực của kinh doanh, là mục tiêu cơ bản, lâu dài, là đích mà mọi doanh nghiệp đều đang hướng tới. + Thế lực : đây chính là mục tiêu thứ hai mà các doanh nghiệp hướng tới, sở dĩ mục tiêu này quan trọng bởi vì trong nền kinh tế thị trường số lượng doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh nhiều với mặt hàng phong phú, cạnh tranh gay gắt không chỉ giữa người bán với nhau mà giữa người mua với người mua, giữa người mua với người bán. Để đạt được lợi nhuận thì đòi hỏi phải thắng trong cạnh tranh, phải thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, không ngừng tăng doanh số bán và các hoạt động dịch vụ phục vụ, không ngừng mở rộng quy mô và phát triển thị trường, tăng thị phàn của doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo cho mình được thế mạnh về khả năng thu hút khách, về vốn kinh doanh, về nhân lực + An toàn : đây cũng là mục tiêu mà các doanh nghiệp quan tâm nhiều trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay bởi vì kinh doanh trong cơ chế thị trường phải chấp nhận rủi ro, khả năng không bán được hàng thường xảy ra, doanh nghiệp có thể gặp may trong thương vụ này nhưng có thể phải đối mặt với rủi ro không thể lường trước được do sự biến động của môi trường kinh doanh trong đó có những yếu tố doanh nghiệp dự đoán được nhưng có những yếu tố mà doanh nghiệp không dự đoán được. Chính vì vậy trong kinh doanh khi quyết định hay lựa chọn một phương án nào các doanh nghiệp luôn đặt ra tiêu chuẩn mức độ an toàn, 10
- với mục đích này các doanh nghiệp cần phải đa dạng hoá trong kinh doanh hay dành chi phí bảo hiểm phù hợp. - Tầm quan trọng của thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại : Thị trường là một phạm trù kinh tế hàng hoá, đứng trên những góc độ khác nhau người ta mô tả thị trường khác nhau. Đối với doanh nghiệp có thể hiểu thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng hoá tác động qua lại với nhau để xác định giá cả, số lượng hàng, thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán bằng tiền trong thời gian và khong gian nhất định. Đứng dưới giác độ thị trường của một doanh nghiệp thương mại có thể mô tả thị trường gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, thị trường đầu vào là các nguồn cung ứng hàng còn thị trường đầu ra là các khách hàng ở những nơi khác nhau. Thị trường đầu ra có liên quan trực tiếp đến mục tiêu của doanh nghiệp, bất cứ một yếu tố nhỏ nào của thị trường này đều ảnh hưởng đến khả năng thành công hay thất bại trong kinh doanh. Đặc điểm và tính chất của thị trường đầu ra là cơ sở để doanh nghiệp hoạch định, tổ chức thực hiện các chiến lược, sách lược công cụ điều khiển trong kinh doanh. Đối với một doanh nghiệp, thị trường luôn ở vị trí trung tâm, thị trường có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến từng hoạt động của doanh nghiệp vì thị trường là mục tiêu của người kinh doanh cũng là môi trường của hoạt động kinh doanh hàng hoá: + Thị trường là yếu tố quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp vì hoạt động kinh doanh diễn ra trên thị trường, thông qua hoạt động này các doanh nghiệp đạt được mục tiêu chính của mình là tìm kiếm lợi nhuận, thị trường càng mở rộng thì quy mô kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn, khả năng kiếm được lợi nhuận càng nhiều, ngược lại thị trường kinh doanh nhỏ thì quy mô kinh doanh cuả doanh nghiệp không thể lớn được, doanh nghiệp sẽ không có cơ hội phát triển kinh doanh. + Thị trường phản ánh tình hình kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì thị trường diẽn ra các hoạt động kinh doanh ở đó người bán, người mua, người trung gian gặp nhau để trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Chính vì vậy mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều thể hiện trên thị trường, qua thị trương nó sẽ phản ánh 11
- được tốc độ phát triển, quy mô kinh doanh và mức độ chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. + Thị trường còn đóng vai trò điều tiết hoạt động kinh doanh, qua yếu tố cung, cầu và giá cả nó làm hàng hóa vận động hợp lý hơn đi từ nơi hàng hóa nhiều đến nơi hàng hoá ít, từ nơi giá thấp đến nơi giá cao + Thị trường là nơi kiểm tra, đánh giá các chương trình kế hoạch, quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì qua hoạt động trên thị trường mới thấy được những điểm đúng đắn, hợp lý đồng thời cũng biểu hiện những điểm bất cập trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. ii. nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh thương mại. Nội dung chủ yếu của hoạt động kinh doanh thương mại bao gồm một loạt các hoạt động phục vụ cho hoạt động kinh doanh như nghiên cứu nhu cầu thị trường, tổ chức các hoạt động nghiệp vụ, huy động nguồn lực phục vụ cho kinh doanh và quản lý các yếu tố về vốn, chi phí. 1. Nghiên cứu thị trường. Nền kinh tế thị trường không ngừng phát huy tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp mà còn tăng khả năng thích ứng trước sự thay đổi của thị trường, nếu như trước kia các doanh nghiệp kinh doanh theo kế hoạch của nhà nước thì bây giờ mọi hoạt động kinh doanh đều xuất phát từ thị trường, thị trường đầy bí ẩn và không ngừng thay đổi. Do vậy để kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp phải nghiên cưú thị trường. Nghiên cứu thị trường là quá trình tìm kiếm khách quan và có hệ thống cùng với sự phân tích thu tạp thông tin cần thiết để giải quyết các vấn đề cơ bản của kinh doanh. Bởi vậy nghiên cứu thị trường giúp nhà kiinh doanh có thể đạt được hiệu quả cao và thực hiện được các mục đích của mình, đó cũng là khâu mở đầu cho hoạt động kinh doanh, quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Cơ chế thị trường làm cho hàng hoá phong phú, cung luôn có xu hướng lớn hơn cầu, bán hàng ngày càng khó khăn, mức độ rủi ro cao, các doanh nghiệp muốn 12
- thành công thì phải thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng, mọi hoạt động kinh doanh đều hướng vào khách hàng. Nghiên cứu nhu cầu thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm được thông tin về loại hàng hóa, dịch vụ kinh doanh, dung lượng, yêu cầu về quy cách, chất lượng, mẫu mã hiểu rõ thị hiếu, phong tục tập quán tiêu dùng ở mỗi nhóm và mỗi khu vực, tìm hiểu thông tin về đối thủ cạnh tranh, thể hiện : - Thứ hạng phẩm cấp chất lượng nào phù hợp với nhu cầu thị trường của doanh nghiệp. - Đâu là mục tiêu của doanh nghiệp, sản phẩm xương sống của doanh nghiệp, khách hàng nào? khu vực? nhu cầu hiện tại và tương lai của hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh và các mặt hàng khác doanh nghiệp đang quan tâm. - Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu của hàng hoá doanh nghiệp kinh doanh, ưu và nhược điểm của đối thủ cạnh tranh. - Nguồn hàng nào thì phù hợp với nhu cầu của khách, phân phối như thế nào cho hợp lý và nên cạnh tranh bằng hình thức nào ? Đó là toàn bộ thông tin cơ bản và cần thiết mà một doanh nghiệp phải nghiên cứu để phục vụ cho quá trình ra quyết định đúng đắn, tối ưu nhất. Để nắm bắt được những thông tin đó doanh nghiệp phải coi công tác nghiên cứu thị trường là một hoạt động không kém phần quan trọng như hoạt động quản lý, nghiệp vụ bởi vì công tác nghiên cứu thị trường không trực tiếp tham gia vào các hoạt động trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp như mua, bán nhưng kết quả của nó ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên đây chưa phải là một giải pháp có thể giải quyết được mọi vấn đề của doanh nghiệp nhưng nó vốn là một hoạt động không thể thiếu được đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Công tác nghiên cứu thị trường được tiến hành một cách khoa học sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được : - Lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề kinh doanh và lựa chọn sản phẩm kinh doanh cũng như các chính sách duy trì, cải tiến hay phát triển sản phẩm. 13
- - Nhu cầu hiện tại, tương lai và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thị trường, xác định được mục tiêu của doanh nghiệp. - Tìm được nguồn hàng, các đối tác và bạn hàng kinh doanh, lựa chọn kênh phân phối và các biện pháp xúc tiến phù hợp. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường và đánh giá khả năng tiềm lực của mình, doanh nghiệp lựa chọn hình thức kinh doanh, mặt hàng, thị trường và người cung cấp. 2. Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn đưa vào kinh doanh. Kinh doanh tức là đầu tư tiền của, sức lực vào một lĩnh vực nào đó nhằm kiếm lời, yêu cầu đối với doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh là phải có các nguồn lực bao gồm nguồn lực về tài chính và con người. Các nguồn lực mà doanh nghiệp có thể huy động đưa vào kinh doanh bao gồm vốn vô hình như sự nổi tiếng về nhãn hiệu, uy tín, kinh nghiệm và trình độ của cán bộ công nhân viên. Đây là nguồn quan trọng nhưng việc tích luỹ đòi hỏi thời gian lâu dài, nguồn này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh và mở rộng quan hệ với bạn hàng, khách hàng và đơn vị có liên quan. Nguồn vốn hữu hình bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Tài sản cố định bao gồm toàn bộ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động kinh doanh như văn phòng, cửa hàng, hệ thống kho, các trang thiết bị, phương tiện vận chuyển nguồn này góp phần tạo nên sức mạnh, uy thế của doanh nghiệp và giúp cho hoạt động kinh doanh thuận lợi. Tài sản lưu động bao gồm vật liệu đóng gói, bao bì, nhiên liệu, dụng cụ và các khoản tiền mặt, ngân phiếu, tiền nhờ thu Trong một doanh nghiệp kinh doanh, vốn là vấn đề quan trọng và được quan tâm nhiều nhất. Không có vốn hoặc quá ít vốn doanh nghiệp không thể kinh doanh có hiệu quả được. Vốn lớn giúp doanh nghiệp thanh toán cho người cung cấp đúng hẹn, tránh nợ đọng tràn lan, tạo dựng niềm tin và củng cố các quan hệ với đơn vị nguồn hàng, doanh nghiệp có thể áp dụng hình thức trả tiền trước để có được nguồn hàng ổn định nhất là khi nhu cầu thị trường căng hoặc có thể áp dụng hình thức thanh toán chậm với khách hàng để duy trì thu hút thêm khách. Ngoài ra còn 14
- khắc phục hiện tượng dự trữ quá ít hoặc không có dự trữ, tránh tình trạng không đủ đáp ứng nhu cầu khách . Bên cạnh yếu tố vốn kinh doanh thì yếu tố con người cũng góp phần không nhỏ trong kinh doanh. Nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động vào kinh doanh là quý tuy nhiên nguồn vốn thì có hạn nhất là trong điều kiện huy động vốn khó khăn. Sử dụng và khai thác nguồn vốn này có hiệu quả phụ thuộc vào tài năng, kinh nghiệm và trình độ quản lý, bộ máy điều hành của doanh nghiệp hay nói tóm lại đó là nhờ vào yếu tố con người. Đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp là phần cơ bản quan trọng, nếu bộ phận này thực hiện tốt chức năng của mình doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được, ngược lại nó chỉ có tác dụng hình thức thì hoạt động của doanh nghiệp không thể có hiệu quả được. 3. Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ. Các hoạt động nghiệp vụ của doanh nghiệp thương mại bao gồm công tác tạo nguồn, dự trữ, phân phối, bán hàng và thực hiện các hoạt động dịch vụ. *Doanh nghiệp thương mại thực hiện nhiệm vụ cung ứng cho sản xuất, tiêu dùng những hàng hoá cần thiết, phù hợp nhu cầu. Để hoàn thành nhiệm vụ đó thì doanh nghiệp phải tổ chức công tác tạo nguồn. Công tác tạo nguồn là toàn bộ những hoạt động nghiệp vụ nhằm tạo ra nguồn hàng có khối lượng và cơ cấu thích hợp với nhu cầu. Thông qua việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp xác định được nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ, xác định được các nguồn hàng, khả năng cung ứng của họ, tổ chức ký kết hợp đồng, đặt hàng, mua từ nguồn hàng trôi nổi trên thị trường, nguồn hàng do liên doanh liên kết với đơn vị sản xuất để khai thác, chế biến, nguồn hàng tự tổ chức sản xuất, nhận đại lý, ký gửi. Để nắm vững thị trương nguồn hàng, hạn chế bị động trong lựa chọn đối tác giao dịch, các doanh nghiệp phải nghiên cứu khả năng cung ứng của từng loại hàng hoá. Đó là xác định số lượng, nhà cung ứng trong và ngoài nước, khả năng cung ứng của các nhà cung cấp trong hiện tại và tương lai. Khi nghiên cứu về nhà cung cấp doanh nghiệp phải tìm hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên, liên 15
- kết kinh doanh và đặt mua, nghiên cứu về vốn, kỹ thuật, uy tín của nhà cung cấp. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải tìm xem nguồn nào thoả mãn được các yêu cầu . Nguồn hàng đó phù hợp về mặt số lượng nghĩa là nó có thể đáp ứng đúng số lượng hàng hoá mà công ty cần theo yêu cầu, đáp ứng theo yêu cầu về chất lượng, kịp thời gian, đảm bảo hiệu quả cao. Ngoài ra nó còn phải thoả mãn các điều kiện khác của doanh nghiệp như phù hợp với điều kiện vận chuyển, giao nhận, thanh toán Mục đích của công tác tạo nguồn mua hàng là để bán hàng ,mua là tiền đề cơ sở của hoạt động bán, để thực hiện mục tiêu kinh doanh đó là lợi nhuận vì vậy mua hàng có ý nghĩa rất lớn khi mua hàng doanh nghiệp cấn phải chú ý : -Phải hiểu rõ thị trường và thương mại, khi mua phải tuân thủ các quy luật của lưu thông : +Mua của người chán bán cho người cần . +Mua nơi giá thấp, bán nơi giá cao . +Mua tận gốc bán tận ngọn . -Khi mua hàng phải lập kế hoạch thu mua có cơ sở khoa học : +Mua phải bán được và có lợi nhuận . +Cơ cấu thu mua phải phù hợp với nhu cầu . +Phải xác định được khối lượng mặt hàng chủ lực . +Số lượng mua theo kế hoach phải lớn hơn hoặc bằng số lượng bán ra theo kế hoạch (Khối lượng lớn hoưn ở mức có giới hạn ) -Doanh nghiệp phải nắm bắt được thông tin kịp thời ,lựa chọn cơ hội mua hàng tốt nhất * Hoạt động dự trữ : Doanh nghiệp thương mại làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, trong quá trình vận động đưa hàng từ sản xuất đến tiêu dùng thường xuyên có một bộ phận hàng hoá đang trên đường vận chuyển, ở các kho của doanh nghiệp thương mại hoặc được giữ lại chờ tiêu dùng, bộ phận hàng hoá này gọi là dự trữ. Mục đích của dự trữ ở doanh nghiệp thương mại là để đảm bảo bán hàng diễn ra liên tục, đều đặn, sẵn sàng phục vụ khách hàng ngay khi có nhu cầu, tạo dựng niềm tin, uy tín với khách hàng, tạo điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh. 16
- Thông thường ở doanh nghiệp thương mại có 2 loại dự trữ là dự trữ thường xuyên và dự trữ bảo hiểm. Dự trữ thường xuyên là lượng dự trữ chủ yếu nhằm thoả mãn thường xuyên, đều đặn nhu cầu của khách hàng. Dự trữ bảo hiểm là bộ phận dự trữ đề phòng khi có trường hợp công tác thu mua tạo nguồn không theo đúng kế hoạch về thời gian, số lượng, chủng loại để đáp ứng nhu cầu. Ngoài ra với doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng có tính thời vụ về sản xuất, lưu thông, tiêu dùng thì có bộ phận dự trữ thời vụ. Dự trữ đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, dự trữ không đủ mức cần thiết có nguy cơ làm gián đoạn hoạt động kinh doanh, mặt khác dự trữ quá nhièu dẫn đén tình trạng ứ đọng hàng hoá, vốn chậm lưu chuyển. Vì vậy việc xác định đúng đắn mức dự trữ có ý nghĩa lớn, cho phép giảm các chi phí về bảo quản hàng hoá, giảm hao hụt, mất mát, bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động thường xuyên, liên tục, thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, tránh dự trữ quá nhiều. Khi tiến hành xác định mức dự trữ doanh nghiệp cần phải xác định được đại lượng tối đa, tối thiểu căn cứ trên cơ sở tính toán các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua, bán trong kỳ. Để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách đều đặn , kịp thời , tránh tình trạng thiếu hàng ,không đáp ưngd được yêu cầu của khách hàng trong kinh doanh dự trữ phait tuân theo nguyên tắc : +Hàng hoá dự trữ cần phải kiểm tra dều đăn , định kỳ , kịp thời bổ sung hàng hoá khi dựu trữ ở mức giới hạn thấp nhất +Phải sắp xếp hàng hoá theo nguyên tắc dễ thấy dễ lấy dễ kiểm tra. +Phải sứp xếp hàng hoá theo nhóm khác nhau . +Quy định mức dự trữ thấp nhất và cao nhất * Tổ chức phân phối và bán hàng : Bán hàng là khâu quan trọng mấu chốt, là nghiệp vụ kinh doanh cơ bản, trực tiếp thực hiện chức năng lưu thông phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân và thực hiện mục tieu kinh doanh củ doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Đồng thời bán hàng là hoạt động nghiệp vụ quan trọng chi phối các hoạt động nghiệp vụ khác như tạo nguồn, dự trữ, dịch vụ 17
- Bán hàng là sự chuyển hoá hình thái giá trị của hàng hoá từ H- T nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng về một giá trị dụng nhất định. Đứng dưới giác độ nghệ thuật, người ta xem bán hàng là một quá trình tại đó người bán tìm hiểu, khám phá, gợi tạo nhu cầu và đáp ứng ước muốn của họ trê cơ sở thoả mãn quyền và lợi ích của cả hai bên. Mở rộng hoạt động kinh doanh phụ thuộc lớn vào tốc độ bán hàng nhanh hay chậm, hàng hoá bán được đồng nghĩa với việc doanh nghiệp còn tồn tại và phát triển, ngược lại doanh nghiệp sẽ không thực hiện được mục tiêu của mình điều đó có nghĩa là doanh nghiệp sẽ mất dần vị thế trên thị trường. Đối với kinh doanh thương mại hoạt động bán hàng tổ chức tốt có thể làm tăng tiền bán ra và chỉ thông qua bán hàng cho người tiêu dùng giá trị của sản phẩm dịch vụ mới được thực hiện do đó mới có điều kiện thực hiện mục đích của doanh nghiệp. Bán hàng chỉ là một phương pháp giao tiếp trong kinh doanh cho phép các thượng vụ phù hợp với yêu cầu của khách trong quá trình mua bán. Người bán hàng có thể đáp ứng yêu cầu của người mua và quan sát phản ứng của họ, một nhân viên bán hàng thành cong phải là người có kinh nghiệm đánh giá khách hàng và có thê điều chỉnh nội dung thực hiện bán cho phù hợp với yêu cầu của người mua. Mạng lưới bán hàng của doanh nghiệp thương mại bao gồm các cửa hàng và hệ thống đại lý được bố trí rộng và thuận tiện đề phục vụ khách hàng, tuy nhiên khi xây dựng mạng lưới kinh doanh doanh nghiệp cần phải bố trí phù hợp với quá trình vận động của hàng hoá từ nguồn hàng đến nơi tiêu dùng, mạng lưới cửa hàng phải được bố trí ở những nơi đông dân cư, những địa điểm thuận lợi cho mua bán, phải tính đến hiệu quả của từng điểm bán cũng như của toàn bộ doanh nghiệp, tránh sự diệt trừ lẫn nhau. Đối với hoạt động bán hàng doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc: + Khối lượng mặt hàng và chất lượng hàng hoá phải đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. + Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ trong quá trình bán. 18
- + áp dụng phương pháp bán và quy trình bán hoàn thiện đảm bảo năng suất lao động, chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng không ngừng nâng cao, vì vậy đối với nhân viên bán hàng phải chọn những người tinh thông về nghiệp vụ hàng hoá, có khả năng tuyên truyền giới thiệu, phải biết sử dụng các phương tiện, dụng cụ trong quá trình phục vụ khách tạo không khí vui vẻ thực sự có thể nắm bắt được tâm lý khách hàng và đáp ứng thoả đáng nhu cầu. + Làm tốt công tác quảng cáo, kết hợp quảng cáo với bán hàng làm cho hoạt động quảng cáo phát huy tác dụng thúc đẩy bán hàng. Đối với doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực phân phối và lưu thông phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt vì vậy phải tuân thủ nguyên tắc: + Kinh doanh những hàng hoá dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. + Phải lôi cuốn khách hàng rồi mới nghĩ đến cạnh tranh. + Khi làm lợi cho mình phải chú ý đến lợi ích của khách hàng. + Tìm kiếm và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. + Nhận thức và nắm bắt cho được nhu cầu của thị trường để đáp ứng đầy đủ. Tuỳ thuộc vào quy mô kinh doanh, đặc điểm, tính chất, đièu kiện vận chuyển doanh nghiệp thương mại có thể tổ chức bán hàng thông qua các kênh khác nhau như tổ chức bán trực tiếp cho người tiêu dùng thông qua mạng lưới bán lẻ, bán qua trung gian hay môi giới. Phân phối hàng hóa thực chất là quá trình chuyển hàng hoá vào các kênh bán hàng một cách hợp lý, góp phần giảm chi phí lưu thông, đáp ứng tối đa yêu cầu của thị trường đảm bảo lợi nhuận và uy tín với khách. Đối với hoạt động phân phối hàng hoá để đem lại kết quả cao doanh nghiệp cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau: + Nguyên tắc hiệu quả kinh tế thể hiện qua doanh thu và chi phí làm sao đạt được lợi nhuận cao nhất. + Nguyên tắc đồng bộ liên tục: Khi phân phối hàng hoá phải tính đến nhiều yếu tố như giá mua, chi phí vận chuyển, bảo quản 19
- + Nguyên tắc ưu tiên: Trong trường hợp có sự mất cân đối cục bộ mà doanh nghiệp không thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, thời gian, địa điểm thì cần phải cân nhắc lựa chọn phương án tốt nhất. 4. Quản trị vốn, chi phí, nhân sự trong kinh doanh. Quản trị doanh nghiệp thương mại phải chú ý đến quản trị vốn, chi phí và nhân sự, đây là yếu tố ảnh hưởng đén kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Vốn kinh doanh đóng vai trò quan trọng đối với sự ra đời, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, qua vốn kinh doanh cho phép biết được tièm lực của doanh nghiệp, vốn kinh doanh quyết định quy mô kinh doanh, mặt hàng kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp thương mại là thể hiện bằng tiền của tì sản lưu động, tài sản cố định. Quản tri vốn kinh doanh thực chất là thực hiện sử dụng vốn tong kinh doanh và theo dõi được kết quả sử dụng vốn lãi hay lỗ qua đó đưa ra biện pháp khắc phục. Bất kỳ doanh nghiệp nào dù hoạt động trong phạm vi lớn hay nhỏ đều quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn . Vì vậy quản lý tốt vốn kinh doanh nhằm tăng vòng quay vốn nhanh tạo ra sự linh hoạt trong kinh doanh. Vốn kinh doanh có vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp tuy nhiên nó chỉ phát huy tác dụng khi được bảo toàn và tăng lên sau mỗi chu kỳ kinh doanh, sử dụng nó một cách đúng hướng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả vì vậy quản lý vốn là cần thiết. Để quản trị vốn tốt doanh nghiệp phải thường xuyên đánh giá tình hình sử dụng vốn như : việc phân bổ vốn đã hợp lý chưa, cơ cấu vốn, xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp, đồng thời đánh giá hiệu quả sử dụng vốn qua các chỉ tiêu: sức sản xuất của vốn, sức sinh lợi của vốn, tốc độ luân chuyển vốn, thời gian một vòng lưu chuyển. Khả năng sinh lời của vốn qua dánh giá các chỉ tiêu đưa ra kết luận và đề ra biện pháp khắc phục. - Chi phí kinh doanh bao gồm chi mua hàng và chi phí lưu thông, chi phí kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp , bởi vì: lợi nhuận = doanh thu - chi phí. 20
- Do đó chi phí cao làm lợi nhuận giảm. Đối với các doanh nghiệp, chi phí giữ vai trò quan trọng vì vậy phải quản trị chi phí, quản trị chi phí là phải có kế hoạch chi, phải theo dõi và tính toán đúng đắn các khoản chi, tiết kiệm chi phí, chi phải đúng mục đích, đúng kế hoạch và đúng hướng, chi phải có thu, chi để tạo ra các khoản thu, chi tiêu tiết kiệm tránh những khoản có tính chất phô trương, hình thức và hạn chế những khoản thiệt hại làm tăng chi phí kinh doanh. Doanh nghiệp phải thường xuyên đánh giá và giám sát chặt các khoản chi. Để quản trị chi phí lưu thông được thuận lợi, doanh nghiệp phải lập kế hoạch chi phí lưu thông và xác định được tổng số tiền chi phí lưu thông và tỷ lệ chi phí lưu thông đúng đắn, chính xác, phù hợp với tình hình kinh doanh cũng như mặt hàng kinh doanh, đề ra được các biện pháp tiết kiệm chị phí lưu thông, khắc phục tình trạng chi tiêu lãng phí. Doanh nghiệp có thể sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá tình hình chi tiêu: Mức độ hoàn thành = cplt thực tế x 100% kế hoạch chi phí lưu thông cplt kế hoạch Mức tiết kiệm hay = số tiền - số tiền vượt chi cplt cplt thực tế cplt kế hoạch Phạm vi hạ thấp = tỉ lệ cplt thực tế - tỉ lệ cplt kế hoạch hay tiết kiệm cplt - Quản tri nhân lực : Nói đến sản xuất kih doanh trước hết phải nói đến vấn đề con người vì con người ở đây quyết định toàn bộ những vấn đề kinh doanh. Có thể nói mọi quyền lực vật chất cũng như cơ hội kinh doanh chỉ ở dạng tiềm năng và để biến tiềm năng đó thành hiện thực thì phải có yếu tố con người. Vì vậy sử dụng con người đúng đắn thì sẽ thành công và ngược lại. Quản trị nhân sự là sự lựa chọn, bố trí, sắp xếp, phân công công việc phù hợp với nghiệp vụ của từng người, quản trị nhân sự là lĩnh vực liên quan đến con người “ dụng nhân như dụng mộc” nhưng con người có suy nghĩ, có tình cảm, có lý trí do đó đây là một vấn đề khó khăn. 21
- iii. các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp : Thông thường người ta phân loại các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thành các yếub tố chủ quan và các yếu tố khách quan các yếu tố chủ quan là các yếu tố thuộc bản thân doanh nghiệp ,doanh nghiệp có thể kiểm soát hoặc điều chỉnh được nó,các yếu tố khách quan là các yếu tố mà doanh nghiệp không thể điều chỉnh và kiểm soát được. 1-Các nhân tố khách quan :Là các nhân tố mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được nó tác động liên tục đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, vừa tạo ra cơ hội vừa hạn chế khả năng thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải thường xuyên nắm bắt được các nhân tố này, xu hướng hoạt động và sự tác động của các nhân tố đó lên toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố khách quan bao gồm các yếu tố chính trị, luật pháp, văn hoá, xã hội, công nghệ, kỹ thuật, kinh tế, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng và quan hệ kinh tế, đây là những yếu tố mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được đồng thời nó có tác động chung đến tất cả các doanh nghiệp trên thị trường. Nghiên cứu những yếu tố này doanh nghiệp không nhằm để điều khiển nó theo ý kiến của mình mà tạo ra khả năng thích ứng một cách tốt nhất với xu hướng vận động của mình. - Yếu tố chính trị và luật pháp : Các yếu tố thuộc môi trường chính trị và luật pháp tác động mạnh đến việc hình thành và khai thác cơ hội kinh doanh và thực iện mục tieue của doanh nghiệp. ổn định chính trị là tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh, thay đổi về chính trị có thể gây ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp này hoặc kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp khác. Hệ thống pháp luật hoàn thiện và sự nghiêm minh trong thực thi pháp luật sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, tránh tình trạng gian lận,buôn lậu Mức độ ổn định về chính trị và luật pháp của một quốc gia cho phép doanhnghiệp có thể đánh giá được mức độ rủi ro, của môi trường kinh doanh và ảnh hưởng của của nó đến doanh nghiệp như thế nào, vì vậy nghiên cứu các yếu tố 22
- chính trị và luật pháp là yeu cầu không thể thiếu được khi doanh nghiệp tham gia vào thị trường. -Yếu tố kinh tế : Có thể tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc xâm nhập mở rộng thị trường, nghhành hàng này nhưng lại hạn chế sự phát triển cuả nghành hàng khác. Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến sức mua, sự thay đổi nhu cầu tiêu dùng hay xu hướng phát triển của các ngành hàng , cac syếu tố kinh tế bao gồm : + Hoạt động ngoại thương : Xu hướng đóng mở của nền kinh tế cóảnh hưởng các cơ hội phát triển của doanh nghiệp ,các điều kiện canh tranh ,khả năng sử dụng ưu thê quốc gia về công nghệ, nguồn vốn . + Lạm phát và khả năng điều khiển lạm phát ảnh hưởng đến thu nhập, tích luỹ , tiêu dùng, kích thích hoặc kìm hãm đầu tư +Sự thay đổi về cơ cấu kinh tế ảnh hưởng dến vị trí vai trò và xu hướng phát triển của các ngành kinh tế kéo theo sự thay đổi chiều hướng phát triển của doanh nghiệp . + Tôc độ tăng trưởng kinh tế : Thể hiện xu hướng phát triển chung của nền kinh tế liên quan đến khả năng mở rộng hay thu hẹp quy mô kinh doanh của mỗi doanh nghiệp . -Các yếu tố văn hoá xã hội : Có ảnh hưởng lớn tới khách hàng cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ,là yếu tố hình thành tâm lí, thị hiếu của người tiêu dùng . Thông qua yếu tố này cho phép các doanh nghiệp hiểu biết ở mức độ khác nhau về đối tượng phục vụ qua đó lưạ chọn các phương thức kinh doanh cho phù hợp . Thu nhập có ảnh hưởng đến sự lựa chọn loại sản phẩm và chất lượng đáp ứng, nghề nghiệp tầng lớp xã hội tác động đến quan điểm và cách thức ứng xử trên thị trường , các yếu tố về dân tộc ,nền văn hoá phản ánh quan điểm và cách thức sử dụng sản phẩm , điều đó vừa yêu cầu đáp ứng tình riêng biệt vừa tạo cơ hội đa dạng hoá khả năng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp . -Yếu tố kỹ thuật công nghệ : ảnh hưởng đến yêu cầu đổi mới công nghệ trong thiết bị khả năng sản xuất sản phẩm với chất lượng khác nhau, Năng suất lao động và khả năng cạnh tranh, lựa chọn và cung cấp công nghệ . 23
- -Điều kiện tự nhiên và cơ sở ha tầng : Các yếu tố điều kiện tự nhieen như khí hậu ,thời tiết ảnh hưởng đến chu kỳ sản xuất kinh doanh trong khu vực , hoặc ảnh hưởng đến hoạt động dự trữ , bảo quản hàng hoá. Đối với cơ sở hạ tầng kỹ thuật ,các điều kiện phục vụ cho sản xuất kinh doanh một mặt tạo cơ sở cho kinh doanh thuận lợi khi khai thác cơ sở hạ tầng sẵn có của nền kinh tế, mặt khác nó cũng có thể gây hạn chếkhả năng đầu tư, phát triển kinh doanh đặc biệt với doanh nghiệp thương mại trong quá trình vận chuyển, bảo quản, phân phối -Yếu tố khách hàng : Khách hàng là những người có nhu cầu và khả năng thanh toán về hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh . Khách hàng là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Khách hàng có nhu cầu rất phong phú và khác nhau tuỳ theo từng lứa tuổi, giới tính mức thu nhập, tập quán Mỗi nhóm khách hàng có một đặc trưng riêng phản ánh quá trình mua sắm của họ. Do đó doanh nghiệp phải có chính sách đáp ứng nhu cầu từng nhóm cho phù hợp. -Đối thủ canh tranh : Bao gồm các nhà sản xuất, kinh doanh cùng sản phẩm của doanh nghiệp hoặc kinh doanh sản phẩm có khả năng thay thế. Đối thủ canh tranh có ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp, doanh nghiệp có cạnh tranh được thì mới vó khả năng tồn tại ngược lại sẽ bị đẩy lùi ra khỏi thị trường , Cạnh tranh giúp doanh nghiệp có thể nâng cao hoạt động của mình phục vụ khách hàng tốt hơn ,nâng cao được tính năng động nhưng luôn trong tình trạng bị đẩy lùi. -Người cung ứng : Đó là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước mà cung cấp hàng hoá cho doanh nghiệp, người cung ứng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cua doanh nghiệp không phải nhỏ ,điều đó thể hiện trong việc thực hiện hợp đồng cung ứng, độ tin cậy về chất lượng hàng hoá, giá cả, thời gian, điạ điểm theo yêu cầu 2-Các yếu tố chủ quan : Là toàn bộ các yếu tố thuộc tiềm lực của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát ở mức độ nào đó và sử dụng để khai thác các cơ hội kinh doanh. Tiềm năng phản ánh thực lực cuả doanh nghiệp trên thị trường, đánh giá đúng tiềm năng cho phép doanh nghiệp xây dựng chiến lược và kế 24
- hoạch kinh doanh đúng đắn đồng thời tận dụng được các cơ hội kinh doanh mang lại hiệu quả cao. Các yếu tố thuộc tiềm năng của doanh nghiệp bao gồm : Sức mạnh về tài chính, tiềm năng về con người, tài sản vô hình, trình độ tổ chức quản lí, trình độ trang thiết bị công nghệ, cơ sở hạ tầng, sự đúng đắn của các mục tiêu kinh doanh và khả năng kiểm soát trong quá trình thực hiện mục tiêu . +Sức mạnh về tài chính thể hiện trên tổng nguồn vốn (bao gồm vốn chủ sở hữu,vốn huy động) mad doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng quản lí có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh. Sức mạnh tài chính thể hiện ở khả năng trả nợ ngắn hạn, dài hạn, các tỉ lệ về khả năng sinh lời của doanh nghiệp +Tiềm năng về con người : Thể hiện ở kiến thức, kinh nghiệm có khả năng đáp ứng cao yêu cầu của doanh nghiệp, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp trung thành luôn hướng về doanh nghiệp có khả năng chuyên môn hoá cao, lao động giỏi có khả năng đoàn kết, năng động biết tận dụng và khai thác các cơ hội kinh doanh +Tiềm lực vô hình : Là các yếu tố tạo nên thế lực của doanh nghiệp trên thị trường, tiềm lực vô hình thể hiện ở khả năng ảnh hưởng đến sự lựa chọn, chấp nhận và ra quyết định mua hàng của khách hàng.Trong mối quan hệ thương mại yếu tố tiềm lực vô hình đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác mua hàng, tạo nguồn cũng như khả năng cạnh tranh thu hút khách hàng, mở rộng thị trường kinh doanh Tiềm lực vô hình của doanh nghiệp có thể là hình ảnh uy tín của doanh nghiệp trên thị trường hay mức độ nổi tiếng cuả nhãn hiệu, hay khả năng giao tiếp và uy tín của người lãnh đạo trong các mối quan hệ xã hội + Vị trí địa lí , cơ sở vật chất của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp thu hút sự chú ý cuả khách hàng, thuận tiện cho cung cấp thu mua hay thực hiện các hoạt động dự trữ. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp thể hiện nguồn tài sản cố đinh mà doanh nghiệp huy động vào kinh doanh bao gồm văn phòng nhà xưởng, các thiết bị chuyên dùng Điều đó thể hiện thế manh của doanh nghiệp , quy mô kinh doanh cũng như lợi thế trong kinh doanh 25
- 3-Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại : Đối với doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức quản lí kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp, trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng mở rộng, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì đòi hỏi doanh nghiệp kinh doanh phải có hiệu quả .Hiệu quả kinh doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng và phát triển kinh tế, đối với doanh nghiệp hiệu quả kinh tế chính là lợi nhuận thu được trên cơ sở không ngừng mở rộng sản xuất, tăng uy tín và thế lực của doanh nghiệp trên thương trường Hiệu quả kinh doanh cuả doanh nghiệp thương mại là vấn đề phức tạp có quan hệ đến toàn bộ các yếu tố của quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh doanh khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả, khi dánh giá hiệu quả kinh doanh chúng ta có thể sử dụng các chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối để biết mức độ tăng giảm cuả hiệu quả kinh doanh. Ttrong kinh doanh lợi nhuận là chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả kinh doanh củadoanh nghiệp được xác định bằng cách lấy kết quả thu được trừ đi chi phí bỏ ra : Hiêụ quả kinh doanh = Kết quả thu đươc- chi phí bỏ ra Theo cách tính này mới chi phản ánh được mặt lượng của hiệu quả kinh doanh mà chưa xác đinh được các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh . Có thể sử dụng các chỉ tiêu chung đánh giá hiệu quả kinh doanh : Hiệu quả kinh doanh = Doanh thu /Chi phí Hoặc : Hiệu quả kinh doanh = Chi phí kinh doanh /Doanh thu . 26
- Chương II Lí luận về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại -Lịch sử hình thành và phát triển của trung tâm kinh doanh thương mại và dịch vụ mía đường 1 . 1-Lịch sử hình thành trung tâm: Trung tâm kinh doanh thương mạI và dịch vụ mía đường 1 là một đơn vị trực thuộc tổng công ty mía đường 1 Việt nam được thành lập và hoạt động theo : -Nghị quyết số 808 /HĐBTngày 20/11/1997 của hội đồng quản trị tổng công ty mía đường 1 -Theo quyết định số 561/1998/-MĐI/TCCB ngày 30 tháng năm 1998 của tổng công ty mía đường I . -Giấy phép đăng kí kinh doanh số :310437. -Trụ sở chính 5B –PHố MINH KHAI –QUậN HAI BATRƯNG –Hà NộI. -Cơ quan sáng lập :Tổng công ty mía đường I -Trung tâm mở tàI khoản riêng tạI ngân hàng công thương việt nam số 30110047. Quá trình hình thành và phát triển của trung tâm gắn liền với sự phát triển của tổng công ty mía đường I .Tiền thân của TCTMĐI là liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp mía đường I (phía bắc )và đổi thành tổng công ty mía đường I theo quyết định số 337 TCNN-PTNT ngày 29 tháng 12 năm 1995 của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn . Tổng công ty MĐI là một doanh nghiệp nhà nước quản lí theo mô hình tổng công ty mạnh, có hội đồng quản trị và bên dưới có các ban .Tổng công ty quản lí 12 đơn vị thành viên trong đó có 11 công ty là hạch toán độc lập,trực tiếp tổ chức sản xuất đường từ mía đường và các sản phẩm sau đường từ phế phẩm và có một 27
- trung tâm kinh doanh thương mạI là đơn vị hạch toán phụ thuộc trực thuộc Tổng công ty . Tổng công ty mía đường I được nhà nước giao nhiệm vụ quản lí liên nghành mía đường phía bắc. Được thành lập chính thức và hoạt động riêng từ năm 1995 nhưng Tổng công ty đã đạt được kết quả đáng kể và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần cùng Tổng công ty MĐII đạt được mục tiêu 1triệu tấn đường năm 2000 như nghị quyết đạI hội đảng VIII đã đề ra . Kết quả sản xuất ,tiêu thụ đường qua các năm từ 1999 đến 0năm 2000 28
- (Theo báo cáo 5 năm thực hiện chương trình mía đường ) 2
- Trong những năm gần đây tình hình sản xuất kinh doanh đường có nhiều biến độ, lượng cung đang vượt cầu, giá giảm, nhiều nhà máy làm ăn thua lỗ, lượng hàng tồn kho động lạI nhiều ,khả năng tổ chức tiêu thụ sản phẩm của các nhà máy bị đình trệ, nhiều khu vực nguyên liệu mía đường bị phá bỏ, đồng thời thực hiện chương trình mía đường của chính phủ tiến độ xây dựng và mở rộng các nhà máy tăng nhanh cả về quy mô sản xuất, vốn đầu tư, máy móc thiết bị,và chủng loạI sản phẩm .So với năm 1994 cả nước có diện tích mía đường là 350000 ha tăng 200000 ha,(134%) năng suất bình quân tăng là 50,8 t/ha tăng 21%, sản lượng mía cây tăng 183% và cho đến năm 2000 đã có 44 nhà máy đường hoạt động . Trong khi giá đường giảm mạnh năm 1998 đường trắng loạI 1 bán khoảng 5800đ/kg thì giữa năm 1999 xuống còn 3200 –3500 đ/kg (giảm 45%). Giá đường của thế giới khá thấp so với giá thành trong nước, mặc dù nhà nước có chính sách bảo hộ cho nghành đường nhưng hàng nhập lậu nhiều gây ảnh hưởng lớn cho các nhà máy sản xuất . Đứng trước tình hình đó cuối năm 1998 Tổng công ty mía đường I quyết định thành lập trung tâm kinh doanh thương mạI mía đường I nhằm thực hiện công tác hậu cần cung cấp vật tư thiết bị, máy móc cho các nhà máy, các đơn vị thành viên phục vụ cho đổi mới công nghệ ,phục vụ cho sản xuất nhằm hạ giá thành sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới và tham gia giúp đỡ các đơn vị tiêu thụ sản phẩm đường và sau đường . Trung tâm được thành lập trên cơ sở sát nhập phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và bộ phận kinh doanh dịch vụ .Tên tiếng anh là CTST-VINASUGAR . 2_Chức năng và nhiệm vụ của trung tâm : Trung tâm kinh doanh thương mại và dịch vụ mía đường 1 là một đơn vị kinh doanh vì vậy có đầy đủ chức năng và nhiệm vụ kinh doanh như một doanh nghiệp thương mạI . a-chức năng của trung tâm: -Tổ chức và quản lí hoạt động kinh doanh ,đây là một chức năng quan trọng của bất cứ một doanh nghiệp nào trong cơ chế thị trường hiện nay ,vì vậy để tồn tạI và phát triển các doanh nghiệp phảI không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức cho 28
- gọn nhẹ ,linh hoạt và cảI tiến cấc hoạt động nghiệp vụ nhằm thực hiện đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng -thực hiện khâu lưu chuyển hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng, thực hiện giá trị hàng hoá trong khâu lưu thông ,bảo đảm giảm chi phí ,đáp ứng yêu cầu của sản xuất ,kinh doanh ,tiêu dùng . Tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông ,hoàn thiện sản phẩm ,tổ chức thực hiện các nghiệp vụ phân loạI ,đóng gói phù hợp với nhu cầu tiêu dùng ,vận chuyển đến tận nơI theo yêu cầu của khách hàng . -GiảI quyết tốt mối quan hệ giữa trung tâm với các đơn vị thành viên ,với cơ quan cấp trên ,các cơ quan quản lí như : cục thuế ,ngân hàng ,đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ với các nhà máy sản xuất để tạo nguồn hàng, củng cố mối quan hệ với khách hàng ,tạo lập thêm nhiều mối quan hệ để mở rộng thị trường ,tạo bầu không khí thân thiện ,bình đẳng giữa cán bộ công nhân viên trong trung tâm Đây là những vấn đề mà bất kỳ một doanh nghiệp , một đơn vị kinh doanh nào muốn thành công thì cần phảI có sự quan tâm đúng mức nhằm tận dụng những cơ hội kinh doanh ,nắm bắt thông tin, tạo sự đoàn kết cùng thức hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp. -Tổ chức thực hiện kinh doanh vật tư ,máy móc ,trang thiết bị vật tư phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên ,các nhà máy sản xuất đường và các sản phẩm sau đường . -Kinh doanh các sản phẩm từ đường và sau đường của các đơn vị thuộc tổng công ty và của các nhà máy sản xuất đường nằm ngoàI sự quản lí của tổng công ty . -Kinh doanh bán buôn bán lẻ các loạI mặt hàng của nghành . -Tổ chức kinh doanh xuất nhập các mặt hàng và thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh . -Thực hiện các hoạt động dịch vụ như tư vấn kỹ thuật ,chuyển giao công nghệ, sửa chữa ,bảo dưỡng , dịch vụ tư vấn thiết kế ,lắp đặt các thiết bị trong nghành . b-Nhiệm vụ và quyền hạn của trung tâm : 29
- -Tổ chức để thực hiện các phương án kinh doanh thương mạI ,dịch vụ ,tổ chức kí kết và thực hiện các hợp đồng trong và ngoàI nước theo sự phân cấp và uỷ quyền của tổng công ty . -Thực hiện nhiệm vụ bảo đảm công tác hậu cần cho sản xuất và tiêu dùng cho các nhà máy sản xuất như máy móc ,vật liệu ,hương liệu ,đồng thời tổ chức lưu thông chuyển đưa hàng hoá (các sản phẩm đường và sau đường )phục vụ cho nhu cầu của đời sống xã hội một cách tốt nhất . -Tổ chức sắp xếp phân công ,sử dụng hợp lí cán bộ công nhân viên của trung tâm, thực hiện nghiêm túc kỷ luật lao động ,các chế độ chính sách có liên quan đến người lao động để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh . -Tự hạch toán kết quả hoạt động kinh doanh thực hiện theo nguyên tắc lấy thu bù chi , đảm bảo cá lãI .Thực hiện pháp lệnh về kế toán thông kê ,các quy chế tàI chính đã được tổng công ty phê duyệt . -Thực hiện đầy đủ các các quy định quản lí kỹ thuật ,bảo đảm chất lượng hàng hoá ,an toàn lao động ,đạt hiệu quả kinh doanh . Xây dựng cơ cấu tổ chức kinh doanh thích hợp ,trình tổng công ty phê duyệt, nghiên cứu quy chế quản lí nội bộ của trung tâm theo phân cấp . -Tổ chức cung ứng các yếu tố đầu vào ,thực hiện kinh doanh trong và ngoàI nước thông qua các hợp đồng ,đạI lí tiêu thụ ,hợp đồng xuất nhập khẩu . Đối với hoạt động tàI chính trung trung tâm phảI thực hiện : -Tự trang trảI hạch toán về chi phí . -tự lo lương và các chế độ bảo hiểm khác đối với người lao động . -Tự trang trảI các chi phí khác cho hoạt động kinh doanh . Trung tâm phảI tuân thủ các quy định của nhà nước : -Trung tâm phảI cư người có trình độ về kế toán tàI chính để mở sổ sách việc hạch toán đúng đủ theo pháp lệnh tàI chính kế toán thống kê ,có thủ quỹ theo dõi . -Hàng tháng trung tâm phảI quyết kết quả kinh doanh ,trích nộp các khoản nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách nhà nước và tổng công ty . - Các chứng từ ,hoá đơn mua và bán thực hiện theo đúng hướng dẫn của bộ tàI chính thi hành ngày 1/8/1998. 30
- -Hàng quý ,hàng năm ,phảI lập các báo cáo tàI chính theo quy định của nhà nước -Huy động vốn đầu tư từ các nguồn khác theo quy định của pháp luật để đáp ứng yêu cầu kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và có hiệu quả . 3-Chế độ tài chính : Trung tâm kinh doanh thương mại và dịch vụ mía đường 1 là đơn vị hạch toán phụ thuộc có quyền và nghĩa vụ dân sự ,được chủ động và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình ,được sử dụng con dấu và tàI khoản riêng tạI ngân hàng theo quy định của pháp luật . Trung tâm hoạt động theo phương thức tự cân đối ,tự trang trãI chi phí được tổng công ty hỗ trợ vốn cấp ban đầu để phục vụ cho mục đích kinh doanh và phảI có trách nhiệm phát triển vốn được giao từ kết quả hoạt động kinh doanh của mình . Trung tâm xây dựng kế hoạch tàI chính trên cơ sở xây dưng phương án kinh doanh năm , quý ,có nhiệm vụ bảo vệ kế hoạch kinh doanh trước tổng công ty .Các hợp đồng kinh tế lớn cũng phảI xây dựng các phương án tàI chính để có kế hoạch vốn và thực hiện huy động vốn đảm bảo cho kế hoạch kinh doanh . Trung tâm phảI báo sổ về tổng công ty ,hạch toán đến kết quả cuối cùng,hàng tháng thực hiện hạch toán trên cơ sơ các chứng từ gốc và lập hệ thống sổ sách kế toán ,lên bảng cân đối phát sinh hàng tháng ,các báo cáo tàI chính theo quy định gửi về phòng tàI vụ . Hạch toán của trung tâm bao gồm : +doanh thu là toàn bộ các khoản doanh thu từ hoạt động kinh doanh thương mạI dịch vụ và các khoản khác như tiền thanh lí tàI sản ,từ hoạt động tàI chính +Chi phí ;bao gồm giá vốn ,lương ,bảo hiểm ,chi phí giao dịch và các khoản khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh của trung tâm . +Nộp các khoản cho ngân sách nhà nước và cho tổng công ty . 4-Cơ cấu tổ chức bộ máy của trung tâm : 31
- Trung tâm kinh doanh thương mại và dịch vụ mía đường 1 là một đơn vị tiêu biểu cho loạI hình doanh nghiệp nhỏ với bộ máy tổ chức gọn nhẹ ,phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ đề ra tạo lập năng lực và chất lượng hoạt động thúc dẩy kinh donh phát triển ,tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế Trung tâm mới được thành lập vì vậy mô hình tổ chức còn đơn giản.Bộ máy hoạt động của trung tâm được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng ,đây là mô hình mà giám dốc của trung tâm được sự giúp sức của các bộ phận tham mưu ,các lãnh đạo chức năng để dưa ra các quyết định,tuy nhiên giám đốc trung tâm vẫn phảI chịu trách nhiệm về mọi hoạt động và toàn quyền quyết định trong phạm vi trung tâm và lệnh vẫn được truyền theo trực tuyến Bộ máy quản lí của trung tâm Giám đốc trung tâm phó giám đốc bộ phận bộ phận bộ phận mạng lưới cửa hàng kinh tàI chính hành kho bán lẻ doanh chính 32
- Bộ máy trung tâm gồm 1 giám đốc ,hai phó giám đốc ,bao gồm các bộ phận chức năng :bộ phận kinh doanh ,bộ phận tàI chính ,bộ phận hành chính ,mạng lưới kho và các cửa hàng bán lẻ . Chức năng của các phòng ban : 1) Giám đốc trung tâm do tổng giám đốc bổ nhiệm ,miễn nhiệm ,khen thưởng và kỷ luật sau khi đã thông qua hội đồng quản trị tổng công ty .Giám đốc trung tâm có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch dàI hạn ,ngắn hạn ,kế hoạch khách hàng ,các phương án kinh doanh xuất nhâp khẩu ,kinh doanh dịch vụ,khai thác tốt các nguồn được giao ,các hợp đồng kinh tế với các đơn vị theo sự phân công phê duyệt của tổng công ty và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ,tổng hợp có hiệu quả các phương án kinh doanh ,các kế hoạch đã được tổng công ty phê duyệt . Giám đốc trung tâm có nhiệm vụ xây dựng biên chế lao động và được phép sắp xếp đIều hành quản lí mọi hoat động của trung tâm trên cơ sở pháp luật ,quy chế đIều hành của nhà nước và đIều lệ hoạt động của trung tâm cùng với sự chỉ đạo hoạt động cụ thể của tổng giám đốc. 2)-Phó giám đốc trung tâm giúp việc cho giám đốc ,đượch giám đốc phân công phụ trách một số lĩnh vực công tác ,chịu trách nhiệm trước giám đốc trung tâm và chịu trách nhiệm trước tổng công ty và pháp luật về lĩnh vực được giao . Phó giám đốc do tổng giám đốc tổng công ty bổ nhiệm , miễn nhiệm và khen thưởng . 3)-Phòng kinh doanh có nhiệm vụ lập các kế hoạch ,thực hiện và quản lí các kế hoạch kinh doanh tham mưu cho giám đốc trong việc tổ chức kí kết các hợp đồng kinh tế ,tổ chức thực hiện các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu trang thiết bị nguyên vật liệu ,uỷ thác cho các đơn vị thành viên thuộc tổng công ty ,phục cho các nhu cầu của các đơn vị khác ,tổ chức nghiên cứu thị trường trong và ngoàI nước tìm thị trường kinh doanh các sản phhẩm mà trung tâm kinh doanh . Tổ chức nghiên cứu thị trường ,nắm bắt nhu cầu dể xây dựng kế hoạch kinh doanh ,lựa chọn phương thức kinh doanh phù hợp cho từng thị trường ,lựa chọn tìm kiếm nguồn hàng ,phục vụ cho hoạt động kinh doanh ,xây dựng mối quan hệ 33
- với khách hàng ,giữ chữ tín ,giảI quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh ,quản lí vốn tàI sản ,tham gia lập và quản lí kế hoạch nguồn thu ,tổng hợp báo cáo theo định kỳ . 4)-Bộ phận tàI chính kế toán: Thực hiện các chức năng về chế độ tàI chính ,kế toán do nhà nước và các cơ quan có chức năng quy định .Xử lí các nghiệp vụ kế toán trong quá trình kinh doanh, quản lí vốn ,tham gia xác định giá ,quản lí các nguồn thu thuộc phòng kinh doanh và cửa hàng Phản ánh tình hình sử dụng tàI sản và nguồn vốn ,lập ngân sách và xác định nhu cầu vốn kinh doanh của trung tâm ,cũng như xây dựng các kế hoạch sử dụng vốn và huy động vốn cho hoạt động kinh doanh .Tổng hợp quyết toán trình giám đốc trung tâm và tổng công ty xét duyệt . 5) Bộ phận tổ chức hành chính : Bộ phận hành chính có nhiệm vụ quản lí và tổ chức những nhiệm vụ quản trị của trung tâm như xây dựng mô hình tổ chức ,xây dựng các kế hoạch về lao động ,chế độ lương thưởng .Tham mưu cho giám đốc trong việc xét bậc lương thưởng cho cán bộ công nhân viên của trung tâm ,sắp xếp bố trí lao động ,giảI quyết các chế độ chính sách cho người lao động .Soạn thảo các công văn ,quyết định ,quy định của trung tâm ,quản lí hành chính ,văn thư lưu trữ ,đảm bảo cơ sở vật chất chohoạt động kinh doanh của trung tâm . 6) Cửa hàng kinh doanh : Cửa hàng có chức năng giới thệu sản phẩm ,bán buôn ,bán lẻ các loạI hàng hoá của trung tâm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng thông qua đó nắm bắt thi hiếu,tháI độ ,nhu cầu ,mức người tiêu dùng .Mạng lưới cửa hàng kinh doanh của trung tâm còn nhỏ chỉ tập trung một số cửa hàng ở khu vực Hà Nội . 7) bộ phận kho : -Thực hiện chức năng tiếp nhận hàng vào kho.-tỏ chức bảo quản hàng hoá trong kho đảm bảo chất lượng giảm chi phí ,hao hụt , mất mát ,hư hỏng hàng hoá .-tổ chức dự trữ hàng hoá để duy trì hoạt động kinh doanh đáp ứng yêu cầu của khách hàng một cách kip thời ,đồng bộ . -Tổ chức xuất kho hàng hoá cho các cửa hàng và khách hàng . 34
- 5-Mối quan hệ của trung tâm với các đơn vị khác : Mặc dù mới thành lập nhưng trung tâm có mối quan hệ khá rộng ,đó là một đIêù kiện để tồn tạI và phát triển trong cơ chế thi trường .Trung tâm không chỉ duy trì mối quan hệ với các đơn vị thành viên mà còn mở rrộng quan hệ với các công ty ngoàI hệ thống để tìm nguồn hàng đáp ứng nhu cầu trên thị trường,đồng thời mở rộng quan hệ với các nước như trung quốc,pháp để nhập khẩu các máy móc thiết bị ,công nghệ mới trên cơ sở các hợp đồng kinh tế với tinh thần hợp tác và hiệu quả . Trung tâm chịu sự kiểm tra hướng dẫn chuyên môn ,các quy định và thực hiện các nghĩa vụ nộp ngân sách bao gồm : các loạI thuế :thuế doanh thu,thuế VAT,thuế xuất nhập khẩu . -Các loạI bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế . năm Đơn vị thuế doanh thu Nộp ngân sách TCT 1999 đồng 0 35442000 2000 đồng 38000000 109953000 dự đồng kiến 2001 Đối với tổng công ty trung tâm phảI thực hiện các nghĩa vụ sau: -Các hợp đồng uỷ thác ,hợp đồng đạI lí ,hợp đồng tư vấn ,nếu tổng công ty ký thì tổng công ty thu lạI 40% trên phí uỷ thác hoặc hoa hồng đạI lí ,tư vấn,nếu trung tâm kí thì tổng công ty thu 30% . -Các hợp đồng mua đứt bán đoạn : +Nếu trung tâm trực tiếp ký ,hoặc tự khai thác thì tổng công ty thu 1.5% trên doanh số bán ra . 35
- +Nếu tổng công ty ký thì mức thu sẽ do tổng giám đốc quyết định cụ thể +Thời gian nộp thì că cứ theo tiến độ nguồn thu thực hiện được trong hợp đồng,trung tâm sẽ nộp về tổng công ty tương ứng với tỷ lệ thu được sau 5 ngày tiền thu về ,số còn lạI sẽ nộp sau khi thanh quyết toán hợp đồng sau 10 ngày . +Lợi nhuận thực tế hàng tháng được quyết toán báo sổ về tổng công ty trong các báo cáo tàI hính ,sáu tháng nộp một lần vào ngày 15 tháng sau ,kết thúc năm tàI chính số lợi nhuận thực tế được quyết toán ,báo nộp về tổng công ty để thực hiện tổng hợp và phân phối . II-Đặc diểm hoạt động kinh doanh của trung tâm : Trung tâm kinh doanh thương mại và dịch vụ mía đường 1 có các đặc đIểm nổi bật như sau : -Thành lập trong bối cảnh chưa đủ các đIều kiện cơ bản về vốn ,cơ sở vật chất ,kỹ thuật ,trình độ quản lí . -Quy mô kinh doanh của trung tâm còn nhỏ . -Trung tâm gặp nhiều khó khăn do bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế chung của thế giới ,của đất nước cũng như tình hình chung của nghành có nhiều biến động 1-Đặc đIểm mặt hàng kinh doanh : Mặt hàng kinh doanh của trung tâm khá phong phú bao gồm :-các loạI đường :đường thô , đường uyện ,đường trắng -Các sản phẩm sau đường : +Các sản phẩm bánh kẹo +Các sản phẩm rượu bia ,cồn ,nước giảI khát +thực phẩm ,thức ăn gia súc ,men thực phẩm ,ván dăm. +Máy móc thiết bị ,vât tư , hương liệu +Sản phẩm mật rỉ . +Phân vi sinh . Tuy nhiên do phạm vi hoạt động của trung tâm còn hẹp cho nên doanh thu từ các hàng hoá kinh doanh còn nhỏ ,phần lớn doanh thu tập trung vào một số hàng hoá như đường ,mật rỉ ,và từ một số máy móc ,nguyên liệu nhập khẩu 36
- 2-Thị trường kinh doanh của trung tâm : -Thị trường đầu vào: Thực hiện nhiệm vụ được giao đó là tổ chức hỗ trợ các đơn vị thành viên tiêu thụ sản phẩm vì vậy người cung ứng lớn nhất của trung tâm đó là : + Nhà máy đường lam sơn +Nhà máy đường việt trì +Nhà máy đường sơn dương +Nhà máy đường hoà bình +Nhà máy đường nông cống +Nhà máy đường linh cảm +Nhà máy đường sơn la +Nhà máy đường tuyên quang -Thị trường đầu ra: Thị trường kinh doanh của trung tâm còn hẹp phần lớn chỉ tập trung ở cá nhà máy sản xuất như bánh kẹo hảI châu ,một số nhà máy chế biến thực phẩm -Hiện nay nghành mía đường đang khủng khoảng trong việc tìm lối ra cho xuất khẩu tuy nhiên năm 2000 trung tâm đã đặt mục tiêu xuất khẩu đường kính trị giá 135000USD và xuất khẩu mật rỉ 307000USD đã có rất nhiều cố gắng trong việc tìm thị trường nhưng do giá đường trong nước quá cao cho nên trung tâm vẫn chưa thực hiện được mục tiêu xuất khẩu đường nhưng đã xuất khẩu được 155000 USD mật rỉ cho trung quốc . -Thị trường nhập khẩu :Thị trường nhập khẩu của trung tâm phần lớn tập trung vào thị trường trung quốc ,nga ,HàN QUốC 3-Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của trung tâm : 1)-Các nhân tố chủ quan : Tình hình kinh tế chính trị có nhiều diễn biến trên thi trường thế giới ,ở Việt Nam nói chung và nghành mía đường nói riêng đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của trung tâm . 37
- +yếu tố kinh tế : Nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh trong năm 1998,năm 1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế châu á tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam bị giảm sút trong hai năm nay . 38
- Tốc độ tăng Thu nhập bình quân đầu Năm trưởng người 1996 9.3 2720.4 1997 8.2 2932.7 1998 5.8 1999 6.7 2000 7.5 Thu nhập tăng nhu cầu tiêu dùng tăng đó là điều tất yếu và không loại trừ nghành mía đường ,xét trên xu hướng tiêu dùng của dân cư thì nhu cầu về tiêu dùng đường có thay đổi cả về số lượng và chất lượng ,nhu cầu về đường trắng tăng trong khinh cầu về đường thô giảm . Tiềm năng mía đường của Việt nam lớn hiện có 44 nhà máy sản xuất đường với công suất là 78200 TMN ,đã hoàn thành mục tiêu 1 triệu tấn đường năm 2000 của chính phủ ,giá thành sản xuất của nghành đường vụ 1999-2000đã giảm 20 % so với vụ 1998 ,1999 đó là kết quả của hoạt động tăng cường đầu tư máy móc thiết bị ,công tác quản lí nên tiết kệm được lựơng tiêu hao nguyên vật liệu và lao động giảm chi phí quản lí . Cơ cấu sản phẩm thay đổi tỉ lệ đường trắng là 474000 tấn chiếm 46.7 %,đường luyện 290000 tấn chiếm 28.6 % và đường thủ công 250000 tấn chiếm 24.7 % . Chất lượng sản phẩm được nâng cao đáp ứng được nhu cầu cho tiêu dùng,cho sản xuất công nghiệp ,chế biến thực phẩm ,đạt tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế vì vậy đủ khả năng cạnh tranh với thi trường đường trên thế giới . 39
- +Quan hệ kinh tế : Vói xu hướng toàn cầu hoá khu vực hoá ,kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới ,thông qua việc gia nhập khốI ASEAN và AFTA ,WTO điều này mang đến những thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của trung tâm nhưng cũng không ít những khó khăn ,thách thức . +Yếu tố chính trị : Thấy được tiềm lực của nghành mía đường Việt Nam ,chương trình mía đường đã được đưa vào vào nghị quyết đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII với mục tiêu đạt 1 triệu tấn đương năm 2000 đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và thay thế nhập khẩu vì vậy nhà nước đã thường xuyên đặt ra các chính sách thích hợp để hỗ trợ giải quyết các vấn đề khó khăn cho nghành . +Ngân sách nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi đối với chương trình trồng mía ,những hộ trồng mía ngân hàng cho 1 hộ vay đến 10 triệu đồng mà không phải thế chấp ,các địa phương và nhà máy sản xuất đương thì có chính sách trợ giá ,miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp ,để giải quyết các khó khăn cho các cơ sở chế biến thủ tướng chính phủ có các quyết định 144/1999/QĐ -TTg và chỉ thị 27/1999/CT-TTgngày 29 tháng 9 năm 1999 quyết định sôa 65/2000/QĐ -TTg và công văn 562/CP–NN ngày 7 tháng 6 năm 2000 cho giảm lãi suất ,tăng thời hạn cho vay ,bù chênh lệch tỉ giá, cho vay ưu đãi trả nợ, giảm thuế năm 1999, 2000 cấp vốn cho các nhà máy dự trữ +Riêng vụ 1999-2000 ngân hàng đã cho vay trồng mía nguyên liệu là 568 tỉ đồng cho các nhà máy vay 395 tỉ vốn lưu động . +Để bảo trợ cho nghành đường trong nước nhà nước đang áp dụng mức thuế nhập khẩu đường là 35 % tuy nhiên việc kiểm soát hàng nhập khẩu còn kém cho nên hàng nhập lậu đang cạnh tranh quyết liệt với hàng sản xuất trong nước . -Yếu tố xã hội : Do đường là nguyên liệu đầu vào của rất nhiều nghành sản xuất công nghiệp như công nghiệp chế biến thực phẩm, dược phẩm y tế ,công nghiệp chế biến bánh kẹo, rượu cồn, bánh kẹo, nước giải khát, chất dẻo, cao su ,cho nên sản xuất đường 40
- ảnh hưởng rất lớn đến ngành này đồng thời các nghành công nghiệp cũng tác động ngưọc trở lại đối với sản xuất kinh doanh mía đường,nó là cơ soqử cho nghành mía đường mở rộng sản xuất . +Mặc dù là sản phẩm đường là sản phẩm thiết yếu nhưng các sản phẩm sau đường lại mang tính của hàng hoá xa xỉ ,nó phụ thuộc vào thu nhập của người tiêu dùng ,phụ thuộc vào tính mùa vụ như ngày lễ tết . +Yếu tố công nghệ : công nghiệp phát triển nó ảnh hưởng đến mọi luĩnh vực của đời sống xã hội,trong công nghiệp làm tăng năng suất lao động ,giảm hao hụt ,tận dụng được phụ phẩm giúp hạ giá thành sản phẩm . -Người cung cấp : +Hoạt động kinh doanh của trung tâm nhằm thực hiện nhiệm vụ được giao trợ giúp các đơn vị thành viên tiêu thụ sản phẩm vì vậy phần lớn người cung cấp là 11 đơn vị thành viên của tổng công ty tuy nhiên để đáp ứng hoạt động kinh doanh của mình trung tâm còn mở rộng quan hệ với các đơn vị khác ngoài hệ thống như các công ty liên doanh ,các công ty có vốn đầu tư nước ngoài -Đối thủ cạnh tranh : Đối thủ cạnh tranh của trung tâm đó là các doanh nghiệp kinh doanh đường mía như các nhà máy thuộc tổng công ty mía đường II ,các công ty liên doanh , hàng nhập lậu 2)- Các yếu tố chủ quan : Tiềm lực của trung tâm :Là một doanh nghiệp mới thành lập trung tâm còn khá nhiều khó khăn đặc biệt là nguồn vốn cho kinh doanh ,cơ sở vật chất còn nghèo nàn ,tuy nhiên trung tâm có một dội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ kinh nghiệm ,100% là tốt nghiệp đại học các trường thuộc khối nghành kinh tế ,có năng lực nhiệt tình trong công việc . Từ môi trường kinh doanh như vậy có thể thấy được những cơ hội và thách thức đối với trung tâm : *Các cơ hội : -nhu cầu tiêu dùng đường ngày càng cao ,cả tiêu dùng trong sản xuất và trong đời sống xã hội . 41
- -Sự quan tâm giúp đỡ ,trợ giúp của chính phủ đối với nghành đường mía tạo thuận lợi đó là cản trở được cạnh tranh của hàng nhập khẩu ,trung tâm có cơ hội vay vốn từ ngân hàng nhà nước với lãi suất thấp ,thời hạn dài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của trung tâm. -Nghành nía đường ngày càng phát triển với quy mô lớn ,chất lượng được nâng cao ,sản phẩm sau đường đa dạng và phong phú ,dễ dàng trong công tác tạo nguồn và mua hàng của trung tâm đáp ứng đúng ,đủ ,nhu cầu của khách . *Thách thức : - Với sự chênh lệch quá lớn giữa giá đường trong nước và thế giới thì sự có mặt của đường nhập lậu là sức ép đối với nghành mía đường và ảnh hưởng đến trung tâm trong việc mở rộng thị trường kinh doanh của mình . Hoạt động của trung tâm chịu ảnh hưởng của thu nhập ,người cung ứng ,tính thời vụ trong sản xuất . -Nguồn vốn kinh doanh hạn chế phải vay ngân hàng ,hàng tháng trả lãi lớn . 4- Tình hình sản xuất kinh doanh của nghành mía đường : Trên thế giới hiện nay có khoảng 97 nước sản xuất đường trongđó có 34 nước tham gia xuất khẩu . Khu vực châu á chiếm 28% tổng sản lượng đường của thế giới ,trong đó những nước có sản lượng lớn nhất là ÂN Độ ,Trung Quốc ,Thái lan ,và Indonexia (Theo biểu sau ) Thị trường trong 4 năm qua từ 97 –2000 có nhiều biến động ,đặc biệt giá đường liên tục giảm nhưng tồn kho vẫn tăng nhanh ,theo tổ chức thế giới lượng tồn kho hàng năm cao ( Theo biểu sau ) Lượng đường tồn kho lớn buộc các nhà sản xuất đẩy mạnh bán ra làm giá đường giảm mạnh ,năm 1998 giá đường trắng bình quân là 262-262. 7 USD /tấn đường thô 198-200 USD/tấn ,cho đến năm 1999 giá đường trắng là . . . . theo các tổ chức thế giới đây là giá thấp nhất trong 13 năm qua nhưng đến cuói năm 2000 thị trươngf đường trên thế giới nhộn nhịp hơn ,sản lượng đường sản xuất giảm mạnh ở những nước xuất khẩu lớn và nhu cầu nhập khẩu ở một số nước như Nga ,Trung Đông đã ;làm tăng giá đường trở lại . Theo dự đoán của ISO sản lượng đường thế giới vụ 2000-2001 khoảng 131,1 triệu tấn giảm 3. 6 % so với vụ trước 42
- trong khi nhu cầu dư đoán 133,1 triệu tấn tăng 1% so với vụ trước đây là lần đầu tiên trong 4 vụ gần đây có nhu cầu lớn hơn sản lượng sản xuất đây là yếu tố quan trọng để nâng đỡ giá đường trong năm 2001 . Nhìn chung giá đường tại thị trường thế giới trong những tháng gần đây so vớid 6 tháng đầu năm 2000 ,giá đường thế giới tăng và dao động từ 230 đến 250 USD /tấn tăng từ 35 –50 USD ,gias đường thế giới đến nay vẫn chưa ổn định còn diễn biến phức tạp có ảnh hưởng nhiều đến giá đương trong nước . Tình hình sản xuất kinh doanh nghành mía đường trong nước : Cùng với việc mở rộng sản xuát ,tăng cường đầu tư nghành mía đường nước ta đã đạt được những kết quả đáng kể ,từ sản lương 300000 tấn năm 1999 đến nay đã đạt sản lượng trên 1 triệu tấn đưa nước ta đứng vị trí thứ 21 trên thị trường thế giới của những nước có sản lượng đường đạt 1 triệu tấn trở lên ,sở dĩ đạt đuợc kết quả này là do sự quan tâm và nổ lực tăng cường đầu tư của nhà nươc . Năm 2000 diện tích trong cả nước là 350000 ha tanưg 134% so với mức 150000 ha ,năng suất tăng là 50,8 tấn /ha tăng 21% ,sản lượng đường tăng từ 300000 tấn lên đến 1014000 tấn ,các nhà máy cũng được đầu tư xây dựng và mở rộng tăng từ 12 với tổng công suất 10300 TMN cho đến đầu năm 2001 đã có 44 nhà máy sản xuất với công suất 78200 TMN tăng gần gấp 8 lần . Sản lượng sản xuất đường một số vụ từ 1994-2000. Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Số lượng 300000 320117 382100 437400 552000 756700 1014000 Sản lượng trong nước tăng cung đã đáp ứng đủ cầu ,thậm chí dư ,chúng ta không phải nhập khẩu nữa ,trước đây hàng năm lượng đương nhập khẩu tương đối lớn ,theo bảng sau: Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Lượng 175,5 20 72 125 12,5 0 NK(Tấn ) 43
- Tổng vốn đầu tư xây dựng nhà máy và mua thiết bị đạt 9505,5 tỷ đồng trong đó vốn đầu tư nước ngoài là 470 triệu USD chiếm 67% ,riêng vốn mua thiết bị Trung Quốc là 76,5 triệu USD chiếm 11% nguồn ADB chiếm 15-20 % ,nguồn còn lại là tín dụng trong nước ,công nghệ được trang bị cho nghành mía đường được nâng cấp ,các nhà máy có công nghệ hiện đại chiếm 67% ,Phần lớn là công nghệ của Anh ,Pháp ,úc ,ấn Độ . . . ,các nhà máy có công nghệ thiết bị trung bình tiên tiến chiếm 33% ,tỷ trọng đường sản xuất thủ công giảm trong khi tỉ trong đường sản xuất công nghiệp tăng chúng ta có thể quan sát qua bảng sau : Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Sảnlượng 110117 182100 213400 322000 556700 764000 CN Sản lượng 210000 200000 260000 230000 200000 250000 TC Cơ cấu sản phẩm thay đổi với tổng số 1014000 tấn sản xuất năm 2000 trong đó có 474 000 chiếm 46,7% ,đường luyện 290000 tấn chiếm 28,6 % và đường thủ công 250000 tấn chiếm 24,7% . Chất lượng sản phẩm được nâng cao đảm bảo cung cấp đầy đủ các phẩm cấp theo yêu cầu chế biến CN ,tiêu dùng và xuất khẩu ,đạt tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế . Hiện nay các nhà máy đã phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm ,lợi dụng từ sản xuất đường hình thành các tổng hợp công nông nghiệp ,hầu hết các nhà máy đều đã tận bã bùn ,sản xuất phân vi sinh ,đã có 10 nhà máy đường đã tận dụng phế liệu ,phụ phẩm nghành đường sản xuất cácmặt hàng bánh ,kẹo ,cồn bia ,rượu , ván dăm ,thức ăn gia súc ,men thực phẩm ,nấm. . . Tuy nhiên giá thành sản xuất của nghành mía đường còn cao so vói giá bán trên thị trường thế giới nhưng trong thời gian qua các nhà máy đều được đầu tư nâng cấp đã nâng công suất hoạt động ,giảm nguyên vật liệu ,chi phí quản lí .,giá bình quân gảim 20% so với vụ 1997-1998 ,giá từ 5300Đ/kg xuống còn 4100Đ/kg . 44
- Tiêu thụ đường gặp nhiều khó khăn ,trong năm 1999, 2000 hàng tồn kho lớn ,vốn luân chuyển chậm ,giá bán thấp hơn giá thành ,nguồn vốn chủ yếu là cho vay vì vậy các doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn không trả được nợ ,sự phối hợp giữa các nhà sản xuất thiếu chặt chẽ dãn đến sự cạnh tranh lẫn nhau làm giảm giá bán gây thiệt hại lớn,trong khi mạng lưới bán lẻ yếu kém ,hệ thống thương mại của nhà nước ít tham gia vào thi trường đường ,các nhà máy chưa có kế hoạch nghiên cứu thị trường ,chưa chú trọng nhạy bén trong khâu tiếp thị ,quảng cáo và các phương thức mua bán . Tình hình kinh doanh đường ăn trong nước một thời gian khá dài phát triển đều đặn cung không đủ đáp ứng đủ cầu ,tiêu dùng hàng năm phải nhập khẩu một lượng đường lớn ,năm 2000 lượng đường trong nước đã vượt khả năng tiêu dùng ,giá đường trong nước lại cao hơn giá đường thế giới (theo bảng sau ) cho nên lượng đường nhập lậu gây nên tình trạng ứ đọng nhiều đường sản xuất ra không tiêu thụ được . Một trong những nguyên nhân chính làm đường ăn ứ đọng ,đường trong nước không cạnh tranh được với đường nhập lậu đó là gía . Theo các chuyên gia giá thành sản xuất của ta còn khá cao so với các nước khác từ 1. 5 đến 2 lần . Năm Đơn vị Giá thành Giá bán của VN trên thế giới 1997 USD/tấn 450-500 315 1998 USD/tấn 458 238 1999 USD/tấn 382. 1 230 2000 USD/tấn Hiện nay giá đường trên thị trường đã nhích lên ,dự đoán giá thành chế biến là 3300-3700 đ/kg và giá bán tại các nhà máy là 3900-4100đ/kg đường RS và 4200- 4500 đ./kg đường RE . Hầu hết các nhà máy đường năm 2000 đẩymạnh bán ra thì năm 2001 lại bán một cách cầm chừng một mặt do đã được cấp vốn lưu động ,mặt khác tâm lí ém hàng chờ bán gí cao hơn ngược lại các cơ sở sản xuất bánh kẹo 45
- ,nước giải khát tích cực mua trữ đường ,sơ bộ cho thấy lượng đường mua vào của các doanh nghiệp này đã tăng 45% so với cùng kỳ năm trước . Tình trạng lậu đường vào năm hầu như không còn thì hiện nay tại các tỉnh miền tây nam bộ đã xuất hiện đường Thái Lan ,Campuchia nhập lậu mức giá 85-95 % đường Việt Nam tuy nhiên lượng nhập lậu không nhiều . II. Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh ở trung tâm: 1. Hoạt động nghiên cứu thị trường: Thành lập cuối năm 1998 và chính thức hoạt động vào năm 1999, trong công tác nghiên cứu thị trường, trung tâm đã có sự quan tâm thực hiện và đã tổ chức triển khai nghiên cứu thị trường trên một số phương diện về khách hàng, nguồn hàng và đối thủ cạnh tranh. Hoạt động nghiên cứu thị trường tuy không trực tiếp tạo ra lợi nhuận cho trung tâm song kết quả của nó lại phục vụ cho việc ra các quyết định đúng đắn, tận dụng được các cơ hội và thời cơ hấp dẫn trong kinh doanh. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này ban lãnh đạo trung tâm đã không ngừng chỉ đạo nắm bắt thông tin tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, khả năng của các nguồn cung ứng cũng như tìm hiểu về sức mạnh của đối thủ cạnh tranh. Hoạt động nghiên cứu thị trường có sự tham gia của toàn thể ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên ở trung tâm khai thác thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, tạp chí, đài truyền hình, qua các trung tâm thông tin thương mại, qua các mối quan hệ quen biết. Ngoài các nguồn tin đó trung tâm còn sử dụng các tài liệu ngay trong nội bộ đó là các hợp đồng đã kí, báo cáo về tình hình kinh doanh của trung tâm, báo cáo về kết quả sản xuất kinh doanh của các nhà máy trong và ngoài tổng công ty mía đường I, thông qua các cuộc họp, hội nghị Trung tâm cũng đã tổ chức cho cán bộ nhân viên của mình đi khảo sát thực tế tại các nguồn hàng đi khảo sát thực tế tại các nguồn hàng, các đơn vị khách hàng, đối thủ cạnh tranh để tìm kiếm thông tin về khả năng sản xuất, thời gian, giá cả, chất lượng của các nhà máy sản xuất đường, nhu cầu cho tiêu dùng ở các nhà máy sử dụng đường làm nguyên liệu 46
- Ngoài ra còn thu thập thông tin qua các mối quan hệ hợp tác, qua đàm phán, giao dịch, với đối tác, bạn hàng, các đại lý, nhà buôn Hoạt động nghiên cứu thị trường ở trung tâm chủ yếu do cán bộ thuộc phòng kinh doanh đảm nhận và chịu trách nhiệm xử lí chọn lọc thông tin sau đó gửi cho ban lãnh đạo làm cơ sở ra quyết định. Bên cạnh những điều đã làm được hoạt động nghiên cứu thị trường ở trung tâm cũng còn nhiều bất cập, đây không chỉ là vấn đề riêng của trung tâm mà là vấn đề tồn tại ở hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam hiện nay đó là: Trung tâm chưa có sự chú ý đúng mức tới hoạt động nghiên cứu thị trường, mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu khái quát, chưa cụ thể chỉ nắm được thông tin mang tính chung chung mà chưa có thông tin chi tiết, cụ thể về khách hàng (như: thứ bậc của nhu cầu, thu nhập của người dân có ảnh hưởng như thế nào, khả năng thay thế và chuyển đổi nhu cầu đối với hàng hoá trung tâm kinh doanh) về nguồn hàng, về đối thủ, không xác định được tỉ trọng thị trường mà mình đạt được. Trung tâm chưa có bộ phận chuyên trách trong công tác nghiên cứu thị trường mà chủ yếu là do cán bộ phòng kinh doanh phụ trách, nguồn khai thác phần lớn là nguồn thứ cấp do đó thông tin thiếu tính chính xác, không kịp thời, để lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, dẫn đến tình trạng có thời điểm hàng bị tồn đọng không bán được, nhưng cũng có thời điểm hàng không đáp ứng đủ nhu cầu. Chi phí bỏ ra để nghiên cứu thị trường chưa được đưa thành khoản mục cụ thể trong chi phí hoạt động kinh doanh còn nằm trong chi phí quản lí doanh nghiệp ,đó là các chi phí cho giao dịch với khách hàng,chi phí công tác . Đội ngũ cán bộ của trung tâm trình độ cao 100% là đại học, nhiệt tình năng động, am hiểu về thị trường ngành hàng kinh doanh, bên cạnh những cán bộ nhân viên nhiều năm kinh nghiệm là đội ngũ nhân viên trẻ năng động linh hoạt trước những biến động của thị trường nhưng còn thiếu cán bộ có kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu thị trường. Tất cả những vấn đề tồn tại đó đã phản ánh một thực tế đó là công tác nghiên cứu thị trường ở trung tâm Thương mại- Dịch vụ mía đường I chưa thực sự được chú trọng. 47
- Cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác ở Việt nam hiện nay nguyên nhân của những tồn tại trên là do quy mô kinh doanh của trung tâm của trung tâm còn quá nhỏ, vốn kinh doanh hạn hẹp chủ yếu là vốn vay mà chi phí cho việc tổ chức một cuộc điều tra nghiên cứu thị trường cụ thể, hoàn chỉnh là khá tốn kém, điều đó không phù hợp với tình hình của trung tâm. Chính vì vậy mà nghiên cứu thị trường mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu khái quát và nguồn chủ yếu là thứ cấp. 2. Tình trạng mua hàng ở trung tâm Khối lượng hàng hoá mua vào phản ánh quy mô kinh doanh của trung tâm, tình hình kinh doanh nó cho phép đánh giá khả năng kinh doanh và mở rộng thị trường của trung tâm trong thời gian qua cũng như dự đoán trong tương lai, chúng ta có thể quan sát khối lượng hàng hoá mua vào các năm qua bảng sau: Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1.Tổng giá -Nhập khẩu 37041.5 USD 84115 USD 15336 USD trị mua -Trong nước 2483919000 4632034000 12036000000 VND VND VND 2. Mặt hàng 1. Đường 246,5 446,5 3317,45 2. Mật 270,5 3081,6 3682,59 3. Gạo 47 14,65 0 4. Bánh kẹo 29,56 0,3 0 5. Gia vị 13,6 0 0 6. Nha 0 87,22 45,426 7. Bột sắn 0 20,031 0 Mua hàng là cơ sở tiền đề cho bán ra, tuy nhiên hàng hoá có bán được thì mới dám mua hàng chính vì vậy hoạt động mua hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng bán ra như thế nào. Nhìn vào bảng hàng hoá mua vào chúng ta thấy rằng hoạt động kinh doanh của trung tâm phát triển nhanh số lượng mua sắm năm sau lớn hơn năm trước, số liệu 48
- cho thấy tổng giá trị mua năm 2000 đạt 186,488% so với năm 1999. Sản lượng đường mía mua vào trong 3 tháng đầu năm gấp 7,4 lần so năm 2000 và 13,46 lần so với năm 1999. Tuy nhiên chủng loại mặt hàng giảm, nếu như năm 1999 trung tâm kinh doanh rất nhiều mặt hàng thì sang đến 3 tháng đầu năm của năm 2001 trung tâm chỉ còn tập trung vào 3 mặt hàng kinh doanh chủ yếu là đường mía, mật và nha. Về hình thức mua chủ yếu là ký các hợp đồng trực tiếp với các nhà máy sản xuất đường, có một số là qua trung gian. Giá trị hàng mua vào của năm 1999 và 2000 thấp do một số nguyên nhân: bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực làm tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm, thu nhập người dân giảm, nhu cầu tiêu dùng nói chung cũng như các sản phẩm đường và sau đường giảm. Trong khi đó nghành đường mía gặp nhiều khó khăn do cung trên thế giới lại lớn hơn cầu, các đơn vị sản xuất kinh doanh mía đường phải đối mặt với tình trạng đường lậu tràn lan trong khi giá thành sản xuất trong nước cao hơn giá bán trên thị trường thế giới đường cũng như các sản phẩm sau đường không có khả năng cạnh tranh, bán hàng trì trệ cho nên giá trị hàng mua vào nhỏ. Trung tâm lại vừa thành lập, nguồn vốn nhỏ, mạng lưới kinh doanh hẹp, thị trường còn nhỏ, kinh nghiệm còn hạn chế, chính vì vậy mà hoạt động kinh doanh của Trung tâm trong năm 1999, 2000 chưa cao. Cuối năm 2000 giá đường có xu hướng tăng, nhu cầu thị trường ổn định hơn, hoạt động kinh doanh mở rộng, bước vào năm 2001 tình hình thị trường liên tục biến động giá đường tăng nhanh, nhu cầu lớn, giá trị mua hàng 3 tháng đầu năm 2001 lên đến 3317,45 tấn. Có những thời điểm Trung tâm phải bán hết lượng dự trữ thường xuyên mà vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu nguồn hàng khai thác khan hiếm do giá lên cao các nhà máy tăng dự trữ chờ giá lên cao hơn, mặt khác thị trường kinh doanh được mở rộng hơn, có nhiều khách hàng truyền thống và thu hút sự tham gia của nhiều nhà buôn. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, trong 3 năm qua Trung tâm đã tổ chức nhập khẩu một số máy móc thiết bị dưới hình thức nhận uỷ thác cho các nhà máy sản xuất đường và sau đường. 49
- Về nguồn thu mua: chủ yếu tập trung ở các nhà máy đường phía Bắc và miền Trung, ở một số nhà máy sản xuất chế biến sản phẩm sau đường chúng ta có thể xem biểu nguồn thu mua của Trung tâm : Đơn vị :Tấn đường Nguồn Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Quảng Bình 88 30 0 2. Sơn Dương 118,6 110 111,5 3. Lam Sơn 34,5 164,5 0 4. Linh Cám 8 0 0 5. Việt Đài 0 76,7 0 6. Nông Cống 0 42 1616 7. Liên doanh Nghệ An 0 0 100 8. Hoà Bình 0 0 500 9. Sơn La 0 0 989,95 Nguồn nhập Mật rỉ Đơn vị :Tấn Mật Các nguồn nhập Mật Đơn 1999 2000 2001 vị Công ty Việt Đài Tấn 750 500 720 Công ty Tate & lye Tấn 600 400 150 Xí nghiệp dịch vụ Thành Công Tấn 1920,5 2000 1250 Công ty môi giới thương mại và đầu tư Tấn 1500 1562,59 Công ty Linh Cảm Tấn 400 Công ty Hoà Bình Tấn 850 50
- Ngoài ra Trung tâm còn thu thập ở một số đơn vị có nguồn nhỏ lẻ, các sản phẩm sau đường như bánh kẹo, các loại gia vị chủ yếu nhập của công ty Bánh kẹo Hải châu, công ty chế biến thực phẩm, công ty lương thực Đông Anh, công ty Minh Dương. -Về nguồn thu mua đường theo biểu cho thấy Trung tâm đã mở rộng khai thác thêm được một số nguồn so với năm 1999, cho đến năm 2001 Trung tâm đã khai thác thêm được 4 nguồn cung cấp với khối lượng lớn đó là Sơn La, Hoà Bình, Nông Cống, liên doanh Nghệ An riêng trong 3 tháng đầu năm lượng nhập từ Sơn La là 989,95 tấn, Nông Cống là 1616 tấn, Hoà Bình là 500 tấn. -Nguồn hàng Mật : Mật rỉ là sản phẩm phụ của các nhà máy sản xuất đường vì vậynguồn khai thác là tất cả các nhà sản xuất máy đường. Theo biểu trên cho ta thấy tốc độ kinh doanh Mật tăng nhanh, năm 2000 đạt 6000 tấn gấp 1,9 lần năm 1999 (mức 3270 tấn ) riêng 3 tháng đầu năm 2001 tổng lượng Mật vượt số lượng kinh doanh năm 1999 là 412,09 tấn. Năm 1999 nhập từ 3 nguồn đó là công ty Việt Đài,Công ty Tate & Lye và xí nghiệp dịch vụ Thành Công, thì đến năm 2000 đã lên đến 6 nguồn , thêm 4 nguồn nữa là Công ty Môi Giới thương mại và Đầu Tư, Công ty đường Linh Cảm, Công ty đường Hoà Bình. Biểu trên cũng cho thấy 2 nguồn nhập chính là Công ty Môi Giới và Đầu Tư và xí nghiệp dịch vụ Thành Công, năm 1999 mua của xí nghiệp dịch vụ Thành Công chiếm 53% tổng lượng mua, năm 2000 2 nguồn này chiếm 59% và 3 tháng đầu năm 2001 chiếm 82%. Trong khi đó lượng mua từ nhà máy đường Linh Cảm, Việt Đài, Tate & Lye, Hoà Bình còn nhỏ, Đây là vấn đề bất cập trong công tác tạo nguồn Mật của trung tâm, Bởi vì Công ty Môi Giới và Đầu Tư và xí nghiệp dịch vụ Thành Công là các doanh nghiệp thương mại, mua hàng ở nguồn này trung tâm phải chịu một khoản chi phí trung gian, do đó làm nâng giá mua vào của hàng hoá. Nguồn hàng nhập khẩu chủ yếu hàng hoá là máy móc và một số hương liệu cho sản xuất bánh kẹo, chế biến thực phẩm nhập từ Trung Quốc, ngoài ra còn nhập từ Pháp, Anh, Australia Nhìn chung tình hình mua và khai thác nguồn của Trung tâm đã và đang được mở rộng tuy nhiên mua hàng chịu ảnh hưởng của khâu bán hàng và khả năng 51
- khai thác nguồn cho nên bị động, Trung tâm mua dưới hình thức hợp đồng, khối lượng mua thay đổi theo nhu cầu thị trường, có một số mặt hàng việc mua còn phụ thuộc vào hợp đồng ký trước, do đó không chủ động trong công tác tạo nguồn. Trung tâm kinh doanh thuần tuý là buôn bán thương mại vì vậy đôi khi khó khăn trong khai thác, không tạo được nguồn hàng lớn, ổn định, khi nhu cầu trên thị trường lớn dễ bị ép giá, không có hàng bán, trong khi đó Trung tâm chưa tổ chức được nhiều hình thức mua hàng. Trung tâm cũng thường xuyên cử cán bộ có kinh nghiệm đi nghiên cứu tìm nguồn hàng, thiết lập mối quan hệ cần thiết, tổ chức đàm phán để kí kết hợp đồng, hình thức mua hàng chủ yếu của Trung tâm là mua tại các nhà máy sản xuất, hầu như không mua qua trung gian cho nên giảm được chi phí trong khâu mua. Riêng hoạt động nhập khẩu Trung tâm chủ yếu là mua hàng theo hợp đồng dưới hình thức uỷ thác tức là làm trung gian giữa người bán và người mua, giảm được mức độ rủi ro và khắc phục tình trạng thiếu vốn tuy nhiên lợi nhuận mang lại thấp, nhưng đến năm 2001 Trung tâm dự tính sẽ nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng để tận dụng kinh nghiệm, mối quan hệ, cơ sở vật chất của mình để thu lợi nhuận cao hơn. Về mặt hàng thu mua Trung tâm có phương hướng tập trung chủ yếu vào sản phẩm đường, nha, mật là chủ yếu, năm 1999, 2000 Trung tâm kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau làm cho công tác nghiên cứu thị trường cũng như hoạt động tạo nguồn thu mua phức tạp mất nhiều thời gian, tốn kém nhiều khoản chi phí, nguồn hàng lại không tập trung, vốn kinh doanh hạn chế, mạng lưới bán nhỏ cho nên sang năm 2001 Trung tâm hạn chế bớt mặt hàng kinh doanh để phù hợp với thực tế ở Trung tâm. 3. Tình hình bán hàng ở Trung tâm Bán hàng là hoạt động cơ bản và quan trọng nó quyết định tới mọi hoạt động khác và là hoạt động giúp các doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu cuối cùng của mình là lợi nhuận. Mặc dù trong thời gian qua gặp nhiều khó khăn trước biến động của thị trường cũng như sự hạn chế về tiềm lực của Trung tâm nhưng hoạt động 52
- bán hàng đã đạt được những kết quả đáng kể, điều đó thể hiện qua biểu về giá trị bán hàng của Trung tâm Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Doanh thu bán 2,6 5,3 13,9 trong nước 2. Doanh thu xuất 305.054 USD khẩu Theo số liệu cho thấy tổng doanh thu của năm 2000 tăng so với năm 1999 là 4,01 tỷ, đặc biệt trong 3 tháng đầu năm 2001 tổng doanh thu của công ty đã vượt doanh thu của năm 2000, Trung tâm kinh doanh theo nguyên tắc không ngừng mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh doanh, tận dụng mọi cơ hội cho nên tổng doanh thu năm sau tăng hơn năm trước rất nhiều điều đó đã thể hiện nỗ lực và sự cố gắng của toàn thể ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên của Trung tâm. Tuy nhiên tổng doanh thu còn thấp là do: Trung tâm mới tham gia vào kinh doanh còn nhiều mặt hạn chế về nguồn vốn, lao động, thị trường kinh doanh, hàng hoá kinh doanh của Trung tâm còn mang tính thời vụ cả trong sản xuất và tiêu dùng, sản phẩm đường và sau đường là sản phẩm thiết yếu nhưng lại mang tính xa xỉ phụ thuộc vào thu nhập của người dân, và đặc biệt vào ngày tết, lễ, hội. Về công tác bán hàng ở Trung tâm luôn áp dụng 2 phương thức chủ yếu đó là bán buôn và bán lẻ, phòng kinh doanh chủ yếu bán hàng với số lượng lớn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh có nhu cầu sử dụng đường làm nguyên liệu còn các cửa hàng bán lẻ thì bán cho khách hàng có nhu cầu nhỏ lẻ như hộ tiêu dùng. Thị trường bán buôn của Trung tâm năm 1999 có hơn 15 khách hàng họ là đơn vị sản xuất, các trung gian và những người trực tiếp bán lẻ cho người tiêu dùng cuối cùng, sang đến năm 2001 thì số lượng khách hàng này lên đến gần 30 đơn vị. Thị trường bán lẻ mặc dù chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng doanh số bán ra nhưng qua đó Trung tâm tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng nắm bắt thông tin về những thay đổi trong nhu cầu,tuy nhiên mạng lưới bán hàng của Trung tâm còn nhỏ hạn chế trong 53
- việc phục vụ nhu cầu người tiêu dùng cuối cùng, bán hàng chỉ tập trung vào một số khu vực nhất định, Trung tâm đã có kế hoạch mở rộng mạng lưới cửa hàng phục vụ đến người tiêu dùng cuối cùng nhưng đây chưa phải là hướng đi cần giải quyết vì trước mắt Trung tâm đang tập trung mở rộng thị trường bán buôn là chủ yếu. _số liệu tình hình bán theo khách hàng trong năm 2001: Đơn vị : Tấn Tên khách hàng Đường Mật Nha Công ty thực phẩm Vạn Điểm 420 242,59 Công ty Thực phẩm và dịch vụ tổng 300 hợp Công ty bánh kẹo Hải Châu 750 45,426 Viện công nghệ thực phẩm 20 Công ty Phan Phí Hùng 420 Công ty TNHH Cao Cường 200 Cửa hàng Tổng Hợp số 2 200 Công ty KDNLS chất đốt Sơn Tây 300 Công ty CiTic Trading CoLted 3440 Công ty thiết bị Hồng Đăng Bán lẻ 22,59 Bán buôn cho khách hàng khác 1700 Biểu khách hàng trên là khách hàng truyền thống của trung tâm, khách hàng này mua thường xuyên với khối lượng lớn, tuy nhiên cũng cho thấy những khách hàng là các nhà máy sản xuất bánh kẹo lớn trên thị trường Hà Nội như nhà máy bánh kẹo Hải Hà, bánh kẹo Kinh Đô, các nhà máy Bia, rượu ,Nước giải khát .trung tâm vẫn chưa lập được mối quan hệ làm ăn lâu dài, tỉ lệ bán lẻ của trung tâm còn tương đối nhỏ chỉ chiếm 4-5% tổng số hàng hoá kinh doanh trong năm . -Bán theo khu vực : 54
- Đơn vị : Tấn Khu vực Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Thị trường Hà Nội 246,5 318,5 2753 Khu Vực khác 120 564,45 Thị trường nước ngoài 30 Khách hàng mua theo khu vực : Trung tâm coi Hà Nội là thị trường trọng điểm của mình vì vậy kinh doanh tại Hà Nội chiếm tỉ lệ lớn 80-90% tổng số hàng hoá, trong khi các khu vực khác chiếm tỉ lệ rất nhỏ, nguyên nhân là do quy mô kinh doanh của trung tâm còn hạn chế, mạng lưới kinh doanh nhỏ trung tâm chưa có điều kiện mở rộng, phát triển thị trường sang các khu vực khác. Trung tâm đã áp dụng một số hình thức khuyến khích đối với khách hàng như giảm giá bán đối với khách hàng mua số lượng nhiều, ưu tiên cho khách hàng truyền thống với mức giá ưu đãi hơn. Bên cạnh hoạt động mua và bán Trung tâm còn tổ chức thực hiện một số hình thức dịch vụ bổ sung như bán và vận chuyển đến địa điểm theo yêu cầu giao nhận, nhưng các hoạt động dịch vụ của Trung tâm còn hạn chế, chủ yếu tập trung ở khâu vận chuyển, trong khi đó Trung tâm chưa có các phương tiện vận tải sắn sàng phục vụ mà chủ yếu là đi thuê ở các công ty vận tải do đó nhiều khi còn bị động, chưa kịp thời, chi phí vận chuyển lớn làm tăng giá vốn của hàng hoá. Riêng các hoạt động quảng cáo, xúc tiến, giới thiệu sản phẩm Trung tâm đã thực hiện dưới một số hình thức như cử cán bộ đến tận nơi để giới thiệu hàng hoá, gửi đơn chào hàng, giảm giá Ngoài ra Trung tâm còn sử dụng một số phương tiện như biển bảng, tủ kính trưng bày ở cửa hàng để giới thiệu sản phẩm tuy nhiên những hoạt động này diễn ra chưa thường xuyên, chỉ khi cung dư cầu, hàng bán chậm thì mới thực hiện, mọi hoạt động quảng cáo đều do Trung tâm tự tiến hành cho nên đến nay vẫn chưa có kế hoạch quảng cáo và chưa có kinh phí cho quảng cáo hàng năm. Đối với hoạt động xuất khẩu, hiện nay thị trường xuất khẩu của Trung tâm mới chỉ là Trung Quốc, mặt hàng chủ yếu là mật, trong năm 2000 đã xuất khẩu được 55
- 30 tấn đường kính, tỉ lệ này còn rất ít, Trung tâm đã và đang chú trọng nghiên cứu tìm thị trường cho xuất khẩu không chỉ mật mà còn đường và các sản phẩm sang thị trường nước ngoài. 4-Chi phí kinh doanh : Trong hoạt động kinh doanh thương mại: nội dung của chi phí kinh doanh gồm có chi mua hàng, chi phí lưu thông, chi phí đóng thuế và bảo hiểm, ngoài ra còn chi do bị thiệt hại bất thường khác. Chi phí mua hàng là khoản chi lớn nhất trong kinh doanh, nguồn là vốn lưu động, vốn vay hoặc vốn của đơn vị nguồn hàng, khách hàng. Chi phí lưu thông ở doanh nghiệp Thương mại gồm: chi phí vận tải, bốc dỡ hàng hoá, chi phí quản lí hành chính. Chi phí nộp thuế và mua bảo hiểm là khoản chi của chi phí kinh doanh, nộp thuế là khoản tiền nộp cho Nhà nước về kết quả hoạt động kinh doanh, chi phí bảo hiểm là khoản chi đề phòng rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh. Chi phí lưu thông có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí lưu thông ở doanh nghiệp Thương mại được chia làm nhiều khoản mục khác nhau: -Chi vận tải, bốc dỡ hàng hoá. -Chi bảo quản, thu mua. -Chi hao hụt hàng hoá. -Chi phí quản lí hành chính. Thực tế ở Trung tâm chỉ chia thành 2 khoản chính là chi phí mua hàng và chi phí quản lí hành chính, các khoản chi phí thu mua, bốc dỡ hàng hoá, chi phí lãi vay ngân hàng Trung tâm đưa vào khoản chi phí mua hàng để tính giá vốn hàng hoá. Chi phí quản lí ở Trung tâm bao gồm chi tiền lương, điện thoại, công tác phí trong và ngoài nước, in ấn phô tô, dịch thuật, chi hội nghị tiếp khách, chi quảng cáo, catalog, trích quỹ quản lí tổng công ty và khấu hao TSCĐ, công cụ dụng cụ, chi khác. Riêng chi phí mua hàng ở Trung tâm chưa phân chia cụ thể thành từng loại do đó khó kiểm tra đánh giá các khoản chi hợp lí chưa, tiết kiệm hay lãng phí, vốn 56
- kinh doanh của Trung tâm rất ít vay vốn ngân hàng chiếm tỉ lệ cao vì vậy lãi suất trả lớn, làm tăng chi phí kinh doanh, tuy nhiên lãi vay chưa được tách ra khỏi giá mua vì vậy rất khó đánh giá. Mặt khác, chi phí kinh doanh lớn là do chi phí vận tải bốc dỡ, chi phí thuê kho bãi cao, Trung tâm hầu như chưa có phương tiện vận tải, kho bãi vẫn phải thuê thêm đặc biệt khi hàng hoá mua về nhiều, chưa đến thời điểm giao cho khách, các phương tiện phục vụ cho bốc dỡ còn thô sơ, phần lớn thuê nhân công bên ngoài bốc vác thủ công. Đối với chi phí quản lí hành chính còn cao là do chi công tác phí cao, chi hội nghị, giao dịch tiếp khách cao. Ngoài ra còn phải đóng góp vào quỹ quản lí của tổng công ty. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn hàng không tập trung, khối lượng mua hàng theo hợp đồng còn thấp, chi phí cử cán bộ đI xuống nguồn hàng còn lớn, trong khi quy mô kinh doanh của Trung tâm còn nhỏ, mặt khác các cơ sở vật chất, văn phòng, trang bị văn phòng còn nghèo, chưa có nhà nghỉ cho khách tới giao dịch, mọi cuộc giao dịch đàm phán đều tổ chức ở bên ngoài do đó chi phí cao. Đó là nguyên nhân làm nâng chi phí hoạt động kinh doanh, ngoài ra do dự trữ của Trung tâm còn hạn chế. Khi có nhu cầu lớn, khai thác các nguồn hàng còn tình trạng bị ép giá. Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 - Giá vốn Triệu đồng 2483,911 5300,000 13085 - Chi phí quản lý Triệu đồng 144,768 547,966 721,200 57