Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty công trình giao thông 208 thuộc tổng giao thông 4 - Bộ Giao Thông Vận tải

doc 83 trang nguyendu 4640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty công trình giao thông 208 thuộc tổng giao thông 4 - Bộ Giao Thông Vận tải", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_su_dung_von_t.doc

Nội dung text: Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty công trình giao thông 208 thuộc tổng giao thông 4 - Bộ Giao Thông Vận tải

  1. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Lời nói đầu. Một lý do mà mọi người dễ dàng thống nhất là, để tiến hành sản xuất kinh doanh (SXKD) thì một yếu tố không thể thiếu được là phải có vốn. Có hai nguồn vốn: Vốn tự có và vốn đi vay, vậy quản trị và điều hành về tỷ lệ giữa hai loại vốn này như thế nào là hợp lý và có hiệu quả? Ngoài ra, vấn đề làm thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp Việt Nam đang là vấn đề bức xúc mà các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm. Trong nhiều diễn đàn và trong công luận ở nước ta, người ta bàn rất nhiều về vấn đề vốn của doanh nghiệp, chủ yếu là vốn vay Ngân hàng. Tình trạng khó khăn trong kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận thấp, hàng hoá tiêu thụ chậm, không đổi mới dây chuyền sản xuất Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá thì việc một quốc gia có hội nhập vào nền kinh tế thế giới hay không và hội nhập ở mức độ nào sẽ cơ bản phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sở tại. Khả năng cạnh tranh là nguồn năng lực thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập kinh tế. Mặt khác, những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như: Vốn kinh doanh của doanh nghiệp, vốn tự có trình độ kỹ thuật, công nghệ, trình độ quản lý, kỹ năng cạnh tranh, bộ máy tổ chức sản xuất, lợi nhuận. Để đạt được yêu cầu đó thì vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế nào để sử dụng có hiệu quả nhất nguồn vốn của mình? Với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào những giải pháp nâng cao hiêụ quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp, Công ty công trình giao thông 208 - thuộc tổng giao thông 4 - Bộ Giao Thông Vận tải là một DNNN thuộc Bộ GTVT đang đứng trước những thách thức như trên nên vấn đề đặt ra đối với Ban lãnh đạo Công ty là cần phải làm gì để giải quyết được những vấn đề trên nhằm đưa doanh nghiệp thắng trong cạnh tranh, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay. Đứng trước những thách thức đó, sau một quá trình thực tập tại Công ty công trình giao thông 208 thuộc tổng giao thông 4 - Bộ Giao Thông Vận Sinh viên: Phạm Thị Chanh 1 Lớp: Tài Chính 40C
  2. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính tải, cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Văn Nam, các cô, chú và các anh, chị trong công ty nên em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty công trình giao thông 208 thuộc tổng giao thông 4 - Bộ Giao Thông Vận tải”. Em hy vọng rằng, với bài viết này mình có thể chỉ ra được những tồn tại trong công ty, trên cơ sở đó nhằm đưa ra những ý kiến, kiến nghị góp phần nâng cao hơn nữa về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty. Với bố cục của bài viết, luận văn được chia thành 3 chương: Chương I: Lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp hiện nay Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty CTGT 208 - trực thuộc tổng công trình giao thông 4 - Bộ GTVT Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty CTGT 208 Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS - Nguyễn Văn Nam cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Ngân Hàng - Tài Chính đã giúp đỡ và hướng dẫn em tận tình trong thời gian thực tập và nghiên cứu luận văn này Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo công ty cùng các cô, chú và các anh, chị công tác tại công ty CTGT 208, đặc biệt là các cô, chú và các anh, chị phòng tài chính - kế toán của công ty đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thiện bài viết này. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 2 Lớp: Tài Chính 40C
  3. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính CHƯƠNG I: lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp hiện nay. 1.1. Khái quát chung về vốn của doanh nghiệp 1.1.1 - Vốn là gì? Để hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thực sự có hiệu quả thì điều đầu tiên mà các doanh nghiệp quan tâm và nghĩ đến là làm thế nào để có đủ vốn và sử dụng nó như thế nào để đem lại hiệu quả cao nhất. Vậy vấn đề đặt ra ở đây - Vốn là gì? Các doanh nghiệp cần bao nhiêu vốn thì đủ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về vốn. Vốn trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Mục tiêu của quỹ là để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, tức là mục đích tích luỹ chứ không phải mục đích tiêu dùng như một vài quỹ tiền tệ khác trong các doanh nghiệp. Đứng trên các giác độ khác nhau ta có cách nhìn khác nhau về vốn. Theo quan điểm của Mark - nhìn nhận dưới giác độ của các yếu tố sản xuất thì ông cho rằng: “Vốn chính là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất”. Tuy nhiên, Mark quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Đây là một hạn chế trong quan điểm của Mark. Còn Paul A.Samuelson, một đại diện tiêu biểu của học thuyết kinh tế hiện đại cho rằng: Đất đai và lao động là các yếu tố ban đầu sơ khai, còn vốn và hàng hoá vốn là yếu tố kết quả của quá trình sản xuất. Vốn bao gồm các loại hàng hoá lâu bền được sản xuất ra và được sử dụng như các đầu vào hữu ích trong quá trình sản xuất sau đó. Một số hàng hoá vốn có thể tồn tại trong vài năm, trong khi một số khác có thể tồn tại trong một thế kỷ hoặc lâu hơn. Đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá vốn thể hiện ở chỗ chúng vừa là sản phẩm đầu ra, vừa là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 3 Lớp: Tài Chính 40C
  4. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Trong cuốn “Kinh tế học” của David Begg cho rằng: “Vốn được phân chia theo hai hình thái là vốn hiện vật và vốn tài chính”. Như vậy, ông đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp.Trong đó: Vốn hiện vật: Là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất mà sử dụng để sản xuất ra các hàng hoá khác. Vốn tài chính: Là tiền và tài sản trên giấy của doanh nghiệp. Ngoài ra, có nhiều quan niệm khác về vốn nhưng mọi quá trình sản xuất kinh doanh đều có thể khái quát thành: T H (TLLD, TLSX) SX H’ T’ Để có các yếu tố đầu vào (TLLĐ, TLSX) phục vụ cho hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước, lượng tiền ứng trước này gọi là vốn của doanh nghiệp. Vậy: “Vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của vật tư, tài sản được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận”. Nhưng tiền không phải là vốn. Nó chỉ trở thành vốn khi có đủ các điều kiện sau: Thứ nhất: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định hay nói cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá có thực. Thứ hai: Tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định. Có được điều đó mới làm cho vốn có đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh dù là nhỏ nhất. Nếu tiền nằm ở rải rác các nơi mà không được thu gom lại thành một món lớn thì cũng không làm gì được. Vì vậy, một doanh nghiệp muốn khởi điểm thì phải có một lượng vốn pháp định đủ lớn. Muốn kinh doanh tốt thì doanh nghiệp phải tìm cách gom tiền thành món lớn để đầu tư vào phương án sản xuất của mình. Thứ ba: Khi có đủ lượng thì tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Từ những vấn đề trên ta thấy vốn có một số đặc điểm sau: Thứ nhất: Vốn là hàng hoá đặc biệt vì các lý do sau: - Vốn là hàng hoá vì nó có giá trị và giá trị sử dụng. + Giá trị của vốn được thể hiện ở chi phí mà ta bỏ ra để có được nó. + Giá trị sử dụng của vốn thể hiện ở việc ta sử dụng nó để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh như mua máy móc, thiết bị vật tư, hàng hoá Sinh viên: Phạm Thị Chanh 4 Lớp: Tài Chính 40C
  5. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính - Vốn là hàng hoá đặc biệt vì có sự tách biệt rõ ràng giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu nó. Khi mua nó chúng ta chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và quyền sở hữu vẫn thuộc về chủ sở hữu của nó. Tính đặc biệt của vốn còn thể hiện ở chỗ: Nó không bị hao mòn hữu hình trong quá trình sử dụng mà còn có khả năng tạo ra giá trị lớn hơn bản thân nó. Chính vì vậy, giá trị của nó phụ thuộc vào lợi ích cận biên của của bất kỳ doanh nghiệp nào. Điều này đặt ra nhiệm vụ đối với các nhà quản trị tài chính là phải làm sao sử dụng tối đa hiệu quả của vốn để đem lại một giá trị thặng dư tối đa, đủ chi trả cho chi phí đã bỏ ra mua nó nhằm đạt hiệu quả lớn nhất. Thứ hai: Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định chứ không thể có đồng vốn vô chủ. Thứ ba: Vốn phải luôn luôn vận động sinh lời. Thứ tư: Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tuỳ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà có một lượng vốn nhất định, khác nhau giữa các doanh nghiệp. Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty, ta cần phân loại vốn để có biện pháp quản lý tốt hơn. 1.1.2 - Phân loại vốn Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả lương nhân viên Đó là chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được mục tiêu kinh doanh. Nhưng vấn đề đặt ra là chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên, liên tục gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn một cách tối đa nhằm đạt mục tiêu kinh doanh lớn nhất. Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí ở từng khâu sản xuất và toàn doanh nghiệp. Cần phải tiến hành phân loại vốn, phân loại vốn có tác dụng kiểm tra, phân tích quá trình phát sinh những loại chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh. Có nhiều cách phân loại vốn, tuỳ thuộc vào mỗi góc độ khác nhau ta có các cách phân loại vốn khác nhau. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 5 Lớp: Tài Chính 40C
  6. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính 1.1.2.1 - Phân loại vốn dựa trên giác độ chu chuyển của vốn thì vốn của doanh nghiệp bao gồm hai loại là vốn lưu động và vốn cố định.  Vốn cố định: Là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định (TSCĐ), TSCĐ dùng trong kinh doanh tham gia hoàn toàn vào quá trình kinh doanh nhưng về mặt giá trị thì chỉ có thể thu hồi dần sau nhiều chu kỳ kinh doanh. Vốn cố định biểu hiện dưới hai hình thái: - Hình thái hiện vật: Đó là toàn bộ tài sản cố định dùng trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó bao gồm nhà cửa, máy móc, thiết bị, công cụ - Hình thái tiền tệ: Đó là toàn bộ TSCĐ chưa khấu hao và vốn khấu hao khi chưa được sử dụng để sản xuất TSCĐ, là bộ phận vốn cố định đã hoàn thành vòng luân chuyển và trở về hình thái tiền tệ ban đầu.  Vốn lưu động: Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu động. Vốn lưu động tham gia hoàn toàn vào quá trình kinh doanh và giá trị có thể trở lại hình thái ban đầu sau mỗi vòng chu chuyển của hàng hoá. Nó là bộ phận của vốn sản xuất, bao gồm giá trị nguyên liệu, vật liệu phụ, tiền lương Những giá trị này được hoàn lại hoàn toàn cho chủ doanh nghiệp sau khi đã bán hàng hoá.Trong quá trình sản xuất, bộ phận giá trị sức lao động biểu hiện dưới hình thức tiền lương đã bị người lao động hao phí nhưng được tái hiện trong giá trị mới của sản phẩm, còn giá trị nguyên, nhiên vật liệu được chuyển toàn bộ vào sản phẩm trong chu kỳ sản xuất kinh doanh đó. Vốn lưu động ứng với loại hình doanh nghiệp khác nhau thì khác nhau. Đối với doanh nghiệp thương mại thì vốn lưu động bao gồm: Vốn lưu động định mức và vốn lưu động không định mức. Trong đó: - Vốn lưu động định mức: Là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng hóa và vốn phi hàng hoá để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. - Vốn lưu động không định mức: Là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh nhưng không có căn cứ để tính toán định mức được như tiền gửi ngân hàng, thanh toán tạm ứng Đối với doanh nghiệp sản xuất thì vốn lưu động bao gồm: Vật tư, nguyên nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ là đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 6 Lớp: Tài Chính 40C
  7. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Không những thế tỷ trọng, thành phần, cơ cấu của các loại vốn này trong các doanh nghiệp khác nhau cũng khác nhau. Nếu như trong doanh nghiệp thương mại tỷ trọng của loại vốn này chiếm chủ yếu trong nguồn vốn kinh doanh thì trong doanh nghiệp sản xuất tỷ trọng vốn cố định lại chiếm chủ yếu. Trong hai loại vốn này, vốn cố định có đặc điểm chu chuyển chậm hơn vốn lưu động. Trong khi vốn cố định chu chuyển được một vòng thì vốn lưu động đã chu chuyển được nhiều vòng. Việc phân chia theo cách thức này giúp cho các doanh nghiệp thấy được tỷ trọng, cơ cấu từng loại vốn. Từ đó, doanh nghiệp chọn cho mình một cơ cấu vốn phù hợp. 1.1.2.2 - Phân loại vốn theo nguồn hình thành: Theo cách phân loại này, vốn của doanh nghiệp bao gồm: Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, ngoài số vốn tự có và coi như tự có thì doanh nghiệp còn phải sử dụng một khoản vốn khá lớn đi vay của ngân hàng. Bên cạnh đó còn có khoản vốn chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng, khách hàng và bạn hàng. Tất cả các yếu tố này hình thành nên khoản nợ phải trả của doanh nghiệp. Vậy  Nợ phải trả: Là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả cho các tác nhân kinh tế như nợ vay ngân hàng, nợ vay của các chủ thể kinh tế, nợ vay của cá nhân, phải trả cho người bán, phải nộp ngân sách  Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công ty cổ phần. Có ba nguồn cơ bản tạo nên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, đó là: - Vốn kinh doanh: Gồm vốn góp (Nhà nước, các bên tham gia liên doanh, cổ đông, các chủ doanh nghiệp) và phần lãi chưa phân phối của kết quả sản xuất kinh doanh. - Chênh lệch đánh giá lại tài sản (chủ yếu là tài sản cố định): Khi nhà nước cho phép hoặc các thành viên quyết định. - Các quỹ của doanh nghiệp: Hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh như: quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng phúc lợi. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 7 Lớp: Tài Chính 40C
  8. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm vốn đầu tư XDCB và kinh phí sự nghiệp (khoản kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, phát không hoàn lại sao cho doanh nghiệp chi tiêu cho mục đích kinh tế lâu dài, cơ bản, mục đích chính trị xã hội ). 1.1.2.3 - Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn thì nguốn vốn của doanh nghiệp bao gồm:  Nguồn vốn thường xuyên: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng để tài trợ cho toàn bộ tài sản cố định của mình. Nguồn vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Trong đó: - Nợ dài hạn: Là các khoản nợ dài hơn một năm hoặc phải trả sau một kỳ kinh doanh, không phân biệt đối tượng cho vay và mục đích vay.  Nguồn vốn tạm thời: Đây là nguồn vốn dùng để tài trợ cho tài sản lưu động tạm thời của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm: vay ngân hàng, tạm ứng, người mua vừa trả tiền Như vậy, ta có: TS = TSLĐ + TSCĐ = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu = Vốn tạm thời + Vốn thường xuyên Việc phân loại theo cách này giúp doanh nghiệp thấy được yếu tố thời gian về vốn mà mình nắm giữ, từ đó lựa chọn nguồn tài trợ cho tài sản của mình một cách thích hợp, tránh tình trạng sử dụng nguồn vốn tạm thời để tài trợ cho tài sản cố định. 1.1.2.4 - Phân loại vốn theo phạm vi huy động và sử dụng vốn thì nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm: nguồn vốn trong doanh nghiệp và nguồn vốn ngoài doanh nghiệp.  Nguồn vốn trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt động bản thân của doanh nghiệp như: Tiền khấu hao TSCĐ, lợi nhuận giữ lại, các khoản dự trữ, dự phòng, khoản thu từ nhượng bán, thanh lý TSCĐ Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh như: Vay ngân hàng, vay của các tổ chức kinh tế khác, vay của cá nhân và nhân viên trong công ty Sinh viên: Phạm Thị Chanh 8 Lớp: Tài Chính 40C
  9. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp xem xét, lựa chọn trong việc sử dụng nguồn vốn sao cho hợp lý nhằm đem lại hiệu quả cao, linh hoạt hơn và tránh được rủi ro, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể có các nguồn vốn khác như: Nguồn vốn FDI, ODA thông qua việc thu hút các nguồn vốn này, các doanh nghiệp có thể tăng vốn đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, phân loại vốn sẽ giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô về vốn cần thiết, lựa chọn thích hợp cho từng hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt hiệu quả sử dụng vốn cao nhất. 1.1.3 - Vai trò của vốn đối với hoạt động sản kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, xu thế hội nhập nền kinh tế, vấn đề toàn cầu hoá về phát triển công nghệ, thông tin Việt Nam muốn tham gia vào quá trình toàn cầu hoá thì cũng sẽ phải đối mặt với những vấn đề mà thế giơí đang phải đối mặt. Vì vậy, việc các doanh nghiệp Việt Nam có đủ khả năng cạnh tranh và hội nhập hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Yếu tố về vốn, trình độ máy móc thiết bị, công nghệ, năng lực đội ngũ cán bộ, tỷ suất lợi nhuận trên vốn trong đó, yếu tố chúng ta cần nói đến ở đây là yếu tố hiệu quả sử dụng vốn, vốn của doanh nghiệp. Vốn là tiền đề cho sự ra đời của doanh nghiệp, là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị sản xuất kinh doanh. Nếu thiếu vốn thì qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị ngưng trệ, đồng thời kéo theo hàng loạt các tác động tiêu cực khác đến bản thân doanh nghiệp và đời sống của người lao động. Vai trò của vốn được thể hiện rõ nét qua các mặt sau:  Về mặt pháp lý: Một doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định mà lượng vốn này tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định, khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Trong trường hợp quá trình hoạt động kinh doanh, vốn doanh nghiệp không đạt được điều kiện mà luật pháp quy định thì kinh Sinh viên: Phạm Thị Chanh 9 Lớp: Tài Chính 40C
  10. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính doanh đó sẽ bị chấm dứt hoạt động như: phá sản hoặc sáp nhập doanh nghiệp. Như vậy, có thể xem vốn là một trong những cơ sở quan trọng để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật.  Về mặt kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nó không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra thường xuyên và liên tục. Vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - một nền kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập. Ngoài ra, vốn còn là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và tương lai về sức lao động, nguồn hàng hoá, mở rộng, phát triển trên thị trường, mở rộng lưu thông và tiêu thụ hàng hoá, là chất keo dính kết quá trình và quan hệ kinh tế, là dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn tham gia vào tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ và cuối cùng nó lại trở về hình thái ban đầu là tiền tệ. Như vậy, sự luân chuyển vốn giúp doanh nghiệp thực hiện được hoạt động tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng của mình. 1.2 - hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 1.2.1- Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.2.1.1- Hiệu quả sử dụng vốn là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình SXKD với tổng chi phí thấp nhất. Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền sản xuất nào nói chung và mối quan tâm của DN nói riêng, đặc biệt nó đang là vấn đề cấp bách mang tính thời sự đối với các DN nhà nước Việt nam hiện nay. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vừa là câu hỏi, vừa là thách thức đối với các DN hiện nay. Bất kỳ một doanh nghiệp SXKD nào cũng có hàm sản xuất dạng: Q = f (K, L) trong đó: Sinh viên: Phạm Thị Chanh 10 Lớp: Tài Chính 40C
  11. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính K: là vốn. L: là lao động. Vì vậy, kết quả SXKD của các DN có quan hệ hàm với các yếu tố tài nguyên, vốn, công nghệ Xét trong tầm vi mô, với một DN trong ngắn hạn thì các nguồn lực đầu vào này bị giới hạn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm biện pháp nhằm khai thác và sử dụng vốn, sử dụng tối đa các nguồn lực sẵn có của mình, trên cơ sở đó so sánh và lựa chọn phương án SXKD tốt nhất cho doanh nghiệp mình. Vậy hiệu quả sử dụng vốn là gì ? Để hiểu được ta phải hiểu được hiệu quả là gì? - Hiệu quả của bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng đều thể hiện mối quan hệ giữa “kết quả sản xuất và chi phí bỏ ra”. - Kết quả đầu ra Hiệu quả kinh doanh = Chi phí đầu vào - Về mặt đinh lượng: Hiệu quả kinh tế của việc thực hiện mỗi nhiệm vụ kinh tế xã hội biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Người ta chỉ thu được hiệu quả khi kết quả đầu ra lớn hơn chi phí đầu vào. Hiệu quả càng lớn chênh lệch này càng cao. - Về mặt định tính: Hiệu quả kinh tế cao biểu hiện sự cố gắng nỗ lực, trình độ quản lý của mỗi khâu, mỗi cấp trong hệ thống công nghiệp, sự gắn bó của việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế với những yêu cầu và mục tiêu chính trị - xã hội. Có rất nhiều cách phân loại hiệu quả kinh tế khác nhau, nhưng ở đây em chỉ đề cập đến vấn đề nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Như vậy, ta có thể hiểu hiệu quả sử dụng vốn như sau: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: Là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời tối đa với chi phí thấp nhất. Hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề phức tạp có liên quan tới tất cả các yếu tố của quá trình SXKD (ĐTLĐ, TLLĐ) cho nên doanh nghiệp chỉ có thể nâng cao hiệu quả trên cơ sở sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình Sinh viên: Phạm Thị Chanh 11 Lớp: Tài Chính 40C
  12. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính kinh doanh có hiệu quả. Để đạt được hiệu quả cao trong quá trình kinh doanh thì doanh nghiệp phải giải quyết được các vấn đề như: đảm bảo tiết kiệm, huy động thêm để mở rộng hoạt động SXKD của mình và DN phải đạt được các mục tiêu đề ra trong qúa trình sử dụng vốn của mình. 1.2.1.2 - Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp Trước đây trong cơ chế bao cấp, chi phí và doanh thu do nhà nước ấn định là chủ yếu. Quan hệ giữa nhà nước và DN dựa trên nguyên tắc lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù. Nhà nước giao kế hoạch mang tính pháp định về mặt hàng trong kinh doanh, nguồn hàng, nơi tiêu thụ và doanh thu. Vì vậy, DN không thể và không cần thiết phải phát huy tính sáng tạo, chủ động của mình trong sản xuất kinh doanh. Việc hạch toán kinh doanh mang tính chất hình thức. Đa số các DN lãi giả lỗ thật, nguy cơ ảnh hưởng đến nền kinh tế ngày càng tăng, nhiều DN làm ăn kém hiệu quả vẫn được nhà nước bù lỗ để duy trì. Chuyển sang nền kinh tế thị trường thì điều đó không còn phù hợp nữa, sự cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế, giữa các DN thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện cơ bản để một DN tồn tại và phát triển. Hơn thế nữa, điều đó sẽ giúp cho DN có khả năng cạnh tranh với các DN khác, với các DN nước ngoài, tạo uy tín trên thị trường. 1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp Việt nam hiện nay Các doanh nghiệp Việt nam với số vốn tự có hay vốn vay, vốn điều lệ, đều không phải là số vốn cho không, không phải trả lãi mà đều phải hoặc là trả cổ tức, hoặc là nộp thuế vốn và hạch toán bảo toàn vốn. Vậy số vốn này lớn lên bao nhiêu là đủ, là hợp lý, là hiệu quả cho quá trình SXKD của doanh nghiệp ? Mặt khác, trong quá trình kinh doanh, một doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có sức tiêu thụ lớn, thị trường ngày càng ổn định và mở rộng, nhu cầu của khách hàng ngày càng lớn thì đương nhiên là cần nhiều tiền vốn để phát trtiển kinh doanh. Do đó, nếu công tác quản trị và điều hành không tốt thì hoặc là phát hành thêm cổ phiếu để gọi vốn hoặc là không biết xoay xở ra sao, có khi bị “kẹt” vốn nặng và có khi đưa doanh nghiệp đến chỗ phá sản vì tưởng rằng doanh nghiệp quá thành đạt. Để đánh giá chính Sinh viên: Phạm Thị Chanh 12 Lớp: Tài Chính 40C
  13. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính xác hơn hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, ta có thể dựa vào các nhóm chỉ tiêu đo lường sau đây: 1.2.2.1 Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Nó thể hiện mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh trong kỳ và số vốn kinh doanh bình quân. Ta có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:  Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp. D Hv = V Trong đó: Hv - Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp. D - Doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ. V - Toàn bộ vốn sử dụng bình quân trong kỳ. Vốn của doanh nghiệp bao gồm: vốn cố định và vốn lưu động, do đó ta có các chỉ tiêu cụ thể sau:  Hiệu quả sử dụng vốn cố định D HVCĐ = Vcd Trong đó: HVCĐ : Hiệu quả sử dụng VCĐ Vcđ : Vốn cố định bình quân sử dụng trong kỳ  Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = D HVLĐ = VLĐ Trong đó: HVLĐ: Hiệu quả sử dụng VLĐ VLĐ : Vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cho biết: Một đồng vốn của doanh nghiệp sử dụng bình quân trong kỳ làm ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao, đồng thời chỉ tiêu này còn cho biết doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu Sinh viên: Phạm Thị Chanh 13 Lớp: Tài Chính 40C
  14. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính quả sử dụng vốn thì phải quản lý chặt chẽ và tiết kiệm về nguồn vốn hiện có của mình. 1.2.2.2 - Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Tuy nhiên, để phản ánh chính xác hơn ta cần xem xét đến cả số tuyệt đối và số tương đối thông qua việc so sánh giữa tổng số vốn bỏ ra với số lợi nhuận thu được trong kỳ. Các chỉ tiêu phản ánh tỷ suất lợi nhuận.  Tỷ suất lợi nhuận của toàn bộ vốn kinh doanh.  LNST TLN Vkd = x100 Vkd Trong đó: TLN Vkd - Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn kinh doanh. LNST - Tổng lợi nhuận sau thuế trong kỳ. Vkd - Tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ.  Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động:  LNST TLN VLĐ = x100 Vld Trong đó: VLĐ : Tổng vốn lưu động bình quân trong kỳ. TLNVLĐ: Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động  Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định, TLNVCĐ.  LNTS T LNVCĐ = x100 VCD Trong đó: VCĐ - Tổng vốn cố địng bình quân trong kỳ. Các chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp thì mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. 1.2.3 - Một số chỉ tiêu khác phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp 1.2.3.1 - Tốc độ luân chuyển VLĐ Là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng vốn của DN. Nó bao gồm các chỉ tiêu sau: Sinh viên: Phạm Thị Chanh 14 Lớp: Tài Chính 40C
  15. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính  Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ: Là số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ, nó đươc xác định như sau: D C = V ld Trong đó: C - Số vòng quay vốn lưu động. D - Doanh thu thuần trong kỳ. Vlđ - Vốn lưu động bình quân trong kỳ. Vốn lưu động bình quân tháng, quý, năm được tính như sau: Vốn LĐBQ tháng = (VLĐ đầu tháng + VLĐ cuối tháng)/2 Vốn LĐBQ quý, năm = (VLĐ1/2 + VLĐ2 + +VLĐn-1+ VLĐn/2)/(n-1). Trong đó: VLĐ1, VLĐn - Vốn lưu động hiện có vào đầu tháng. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ VLĐ của doanh nghiệp luân chuyển càng nhanh, hoạt động tài chính càng tốt, doanh nghiệp cần ít vốn mà tỷ suất lợi nhuận lại cao.  Số ngày luân chuyển: Là số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động. T TxV N = = LD C D Trong đó: N - Số ngày luân chuyển của một vòng quay vốn lưu động. T - Số ngày trong kỳ.  Hệ số đảm nhiệm LVĐ: V H = LD D Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra được một đồng doanh thu thì doanh nghiệp cần bao nhiêu đồng VLĐ. Hệ số này càng nhỏ càng tốt.  Mức tiết kiệm VLĐ: Nó thể hiện trong quá trình sử dụng VLĐ do sự thay đổi tốc độ quay của nó. Có hai cách xác định: D1  Cách 1: M-+ = VLĐ1 - C0 Sinh viên: Phạm Thị Chanh 15 Lớp: Tài Chính 40C
  16. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Trong đó: M-+ - Mức tiết kiệm hay lãng phí VLĐ. VLĐ1 - Vốn lưu động bình quân kỳ này. D1 - Doanh thu thuần bình quân kỳ này. C0 - Số vòng quay vốn lưu động kỳ trước. D1  Cách 2: M+ = (N1 - N0) x T Trong đó: N1, N0 - Thời gian luân chuyển VLĐ kỳ này, kỳ trước T - Số ngày trong kỳ 1.2.3.2 - Phân tích tình hình và khả năng thanh toán  Phân tích tình hình thanh toán: Chính là xem xét mức độ biến thiên của các khoản phải thu, phải trả để từ đó tìm ra nguyên nhân của các khoản nợ đến hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các khoản nợ đến hạn chưa đòi được.  Phân tích khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán của DN phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu sau: TSLĐ *Hệ số thanh toán ngắn hạn = Nợ ngắn hạn Vốn bằng tiền * Hệ số thanh toán tức thời = Nợ đến hạn Vốn bằng tiền +Các khoản phải thu * Hệ số thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Ngoài ra, ta còn sử dụng chỉ tiêu về cơ cấu tài chính như: Sinh viên: Phạm Thị Chanh 16 Lớp: Tài Chính 40C
  17. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Nợ phải trả * Hệ số nợ vốn cổ phần = Vốn chủ sở hữu  Vốn chủ sở hữu * Hệ số cơ cấu nguồn vốn =  Nguồn vốn Đó là các chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 1.2.4 - Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp Để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp thì chúng ta cần phải xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến nó. 1.2.4.1- Cơ cấu vốn Cơ cấu vốn là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nhiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó của mỗi nguồn để tài trợ cho tổng tài sản của nó. Các doanh nghiệp khác nhau sẽ có cơ cấu vốn khác nhau, do đó chi phí vốn sẽ khác nhau. Cơ cấu vốn có liên quan đến việc tính chi phí vốn. Để sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động thì ban quản lý phải tìm ra một cơ cấu vốn phù hợp với tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp. 1.2.4.2 - Chi phí vốn Cũng như các yếu tố đầu vào khác, muốn có vốn để sử dụng thì chúng ta phải trả chi phí. Như vậy, ta có thể hiểu một cách khái quát về chi phí vốn như sau: Chi phí vốn tức là chi phí phải trả cho việc huy động và sử dụng vốn. Nó được đo bằng tỷ suất doanh lợi mà doanh nghiệp cần phải đạt được trên nguồn vốn huy động để giữ không làm thay đổi tỷ lệ sinh lời cần thiết dành cho cổ đông cổ phiếu thường hay vốn tự có của doanh nghiệp. Nguồn vốn huy động cho các doanh nghiệp khác nhau sẽ có chi phí vốn khác nhau. Đối với các doanh nghiệp, nguồn vốn được huy động bởi các nguồn sau: Sinh viên: Phạm Thị Chanh 17 Lớp: Tài Chính 40C
  18. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính - Vốn do Nhà nước cấp. - Vốn vay Ngân hàng. - Lợi nhuận giữ lại. - Vốn vay của đơn vị khác. - Vốn liên doanh - liên kết. Nhưng ở đây ta chỉ xét đến chi phí của vốn vay Ngân hàng và vốn ngân sách cấp.  Chi phí của vốn vay Ngân Hàng bao gồm: - Chi phí của nợ vay trước thuế, Kd: Là lãi tiền vay, được đo bằng tỷ lệ sinh lời trên vốn vay đủ để trả lãi cho nợ vay. Ví dụ: Khi DN vay tiền với lãi suất 10% thì chi phí của vốn vay trước thuế là 10%. - Chi phí của nợ vay sau thuế, Kd(1-t): Vì chi phí trả lãi cho nợ vay được nằm trong chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp để tính thuế thu nhập doanh nghiệp nên lãi suất sau thuế mà doanh nghiệp phải trả thấp hơn tỷ lệ sinh lời tại thời điểm đáo hạn của những trái phiếu. Ví dụ: DN có thu nhập trước thuế 100T, thuế TNDN là 32%, vay nợ với lãi suất 10%. (Vay 40T). Khi đó, chi phí sau thuế của nợ vay là: Kd(1 - t) = 10% (1 - 0,32) = 6,8% Chi phí sau thuế của nợ được sử dụng để tính chi phí bình quân gia quyền của vốn.  Chi phí liên quan đến vốn ngân sách cấp: Theo nghị định 59/CP về thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước hàng năm phải trả 6% trên tổng số vốn Nhà nước cấp cho doanh nghiệp. Do vậy, 6% được coi là chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để trả cho khoản vốn mà Nhà nước cấp cho mình. Từ đó, ta tính chi phí bình quân gia quyền của vốn được xác định như sau: WACC = Wd.Kd(1-t) + WS.KS + WP.KP Trong đó: Sinh viên: Phạm Thị Chanh 18 Lớp: Tài Chính 40C
  19. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính - Wd, WS, WP: là tỷ trọng của nợ vay, lợi nhuận giữ lại và cổ phiếu ưu tiên. - Ks là chi phí của lợi nhuận giữ lại. - Kp là chi phí của cổ phiếu ưu tiên. WACC ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải tạo ra được tỷ suất lợi nhuận lớn hơn hoặc bằng WACC. Doanh nghiệp sẽ xác định được cho mình một cơ cấu vốn tối ưu (là cơ cấu vốn làm cân bằng tối đa giữa rủi ro và lãi suất, làm cho chi phí bình quân gia quyền của vốn thấp nhất), khi đó hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ cao hơn. 1.2.4.3 - Thị trường của doanh nghiệp Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong điều kiện hiện nay cũng đều chịu tác động của thị trường. Nếu hoạt động của doanh nghiệp mà không được thị trường chấp nhận thì doanh nghiệp đó coi như không tồn tại. Vậy nhân tố nào đảm bảo cho doanh nghiệp được xã hội công nhận. Có rất nhiều yếu tố nhưng yếu tố không thể thiếu được phải kể đến là vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp mạnh hay yếu, có khả năng cạnh tranh được với các loại hình doanh nghiệp khác hay không thì phần lớn là bắt đầu từ nguồn vốn mà ra. Vốn giúp cho doanh nghiệp bước vào hoạt động, thì song song với nó là nhân tố quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp - đó là thị trường. Thị trường tác động đến cả “đầu ra” và “đầu vào” của doanh nghiệp. Nếu thị trường ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và có nhiều cơ hội hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá. Ngược lại nếu thị trường biến động thường xuyên liên tục sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp như: sự biến động về giá cả, sự tiêu thụ hàng hoá, sự thay đổi nhu cầu tiêu dùng, sở thích của các tác nhân thị trường cuối cùng là tác động đến chi phí của doanh nghiệp, mà hiệu quả sử dụng vốn là yếu tố được xem xét và quan tâm hàng đầu đối với nhà quản lý. Mặt khác, thị trường còn đóng vai trò là nơi tái tạo nguồn vốn để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất kinh doanh mở rộng trên cơ sở đẩy mạnh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 19 Lớp: Tài Chính 40C
  20. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính 1.2.4.4 - Nguồn vốn Nói đến hoạt động của doanh nghiệp ta nghĩ ngay đến vấn đề vốn nhiều hay ít sẽ tạo ra mức doanh thu lớn hay nhỏ. Như vậy, với một mức doanh thu nào đó, đòi hỏi phải có sự cân bằng tương ứng với một lượng vốn. Tuy nhiên, mối quan hệ đó không phải lúc nào cũng tỷ lệ thuận với nhau, điều đó còn phụ thuộc vào hiệu quả quản lý, sử dụng vốn kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp có một đặc điểm khác nhau, nhưng tóm lại nó thường bao gồm các khoản vốn sau: Vốn vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn chủ sở hữu, vốn ngân sách cấp, vốn liên doanh - liên kết và nhiều nguồn vốn khác. Như vậy, vốn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn như thế nào?  Đối với nguồn vốn vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Để có được nguồn vốn sử dụng thì doanh nghiệp phải bỏ chi phí ra trả cho việc sử dụng nó. Tỷ lệ này thường xuyên thay đổi tuỳ thuộc vào trạng thái của nền kinh tế và số lượng vốn vay của doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp không thể vay bao nhiêu tuỳ thích, mà nó phụ thuộc vào hạn mức tín dụng. Nếu vượt quá hạn mức thì Ngân hàng sẽ không cho vay nữa. Trước khi tiến hành huy động vốn thì doanh nghiệp phải tính đến yếu tố chi phí mà mình phải bỏ ra để trả cho việc huy động đó. Chi phí này lại nằm trong công tác về sử dụng vốn.  Đối với nguồn vốn chủ sở hữu : Như đã nêu ở trên, DNNN phải làm ăn có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn thì Nhà nước mới cấp phát vốn cho doanh nghiệp. Còn đối với công ty cổ phần thì đảm bảo được tỷ suất doanh lợi cao hơn tỷ lệ lợi tức yêu cầu của các nhà đầu tư Để có được những nguồn vốn đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải đạt được mục tiêu kinh doanh của mình. Để đạt được mục tiêu kinh doanh thì doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả sử dụng vốn.  Các nguồn vốn khác. Các nguồn vốn khác bao gồm: Vốn chiếm dụng của cá nhân, đơn vị khác trong và ngoài doanh nghiệp, vốn liên doanh - liên kết, vốn FDI, ODA Khi lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu vốn của mình, các doanh nghiệp phải cân nhắc, so sánh lợi nhuận đem lại và chi phí bỏ ra để có được chúng, từ đó xác định cho mình một cơ cấu vốn tối ưu với chi phí thấp nhất. Nếu chi Sinh viên: Phạm Thị Chanh 20 Lớp: Tài Chính 40C
  21. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính phí vốn cao sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn. 1.2.4.5 - Rủi ro kinh doanh  Trước hết ta phải hiểu rủi ro là gì? - Rủi ro: Là các biến cố không may xảy ra mà con người không thể lường trước được. Rủi ro luôn đi liền với hoạt động kinh doanh. Trong kinh doanh bao gồm các loại rủi ro sau: Rủi ro tài chính (rủi ro do sử dụng nợ), rủi ro kinh doanh (rủi ro do không sử dụng nợ vay), rủi ro trong quá trình sử dụng tài sản, vận chuyển hàng hoá  Vậy rủi ro kinh doanh là gì? - Là rủi ro cố hữu trong tài sản của doanh nghiệp, trong trường hợp doanh nghiệp không sử dụng nợ vay. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp. Khi các rủi ro xảy ra dẫn đến tình trạng doanh nghiệp bị mất uy tín, mất bạn hàng cuối cùng là thất bại trong kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn kém. Muốn thành công trong kinh doanh các doanh nghiệp phải biết chấp nhận rủi ro, phải biết đúng hướng đầu tư, xem rủi ro nào có thể chấp nhận được, rủi ro nào không thể chấp nhận được. 1.2.4.6 - Các nhân tố khác  Nhân tố con người: Là yếu tố quyết định nhất trong việc đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả trong doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có trong tay một đội ngũ cán bộ công nhân có năng lực, trình độ cao giàu kinh nghiệm làm việc, khả năng tiếp thu nhanh những công nghệ hiện đại, có tính sáng tạo sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp và ngược lại. Bên cạnh đó, với một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có đủ năng lực, khả năng, sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vì với đội ngũ này, doanh nghiệp sẽ xây dựng cho mình một phương án kinh doanh tốt nhất, biết tận dụng triệt để nguồn lực sẵn có, xây dựng mối quan hệ tốt với khách hàng, bạn hàng tạo được một ê kíp làm việc từ trên xuống dưới đoàn kết, ăn ý và có hiệu quả. Ngoài ra, trình độ quản lý về mặt tài chính hết sức quan trọng, quy trình hạch toán của doanh nghiệp có phù hợp, số liệu kế toán có chính Sinh viên: Phạm Thị Chanh 21 Lớp: Tài Chính 40C
  22. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính xác thì quyết định tài chính của của người lãnh đạo của doanh nghiệp mới có cơ sở khoa học. Việc thu chi phải rõ ràng, đúng tiến độ, kịp thời, tiết kiệm mới nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp. Việc quản lý hàng tồn kho, quản lý khâu sản xuất, tiêu thụ cũng hết sức quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DN.  Cơ chế quản lý và các chính sách của Đảng, Nhà nước. Đây là một trong những nhân tố khách quan tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước tạo hành lang pháp lý, môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp hoạt động, do đó doanh nghiệp phải chấp hành những chế độ, quy định của Nhà nước. Bất kỳ sự thay đổi nào trong cơ chế quản lý của Nhà nước đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn ngày 1/1/1999 Nhà nước ban hành và áp dụng luật thuế giá trị gia tăng đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Một cơ chế quản lý ổn định, thích hợp với các loại hình doanh nghiệp sẽ là điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, giúp cho họ yên tâm khi tiến hành sản xuất kinh doanh, dồn hết năng lực sẵn có của mình vào kinh doanh mà không sợ sự biến động của thị trường. Ngoài những yếu tố kể trên thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của nhân tố khác như: Mối quan hệ của doanh nghiệp với các bạn hàng, môi trường cạnh tranh, sản phẩm của doanh nghiệp Để hoạt động của doanh nghiệp thực sự có hiệu quả thì chúng ta phải tìm cách hạn chế tốt nhất những nhân tố gây ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và phát huy mặt tích cực, nguồn lực sẵn có với phương án kinh doanh tốt nhất sẽ đem lại sự thành công trong kinh doanh cho doanh nghiệp. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 22 Lớp: Tài Chính 40C
  23. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính chươngII: thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty công trình giao thông 208 2.1 - Thực trạng sử dụng vốn trong các DOANH nGHIệP Việt nam hiện nay 2.1.1- Thực trạng của các DN Việt nam hiện nay Trong quá trình vận hành nền kinh tế, vay nợ nước ngoài trở thành vấn đề tất yếu của các quốc gia. Chính phủ thông qua vay nợ, viện trợ phát triển và nợ của các doanh nghiệp. Đối với số nợ của các doanh nghiệp vào khoảng 4 tỷ USD nhưng chắc chắn chưa phải là con số đúng. Nhưng việc sử dụng nguồn vốn đó còn có những biểu hiện sau: - Thời gian thực hiện dự án đầu tư bị kéo dài, không đúng với dự kiến ban đầu xin vay, nên khi đến hạn trả nợ nhưng dự án chưa có nguồn thu, chưa có nguồn trả nợ nên hoặc là phải “giật gấu vá vai” lo chạy tìm kiếm các nguồn. - Không dự kiến hết được sự biến động của tỷ giá: Nhiều dự án có số vốn vay của nước ngoài lớn, khi xây dựng đã dự kiến sự biến động của tỷ giá nhưng ở mức thấp. Nhưng chỉ trong vòng 3 năm, khi dự án chưa triển khai xong mà tỷ giá giữa USD và VNĐ đã biến động tới 20% đến 30% làm dự án bị lỗ trông thấy. - Quan điểm, nhận thức còn kém, chưa thấy được vai trò của vốn vay, chưa thể hiện hết được mặt trái của nó, do đó việc sử dụng còn kém hiệu quả. - Một số dự án xin vay vốn nước ngoài với sản phẩm sản xuất ra phần lớn hay có một phần để xuất khẩu. Nhưng khi đi vào sản xuất thì đều tiêu thụ trong nước, do đó thiếu ngoại tệ để trả nợ nước ngoài Nhiều khoản tín dụng tài trợ nhập khẩu được chào mời và thực hiện với các doanh nghiệp Việt nam có các điều kiện ưu đãi nhưng giá cả lại trở nên đắt đỏ, ẩn chứa rủi ro, thiết bị cũ hoặc hàng hoá chậm tiêu thụ, hàng tồn kho chậm luân chuyển Điều này làm thiệt hại không những cho doanh nghiệp Sinh viên: Phạm Thị Chanh 23 Lớp: Tài Chính 40C
  24. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính mà còn cho cả xã hội, tổn hại đến lợi ích quốc gia. Có lẽ giải pháp đặt ra là phải thắt chặt hoạt động cơ quan kiểm định, thẩm định chất lượng của Việt nam, cần thiết phải nhờ đến tổ chức có uy tín của quốc tế để thực hiện khâu này, vì xung quanh còn có cả những vấn đề tiêu cực, tham nhũng trong vay nợ và trong nhập khẩu thiết bị không được quản lý chặt. 2.1.2 - Các DNNN thuộc Bộ GTVT, thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn. Cơ cấu và quy mô doanh nghiệp đã có sự chuyển hướng hợp lý hơn. Nguồn vốn chủ sở hữu được bổ sung và phát triển liên tục. Năm 1995 là 5.870 tỷ đồng, nhưng đến năm 2000 là 7.057 tỷ đồng tăng 20%. Cùng kỳ, tỷ lệ vốn tự bổ sung trên tổng nguồn vốn chủ sở hữu tăng từ 21,5% lên đến 33,8%. Quy mô vốn còn nhỏ, chiếm dụng lẫn nhau, thiếu vốn kinh doanh nghiêm trọng nên các doanh nghiệp buộc phải vay vốn Ngân hàng dẫn đến tăng giá thành sản phẩm. Lãi trả Ngân hàng của toàn ngành năm 2000 lên tới 353 tỷ đồng. Nhưng cũng trong năm đó (năm 2000), năm đầu tiên của các doanh nghiệp trong Bộ đạt doanh thu 16 ngàn tỷ đồng, gấp 2,21 lần năm 1995, bình quân từ năm 1995 đến năm 2000 doanh thu tăng trung bình mỗi năm là 44,2%. Song điều này cũng không giúp các doanh nghiệp tránh khỏi thực trạng hiện nay, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn chưa cao nếu không nói là thấp. Theo đánh giá của Chính phủ, tỷ trọng doanh nghiệp thực sự kinh doanh có hiệu quả chiếm khoảng 40%; doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ khoảng 20%; doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khoảng 6%; còn lại là các doanh nghiệp kinh doanh thất thường, lúc lỗ, lúc lãi. Sau đợt kiểm tra của Bộ, đã phát hiện nhiều doanh nghiệp còn tình trạng hạch toán chưa đúng chế độ, nhất là việc tính giá thành sản phẩm, dẫn đến không phản ánh chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài, thua lỗ năm trước chưa được giải quyết thì lại bị chồng thêm bởi lỗ năm sau, tất yếu rơi vào thế bế tắc. Đặc biệt có tổng công ty có tới 58% đơn vị trực thuộc lỗ vốn, lỗ luỹ kế tới đầu năm 2000 gần 30 tỷ đồng, có doanh nghiệp số lỗ gần bằng 2 lần vốn chủ sở hữu. Hiệu suất sử dụng TSCĐ và hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị trong toàn ngành nhìn chung còn thấp. Tính bình quân, hiệu suất sử dụng Sinh viên: Phạm Thị Chanh 24 Lớp: Tài Chính 40C
  25. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính TSCĐ của ngành là 0,73; doanh lợi vốn cố định là 2%. Doanh lợi doanh thu bán hàng chỉ đạt 2,8%; doanh lợi vốn là 6%. 2.2 - giới thiệu về công ty 2.2.1- Đặc điểm quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty công trình giao thông 208 là doanh nghiệp nhà nước thuộc tổng công ty công trình giao thông 4 - Bộ GTVT, hoạt động theo luật doanh nghiệp và có đầy đủ tư cách pháp nhân. Trụ sở chính của công ty đặt tại 26B -Vân Hồ II, Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Được thành lập năm 1965, với tiền thân là trạm quản lý quốc lộ Hà Nội - thuộc sở Giao thông Hà Nội. Nhiệm vụ chính của trạm là đảm bảo giao thông thông suốt tất cả các cửa ngõ vào thủ đô Hà Nội mà chủ yếu lúc đó là các bến phà, cầu phao. Đến năm 1971, công ty đổi tên là xí nghiệp quản lý sửa chữa giao thông trung ương 208 và trực thuộc cục quản lý đường bộ Việt Nam. Nhiệm vụ chính lúc này là đảm bảo giao thông thông suốt khu vực Hà Nội và ứng cứu bảo đảm giao thông trên phạm vi toàn quốc khi có lệnh điều động. Năm 1992, Xí nghiệp đổi tên thành phân khu quản lý đường bộ 208 thuộc khu quản lý đường bộ 2. Nhiệm vụ lúc này ngoài việc đảm bảo là bảo dưỡng các thiết bị, phao phà, ứng cứu đảm bảo giao thông trên toàn quốc khi có lệnh điều động, tiến hành các công trình cơ bản nhỏ. Bên cạnh đó, xí nghiệp còn đại tu sửa chữa các cầu, đường bộ, rải thảm bê tông atphal, sửa chữa và làm mới một số cầu, đường ở các tỉnh phía Bắc, xây dựng các công trình dân dụng. Đến tháng 7/1992, phân khu quản lý đường bộ 208 tách làm đôi, một nửa thành lập phân khu quản lý đường bộ 234 trực thuộc khu quản lý đường bộ 2, còn một nửa trực thuộc Cục đường bộ Việt Nam có tên là Công ty công trình giao thông 208 với nhiệm vụ như trên. Từ năm 1995 trở lại đây, phạm vi hoạt động của công ty là trên toàn quốc và nước ngoài thông qua đấu thầu dự án. Trong đó, công ty sẽ làm toàn bộ các công trình trong nước còn vốn thì có thể vay của nước ngoài như: Nguồn vốn ODA, vay của các tổ chức cá nhân khác hay của các tổ Sinh viên: Phạm Thị Chanh 25 Lớp: Tài Chính 40C
  26. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính chức tín dụng Do đó, có sự giám sát của các tổ chức nước ngoài đối với công trình công ty thực hiện. Nguồn vốn kinh doanh của công ty bao gồm: 5843068057 đồng Trong đó: Vốn do ngân sách cấp: 1623766038 đồng Vốn tự bổ sung: 4209302019 đồng Năm 1992, thực hiện việc tách công ty thành một công ty kinh doanh và một công ty quản lý nên Công ty đã gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết việc làm. Việc làm chủ yếu của công ty lúc này được tổng công ty giao là chính, trong cơ chế đấu thầu mới ra đời nên việc quản lý không chặt. Năm 1998, công ty giải quyết được 80% việc làm cho công nhân, năm 1999 công ty thắng thầu và được tổng công ty giao nên đã giải quyết được 90% việc làm và đến năm 2000 Công ty đã lo đầy đủ được 100% việc làm cho cán bộ công nhân viên. Đến năm 2001, số lượng nhân viên của công ty là 365 người, trong đó nhân viên ở 6 phòng ban là 45 người còn lại là các công nhân viên làm tại các đội, xưởng, trạm Gần 40 năm xây dựng và trưởng thành với phương châm lấy uy tín chất lượng làm đầu thì công ty công trình giao thông 208 đã có bước phát triển đáng kể, ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong xã hội. Để thấy rõ hơn được quá trình phát triển của công ty chúng ta có thể dựa vào một số chỉ tiêu sau: BCKQKD của công ty từ năm 1999 đến năm 2001. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Doanh thu thuần. 22880 42700 53576 2. Giá vốn hàng bán. 19380 37400 48334 3. Lợi nhuận gộp. 3504 5240 5242 4. Chi phí QLDN 2188 2990 2763 5.Lợi nhuận từ HĐKD 1316 2310 2479 6.Lợi nhuận từ HĐTC - 2252 - 1566 -1549 Sinh viên: Phạm Thị Chanh 26 Lớp: Tài Chính 40C
  27. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính 7. Lợi nhuận bất thường 743 - 202 -181 5.Lợi nhuận trước thuế - 193 542 749 6.Thuế phải nộp (345) 54 - 7.Lợi nhuận sau thuế 152 488 749 (Nguồn BCĐKT của công ty các năm 1999 - 2001). Từ bảng trên ta thấy doanh thu năm 2001 tăng vọt so với năm 1999. Lợi nhuận năm 1999 không có, trong khi đó năm 2001 lợi nhuận đạt những 749 triệu. Điều này, chứng tỏ công ty đang có chiều hướng phát triển lớn mạnh, điều đó được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: Doanh thu thuần, lợi nhuận sau thuế 2.2.2- Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty Công ty công trình giao thông 208 hoạt động với một số ngành nghề sản xuất kinh doanh trong đó chủ yếu là xây dựng mới đường bộ, cầu bê tông cốt thép, rải thảm bê tông atphal. Với đặc điểm riêng của sản phẩm xây dựng, nó tác động trực tiếp lên công tác tổ chức quản lý. Quy mô công trình giao thông thường là rất lớn, sản phẩm mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài, chủng loại yếu tố đầu vào đa dạng, đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn. Mặt khác, nguồn vốn kinh doanh của công ty chủ yếu là vốn vay như: vay của Ngân Hàng, vay từ Tổng 4, vay của cán bộ công nhân viên trong công ty, vay từ các tổ chức tín dụng khác nhằm đáp ứng đúng tiến độ công trình. Chẳng hạn, yêu cầu đến cuối năm có công trình mà vì ách vốn không hoàn thành được công trình sẽ gây thiệt hại cho công ty, đặc biệt là sự suy giảm về uy tín của công ty, khó khăn trong việc đấu thầu các công trình khác Đối với vốn lưu động thường xuyên thì phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty để xác định. Việc đấu thầu cần đề ra nhu cầu vốn lưu động, sau đó công ty sẽ làm tờ trình đối với Tổng 4 để Tổng xét duyệt. Sau khi được Tổng duyệt thì công ty sẽ thuyết trình với Ngân Hàng để Ngân Hàng xem xét khả năng và quyết định có nên cho vay hay không? Công ty sẽ được vay trong hạn mức tín dụng của Ngân Hàng. Nếu khoản vay của công ty lớn hơn hạn mức tín dụng thì Ngân Hàng sẽ không cho vay Sinh viên: Phạm Thị Chanh 27 Lớp: Tài Chính 40C
  28. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính mà phải đợi vốn về để trả nợ cũ sau đó vay tiếp. Đối với nhu cầu vốn lưu động đột xuất thì công ty có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhằm đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Với những nguồn vốn vay ngân hàng thì công ty phải trả lãi với lãi suất áp dụng đối với công ty là 6,2%. Lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn mức (9,3%). Như vậy, để đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này, một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp xây dựng là phải xây dựng được giá dự toán cho từng công trình (dự toán thiết kế và dự toán thi công). Trong quá trình sản xuất, thi công, giá dự toán trở thành thước đo và được so sánh với các khoản chi phí phát sinh. Khi công trình hoàn thành, giá dự toán lại là cơ sở để nghiệm thu, kiểm tra chất lượng công trình xác định giá thành quyết toán và thanh lý hợp đồng đã ký kết . Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty còn chịu ảnh hưởng của quy trình công nghệ. Hiện nay, Công ty có 3 quy trình công nghệ chính là: Làm đường mới, vá sửa đường và rải thảm đường bê tông antpha. Có thể khái quát quy trình công nghệ của công ty qua 3 sơ đồ sau: +Dây truyền làm đường mới : Đào khuôn đường trồng đá hộc rải đá 4 6Lu nèn rải đá 1 2 tưới nhựa nhũ tương 2 lớp +Vá sửa đường: Vệ sinh mặt đường cuốc, sửa vuông chỗ vá Rải đá2 4 Lu nèn Rải đá 1 2 tưới nhựa nhũ tương 2 lớp. +Rải thảm bê tông đường antpha: Vệ sinh mặt đường Bổ lỗ chân chim tưới nhựa dính bám Rải nhựa bê tông antpha Lu bánh lốp lu nặng 10 tấn đập mép đường. Trên cơ sở nắm chắc công nghệ của quá trình thi công sẽ giúp cho việc tổ chức, quản lý, theo dõi từng bước quá trình tập hợp chi phí sản xuất đến giai đoạn cuối cùng. Từ đó góp phần làm giảm chi phí sản xuất một cách đáng kể, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Với tư cách pháp nhân của mình, công ty có thể đứng ra vay vốn, thay mặt các xí nghiệp sản xuất đứng ra ký kết các hợp đồng cũng như tham gia đấu thầu Sinh viên: Phạm Thị Chanh 28 Lớp: Tài Chính 40C
  29. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính tìm việc làm cho các đơn vị. Trên cơ sở các hợp đồng kinh tế, công ty tiến hành giao khoán và điều hành sản xuất các đơn vị thành viên là: Xí nghiệp thi công cơ giới, xí nghiệp công trình giao thông I, II, III, đội 281,282, 283, 284, trạm bê tông Phú Viên, trạm bê tông Phủ Lý, trạm bê tông Văn Lâm. Như vậy, ta có: Sơ đồ tổ chức hoạt động SXKD của công ty: Công ty Xí Xí Xí Xí nghiệp nghiệp nghiệp nghiệp công công công thi trình trình trình công giao giao giao cơ giới Đội Đội Đội Đội thông thông thông 281 282 283 284 I II III Để duy trì tốt bộ máy sản xuất, công ty đã xây dựng và hoạt động theo cơ chế điều hành sản xuất kinh doanh của mình. Kế hoạch sản xuất kinh doanh mang tính pháp lệnh, các phòng ban bằng các nỗ lực chủ quản phải chấp hành nghiêm túc tổ chức thực hiện đem lại hiệu quả cao nhất. Kế hoạch sản xuất mang các nội dung: Nhiệm vụ công trình, khối lượng công việc, chất lượng sản phẩm, tiến độ hoàn thành bàn giao. Giá trị sản lượng và kinh phí cho từng công trình chia theo giai đoạn hoàn thành. Mọi hợp đồng kinh tế với các chủ đầu tư, các cơ quan trong và ngoài ngành đều do giám đốc trực tiếp ký kết không uỷ quyền cho các xí nghiệp thành viên. Những trường hợp giá trị công trình nhỏ mà chủ yếu là thuê nhân công, nếu xét thấy cần thiết thì giám đốc có thể uỷ quyền cho các xí nghiệp thành viên ký kết và tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, bản hợp Sinh viên: Phạm Thị Chanh 29 Lớp: Tài Chính 40C
  30. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính đồng đã ký kết phải nộp về phòng kinh doanh và phòng tài vụ của công ty để công ty theo dõi. Công ty giao kế hoạch kèm theo các điều kiện đảm bảo thực thi kịp thời: Hồ sơ, mặt bằng, tiềnvốn (theo từng giai đoạn nếu công trình kéo dài). Các xí nghiệp chịu trách nhiệm thực hiện, huy động nhân lực, vật tư thiết bị đưa vào sản xuất, chịu trách nhiệm về công trình, giá thành xây dựng cũng như an toàn trong sản xuất, phải giao nộp sản phẩm theo đúng kế hoạch ấn định được giao. Công ty theo dõi, giám sát, hướng dẫn tập hợp hồ sơ để thanh toán dứt điểm với xí nghiệp, đồng thời bàn giao ngay công trình cho chủ đầu tư. Khi giao việc làm cho các xí nghiệp, công ty có các hình thức khoán sau đây: Khoán gọn công trình, khoán theo dự toán, khoán nhân công thiết bị. Nguyên tắc của khoán là đảm bảo đúng chất lượng, tiến độ, động viên công nhân viên hăng hái trong lao động sản xuất. Tỷ lệ công ty thu theo từng loại công trình là: Từ 5% đến 20% của doanh thu. Đối với công trình chọn thầu, chỉ định thầu công ty tìm kiếm thì thu tối đa 20%. Đối với công trình đấu thầu: Tuỳ theo tình hình cụ thể, giám đốc công ty ký kết hợp đồng giao lại cho cá nhân hoặc đơn vị chịu trách nhiệm thi công và giao nộp sản phẩm cho bên A thì công ty thu 5% (không kể các khoản thuế). Chi phí tại công ty bao gồm chi phí cho toàn bộ máy quản lý của công ty, nộp thuế GTGT, thuế lợi tức, tiền thuê về sử dụng vốn, phân phối lợi nhuận, các quỹ doanh nghiệp. Đảm bảo tích luỹ chung và các hoạt động xã hội khác. Các khoản chi BHYT, BHXH, KPCĐ, bảo hộ lao động sẽ tập trung chi tại văn phòng công ty và phân bổ cho các xí nghiệp khi thanh toán nội bộ hàng năm. Tại các xí nghiệp được hưởng từ 80% đến 90% doanh thu thì chi phí dùng để chi trả cho giá thành công trình như: Nhân công, nguyên nhiên vật lệu, chi phí máy cho các hoạt động quản lý xí nghiệp, trả lãi vốn vay và mọi quyền lợi của người lao động. Đối với những công trình bàn giao kế hoạch, xí nghiệp phải có trách nhiệm cho đến khi có biên bản phúc tra và chịu trách Sinh viên: Phạm Thị Chanh 30 Lớp: Tài Chính 40C
  31. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính nhiệm bảo hành theo qui định. Đối với công trình do xí nghiệp tự tìm kiếm thì xí nghiệp hoàn toàn chịu trách nhiệm. Về vốn ứng cho sản xuất, công ty căn cứ vào bảng tổng hợp khối lượng, tiến độ thi công, trên cơ sở xác nhận các phòng chức năng để cho vay vốn trên nguyên tắc: ứng kỳ sau phải nộp chứng từ chi tiêu kỳ trước và công ty để bất cứ công trình nào ứng quá về giá trị vật tư, tiền lương hoặc không quá 80% giá trị thực hiện. Các xí nghiệp phải căn cứ vào tiến độ sản xuất và nhu cầu xí nghiệp, cân đối khả năng vay ứng của công ty để chuẩn bị vốn sản xuất như: Hợp đồng mua, bán, thuê mướn, các hoá đơn xuất hàng, các chứng từ hợp pháp khác 2.2.3 - Đặc điểm bộ máy quản lý của công ty Cũng như các doanh nghiệp xây dựng cơ bản khác, bộ máy quản lý của công ty công trình giao thông 208 chịu ảnh hưởng rất lớn của đặc điểm ngành xây dựng cơ bản. Mô hình tổ chức bộ máy sản xuất, tổ chức bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo hình thức trực tuyến chức năng như: Từ công ty đến xí nghiệp, đội sản xuất, tổ sản xuất đến người lao động theo tuyến kết hợp với các phòng ban chức năng. Đứng đầu công ty là giám đốc công ty giữ vai trò lãnh đạo chung toàn công ty, là đại diện pháp nhân của công ty trước pháp luật, đại diện cho quyền lợi của công nhân viên toàn công ty và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Người giúp việc cho giám đốc là các phó giám đốc. Với 6 phòng, ban như : Phòng tài chính - kế toán, phòng tổ chức hành chính, phòng kế hoạch, phòng thiết bị vật tư, phòng kỹ thuật và phòng tổ chức cán bộ lao động. Trong đó: Phòng tài chính kế toán : Bao gồm 6 người, có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện công tác hạch toán trong công ty theo yêu cầu, chế độ kế toán nhà nước theo dõi hạch toán các khoản chi phí phát sinh, kiểm tra giám sát xem các khoản chi phí đã hợp lý chưa, từ đó giúp giám đốc đưa ra các biện pháp khắc phục. Đồng thời phòng kế toán cũng phải chịu trách nhiệm lo thanh toán vốn, đảm bảo cho công ty có vốn liên tục hoạt động. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 31 Lớp: Tài Chính 40C
  32. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Phòng tổ chức hành chính tổng hợp: Giải quyết mọi công việc có liên quan đến tiền lương và công tác văn phòng trong công ty như: tổ chức sản xuất quản lý, hồ sơ cán bộ, chính sách lao động tiền lương, lập phương án trang bị sửa chữa nhà cửa, tài sản phục vụ cho hoạt động chung của cả công ty. Phòng kế hoạch: Có nhiệm vụ tìm hiểu thị trường, khai thác hợp đồng nhận thầu, lập các hợp đồng kinh tế, lập và kiểm tra kế hoạch sản xuất của toàn công ty, lập kế hoạch thực hiện các hợp đồng nhận thầu, tổ chức điều độ sản xuất, tổ chức thanh toán công trình. Phòng thiết bị - vật tư: Không phải trực tiếp mua vật tư mà chỉ tìm kiếm các nguồn vật tư ổn định, rẻ nhất, giúp các xí nghiệp tìm kiếm nguồn vật tư. Phòng kỹ thuật: Có nhiệm vụ vẽ thiết kế và giám sát thi công đối với các đội sản xuất trên các mặt: Tiến độ thi công, định mức tiêu hao vật tư, nghiệm thu công trình Bên cạnh đó, phòng kỹ thuật - vật tư cùng phối hợp với các phòng ban khác lập dự toán công trình giúp công ty tham gia đấu thầu và giám sát thi công sau này. Phòng tổ chức cán bộ lao động: Giải quyết mọi công việc có liên quan đến các tổ chức lao động, phân phối và lên kế hoạch về các vấn đề nhân sự của công ty. Do các công trình có địa điểm, thời gian thi công khác nhau nên lực lượng lao động của công ty được tổ chức thành các xí nghiệp sản xuất, các đội công trình và dưới đó lại được tổ chức thành các tổ sản xuất theo yêu cầu của thi công. ở mỗi xí nghiệp hoặc mỗi đội công trình thì có giám đốc hoặc đội trưởng và các nhân viên kinh tế kỹ thuật chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp về kinh tế, kỹ thuật. Phụ trách các tổ sản xuất là các tổ trưởng . Cách tổ chức lao động, tổ chức quản lý sản xuất như trên tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc giám sát, theo dõi, quản lý tốt hơn tới từng đội công trình, từng đội sản xuất, đồng thời tạo diều kiện thuận lợi để công ty có thể ký kết hợp đồng làm khoán tới từng đội công trình, từng đội sản xuất. Từ những điều trình bày ở trên, ta có thể khái quát sơ đồ bộ máy quản lý của công ty như sau: Sinh viên: Phạm Thị Chanh 32 Lớp: Tài Chính 40C
  33. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty: Công ty Phòng Phòng Phòng tổ Phòng Phòng Phòng tổ tài chức kế thiết kỹ chức chính hành hoạch bị- vật thuật cán bộ kế chính tư lao toán động Xí Xí Xí Xí nghiệp nghiệp nghiệp nghiệp Đội thi công công công Đội Đội Đội 283 công trình trình trình 281 282 284 cơ giới GT I GT II GT III 2.3 - Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty công trình giao thông 208 2.3.1 - Khái quát chung về nguồn vốn của công ty Cũng như những DNNN khác, công ty CTGT 208 đã chủ động và tự tìm kiếm cho mình nguồn vốn thị trường để tồn tại. Nhờ sự năng động, sáng tạo, công ty đã nhanh chóng thích ứng với kiều kiện, cơ chế thị trường nên kết quả hoạt động SXKD của công ty trong những năm qua rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, do sự cạnh tranh gay gắt trong cơ chế mới nên doanh nghiệp đã có phần nào chịu ảnh hưởng theo cơ chế chung. Để hiểu rõ hơn về kết quả kinh doanh của công ty ta phải hiểu, biết xem công ty đã sử dụng các nguồn lực, tiềm năng sẵn có của mình như thế nào? Trong đó, việc đi sâu, phân tích về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty là rất cần thiết. Qua xem xét tình hình hoạt động kinh doanh của công ty năm 2001 cho thấy tổng số vốn Sinh viên: Phạm Thị Chanh 33 Lớp: Tài Chính 40C
  34. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính đầu tư vào hoạt động SXKD là: 49.797.246.528 đồng (ở đầu năm 2001) đến cuối năm số vốn này tăng lên tới: 70.128.306.434 đồng. Trong đó, đầu năm: - Vốn lưu động chiếm: 0.586.697.975 đồng. - Vốn cố định chiếm: 9.210.548.553 đồng. Đến cuối năm số vốn này đạt lần lượt là: - Vốn cố định: 10.037.655.134 đồng. - Vốn lưu động: 60.090.651.320 đồng. Nguồn vốn này hình thành từ hai nguồn: (Cuối năm 2001) - Vốn chủ sở hữu: 3.550.150.632 đồng. - Nợ phải trả: 66.578.155.822 đồng. Cụ thể về nguồn vốn của công ty được thể hiện qua bảng sau: Biểu 1: Nguồn hình thành vốn của công ty CTGT 208. Đơn vị: Triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Tổng số 49798 100 70.128 100 I. Vốn chủ sở hữu 2178 4,37% 3.550 5,06% 1.Nguồn vốn và quỹ Nguồn vốn kinh doanh 5065 10,17% 5159 7,36% Chênh lệch đánh giá lại TS 796 1,6% 796 1,14% Lợi nhuận chưa phân phối - 3802 - 7.63% - 2424 - 3,46% Nguồn vốn ĐTXDCB 94 0,19% - - 2. Nguồn kinh phí 25 0,05% 19 0,03% II. Nợ phải trả 47620 95,63% 66.578 94,94% Nợ dài hạn 2412 4,84% 3.874 5,52% Nợ ngắn hạn 42377 85,1% 58.899 83,99% Nợ khác 2.831 5,68% 3.805 5,42% ( Nguồn : Bảng CĐKT công ty CTGT 208 năm 2000; 2001) Từ bảng số liệu trên, ta có các chỉ tiêu năm 2001 của công ty là: Sinh viên: Phạm Thị Chanh 34 Lớp: Tài Chính 40C
  35. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Tổng số nợ 66.578 Hệ số nợ = = = 94,94% Tổng số vốn của công 70.128 ty Nợ dài hạn = 3874 = Hệ số nợ dài hạn = Vốn CSH +Nợ dài hạn 3.550 +3.874 = 52,18% Từ việc tính toán trên ta thấy: - Hệ số nợ của công ty rất lớn (94,94%) trong khi đó vốn tự có chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn (5,06%). Để đánh giá chính xác hơn ta đi vào phân tích bảng biểu sau: Biểu 2: Cơ cấu tài sản của công ty CTGT 208 năm 2001. Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Chênh lệch Lượng % Lượng % Lượng % Tổng giá trị TS 49798 100 70128 100 20330 - I. TSLĐ & ĐTNH 40587 81,5% 60.091 85,69% 19.504 4,19% 1. Vốn bằng tiền 3155 6,34% 2871 4,09% - 284 -2,25% 2. Nợ phải thu 13147 26,4% 27906 39,79% 14759 13,39% 3. Hàng tồn kho 13915 27,94% 22084 31,49% 8169 3,55% 4. LSLĐ khác 10370 20,82% 7230 10,31% -3140 -10,51% II.TSLĐ & ĐTDH 9211 18,5% 10037 14,31% 826 -4,19% 1.TSCĐHH 8785 17,64% 9613 13,71% 828 -3,93% - Hao mòn -12868 -25,84% -15304 21,82% 2436 4,02% - Nguyên giá 21653 43,48% 24916 35,53% 3263 - 7,95% 2. ĐTDH 19 0,04% 19 0,03% - - 0,01% 3. CPXDCBDD 407 0,82% 405 0,58 - 2 - 0,24% (Nguồn: Bảng CĐKT của công ty CTGT 208 ngày 31/12/01).  Về cơ cấu tài sản: TSLĐ & ĐTNH là 40.587 trđ (81,5%) vào đầu năm. Đến cuối năm đã tăng lên là 60.091 trđ (85,69%), trong đó phần lớn là nằm ở nợ phải thu chiếm 39,79%, hàng tồn kho chiếm 31,49% tổng giá trị tài Sinh viên: Phạm Thị Chanh 35 Lớp: Tài Chính 40C
  36. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính sản của công ty. Tài sản là hiện vật (hàng tồn kho, TSCĐ, công trình XDCB dở dang) là 32.104 trđ, chiếm 45,78%; tài sản còn lại là vốn bằng tiền, công nợ phải thu, đầu tư tài chính dài hạn chiếm 54,22%. Những tỷ lệ này cho thấy việc đầu tư dài hạn vào cơ sở vật chất kỹ thuật hình thành TSCĐ của DN còn thấp, công nghệ lạc hậu, nguồn vốn còn hạn chế. Cụ thể một số nhóm tài sản như sau:  Về nợ phải thu: Tại thời điểm ngày 31/12/2001 là 27.906 trđ chiếm 39,79% tổng giá trị tài sản của DN. Tình hình này cho thấy vốn của Công ty bị chiếm dụng lớn. Hơn nữa, trong khi các vốn khác chiếm tỷ trọng thấp mà nợ phải thu lại có xu hướng tăng lên (đầu năm là 13.147 trđ, đến cuối năm là 27.906 trđ) với tỷ trọng tăng tương đối là 13,39%. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm tình hình, hiệu quả sử dụng vốn của công ty gây cho công ty khó khăn hơn trong hoạt động kinh doanh, làm giảm lợi nhuận của công ty. Vì các khoản nợ phải thu này không sinh lời, làm giảm tốc độ quay vòng của vốn. Để đáp ứng đủ cho các nhu cầu về các nguồn khác thì DN phải đi vay, phải trả lãi suất. Đây là điều còn hạn chế trong sử dụng vốn của Công ty, đòi hỏi công ty cần xem xét để đưa ra phương án tốt nhất cho việc sử dụng vốn của mình.  Về hàng hoá tồn kho: Tại thời điểm ngày 31/12/2001 là 22.084 triệu đồng chiếm 31,49% tổng giá trị tài sản so với tổng giá trị TSLĐ thì hàng hoá tồn kho chiếm 36,75%, trong khi đó vốn bằng tiền 2871 trđ chiếm 4,09%, nợ phải thu của công ty 27.906 triệu đồng chiếm 39,79%. Điều này cho thấy việc sử dụng vốn chưa hiệu quả, phần lớn vốn lưu động đọng ở khâu thanh toán, công nợ.  Giá trị vật tư, hàng hoá tồn kho, ứ đọng không cần dùng, kém phẩm chất, chưa có biện pháp xử lý kịp thời nhất là vật tư ứ đọng từ những công trình rất lâu không còn phù hợp nữa. Gánh nặng chi phí bảo quản, cất giữ tăng thêm làm cho tình hình tài chính của DN càng khó khăn.  Về tài sản cố định: TSCĐ của công ty là 9613 trđ chiếm 13,7% trong tổng tài sản, trong đó nguyên giá là 24.916 triệu đồng chiếm 35,53% giá trị còn lại là 9613 triệu đồng chiếm 38,58% ngyuên giá, tỷ lệ hao mòn là 61,42%. So với thời điểm đầu năm 2001, nguyên giá là 21.653 triệu đồng chiếm 43,48%, nguyên giá TSCĐ tăng 3263 triệu đồng, tài sản tăng thêm Sinh viên: Phạm Thị Chanh 36 Lớp: Tài Chính 40C
  37. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính một phần bởi điều chỉnh giá, chủ yếu do DN đầu tư mới vào các trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ cho văn phòng, đội thi công  Giá trị còn lại của TSCĐ là 38,58% cho thấy tài sản của công ty cũ nhiều, mức độ đầu tư đổi mới TSCĐ trong các năm quá chậm. Ngoài ra, có thể chưa tính hết mức hao mòn vô hình của tài sản, nếu tính đủ tỷ lệ này còn thấp hơn. Để xem xét tài sản có được tài trợ như thế nào ta sẽ nghiên cứu cơ cấu nguồn vốn của DN thông qua bảng biểu sau: Biểu 3: Cơ cấu nguồn vốn của Công ty CTGT 208 năm 2001 Đơn vị: Triệu đồng Đầu năm Cuối năm Chênh lệch Chỉ tiêu Lượng % Lượng % Lượng % I- Nợ phải trả 47.620 95,63% 66.578 94,94 18.958 - 0,69% 1. Nợ ngắn hạn 42.377 85,1% 58.899 83,99 16.522 -1,11% Vay ngắn hạn 26.339 52,89% 38.534 54,95 12.195 2,06% Phải trả người bán 2.838 5,7% 2.982 4,25 144 -1,45% Người mua trả trước 7.307 14,67% 6.100 8,7 -1.207 -5,97% Phải nộp NSNN 390 0,78% - 452 -0,64 - 842 -1,42% Phải trả khác 5.503 11,05% 11.735 16,73 6232 5,68% 2. Nợ dài hạn 2.412 4,84% 3874 5,52 1462 0,68% 3. Nợ khác 2.831 5,68% 3.805 5,43 974 - 0,25% II- Vốn CSH 2.178 4,37% 3.550 5,06 1372 0,69% 1 Nguồn vốn và quỹ % - Nguồn VKD 5.065 10,17% 5.159 7,36 94 -2,81% - + đánh giá lại 796 1,6% 796 1,14 - - 0,46% TS LN chưa phân phối -3.802 -7,63% -2.424 -3,46 1.378 4,17% Nguồn vốn ĐTXDCB 94 0,19% - - -94 -0,19% 4. Nguồn kinh phí 25 0,05% 19 0,03 -6 -0,02% * Tổng nguồn 49.798 100% 70.128 100 20.330 - (Nguồn: bảng CĐKT của công ty ngày 31/12/2001). Từ bảng biểu trên ta thấy tài sản của DN được hình thành từ hai nguồn là: - Nguồn vốn vay và chiếm dụng. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 37 Lớp: Tài Chính 40C
  38. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính - Nguồn vốn chủ sở hữu. Trong đó: Vốn vay và vốn chiếm dụng chiếm 95,63% vào đầu năm, đến cuối năm tăng về lượng là 18958 triệu đồng nhưng tỷ trọng lại giảm đi còn 94,94%. Vốn chủ sở hữu chiếm một lượng rất nhỏ 5,06%. Như vậy, DN có một đồng vốn thì phải vay hoặc chiếm dụng gần 19 đồng cho kinh doanh (94,94/5,06 = 19 lần) của mình. Tuy nhiên, số liệu này chỉ mới phản ánh tại thời điểm 31/12/2001, do vậy, chưa phản ánh hết tình hình huy động vốn của DN. Tỷ trọng vốn vay của DN rất lớn đòi hỏi DN phải đạt mức doanh lợi cao mới đủ trả lãi vay Ngân hàng.  Về nguồn vốn CSH: Tổng nguồn vốn chủ sở hữu cuối năm là 3.550 triệu đồng, trong đó đầu năm là 2178 triệu đồng, gấp 1,63 lần. Đặc biệt là lợi nhuận chưa phân phối của DN đến cuối năm có phần khá hơn nhưng đó vẫn chỉ là con số âm. Nguồn vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu đánh giá khả năng tự chủ về tài chính của DN. Một DN có mức vốn CSH cao sẽ chủ động về năng lực hoạt động của mình, không bị phụ thuộc vào các đối tác bên ngoài. Như vậy, nguồn vốn CSH của DN quá nhỏ (5,06%), chứng tỏ khả năng tự chủ về tài chính là quá thấp so với chỉ tiêu của toàn ngành.  Về nợ phải trả: Tổng số nợ phải trả là 47.620 triệu đồng vào đầu năm, cuối năm con số này tăng lên là 66.578 triệu đồng bằng 1,39 lần và tăng 2,39 (666578/27906) lần nợ phải thu. Khoản nợ phải trả này DN phải mất chi phí cho việc sử dụng nó là lãi suất trong khi đó các khoản phải thu thì DN lại không được hưởng lãi. Đây là điều không hợp lý trong sử dụng vốn của công ty. Các khoản phải trả tăng lên phần lớn là do sự tăng lên của các khoản phải thu, hàng tồn kho của DN. Cũng từ biểu 3 ta thấy, nếu xét về tỷ trọng thì tất cả các khoản phải trả bao gồm: nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, nợ khác đều, có xu hướng giảm đi, riêng nợ dài hạn có xu hướng tăng lên. Điều này chứng tỏ công ty đã chú ý đến đầu tư vào TSCĐ nhằm đổi mới thiết bị công nghệ, sử dụng hợp lý hơn nguồn vốn vay của mình. Như vậy, qua phân tích về cơ cấu tài sản, nguồn vốn của công ty công trình giao thông 208 năm 2001, ta thấy: - Tổng tài sản của công ty tăng 20.330 triệu đồng. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 38 Lớp: Tài Chính 40C
  39. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính - Các loại tài sản khác đều có xu hướng tăng lên riêng vốn bằng tiền và TSLĐ khác có xu hướng giảm. - Nợ phải trả và vốn CSH cũng tăng lần lượt là 18.958 triệu đồng và 1.372 triệu đồng Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng vốn của công ty còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Để hiểu chính xác hơn ta đi sâu vào nghiên cứu vốn cố định và vốn lưu động của DN, từ đó giúp ta có được cái nhìn đầy dủ hơn về tình trạng sử dụng vốn tại công ty CTGT 208. 2.3.2 - Thực trạng công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn cố định tại công ty công trình giao thông 208 Vốn cố định là một phần của vốn kinh doanh để tạo nên nguồn vốn của DN. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, nó cho phép giảm tỷ suất chi phí lưu thông và tăng doanh lợi kinh doanh của DN. Qua phân tích ở trên ta thấy vốn cố định của công ty chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, nhưng để đánh giá chính xác được hiểu quả sử dụng vốn cố định của công ty tốt hay xấu, ta phải đi sâu phân tích các chỉ tiêu sau: 2.3.2.1 - Tình hình sử dụng vốn cố định của công ty Để đánh giá được tình hình sử dụng vốn cố định của công ty ta nghiên cứu bảng biểu sau: Biểu 4: Cơ cấu vốn cố định của công ty CTGT 208 Đơn vị: Triệu đồng Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Chỉ tiêu 1.TSCĐ HH(GTCL) 5.145 6.174 8.785 9.613 - Hao mòn luỹ kế 13544 14396 12868 15304 - Nguyên giá 18.689 20.570 21.653 24.916 2.TSCĐ (ĐTCKDH) 19 19 19 19 3. CF XDCBDD 623 728 407 405 4. Tổng 5.787 6.921 9.211 10.037 ( Nguồn : BCTC của công ty từ năm 1998 - 2001) Qua bảng biểu 4 ta thấy: Sinh viên: Phạm Thị Chanh 39 Lớp: Tài Chính 40C
  40. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính TSCĐHH của công ty chiếm phần lớn trong tổng TSCĐ và ĐTDH của DN. TSCĐHH này bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, máy thi công công trình, máy vi tính, máy đóng cọc và nhiều máy móc phục vụ cho quá trình kinh doanh của công ty. Với hoạt động chủ yếu là xây dựng các công trình, đường quốc lộ mà tỷ trọng TSCĐHH lại chiếm quá cao trong tổng số tài sản cố định của công ty. Năm 1998 tỷ trọng này đạt 89,9%, năm 1999 đạt 89,2%, năm 2000 đạt 95,4%, đến năm 2001 tỷ trọng này đạt 95,8%. Như vậy, tỷ trọng tài sản cố định hữu hình của công ty tại thời điểm lớn nhất là năm 2001 và có xu hướng tăng dần qua các năm. Điều này chứng tỏ công ty đã cố gắng đổi mới trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình thi công công trình Hơn thế nữa để hoà nhập vào xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá thương mại điện tử hiện nay thì công ty liên tục đổi mới trang thiết bị này là hoàn toàn phù hợp. Mặc dù vậy, khoản tài sản cố định dùng để đầu tư dài hạn vào chứng khoán không thay đổi qua các năm, điều này chứng tỏ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp chưa được tốt, khoản lợi nhuận giữ lại không cao. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang có xu hướng giảm dần về sau kể từ năm 1999, điều này cho thấy công ty đã từng bước sử dụng hợp lý hơn nguồn vốn của mình. Nhưng nguồn vốn của doanh nghiệp có được đảm bảo cho hoạt động kinh doanh hay không? Ta cần tính toán và so sánh giữa nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp. Ta có thể sử dụng bảng số liệu sau: Biểu 5: Tỷ suất tài trợ vốn cố định của công ty CTGT 208 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Tài sản cố định. 6174 8785 9613 2. Nợ dài hạn. 1387 2412 3874 3. Vốn chủ sở hữu 828 2178 3550 4. VLĐ thường xuyên - 3959 - 4195 - 2189 (Nguồn BCTC của công ty từ năm 1999 - 2001) Qua bảng biều ta thấy từ năm 1999 đến 2001: Nguồn vốn dài hạn < Tài sản cố định. Như vậy, vốn lưu động thường xuyên của công ty < 0. Nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho tài sản cố định. Doanh nghiệp phải đầu tư vào tài Sinh viên: Phạm Thị Chanh 40 Lớp: Tài Chính 40C
  41. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính sản cố định một phần nguồn vốn ngắn hạn. Tài sản lưu động không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn làm cho cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Do vậy, doanh nghiệp phải huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn hoặc tiến hành cả hai biện pháp trên nhằm đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp là không tốt. Cũng từ biểu 5 ta thấy doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư vào tài sản cố định nhưng tài sản cố định của doanh nghiệp lại không được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn của công ty. Để nắm rõ hơn ta xem tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp qua bảng biểu sau: Biểu 6: Tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu của công ty Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 I.Nguồn vốn kinh doanh. 5065 5065 5159 1. Nguồn vốn NSNN cấp. 2225 2225 2225 - Vốn cố định. 1460 1460 1460 - Vốn lưu động. 765 765 765 2. Nguồn vốn tự bổ sung. 2840 2840 2934 - Nguồn vốn cố định. 2697 2697 2791 - Nguồn vốn lưu động. 143 143 143 II.Các quỹ. 2 24 19 - Quỹ khen thưởng phúc lợi. 2 24 - III. Nguồn vốn ĐTXDCB. 94 94 - 1. Nguồn vốn ngân sách. - - - 2. Nguồn vốn khác. 94 94 - (Nguồn BCTC của công ty từ năm 1999 đến năm 2001 Từ biểu trên ta thấy, nguồn vốn kinh doanh của công ty (nguồn vốn cố định) tăng lên là do kết chuyển từ nguồn vốn đầu tư XDCB sang. Còn lại các nguồn khác không thay đổi do không có sự kết chuyển hoặc không được Ngân sách nhà nước cấp. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 41 Lớp: Tài Chính 40C
  42. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính 2.3.2.2 - Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại công ty CTGT 208 Không ai nghi ngờ gì về vai trò to lớn của nguồn vốn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn vay. Song cần thấy những tác động tiêu cực của nó cũng không nhỏ nếu công ty không biết quản lý và sử dụng nó một cách có hiệu quả. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty ta dựa vào một số chỉ tiêu cơ bản sau: - Hiệu quả sử dụng tài sản cố định. - Hệ số đảm nhiệm vốn cố địnhh. - Hệ số sinh lời của tài sản cố định. Các chỉ tiêu này được thể hiện rõ qua bảng biểu dưới đây Biểu 7: Hiệu quả sử dụng vốn cố định. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1.Doanh thu thuần. 22880 42700 53576 2. Tài sản cố định bình quân 5560 7480 9199 3. Hiệu quả sử dụng VCĐ (1/2) 4,12 5,71 5,82 4. Hệ số đảm nhiệm TSCĐ (2/1). 0,24 0,18 0,17 (Nguồn BCTC của công ty từ năm 1999 đến năm 2001) Qua biểu 7, ta thấy: Hiệu quả sử dụng vốn cố định cuả công ty có xu hướng tăng dần qua các năm, cụ thể: Năm 1999, một đồng vốn cố định của công ty tạo ra được 4,12 đồng doanh thu. Năm 2000, một đồng vốn cố định của công ty tạo ra được 5,71đồng doanh thu. Năm 2001, một đồng vốn cố định của công ty làm ra được 5,82 đồng doanh thu. Như vậy, năm 2000 hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty tăng (5,71/4,12) 1,39 lần so với năm 1999, trong khi đó doanh thu thuần tăng 1,87 lần còn tài sản cố định chỉ tăng 1,35 lần. Doanh thu thuần tăng nhiều hơn tốc độ tăng tài sản cố định. Năm 2001, hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty tăng 1,41 lần so với năm 1999, doanh thu thuần tăng 2,34 lần, tài sản cố định tăng 1,65 lần. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 42 Lớp: Tài Chính 40C
  43. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Cũng trong năm này, hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty tăng lên so với năm 1999 và năm 2000. Nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp ngày càng có hiệu quả là do lượng doanh thu thuần tăng đều, lớn hơn tốc độ tăng của tài sản cố định. Đây là một điều rất đáng khích lệ đối với công ty. Bên cạnh đó, ta thấy chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm vốn cố định của công ty có xu hướng giảm dần qua các năm, cụ thể: Năm 1999, để tạo ra được một đồng doanh thu, doanh nghiệp cần 0,24 đồng vốn cố định. Năm 2000, để tạo ra được một đồng doanh thu, doanh nghiệp cần 0,18 đồng vốn cố định, giảm 0,06 đồng so với năm 1999. Năm 2001, để tạo ra một đồng doanh thu, doanh nghiệp cần sử dụng 0,17 đồng vốn cố định, giảm 0,07 đồng so với năm 1999 và giảm 0,01 đồng so với năm 2000. Như vậy, hệ số đảm nhiệm tài sản cố định của công ty như thế là cao, trong khi đó tài sản cố định lại chiếm một tỷ trọng quá thấp trong tổng tài sản. Tuy nhiên, với sự tăng dần về hiệu quả sử dụng vốn cố định và sự giảm dần về hệ số đảm nhiệm tài sản cố định của công ty qua các năm cũng cho thấy công ty đã cố gắng hơn trong việc sử dụng nguồn vốn cố định của mình. Đây là một ưu thế của công ty, công ty nên phát huy mạnh hơn mặt tích cực này. Để có cái nhìn đầy đủ hơn về hiệu quả sử dụng vốn của công ty, ta xem xét đến chỉ tiêu tiếp theo là hệ số sinh lời của tài sản cố định. Hệ số này được phản ánh đầy đủ qua bảng biểu sau: Biểu 8: Hệ số sinh lời của vốn cố định Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1.Lợi nhuận sau thuế. 152 488 749 2.TSCĐ bình quân. 5560 7484 9199 3.Hệ số sinh lời củaTSCĐ 0,03 0,07 0,08 (1/2) (Nguồn BCTC của công ty từ năm 1999 đến năm 2001) Sinh viên: Phạm Thị Chanh 43 Lớp: Tài Chính 40C
  44. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Từ biểu 8, ta thấy tỷ suất sinh lời của tài sản cố định của công ty qua các năm như sau: Năm 1999, cứ một đồng vốn cố định của công ty tạo ra 0,03 đồng lợi nhuận. Năm 2000, một đồng vốn cố định của công ty tạo ra 0,07 đồng lợi nhuận, tăng 0,04 đồng so với năm 1999. Năm 2001, chỉ tiêu này là 0,08 đồng lợi nhuận, tăng 0,01đồng lợi nhuận so với năm 2000. Bên cạnh đó, ta có thể sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn CSH để xem xét khả năng sinh lợi của vốn CSH của công ty. Từ những kết quả đạt được ở trên, ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty giai đoạn 1999 - 2001 là khá ổn định và có chiều hướng biến động tốt cho hoạt động của doanh nghiệp. Đây là điều dễ thấy vì lĩnh vực hoạt động của công ty ngày càng được mở rộng và tự chủ hơn về khả năng tài chính của mình. Hơn nữa, trong những năm gần đây, khả năng thắng thầu của công ty cao hơn so với trước, các chính sách của Đảng và Nhà nước đã chú trọng vào ngành, lĩnh vực này Qua trình bày ở trên ta thấy, tài sản cố định của công ty chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng tài sản, nó ảnh hưởng gián tiếp tạo ra doanh thu, lợi nhuận cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, nên muốn có được cái nhìn tổng quát, đầy đủ về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty CTGT 208 ta phải đi sâu nghiên cứu, phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty. 2.3.3. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty. Công ty CTGT 208 là một DNNN thuộc Bộ GTVT chuyên về các lĩnh vực như: Xây dựng các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện, công trình giao thông, công trình dân dụng công nghệ. Phần lớn nguồn tài trợ cho hoạt động SXKD của Công ty là nguồn vốn ngắn hạn mà chủ yếu là vay nợ ngắn hạn. Đó không phải là nguồn vốn cho không, không phải trả lãi mà đều phải trả, nếu DN không đủ khả năng trả nợ thì số lãi sẽ càng lớn hơn do số nợ của Công ty chuyển sang nợ quá hạn. Vấn đề đặt ra ở đây là công ty phải quản lý và sử dụng số vốn đó như thế nào cho có hiệu quả nhất. Để dạt được mục tiêu về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty, ta cần nghiên cứu các vấn đề sau: Sinh viên: Phạm Thị Chanh 44 Lớp: Tài Chính 40C
  45. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính 2.3.3.1 - Cơ cấu vốn lưu động Nghiên cứu cơ cấu vốn lưu động để thấy được tình hình phân bổ vốn lưu động và tình trạng của từng khoản trong các giai đoạn luân chuyển, từ đó phát hiện những tồn tại hay trọng điểm cần quản lý và tìm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty. Để đánh giá cơ cấu vốn này ta nghiên cứu bảng biểu sau: (trang sau) Từ biểu 9 ta thấy :  Vốn bằng tiền: Năm 1999 là 2415 triệu đồng chiếm 8,76% trong tổng vốn lưu động tại công ty. Năm 2000, số vốn này tăng lên là 3155 triệu đồng nhưng về tỷ trọng lại có xu hướng giảm đi so với năm 1999. Năm 2001, số vốn bằng tiền giảm cả về số tuyệt đối (- 284) triệu đồng lẫn số tương đối (2,99%). Như vậy, vốn bằng tiền năm 2000 tăng về số tuyệt đối so với năm 1999 là 740 triệu đồng nhưng về số tương đối lại giảm đi (0,99%) do các nguyên nhân sau: Tiền mặt tại quỹ của công ty giảm đi 74 triệu đồng (0,33%), mà tiền mặt tại quỹ của công ty dùng để thanh toán lương cho cán bộ công nhân viên của công ty và thanh toán đột xuất, tạm ứng mua hàng điều này chứng tỏ công ty đã dùng khoản tiền này cho các khoản mục trên trong năm 2000 nhiều hơn năm 1999. Lượng tiền mặt này tại quỹ của công ty giảm đi là tốt vì đó cũng là số tiền mà công ty phải đi vay, phải trả lãi ngân hàng với lãi suất 0,62%/tháng, nếu công ty để tiền mặt tại quỹ nhiều sẽ lãng phí. Sang đến năm 2001 thì lượng tiền mặt tại quỹ này thay đổi không đáng kể so với năm 2000. TGNH của công ty năm 2000 tăng lên mà lượng tiền này dùng để thanh toán với nước ngoài, thanh toán với tổng hoặc để thanh toán khi công ty trúng thầu. Năm 2000 tăng so với năm 1999 là 814 triệu đồng nhưng về tỷ trọng lại có xu hướng giảm đi (0,65%). Con số này sang đến năm 2001 giảm 287 triệu đồng so với năm 2000 và giảm về số tương đối là (2,96%). Qua chỉ tiêu về vốn bằng tiền của công ty ta thấy vốn bằng tiền về số tuyệt đối thì nó biến động theo chiều hướng tăng - giảm còn về tỷ trọng thì nó Sinh viên: Phạm Thị Chanh 45 Lớp: Tài Chính 40C
  46. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính biến động theo chiều hướng giảm dần. Đây là một điểm tốt đối với công ty, công ty không nên giữ nhiều tiền mặt vì sẽ lãng phí, tránh được tình trạng vay về để đấy mà phải trả lãi cho ngân hàng, trả lãi cho đối tượng cho vay ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty do phải trả lãi nhiều hơn.  Về các khoản phải thu Năm 1999, các khoản phải thu của công ty là 14.144 triệu đồng chiếm 41,51% trong tổng số vốn lưu động.- Năm 2000, con số này là 13.147 triệu đồng chiếm 32,39% trong tổng số vốn lưu động của công ty. Năm 2001, các khoản phải thu của công ty là 27.906 trtiệu đồng tương ứng với 46,44% trong tổng vốn lưu động. Như vậy, năm 2000 các khoản phải thu của công ty giảm cả về số tuyệt đối lẫn tương đối là 997 triệu (9,12%) so với năm 1999. Nhưng năm 2001 lại tăng so với năm 2000 cả về số tuyệt đối lẫn tương đối là 14.759 triệu (14,05%). Điều này là do nguyên nhân sau: + Các khoản phải thu của khách hàng tăng lên qua các năm cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối. Đây là một điều bất lợi cho công ty, nó chứng tỏ công ty đã và đang ngày càng bị chiếm dụng vốn nhiều hơn. Hơn thế nữa, điều này sẽ làm cho công ty tạm thời thiếu vốn lưu động để tiến hành hoạt động kinh doanh, muốn đảm bảo cho quá trình SXKD của mình được liên tục, đòi hỏi công ty phải đi vay vốn, phải trả lãi trong khi đó số tiền khách hàng chịu thì công ty lại không thu được lãi. Đây là một trong những vấn đề đòi hỏi công ty cần quan tâm và quản lý chặt hơn tránh tình trạng không tốt như: Nợ khó đòi, nợ không có khả năng trả, rủi ro trong kinh doanh, rủi ro về tài chính của công ty. + Khoản trả trước cho người bán: Có xu hướng tăng lên về số tuyệt đối nhưng giảm về tỷ trọng, nếu năm 1999 là 1,84% thì năm 2001 là 1,26%. Điều này là tốt cho công ty, chứng tỏ công ty ngày càng có uy tín hơn trong kinh doanh, quan hệ tốt hơn với bạn hàng.  Các khoản phải thu nội bộ Các khoản phải thu nội bộ: Năm 1999 là 4614 triệu đồng chiếm 16,73% trong tổng vốn lưu động của công ty, nhưng sang năm 2000, 2001 Sinh viên: Phạm Thị Chanh 46 Lớp: Tài Chính 40C
  47. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính thì con số này không còn nữa. Điều này có lợi cho công ty, ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kinh doanh tại công ty Đối với các khoản phải thu khác: Cũng có chiều hướng giảm đáng kể năm 2000, 2001 giảm đi hơn một nửa so với năm 1999 (479 triệu, 433 triệu đồng so với 1021 triệu đồng). Khoản mục phải thu của công ty chiếm phần lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đòi hỏi công ty phải đưa ra giải pháp nhằm làm giảm các khoản phải thu.  Đối với hàng tồn kho Cũng từ bảng biểu 9 ta thấy hàng tồn kho của công ty có xu hướng ngày càng tăng với tốc độ tăng cao. Cụ thể: - Năm 1999 hàng tồn kho của công ty là 4.337 triệu đồng (chiếm 15,73%). - Năm 2000 hàng tồn kho của công ty là 13.915 triệu đồng (chiếm 34,28%). - Năm 2001 hàng tồn kho của công ty là 22.084 triệu đồng (chiếm 36,75%). Hàng tồn kho tăng cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối. Nguyên nhân làm cho hàng tồn kho của công ty tăng lên là: + Chủ yếu do chi phí SXKDDD tăng lên. Nếu như năm 1999, CFSXKDDD của công ty là 3592 triệu đồng (13,03%) thì đến năm 2001 là 21.490 triệu đồng (35,76%) chi phí này tăng lên chứng tỏ công ty gặp nhiều khó khăn hơn trong việc hoàn thành sản phẩm cuối kỳ. + Đối với hàng tồn kho dự trữ tài sản lưu động là nhu cầu thường xuyên đối với các đơn vị kinh doanh nhưng dự trữ ở mức nào là hợp lý đó mới là quan trọng . Nguồn dự trữ lớn sẽ làm cho vốn tăng lên, hàng hoá ứ đọng, dư thừa gây khó khăn trong kinh doanh. Nếu dự trữ thấp sẽ gây thiếu hụt, tắc ngẽn trong khâu sản xuất mà đặc điểm của công ty lại là chuyên về xây dựng các công trình nên nó phụ thuộc theo mùa vụ xây dựng. Vì vậy, dự trữ tài sản lưu động phải điều hoà sao cho vừa đảm bảo yêu cầu kinh doanh được tiến hành liên tục, vừa đảm bảo tính tiết kiệm vốn, tránh tình trạng dư thừa, ứ đọng lãng phí. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 47 Lớp: Tài Chính 40C
  48. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Với NVL tồn kho, công cụ, dụng cụ tồn kho ít biến động hơn không đáng kể  Đối với TSLĐ khác nó biến động theo xu hướng tăng giảm, cụ thể: - Năm 1999 TSLĐ khác của công ty là 6675 triệu đồng ( 24,21 % ) - Năm 2000 TSLĐ của công ty là 10.370 triệu đồng ( 22,55% ) có sự tăng lên so với năm 1999 - Năm 2001 TSLĐ khác của công ty là: 7230 ( 12,03%) có xu hướng giảm đi so với năm 2000. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 48 Lớp: Tài Chính 40C
  49. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Biểu 9: Cơ cấu vồn lưu động của công ty CTGT 208 Đơn vị: triệu đồng Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2000 so với 1999 Năm 2001 so với Chỉ tiêu 2000 Lượng % Lượng % Lượng % Lượng % Lượng % I. Tiền 2415 8,76 3155 7,77 2871 4,78 740 - 0,99 - 284 -2,99 1. Tiền mặt tại quỹ (gồm cả NL) 132 0,48 59 0,15 62 0,1 - 74 - 0,33 3 - 0,05 2. TGNH 2282 8,28 3096 7,63 2809 4,67 814 - 0,65 287 - 2,96 3. Tiền đang chuyển - - - - II. Các khoản phải thu 14144 41,51 13147 32,39 27906 46,44 - 997 - 9,12 14759 14,05 1. Phải thu của khách hàng 7428 26,94 11985 29,53 26464 44,04 4557 2,59 14479 14,51 2. Trả trước cho người bán 508 1,84 683 1,68 756 1,26 175 - 0,16 73 - 0,42 3. VAT được khấu trừ 573 2,08 253 0,42 - 573 - 2,08 253 0,42 4. Phải thu nội bộ 4614 16,73 - 4614 -16,73 - - 5. Phải thu khác 1021 3,7 479 1,18 433 0,72 - 542 - 2,52 - 46 - 0,46 III. Hàng tồn kho 4337 15,73 13915 34,28 22084 36,75 9578 18,55 8169 2,47 1. NVL tồn kho 690 2,5 1164 2,87 553 0,92 474 0,37 - 611 - 1,95 2. Công cụ, dụng cụ tồn kho 55 0,2 27 0,07 41 0,07 - 28 -0,13 14 0 3. Chi phí SXKDD 3592 13,03 12724 31,35 21490 35,76 9132 18,32 8766 4,41 IV. TSLĐ khác 6675 24,21 10370 25,55 7230 12,03 3695 1,34 3140 - 13,52 1. Tạm ứng 3994 14,49 7183 17,7 4945 8,23 3189 3,21 - 2238 - 9,47 2. Chi phí trả trước 248 0,9 264 0,65 69 0,11 16 - 0,25 - 195 - 0,54 3. Chi phí chờ kết chuyển 2223 8,06 2544 6,27 1985 3,3 321 - 1,79 - 559 - 2,97 4. Thế chấp, ký quỹ ký cược 210 0,76 379 0,93 231 0,38 169 0,17 - 148 - 0,55 ngắn hạn Tổng 27571 100 40587 100 60091 100 13016 19504 ( Nguồn BCTC của công ty năm 1999 - 2001) - Nguyên nhân chủ yếu là do khoản tạm ứng gây ra. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 49 Lớp: Tài Chính 40C
  50. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính - - Như vậy, kết cấu vốn lưu động của công ty năm 2000 có sự thay đổi so với năm 1999, năm 2001 có khác với năm 2000 cụ thể là: - Tổng vốn lưu động năm 2000 tăng 13016 triệu đồng so với năm 1999, đến năm 2001 con số này đạt 60.091 triệu đồng. Qui mô vốn lưu động ngày càng tăng, điều này chứng tỏ DN ngày càng mở rộng lĩnh vực kinh doanh của mình bằng vốn lưu động. Đây là điều bất lợi đối với công ty. - Muốn hiểu rõ hơn, ta xem vốn lưu động của công ty có được tài trợ một cách vững chắc không? Ta dựa vào bảng biểu sau: Biểu 10: Nguồn tài trợ vốn lưu động Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Nợ ngắn hạn 31.876 42.377 58.899 2. Tồn kho 4.337 13.915 22.084 3. Phải thu 14.144 13.147 27.906 4. Tồn kho và các khoản phải 18.481 27.062 49.990 thu 5. Nhu cầu VLĐ thường xuyên -13.395 -15.315 -8909 (4-1) (Nguồn BCDDKT của công ty năm 1999 - 2001) Từ biểu 10 ta thấy nhu cầu VLĐ thường xuyên < 0 có nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài dư thừa để tài trợ vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. DN không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh của mình. Trên đây là những đánh giá sơ qua về cơ cấu vốn lưu động và nguồn tài trợ VLĐ. Bên cạnh thành tựu đạt được thì DN vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục. Để thấy được hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty như thế nào, ta đi xem xét tình hình thanh toán của công ty trong mấy năm gần đây. 2.3.3.2 - Tình hình thanh toán của công ty trong các năm qua Tình hình tài chính của DN được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán của DN phản ánh mối quan Sinh viên: Phạm Thị Chanh 50 Lớp: Tài Chính 40C
  51. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Biểu 11: Tình hình thanh toán của công ty CTGT 208. Đơn vị: Triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. TSLĐ 27.571 40.587 60.091 2. Nợ ngắn hạn 31.876 42.377 58.899 3. Các khoản phải thu 14.144 13.147 27.906 4. Tiền hiện có 2.415 3.155 2.871 5. Hệ số thanh toán ngắn hạn (1/2) 0,86 0,95 1,02 6. Hệ số thanh toán nhanh ((3+4)/2) 0,52 0,38 0,52 7.Tỷ lệ nợ phải trả so với toàn bộ TS 0,98 0,96 0,95 (Nguồn : BCTC của công ty năm 1999-2001). Từ biểu 11 ta thấy:  Hệ số thanh toán ngắn hạn của công ty: Năm 1999, 2000 1 chứng tỏ tình hình thanh toán của công ty ngày càng tốt hơn. Hơn thế nữa, tỷ lệ này biến động theo chiều tăng dần qua các năm, đây là một thuận lợi cho công ty trong hoạt động kinh doanh của mình. Từ chỗ chưa đáp ứng được các khoản nợ ngắn hạn đến chỗ đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.  Hệ số thanh toán nhanh: Nếu như khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn theo hệ số thanh toán nhanh của công ty ta lại thấy khả năng đáp ứng các khoản phải thu là quá thấp. Mặt khác, khả năng ứng phó của công ty ngày càng có xu hướng giảm dần. Trong khi đó tỷ lệ nợ phải trả của công ty lại quá cao (hơn 95%). Điều này cho thấy vốn hoạt động của công ty chủ yếu là đi vay. Nếu công ty không đánh giá, quản lý tốt hiệu quả sử dụng vốn này thì công ty sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh. Để có thể đánh giá và rút ra những kết luận chính xác về hoạt động tài chính của công ty trong 3 năm liên tục, cần phải có thêm những căn cứ và thông tin cần thiết như: - Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 51 Lớp: Tài Chính 40C
  52. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính - Thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra. - Đặc điểm kinh tế kỹ thuật, qui trình công nghệ, qui mô kinh doanh, khả năng hiện tại và tiềm năng của DN. - So sánh với số liệu trung bình của ngành và ở các DN khác. Tóm lại, khả năng thanh toán của công ty ngày càng tốt. Tuy nhiên nó chưa được cao, công ty cần tìm giải pháp phù hợp để đạt được mục tiêu cuối cùng của mình. 2.3.3.3 - Hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty CTGT 208 Để đánh giá xem công ty đã sử dụng vốn lưu động của mình như thế nào, hiệu quả ra sao? Ta nghiên cứu bảng biểu sau: Biểu 12:Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty CTGT 208. Đơn vị: Triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Doanh thu thuần 22880 42700 53576 2. VLĐ bình quân sử dụng trong kỳ 25887 34079 50339 3. Lợi nhuận sau thuế (152) 488 749 4. Hiệu suất sử dụng VLĐ (1/2) 0,88 1,25 1,06 5. Tỷ suất lợi nhuận VLĐ (3/2) 0.59% 1,43% 1,49% 6. Số vòng quay VLĐộng (1/2) 0,88 1,25 1,06 7. Số ngày luân chuyển của một 410 288 339 vòng quay VLĐ 8. Hệ số đảm nhiệm VLĐ 1,13 0,8 0,94 9. Mức tiết kiệm VLĐ - 6660,11 -14443,73 - 7478,2 (Nguồn BCTC của công ty năm 1999-2001) Từ biểu 12 ta thấy:  Hiệu suất sử dụng vốn lưu động: - Giai đoạn 1999 - 2001, hiệu suất sử dụng vốn lưu động tại công ty tăng lên không đều + Năm 1999, hiệu suất đạt 0,88(88%) + Năm 2000, hiệu suất này là 125% tăng 37% so với năm 1999 + Năm 2001, hiệu suất đạt 106% giảm 19% so với năm 2000 Sinh viên: Phạm Thị Chanh 52 Lớp: Tài Chính 40C
  53. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Như vậy, hiệu suất sử dụng vốn lưu động của công ty biến động không đều qua các năm, cụ thể: + Năm 1999, một đồng vốn lưu động của công ty tạo ra 0,88 đồng doanh thu + Năm 2000, một đồng vốn lưu động của công ty tạo ra được 1,25 đồng doanh thu + Năm 2001, một đồng vốn lưu động của công ty tạo ra được 1,06 đồng doanh thu, tăng so với năm 1999; và giảm so với năm 2000. Nhìn chung, hiệu suất sử dụng vốn lưu động của công ty trong các năm qua là chưa được tốt. Doanh nghiệp cần tìm giải pháp thích hợp hơn để quản lý hiệu quả sử dụng vốn của mình.  Tỷ suất lợi nhuận. Cùng với sự tăng lên của doanh thu qua các năm thì tỷ suất lợi nhuận của công ty cũng tăng lên tương ứng, cụ thể: - Năm 1999, một đồng vốn lưu động của công ty tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra 0,0059 đồng lợi nhuận. - Năm 2000, một đồng vốn lưu động của công ty tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra được 0,0143 đồng lợi nhuận, tăng 0,0084 đồng so với năm 1999. - Năm 2001, một đồng vốn lưu động của công ty tạo ra được 0,0149 đồng lợi nhuận, tăng 0,0006 đồng so với năm 2000. Như vậy, sức sinh lời của vốn lưu động tăng lên qua các năm, đây là điều đáng khích lệ cho công ty. Tuy nhiên, sự gia tăng này vẫn còn ở mức rất thấp, chứng tỏ chi phí quản lý của doanh nghiệp còn cao. Trong thời gian tới, công ty nên cố gắng phát huy hơn nữa khả năng của mình trong việc sử dụng vốn lưu động vì đây là vốn chủ yếu được tài trợ bằng nguồn ngắn hạn mà doanh nghiệp đi vay để sử dụng.  Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động: - Số vòng quay của vốn lưu động: + Năm 1999, số vòng quay của vốn lưu động là 0,88 vòng. + Năm 2000, số vòng quay của vốn lưu động là 1,25 vòng, tăng lên 0,37 vòng so với năm 1999. Đến năm 2001, con số này là 1,06 vòng, giảm đi so với năm 2000 là 0,19 vòng. Tương ứng với sự tăng lên của vòng quay Sinh viên: Phạm Thị Chanh 53 Lớp: Tài Chính 40C
  54. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính vốn lưu động là sự giảm đi của số ngày luân chuyển của một vòng quay vốn lưu động và ngược lại. Hiệu quả này chưa cao còn nhiều điều công ty phải xem xét kỹ, chẳng hạn: + Năm 1999, số ngày luân chuyển của một vòng quay vốn lưu động là 410 ngày, điều này cho thấy tốc độ luân chuyển vốn lưu động của công ty quá yếu, ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi công ty phải đi vay ngân hàng với lãi suất trả theo đúng hạn ghi trong hợp đồng mà tốc độ luân chuyển chậm như thế thì công ty sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi số nợ để trả nợ vay. Nếu khoản vay của công ty không được trả đúng hạn thì công ty sẽ phải chịu trả một khoản lãi là lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất vay ngắn hạn. + Năm 2000, nhờ vòng quay vốn lưu động tăng lên là 1,25 vòng nên số ngày luân chuyển giảm xuống còn 288 ngày, giảm 122 ngày so với năm 1999. Điều này là một thuận lợi cho công ty trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. + Năm 2001 con số này giảm đi còn 1,06 vòng tương ứng với số ngày luân chuyển một vòng quay vốn lưu động là 399 ngày, tăng 111 ngày so với năm 2000. Trong giai đoạn 1999 - 2001, vốn lưu động của công ty luân chuyển quá chậm và biến động không đều theo chiều tăng, giảm. Phần lớn vốn lưu động trong giai đoạn này bị khách hàng chiếm dụng. Giải pháp đặt ra là công ty phải tìm cách giải phóng bớt các khoản phải thu, hàng tồn kho để hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty được cao hơn.  Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động Khác với tốc độ luân chuyển vốn lưu động của công ty, hệ số đảm nhiệm lại biến thiên theo chiều giảm dần sau đó lại tăng lên. Hệ số này cho biết cụ thể như sau: + Năm 1999, để tạo ra được một đồng doanh thu thì công ty cần bỏ ra 1,31 đồng vốn lưu động. +Năm 2000, để tạo ra một đồng doanh thu thì doanh nghiệp cần bỏ ra 0,8 đồng vốn lưu động, giảm 0,33 đồng so với năm 1999. +Năm 2001, để tạo ra một đồng doanh thu doanh nghiệp cần 0,94 đồng vốn lưu động, tăng 0,14 đồng so với năm 2000. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 54 Lớp: Tài Chính 40C
  55. Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng - Tài Chính Xu hướng biến động này là chưa được tốt đối với công ty. Cả tốc độ tăng và hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động biến động không đều. Thời gian tới, công ty nên tìm cách rút ngắn số ngày luân chuyển của vốn lưu động xuống nhằm giúp công ty đẩy nhanh chu kỳ kinh doanh của mình, tạo được doanh thu nhiều hơn.  Mức tiết kiệm vốn lưu động Hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được đánh giá thông qua chỉ tiêu mức tiết kiệm vốn lưu động. Từ biểu 12 ta thấy: Công ty đã sử dụng vốn lưu động được tiết kiệm khá lớn nhưng mức tiết kiệm này không đều qua các năm, nó biến động theo xu hướng tăng - giảm, cụ thể: Năm 1999, công ty đã tiết kiệm được số vốn lưu động là 6660,11 triệu đồng. Năm 2000, công ty đã tiết kiệm được 14443,73 triệu đồng, tăng 7783,62 triệu đồng so với năm 1999. Năm 2001, con số này giảm xuống còn 7478,2 triệu đồng. Như vậy, công ty tiết kiệm được lượng vốn lưu động khá cao, điều này có thể do công ty đã tăng được tốc độ luân chuyển vốn, vòng quay vốn nhanh hơn. Chẳng hạn: +Năm 2000, nếu công ty vẫn giữ nguyên tốc độ luân chuyển của vốn lựu động như năm 1999 là 1,25 vòng thì để tạo ra được 42700 triệu đồng doanh thu thì công ty cần một lượng vốn lưu động là: (42700/0,88) 48522,73 triệu đồng. Như vậy, công ty đã tiết kiệm được mức vốn lưu động là: 48522,73 - 34079 = 14433,73 triệu đồng, nghĩa là nhờ thời gian luân chuyển của vốn lưu động giảm 122 ngày nên công ty đã tiết kiệm được 14443,73 triệu đồng vốn lưu động. Mức tiết kiệm vốn của giai đoạn này là rất tốt cho công ty, giúp công ty giảm được các khoản vay ngắn hạn của ngân hàng hoặc của các tổ chức tín dụng khác, tiết kiệm được khoản lãi phải trả. Sinh viên: Phạm Thị Chanh 55 Lớp: Tài Chính 40C