Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa

doc 79 trang nguyendu 6770
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_chat_luong_tin_dung_xu.doc

Nội dung text: Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa

  1. Lời nói đầu Công cuộc đổi mới của nền kinh tế Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước những năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể (mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7-9%, kiềm chế lạm phát ở mức một con số, thị trường trong nước và quốc tế ngày càng được mở rộng ). Có được những kết quả này là nhờ một phần không nhỏ vào sự thành công trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam thông qua việc thực hiện tốt chính sách kinh tế mở và tiến hành các biện pháp cải cách kinh tế trên nhiều mặt theo xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá. Nhiều năm trước đây, hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam chưa phát triển đúng với khả năng và phát huy tốt vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế này và một trong những nguyên nhân cơ bản là chúng ta thiếu những nguồn vốn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu trong đó đặc biệt phải kể đến là nguồn tín dụng ngân hàng. Việc phát triển hình thức tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng không chỉ mang lại lợi ích cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội và ngay cả bản thân ngân hàng bởi tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Nhận thức rõ vấn đề đó, Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa (ICBV) là một ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực công thương nghiệp đã triển khai đã bắt đầu triển khai hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu và bước đầu đã có những thành công nhất định. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ICBV còn nhiều hạn chế, chất lượng tín dụng chưa cao. Do vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu trở thành một đòi hỏi bức xúc đối với Ngân hàng hiện nay. Trước yêu cầu trên tôi chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn được kết cấu theo 3 chương: 1
  2. Chương I: Một số vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu, học hỏi để hoàn thành khoá luận, song chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô và các bạn để khoá luận có ý nghĩa hơn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn người đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này. Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong Khoa đã dạy dỗ và cung cấp cho tôi những kiến thức lí luận quí báu. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo và các anh chị Phòng Tín dụng ngoài quốc doanh, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực Đống Đa những người đã nhiệt tình tiếp nhận, tạo điều kiện và cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn quan trọng cho tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. 2
  3. Chương I: Một số vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại 1.1. tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu 1.1.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu và nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu 1.1.1.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu mà mỗi quốc gia có thế mạnh trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định. Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày một đa dạng ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm chất lượng cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm nảy sinh nhu cầu mua bán trao đổi quốc tế (hay thương mại quốc tế). Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế bên ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động thương mại quốc tế. Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ thuật lạc hậu, công nghệ thủ công đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó tiềm lực xuất 3
  4. khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng hơn. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một số khía cạnh cơ bản sau: Xuất khẩu - Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. - Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích các ngành, nghề phát triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo trong kinh doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn nhờ nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra. Nhập khẩu Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể: - Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn định về cung-cầu trong nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô. - Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất. - Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng như góp phần định hướng sản phẩm, định hướng thị trường. 4
  5. Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế. 1.1.1.2. Nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng hết sức phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các nước phát triển, giữa các nước đang phát triển, giữa các nước phát triển và đang phát triển ) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng như với đề tài nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển. - Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển chủ yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ. Đây là những hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử đến thanh toán tiền hàng. Nhu cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết kế mẫu mã, sản xuất và cung cấp công trình. - Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển chủ yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ chế Và nhu cầu tài trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời. Để có cái nhìn tổng quát về nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu ta sẽ xem xét nhu cầu tài trợ của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu hình thành trong cùng một hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá máy móc, thiết bị kĩ thuật, công nghệ. Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường kéo dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể: + Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Đây là giai đoạn đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các bước sau của cả hoạt động xuất khẩu. Để hoàn thành tốt giai đoạn này các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến 5
  6. hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp. + Giai đoạn đưa ra đề nghị chào hàng: Các đề nghị chào hàng trong khuôn khổ đấu thầu quốc tế thường được để kèm theo bản bảo đảm đấu thầu của một ngân hàng có uy tín trong giao dịch quốc tế. Do vậy các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần được sự giúp đỡ của ngân hàng. + Giai doạn kí kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn thành công trình không đúng như thoả thuận. Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu là người nước ngoài đang gặp khó khăn và không có khả năng đặt cọc từ nguồn vốn riêng của mình thì nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của mình một tài trợ đặt cọc có lợi cho đối tác thương mại của mình. + Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như, nhà máy, xí nghiệp việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt cọc. + Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán tiếp theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu cầu tài chính cao về vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản thanh toán giữa chừng. Ngoài ra, với các mặt hàng lớn như máy móc công nghệ thì nhiều khi nhà xuất khẩu còn cần phải được tài trợ cho các chi phí xây dựng kho bãi, chuẩn bị mặt bằng sản xuất, đào tạo người sử dụng máy móc ở nước nhập khẩu. + Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm tuỳ theo điều kiện cung ứng. 6
  7. + Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được bàn giao tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp chạy thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán. + Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán. + Thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán trong nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ có thể chấp nhận được. Nhu cầu tài trợ ở giai đoạn này thường lớn để đảm bảo vốn cho quá trình tái sản xuất khi mà người nhập khẩu chưa đến hạn phải thanh toán. Nhu cầu tài trợ nhập khẩu Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt. - Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp. - Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, các nhà nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra, nhiều khi nhà nhập khẩu còn phải nhờ ngân hàng đứng ra bảo đảm để tìm nguồn tài trợ ở nước ngoài. - Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư. - Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập khẩu. 7
  8. - Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được. - Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ. Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu ở trên ta có thể khẳng định rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy thì để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho xuất nhập khẩu. 1.1.2. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những nguồn tài trợ thường được sử dụng là: - Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao (thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên, các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng đứng ra chấp nhận hay bảo đảm. - Các khoản phải nộp phải trả: Bao gồm: thuế phải nộp nhưng chưa nộp, phải trả cán bộ công nhân viên và các khoản phải trả phải nộp khác. Đây là nguồn tài trợ mang tính thời điểm cao vì nó thường nhỏ và ít ổn định. - Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có thể là vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần hay vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân. Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên và phần lợi nhuận để lại cộng khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm 8
  9. được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ lại lợi nhuận cao. - Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ có thể phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn, giảm được nguy cơ phá sản khi gặp khó khăn (vì có thể không phải phân chia lợi tức cổ phần hoặc có thể hoãn trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn chủ sở hữu, giảm hệ số nợ của doanh nghiệp Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp thỏa mãn những điều kiện nhất định mới được sử dụng hình thức này. Với nước ta, do thị trường tài chính còn chưa phát triển nên hình thức tài trợ này còn ít được sử dụng hoặc nếu có sử dụng thì vẫn khó có thể đem lại hiệu quả cao. - Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu. Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó. - Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm bảo để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư dự án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ Tuỳ vào từng doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao cho thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn. - Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ 9
  10. viện trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ Hiện nay các nguồn này thường cũng được sử dụng thông qua các Ngân hàng. Như vậy, nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó nguồn tín dụng ngân hàng nắm giữ một vị trí đặc biệt bởi nó có thể được cung cấp thông qua nhiều hình thức cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau và các hình thức tài trợ khác muốn thực hiện được phần nào cũng cần sự hỗ trợ từ phía ngân hàng. 1.1.3. Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu 1.1.3.1. Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu Khái niệm tín dụng ngân hàng Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng. Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật. Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà nước và các tầng lớp dân cư ”. Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực kinh tế đối ngoại mà cụ thể hơn là hoạt động xuất nhập khẩu, nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc gia. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu được thể hiện qua các mặt sau: 10
  11. - Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để thu mua dự trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, mua sắm máy móc thông thường phục vụ cho quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất của doanh nghiệp. - Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường . - Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi nhanh chóng hơn. - Thứ tư, do sự cần thiết phải có được những giao dịch dễ dàng ít tốn kém, người bán cũng như người mua đều cần phải có sự tài trợ của ngân hàng thông qua các hình thức tín dụng như cho vay mở thư tín dụng, chuyển trả tiền trực tiếp - Thứ năm, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cao và do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự có mặt của ngân hàng sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro không thanh toán khi ngân hàng đứng ra đảm bảo cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại nhờ nguồn tín dụng của ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan trọng trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được. - Thứ sáu, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của nước ngoài cho hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được thực hiện qua các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc ngân hàng nước sở tại. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu càng có ý nghĩa hơn khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó có chính sách hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ cung cấp cho các nhà xuất nhập khẩu những khoản tín dụng lớn với lãi suất ưu đãi mà nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. 1.1.3.2. Các hình thức và qui trình tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại 11
  12. Tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều hình thức khác nhau và tuỳ trình độ phát triển của ngân hàng và những qui định của pháp luật mà các ngân hàng lựa chọn áp dụng các hình thức cho phù hợp. Dưới đây ta sẽ xem xét một số hình thức tín dụng xuất khẩu và tín dụng nhập khẩu thông dụng. 1.1.3.2.1.Tín dụng xuất khẩu Ngân hàng thương mại cho các cơ sở xuất khẩu vay dưới các hình thức như cho vay thông thường, cho vay trên cơ sở hối phiếu, cho vay trên cơ sở phương thức thanh toán nhờ thu, cho vay trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Cho vay thông thường Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi hết hạn, người vay phải trả đầy đủ cả gốc và lãi. Đây là hình thức tín dụng truyền thống, về kỹ thuật và phương pháp cho vay giống như các dạng tín dụng nội địa tương ứng thông thường khác. Nó bao gồm các phương thức như cho vay một lần, cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay theo hợp đồng tín dụng tuần hoàn. Đối với các nhà xuất khẩu hình thức tín dụng này ngoài việc được sử dụng cho các mục đích thu mua sản xuất, chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động nó còn được sử dụng để trang trải các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất như: phí thuê tàu, thuế xuất khẩu Cho vay trên cơ sở hối phiếu Nhà xuất khẩu khi cần tiền có thể vay ngân hàng bằng cách đem chiết khấu các hối phiếu chưa đến hạn trả tiền (số tiền vay bằng cách chiết khấu hối phiếu thường nhỏ hơn số tiền ghi trên hối phiếu. Số chênh lệch là lợi tức chiết khấu). Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước bởi vì việc chiết khấu thường dễ dàng và ngay khi giao chứng từ về hàng hoá người xuất khẩu đã có thể sử dụng được lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu để tái đầu tư. Thời hạn vay bằng cách chiết khấu hối phiếu là thời hạn còn lại chưa đến hạn thanh toán của hối phiếu. Người hoàn trả tiền vay và lợi tức là người có nghĩa vụ trả tiền ghi trên hối phiếu. 12
  13. Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu. Giá trị chiết khấu thường được xác định ở các ngân hàng theo công thức: Lck Tck = M x (1- x t ) - P 360 Trong đó: Tck: Giá trị chiết khấu M: Mệnh giá hối phiế P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu (ngày) Lck: lãi suất chiết khấu theo năm Trong các yếu tố trên thì lãi suất chiết khấu thường được quan tâm hơn cả. Tỷ lệ này phụ thuộc các yếu tố: - Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu - Thời hạn thanh toán - Giá trị hối phiếu Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá Đây là hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự như chiết khấu hối phiếu. Tỉ lệ chiết khấu phụ thuộc vào phương thức chiết khấu: - Chiết khấu bảo lưu quyền truy đòi: là ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, sẽ quay lại truy đòi nhà xuất khẩu nếu bên nước ngoài từ chối thanh toán, lãi xuất chiết khấu trong trường hợp này thường thấp. - Chiết khấu miễn truy đòi: là trường hợp ngân hàng mua đứt bộ chứng từ, nếu bên nước ngoài không thanh toán thì ngân hàng chiết khấu chịu rủi ro, không được truy đòi lại khách hàng. Tỉ lệ chiết khấu này thường cao. Tín dụng ứng trước cho người xuất khẩu Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện hợp đồng xuất khẩu các doanh nghiệp cũng có thể đề nghị ngân hàng tạm ứng cho một nghiệp vụ xuất khẩu cho đến khi 13
  14. thu được lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu. Hình thức tín dụng này bao gồm hai hình thức cơ bản sau: - Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ : Sau khi lập song bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ liên quan khác, nhà xuất khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuất khẩu sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị chỉ giao chứng từ khi đã thanh toán (điều kiện D/P: Documents against Payment) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm theo (điều kiện D/A: Documents against Acceptance). Trong nghiệp vụ này ngân hàng tham gia chủ yếu với tư cách trung gian, thực hiện và thừa hành theo uỷ nhiệm để giảm bớt những rủi ro về tiêu thụ, thanh toán cũng như về cung ứng. Tuy nhiên, từ khi gửi các chứng từ tới ngân hàng xuất khẩu cho tới khi xuất trình với người thanh toán thường mất một khoảng thời gian nhất định (đặc biệt khi thoả thuận ngày thanh toán muộn hơn). Điều này làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời. Khi đó họ có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước một phần trị giá với bộ chứng từ nhờ thu. Khoản tín dụng này có thể do ngân hàng xuất khẩu hay ngân hàng nhập khẩu ứng trước. Thường nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ ngắn hạn phục vụ nhu cầu tiền mặt tạm thời. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu từng phần. - Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ : Tín dụng chứng từ phục vụ đặc biệt cho việc đảm bảo nhiệm vụ cung ứng và thanh toán trong trong quan hệ ngoại thương nhưng nó cũng bao hàm cả các nhân tố tín dụng. Tín dụng ứng trước được sử dụng với L/C điều khoản đỏ. Đây là loại thư tín dụng qui định một khoản tiền ứng trước của nhà nhập khẩu cho nhà xuất khẩu vào một thời điểm xác định, trước khi xuất trình bộ chứng từ hàng hoá. Các điều khoản ứng trước thường được qui định trong một điều kiện thuận lợi cho các bên liên lạc thực hiện. 14
  15. Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận cấp cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu chịu chi phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng trước này. Người nhập khẩu sẽ qui định rõ tổng giá trị tiền ứng trước , nó có thể là tỉ lệ phần trăm hoặc thậm chí toàn bộ giá trị L/C (tuỳ thuộc quan hệ với nhà xuất khẩu) và người nhập khẩu sẽ quyết định liệu người xuất khẩu sẽ phải xuất trình vật gì làm đảm bảo cho ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận khi nhận tiền ứng trước. Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi số tiền ứng trước cộng với lãi sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ chứng từ phù hợp). Bên cạnh đó, các ngân hàng này cũng có quyền đòi số tiền này ở ngân hàng mở L/C nếu nhà xuất khẩu vì một lí do gì đó không xuất trình được chứng từ phù hợp với điều kiện của L/C. Lời lẽ trong điều khoản đỏ có thể thay đổi tuỳ từng ngân hàng nhưng tựu trung có hai loại: - Điều khoản đỏ trơn: Tiền được ứng trước với điều kiện người xuất khẩu cam kết bằng văn bản tiền sẽ được sử dụng đúng mục đích quy định. - Điều khoản đỏ chứng từ: Tiền sẽ được ứng trước nếu nhà xuất khẩu cam kết cung cấp giấy nhập kho hoặc các chứng từ khác chứng minh quyền sở hữu hàng hoá và sau đó xuất trình các chứng từ thanh toán phù hợp với thư tín dụng. 1.1.3.2.2. Tín dụng nhập khẩu Các ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu dưới các hình thức như cho vay mở thư tín dụng, chấp nhận hối phiếu, cho vay thấu chi Cho vay mở L/C Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lí trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ xuất trình được bộ chứng phù hợp với những nội dung của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng là nó được hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán nhưng sau khi được thiết lập, nó lại độc lập hoàn toàn với hoạt động mua bán. 15
  16. Ngay việc mở L/C đã thể hiện việc cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu bởi vì mọi thư tín dụng đều do ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu nhưng không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng có đủ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng, trong khi đó L/C lại là một đảm bảo thanh toán của ngân hàng tức là ngân hàng mở L/C phải chịu mọi rủi ro khi nhà nhập khẩu không thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đã đến hạn trả tiền. Để tránh rủi ro, trước khi cho vay các ngân hàng sẽ kiểm tra mục đích, đối tượng nhập khẩu cũng như khả năng của nhà nhập khẩu để làm căn cứ cho khoản tín dụng cung cấp. Qui trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ: Nhà xuất (4) Nhà nhập khẩu khẩu (3) (5) (1) (8) (2) Ngân hàng (6) NH phát thông báo hành L/C (7) (1) Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu được mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng (2) Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C và thông qua ngân hàng đại lí của mình ở nước người nhập khẩu thông báo việc mở L/C và chuyển L/C đến người xuất khẩu. (3) Khi nhận được thông báo trên ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho nhà xuất khẩu toàn bộ nội dung về việc mở L/C và khi nhận được bản gốc L/C thì chuyển ngay cho người xuất khẩu. 16
  17. (4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng nếu không thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp đồng. (5) Sau khi giao hàng người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh toán. (6) Ngân hàng thông báo gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành yêu cầu thanh toán cho nhà xuất khẩu (7) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu , nếu không thấy phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu. (8) Ngân hàng mở L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu sau khi nhận tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Ngày nhận nợ được và tính lãi khoản cho vay mở L/C là ngày nhà nhập khẩu phải thanh toán cho nhà xuất khẩu (ngày đến hạn thanh toán L/C) Cho vay mở L/C có ưu điểm là cung cấp tín dụng kịp thời cho hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên cũng có rủi ro cho ngân hàng vì L/C chỉ được xử lí trên cơ sở chứng từ chứ không căn cứ trên hàng hoá, nếu hàng hoá kém giá trị hay hư hỏng thì ngân hàng dễ bị tổn thất. Tín dụng chấp nhận hối phiếu Tín dụng chấp nhận hối phiếu là hình thức tín dụng được thực hiện trên cơ sở ngân hàng kí hợp đồng tín dụng với nhà nhập khẩu. Trong đó, các ngân hàng cam kết chấp nhận các hối phiếu mà khách hàng của mình phải thanh toán. Hình thức tín dụng này đảm bảo cho người nhập khẩu thanh toán khi đến hạn. Tín dụng chấp nhận hối phiếu thường được dùng trong trường hợp người bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của người mua và họ đề nghị bên mua có một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do họ kí phát. Nếu ngân hàng đồng ý cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận cung cấp một khoản tín dụng cho bên mua. Đối với ngân hàng kể từ khi kí chấp nhận hối phiếu cũng chính là thời điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro, nếu người mua không có tiền thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Tuy nhiên, nếu đến thời hạn thanh toán người mua có đủ 17
  18. tiền thì ngân hàng có thể không phải ứng tiền ra. Như vậy, khoản tín dụng chỉ là hình thức, một sự đảm bảo tài chính. Lúc này ngân hàng nhận được một khoản phí chấp nhận, nó là khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh chịu rủi ro của ngân hàng. Tín dụng chấp nhận hối phiếu đem lại sự thuận lợi cho không chỉ người xuất khẩu mà cả với người nhập khẩu: - Với sự chấp nhận của ngân hàng, nhà xuất khẩu có được một sự đảm bảo vững chắc về khả năng chi trả của hối phiếu và họ có thể đtôi hối phiếu đi chiết khấu tại bất kì ngân hàng nào. Khả năng thương mại của hối phiếu này rất lớn, nó tạo cho nhà xuất khẩu được hưởng một tỉ lệ chiết khấu ưu đãi. - Đối với nhà nhập khẩu, hình thức tín dụng này có vai trò quan trọng trong nghệ thuật thương mại. Nhà nhập khẩu lập một hối phiếu kèm đơn xin vay yêu cầu ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu dù ngân hàng không có quan hệ nợ nần với anh ta. Đó là một sự thoả thuận ngầm, một nghệ thuật vay vốn. Sau đó nhà nhập khẩu có thể đem hối phiếu đã được chấp nhận đi chiết khấu tại ngân hàng khác. Với khoản tiền thu được từ việc chiết khấu nhà nhập khẩu có thể thanh toán trước hạn cho nhà xuất khẩu để hưởng hoa hồng. Tín dụng ứng trước cho nhập khẩu Cũng như các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng rất cần được cho vay theo hình thức ứng trước của ngân hàng. Đó là khi họ cần phải thanh toán tiền mặt cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra, nhà nhập khẩu cũng có thể phát sinh nhu cầu tài trợ để thanh toán cho bộ chứng từ khi hàng hoá chưa về đến cảng và doanh nghiệp chưa tiêu thụ được hàng hoá để thu hồi vốn. Ngân hàng tài trợ trong trường hợp này có thể sử dụng các chứng từ hàng hoá làm vật đảm bảo. Đây cũng chỉ là việc tài trợ cho các mục tiêu thanh toán ngắn hạn của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu. 18
  19. 1.2. Chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu 1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu Tín dụng xuất nhập khẩu ngoài vai trò là một hình thức tài trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nó còn là một loại sản phẩm dịch vụ và vì thế để hiểu được chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu ta cần phải hiểu được khái niệm về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm theo hiệp hội tiêu chuẩn Pháp là: năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng. Từ đó, chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu được hiểu là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn và hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho ngân hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nói cách khác, một khoản tín dụng xuất nhập khẩu có chất lượng phải đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích của ba bên Ngân hàng, các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu và của xã hội. Để đánh giá chất lượng của các khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng một cách hoàn toàn chính xác là một công việc không dễ bởi nó đòi hỏi phải xem xét trên nhiều mặt, thông qua sự tổng hợp kết quả phân tích nhiều chỉ tiêu khác nhau như đã nói trên. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần xem xét những chỉ tiêu nào, và xem xét ra sao. Dưới đây là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá chung chất lượng tín dụng Tổng nguồn vốn huy động: Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu hút và cung ứng vốn của Ngân hàng cho khách hàng. Ngoài ra, nó còn cho thấy uy tín và qui mô của Ngân hàng trên thị trường. Nguồn vốn huy động lớn thường gắn với những ngân hàng có uy tín cao. 19
  20. Tổng dư nợ tín dụng: chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được nhiều hay ít. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, cho các tổ chức tín dụng hay khách hàng vay nhiều cho thấy Ngân hàng đã tạo được uy tín với các bạn hàng, cung cấp nhiều hình thức dịch vụ đa dạng, phong phú, tham gia nhiều nghiệp vụ thanh toán. Tổng dư nợ Hiệu suất sử dụng vốn vay = Tổng nguồn vốn huy động Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích đánh giá khả năng cho vay của ngân hàng cũng như so sánh giữa các ngân hàng với nhau trong việc sử dụng vốn vay. Hiệu suất sử dụng vốn vay cao chưa hẳn đã tốt bởi nó còn phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn. Chẳng hạn, trong cơ cấu nguồn vốn tỉ trọng vốn vay thương mại lớn thì cho vay nhiều chưa hẳn là đưa đến chất lưọng tín dụng cao vì lãi suất với các khoản vốn vay thương mại thường lớn trong khi ngân hàng khó có thể cho vay với lãi suất quá cao hơn do phải cạnh tranh lãi suất để thu hút khách hàng. Doanh số cho vay trong kì Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ trong kì Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lí vốn tín dụng, đồng thời thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín dụng và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Để có thể đánh giá chính xác chất lượng tín dụng, các tiêu chuẩn tính toán cần phải đồng nhất trong việc áp dụng đối với từng loại cho vay cụ thể. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ : Nợ quá hạn là những khoản nợ đã đến hạn thanh toán nhưng khách hàng chưa trả được. Ngân hàng có chỉ tiêu nợ quá hạn 20
  21. trên tổng dư nợ càng thấp khả năng gặp rủi ro càng thấp chất lượng tín dụng càng cao . Chỉ tiêu này lại chia ra hai chỉ tiêu cụ thể hơn: Nợ quá hạn từ 6-12 tháng Tỉ lệ nợ quá hạn khê đọng = Tổng dư nợ Đây là một trong những chỉ tiêu định lượng quan trọng nhất phản ánh chất lượng tín dụng của khoản tín dụng. Nếu tỉ lệ này càng cao mà ngân hàng không có biện pháp xử lí kịp thời thì khả năng tổn thất của ngân hàng càng lớn. Nợ quá hạn từ 12 tháng trở lên Nợ quá hạn khó đòi = Tổng dư nợ Nếu tỉ lệ này cao có nghĩa là ngân hàng không những phải chịu rủi ro tín dụng cao, chất lượng tín dụng kém mà còn có nguy cơ mất khả năng thanh toán bởi việc đòi nợ các khoản vay này là rất khó khăn. 1.2.2.2.Nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu Đối với tín dụng xuất nhập khẩu để đánh giá chất lượng của nó thông thường ta cũng xem xét trên các chỉ tiêu như trên. Tuy nhiên, tập trung vào các chỉ tiêu cơ bản sau: Dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu Chỉ tiêu dư nợ = Tổng dư nợ tín dụng 21
  22. Chỉ tiêu này cho thấy vị trí của tín dụng xuất nhập khẩu trong hoạt động tín dụng chung của ngân hàng. Ngoài ra, nó còn được sử dụng để xem xét sự biến động trong cơ cấu tín dụng thông qua việc so sánh giữa các thời kỳ khác nhau. Tỉ lệ này càng cao cho thấy mức độ phát triển nghiệp vụ này càng lớn, tín dụng xuất nhập khẩu đóng góp càng nhiều cho các doanh nghiệp và được khách hàng tín nhiệm. Nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu Chỉ tiêu nợ quá hạn = Tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu Nợ khê đọng tín dụng xuất nhập khẩu Nợ quá hạn khê đọng = Tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu Nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu Nợ quá hạn khó đòi = Tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu 22
  23. Lợi nhuận từ tín dụng xuất nhập khẩu Chỉ tiêu lợi nhuận = Tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng xuất nhập khẩu. Nó cho biết có bao nhiêu đồng lợi nhuận được sinh ra từ một đồng dư nợ. Chất lượng tín dụng tốt phải gồm cả lợi nhuận mà tín dụng đó mang lại cho ngân hàng. Với những chỉ tiêu trên đây ta mới chỉ có thể xem xét được khoản tín dụng xuất nhập khẩu có chất lượng tốt hay không . Nhưng vấn đề đặt ra không phải chỉ dừng lại ở đó mà là phải tìm ra các giải pháp để khắc phục các hạn chế và phát huy những mặt mạnh nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cho hoạt động sau này. Tức là ta cần phải nắm bắt được các nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu . 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu 1.2.3.1. Các nhân tố từ phía ngân hàng Các nhân tố từ phía ngân hàng được xem là các nhân tố chủ quan, bởi nó là yếu tố nội tại trong ngân hàng và có tác động một cách trực tiếp đến chất lượng hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng. Các nhân tố này bao gồm: cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu, chính sách tín dụng, công tác huy dộng vốn, công tác tổ chức của ngân hàng, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, qui trình nghiệp vụ tín dụng, hoạt động, kiểm tra, kiểm soát nội bộ, trang thiết bị và sự phối hợp giữa các phòng ban liên quan - Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu : máy móc thiết bị, phân bón, nguyên vật liệu có ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu - Chính sách tín dụng : Bao gồm các chủ trương, đường lối đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng mục tiêu của ngân hàng đồng thời tuân thủ tốt qui định của Chính phủ, NHNN, nó có liên qua đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, thay đổi cơ cấu tín dụng trong từng thời kỳ và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của một 23
  24. ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở mở rộng và nâng cao được chất lượng tín dụng. Bất cứ một ngân hàng nào muốn có được chất lượng tín dụng cao đều phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện của ngân hàng, phải căn cứ vào đòi hỏi của thị trường. - Công tác huy động vốn : Quan hệ đại lý giữ vai trò quan trọng trong công tác huy động vốn của ngân hàng. Huy động vốn đối với ngân hàng được coi như hoạt động cung cấp đầu vào cho sản xuất để tạo ra sản phẩm đầu ra ở các doanh nghiệp. Nếu nguồn vốn không được huy động đầy đủ về số lượng và phù hợp về thời hạn cũng như loại tiền thì ngân hàng khó có thể đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng một cách nhanh chóng và đầy đủ. Do vậy, chất lượng tín dụng khó có thể được nâng cao, thậm chí còn trở nên kém hơn. - Công tác tổ chức của ngân hàng: Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ nhân viên trong cùng một phòng, giữa các phòng ban với nhau và cao hơn là giữa các ngân hàng trong cùng hệ thống, từ đó nắm bắt và triển khai tốt việc đáp ứng nhu cầu khách hàng, nâng cao được chất lượng hoạt động tín dụng và đảm bảo được tính thống nhất và hiệu quả trong quá trình hoạt động. Ngoài ra Ngân hàng còn phải hạch toán lỗ lãi theo sản phẩm, dịch vụ, theo nhóm khách hàng, theo thị trường và không ngừng nâng cao uy tín quốc tế của Ngân hàng qua các công ty đánh giá xếp hạng. - Trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên tín dụng xuất nhập khẩu: Đây có thể coi là yếu tố quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của không chỉ hoạt động tín dụng mà cả sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Hoạt động kinh tế đối ngoại càng phức tạp, công nghệ ngân hàng càng hiện đại thì đòi hỏi trình độ, năng lực của cán bộ ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu phải được nâng cao hơn. Với một đội ngũ cán bộ nhân viên có nghiệp vụ giỏi, có đạo đức và năng lực trong sáng tạo - quản lí, hiểu biết về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và thông lệ quốc tế sẽ giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội tốt để cho vay và tất yếu sẽ dẫn đến nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng . 24
  25. - Qui trình tín dụng: Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay bắt đầu từ việc xem xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm bảo đảm an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu phụ thuộc vào việc lập ra một qui trình tín dụng xuất nhập khẩu đảm bảo tính khoa học vừa nhanh chóng, thuận tiện, vừa đảm bảo thực hiện đầy đủ nghiêm túc các bước của qui trình. Qui trình tín dụng xuất nhập khẩu cũng thường gồm ba bước chính: Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện chi vay: Trong giai đoạn này chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc chấp hành các qui định về điều kiện và thủ tục cho vay của ngân hàng. Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi dự báo rủi ro: việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng tín dụng. Thu nợ và thanh lí: Sự linh hoạt của cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng trong khâu thu nợ sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro và hạn chế những khoản nợ qua hạn, bảo toàn vốn và nâng cao chất lượng tín dụng cho xuất nhập khẩu. - Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng là hết sức cần thiết, nó là cơ sở để xem xét quyết định cho vay và theo dõi, quản lí khoản cho vay. Thông tin tín dụng xuất nhập khẩu có thể thu được từ nhiều nguồn khác nhau như: hồ sơ vay vốn của khách hàng, nguồn số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, số liệu của Bộ Thương mại về tình hình xuất nhập khẩu của các đơn vị, doanh nghiệp hay điều tra trực tiếp tại các cơ sở, thông tin về thị trường quốc té, thông tin về khách hàng xuất nhập khẩu ở nước ngoài Chất lượng tín dụng chỉ có thể được nâng cao khi ngân hàng có những nguồn thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời để dự đoán và đề ra các biện pháp ngăn ngừa phòng chống rủi ro. - Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, Ban lãnh đạo ngân hàng sẽ nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, những thuận lợi, khó khăn cũng như việc 25
  26. chấp hành những qui định pháp luật, nội dung, qui chế, chính sách kinh doanh, thủ tục tín dụng từ đó giúp Ban lãnh đạo có những đường lối, chủ trương đúng đắn, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, phát huy những nhân tố thuận lợi, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu phụ thuộc vào việc chấp hành những qui chế, thể lệ, chính sách và mức độ kịp thời phát hiện sai sót cũng như những nguyên nhân dẫn đến sai sót lệch lạc trong quá trình thực hiện các khoản tín dụng. - Trang thiết bị phục vụ hoạt động tín dụng: Trang thiết bị tuy không là yếu tố cơ bản nhưng có góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức, quản lí, kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Đặc biệt với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin hiện nay các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng có được thông tin về các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thị trường trong tương lai và xử lí thông tin nhanh chóng kịp thời, chính xác, thiết lập tốt mối liên hệ chặt chẽ giữa các phòng ban, bộ phận. Trên cơ sở đó có quyết định tín dụng đúng đắn nhanh chóng, thúc đẩy nghiệp vụ tín dụng diễn ra mạnh mẽ với chất lượng cao hơn. 1.2.3.2. Các nhân tố từ phía khách hàng Khách hàng có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng bởi họ là những người trực tiếp sử dụng các khoản tín dụng để đưa vào sản xuất kinh doanh và thực hiện chi trả cho ngân hàng. Một khoản tín dụng chỉ gọi là có chất lượng khi mà nó được khách hàng sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Để đạt được điều đó bản thân khách hàng cũng cần phải chú trọng đến nhiều khía cạnh khác nhau như: trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng tài chính Cụ thể là: Trình độ khả năng và đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một tất yếu. Để tồn tại các doanh nghiệp phải biết nắm bắt và tận dụng các cơ hội trong kinh doanh, điều này đòi hỏi ban lãnh đạo của doanh nghiệp phải có trình độ có năng lực quản lí và ra quyết định. Khi việc kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thuận lợi sẽ có tác động 26
  27. tích cực đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp cho ngân hàng. Ngoài ra, trình độ và đạo đức của người lãnh đạo cũng có tác động rất lớn đến việc sử dụng vốn vay cũng như mong muốn trả nợ của doanh nghiệp từ đó tác động đến chất lượng của khoản tín dụng. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp: Trên cơ sở nhận định, đánh giá chính xác tiềm năng thế mạnh của doanh nghiệp như: trình độ công nghệ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ, xu hướng phát triển của mặt hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp cùng với những khó khăn thuận lợi hiện tại và trong tương lai. Doanh nghiệp sẽ quyết định chiến lược mở rộng , thu hẹp hay giữ qui mô kinh doanh ổn định từ đó xây dựng các kế hoạch cụ thể về sản xuất tiêu thụ. Việc xây dựng một chiến lược kinh doanh đúng đắn có ý nghĩa quan trọng đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Từ đó tác động đến khả năng huy động và trả nợ đối với các nguồn tài trợ. Tổ chức hoạt động sản xuất và công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp: Hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được tổ chức hợp lí sẽ nâng cao được năng suất lao động, tiết kiệm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm đồng thời tăng được doanh số bán hàng và tăng lợi nhuận. Doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vòng quay và hiệu quả sử dụng vốn và như thế cũng chính là nâng cao được chất lượng các khoản tín dụng được cung cấp trong đó có khoản tín dụng xuất nhập khẩu do ngân hàng tài trợ. Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Đây là một yếu tố có tác động đến việc lựa chọn các nguồn tài trợ của doanh nghiệp, bởi vì thường thì doanh nghiệp chỉ đi vay khi mà khả năng tài chính của họ không đáp ứng được nhu cầu vốn cho hoạt động của mình. Mặt khác, khả năng tài chính của doanh nghiệp nó còn là cơ sở để ngân hàng quyết định có cho vay hay không, cho vay bao nhiêu và khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào. Điều này, có ý nghĩa đến việc nâng cao chất lượng tín dụng từ cả hai phía ngân hàng và doanh nghiệp. 1.2.3.3 Các nhân tố khách quan khác. 27
  28. - Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế: Đối với hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu nó cũng bị tác động bởi nhiều nhân tố thuộc môi trường kinh tế như: các chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước, thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu, mức độ cạnh tranh trên thị trường , chu kì kinh doanh Nhưng tác động cụ thể nhất đó là sự biến động của tỉ giá hối đoái và lãi suất trên thị trường tiền tệ và lạm phát. Bởi vì, như ta đã biết nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu nó gắn với nghiệp vụ thanh toán quốc tế (thường sử dụng nhiều loại tiền tệ khác nhau được qui đổi lẫn nhau thông qua tỉ giá) và lãi suất của ngân hàng nó gắn với lãi suất trên thị trường, tín dụng ngân hàng là tín dụng bằng tiền tệ. Với vấn đề tỉ giá: Khi tỉ giá hối đoái không ổn định. Chẳng hạn giảm đi thì các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc hoàn trả khoản tín dụng vay bằng ngoại tệ trước đó, vì cần phải có nhiều tiền vốn nội tệ hơn mới mua đủ số ngoại tệ cần để trả. Do vậy, các doanh nghiệp hoặc là sẽ hạn chế sử dụng vốn tín dụng hoặc sẽ không trả được nợ cho ngân hàng điều này làm cho tín dụng xuất nhập khẩu giảm cả về qui mô và chất lượng. Với nhân tố lãi suất: mức độ phù hợp giữa lãi suất trên thị trường với mức lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu. Lợi nhuận ngân hàng thu được bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sử dụng vốn vay nên với mức lãi suất cao, các doanh nghiệp không trả được nợ, hoặc sẽ có ý định không muốn trả nợ, từ đó hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tất nhiên chất lượng tín dụng cũng giảm sút. Lạm phát: Lạm phát có tác động mạnh lên nhiều mặt như khả năng tiêu thụ hàng hoá, giá cả thị trường, hiệu quả kinh doanh Do vậy, nó tác động mạnh đến không chỉ hoạt động tín dụng mà còn cả nền kinh tế. Chẳng hạn trong thời kì lạm phát cao sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm, nhu cầu tín dụng giảm, vốn tín dụng đã thực hiện cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Ngoài ra còn phải kể đến việc công chúng không muốn gửi tiền vào ngân hàng để đề phòng việc mất giá tiền tệ. Như thế việc đạt được chất lượng trong hoạt động tín dụng hầu như không thể. 28
  29. - Nhóm nhân tố thuộc môi trường pháp lí: Môi trường pháp lí tác động đến hoạt động ngân hàng thông qua hệ thống các luật và các văn bản pháp qui có liên quan đặc biệt là các pháp lệnh của NHNN, các chủ trương chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước. Sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước, các pháp lệnh ngân hàng của NHNN sẽ làm tăng cao hay giảm bớt chất lượng của hoạt động tín dụng điều này nó cần phải được đánh giá trong mối quan hệ với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu của Nhà nước, thực thi chính sách tiền tệ của NHNN. Bên cạnh đó cũng cần thấy rằng sự thay đổi môi trường pháp lí còn có tác động rất lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà cụ thể là các chính sách về khuyến khích xuất khẩu hay hạn chế nhập khẩu. Tóm lại, có rất nhiều nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu. Song điều quan trọng không phải là biết tên các nhân tố đó mà cần phải hiểu rõ sự tác động của chúng và vận dụng sáng tạo trong điều kiện thực tế của ngân hàng sao cho sự vận dụng đó đtôi lại hiệu quả làm tăng được chất lượng của hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. Với Ngân hàng Công thương Đống Đa việc áp dụng hình thức tín dụng xuất nhập khẩu đã đạt được đến mức độ nào, kết quả ra sao và đặc biệt là trong vấn đề chất lượng tín dụng, bên cạnh những mặt đã đạt được còn có những hạn chế gì cần được giải quyết. Ta xem xét và trả lời những câu hỏi này ở chương sau “ Thực trạng chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa”. 29
  30. chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực đống đa 2.1. Khái quát về chi nhánh Ngân hàng công thương đống đa 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng. Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa (ICBV) là một trong các chi nhánh của Ngân hàng công thương Việt Nam, đóng tại trụ sở 187 Tây Sơn, Hà Nội. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng công thương nói riêng và hệ thống Ngân hàng nói chung là hệ quả của công cuộc đổi mới đất nước. Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa ra đời trên cơ sở Ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa (trước tháng 3 năm 1988). Sau khi nhà nước ban hành nghị định 53-HĐBT (ngày 26/3/1988), “đổi mới hoạt động hệ thống ngân hàng”, hệ thống Ngân hàng Nhà nước chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Ngân hàng Công thương Đống Đa ra đời là một chi nhánh của ngân hàng Công thương Việt Nam thực hiện đúng chức năng: kinh tế tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và kinh doanh ngoại hối trên địa bàn quận Đống Đa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế trên địa bàn khu vực. Tuy vậy địa điểm chính của ngân hàng thực sự là khồng thuận lợi , như trụ sở chính bị che khuất, việc đi lại giao thông không thuận lợi, nhưng với sự năng động của mình, Ngân hàng Công thương Đống Đa ngày càng kinh doanh có hiệu quả, chữ tín ngày càng cao, trở thành một địa điểm tin cậy, có sức thuyết phục đối với khách hàng.Điều này được thể hiện ở nhiều mặt trong hoạt động của ngân hàng. Quận Đống Đa với 26 phường, trên 40 vạn dân, được xếp vào một trong những quận rộng nhất và có kinh tế phát triển nhất ở Hà Nội. Mặt khác đây là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp quốc doanh lớn, đồng thời lại có nhiều doanh nghiệp tập thể, liên doanh tư nhân hoạt động sản xuất đa dạng, nhiều lĩnh vực khác nhau.Đặc biệt, khu công nghiệp Thượng Đình và nhiều doanh nghiệp cùng tư nhân khác nằm rải rác trên 30
  31. địa bàn đã tạo cho ICBV một thế mạnh rất lớn. Chẳng hạn như năm 1997, số khách hàng gửi tiết kiệm lên tới 82.600 người, ở một số quỹ tiết kiệm đóng rải rác trên địa bàn khu vực. Đến năm 1998 số khách hàng mở tài khoản lên tới 200 doanh nghiệp và hộ tư nhân cá thể, số khách hàng gửi tiết kiệm lên tới 90000 người. Vì vậy một trong những vấn đề quan trọng được đặt ra hiện nay là phải khai thác, thu hút và giữ được khách hàng bằng uy tín của mình. Ngay từ khi mới thành lập, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có một mạng lưới kinh doanh rộng lớn với một trụ sở chính và mười bốn quỹ tiết kiệm phân bố đều khắp trong quận và vùng phụ cận. Ngân hàng có một đội ngũ lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao, có năng lực và nhiệt tình trong công tác. Ban giám đốc thường xuyên nắm sát tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn và của ngân hàng kịp thời giải quyết những khó khăn mới phát sinh, đặt ra mục tiêu và chủ chương hợp lý, đặc biệt là chủ chương xắp xếp đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa không những đã vượt qua thời kỳ khó khăn của ngân hàng (1989-1992) mà còn đạt là ngân hàng kinh doanh hiệu quả trong nhiều năm liên tục. Ngân hàng Công thương Đống Đa cũng luôn xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ dựa trên bốn mục tiêu chủ yếu mà ngân hàng coi là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình: đó là kinh tế phát triển, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật và lợi nhuận hợp lý. Kinh tế phát triển là mục tiêu hàng đầu của ngân hàng đầu của ngân hàng mà theo đó ngân hàng nên tạo môi trường thuận lợi cho khách hàng kinh doanh, do hiệu quả của khách hàng và hiệu quả của ngân hàng và từ đó đổi mới lề lối làm việc . An toàn vốn là mục tiêu quan trọng, do vậy phải có biện pháp cụ thể như: thẩm định kỹ trước, trong và sau khi cho vay. Điều này đòi hỏi cấn bộ ngân hàng phải có trác nhiệm , năng lực và kiến thức , phòng kiểm soát phải hoạt động có hiệu quả. Mục tiêu tôn trọng pháp luật đã chứng tỏ Ngân hàng Công thương Đống Đa không chỉ chạy theo lợi nhuận đơn thuần, mà lợi nhuận đạt được trên cơ sở hợp lý trong khuân khổ pháp luật chứ không phải bất chấp pháp luật. Còn với mục tiêu lợi nhuận hợp lý, Ngân hàng Công thương Đống 31
  32. Đa luôn cho vay theo lãi suất chung trên thị trường chủ động da dạng hoá các dịch vụ như : bảo lãnh, cầm cố, thu chi tiền mặt theo yêu cầu của khách hàng. Với một hướng đi đúng đắn như vậy, liên tục nhiều năm gần đây Ngân hàng Công thương Đống Đa đã đạt được mức lợi nhuận vượt kế hoạch, phục vụ kịp thời và có hiệu quả nhu cầu vốn, tạo môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển sản suất kinh doanh, góp phần đưa nền kinh tế thị trường theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Bộ máy lãnh đạo của ngân hàng Công thương Đống Đa gồm : một giám đốc, hai phó giám đốc và các phòng ban : kinh doanh đối nội, kinh doanh đối ngoại, kế toán tài chính, tiền tệ kho quỹ, kiểm soát, thông tin điện toán, tổ chức hành chính và hai phòng giao dịch. Các dịch vụ Ngân hàng Công thương Đống Đa cung cấp cho khách hàng gồm: Nhận tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn bằng VND và ngoại tệ ; phát hành kỳ phiếu trái phiếu ngân hàng ; cho vay ngắn hạn cho vay trung dài hạn ; mở L/C ; thanh toán quốc tế ; kinh doanh ngoại tệ ; chuyển tiền. 2.1.3.Tình hình hoạt động sản suất kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa Những năm vừa qua là một giai đoạn hết sức khó khăn đối với Việt Nam nói chung và đối với hoạt động của toàn ngành ngân hàng nói riêng. Chúng ta phải đối dầu với hai cơn bão lớn: ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực và những thiên tai nặng nề liên tiếp. Tuy vậy, Việt Nam đã vươn lên và trụ vững trước những khó khăn thách thức đó. Hoà chung thành quả của cả nước, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã không ngừng nỗ lực để khẳng định uy tín và vị thế của mình trên thị trường khu vực cũng như quốc tế. Và mặc dù còn có những mặt hạn chế nhưng ngân hàng đã đạt những kết quả khá khả quan trong hoạt động kinh doanh. Điều này được thể hiện ở những mặt chủ yếu sau: 32
  33. Về huy động vốn Chính sách nguồn vốn được coi là một trong những chính sách quan trọng quyết định sự thành công của ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn luôn xác định tạo vốn là khâu mở để xây dựng một mặt bằng ổn định và vững chắc cho các hoạt động kinh doanh. Với phương châm coi nguồn vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng và nhận thức được vai trò của mối tương quan giữa vốn nội tệ và vốn ngoại tệ, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã dạng hoá nguồn vốn bằng nhiều biện pháp và thông qua các kênh khác nhau trong ngân hàng, chú trọng tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn bằng các biện pháp như: tăng tiền gửi tiết kiệm của dân cư, đồng thời khai thác triệt các nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế Kết quả của những nỗ lực trên của ngân hàng là trong nhiều năm liên tục nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn tăng trưởng đáng kể và cơ cấu nguồn vốn cũng thay đổi theo hướng tích cực : vốn trong nước chiếm tỷ lệ cao, vốn huy động dài hạn tăng Cụ thể : - Về tổng nguồn vốn: Nguồn vốn các năm đều tăng cả về số tương đối và số tuyệt đối. Năm 1999 tổng nguồn vốn đạt 1375 tỷ đồng, năm 2000 đạt 1429,5 tỷ đồng, (năm 1999 so với năm 2000 tăng chậm là do cuối năm 1999 chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân tách khỏi chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa). Năm 2001 tổng nguồn vốn đạt 1850 tỷ đồng tăng 29,4% so với năm 2000, trong ki đó nguồn vốn huy động cũng tăng lên tương ứng. Điều này cho thấy sự phát triển nhanh chóng và vững chắc trong hoạt động quản lí kinh doanh của ngân hàng và Ngân hàng Công thương Đống Đa đã tạo được uy tín đối với khách hàng trong việc huy động vốn. Để xem xét rõ hơn cơ cấu nguồn vốn giai đoạn 1999 – 2001 ta có biểu 1 33
  34. Biểu 1 : Cơ cấu nguồn vốn giai đoạn 1999 – 2001 90 80 70 60 50 TG tiết kiệm TG của các TCKT 40 Kỳ phiếu 30 20 10 0 1999 2000 2001 34
  35. - Về cơ cấu nguồn vốn: Tiền gửi tiết kiệm năm 1999 chiếm 70,5% tổng nguồn vốn, năm 2000 là 82,6% so với năm 1999. Đến năm 2001 tiền gửi tiết kiệm chiếm 64,9% tổng nguồn vốn giảm so với năm 2000 là 177,7%. Trongkhi đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng nhanh: Năm 2001 tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 650 tỉ đồng bằng 165,3% so với năm 2000 tăng 405 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 35,1% tổng nguồn vốn. Điều này cho chúng ta thấy rằng nguồn vốn của chi nhánh không ngừng tăng trưởng, đáng kể là tiền gửi của một số doanh nghiệp mới mở tài khoản có hoạt động lớn. Do vậy có sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn theo hướng có lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Về sử dụng vốn: Tương ứng với nguồn vốn về tổng tài sản: các năm từ 1999 đến năm 2001 đều tăng năm sau cao hơn năm trước với tốc độ tăng bình quân hàng năm trên 16%. - Về hoạt động tín dụng: Từ năm 1999- 2000 cơ cấu vốn tín dụng của ngân hàng thay đổi đáng kể theo hướng giảm cho vay trung và dài hạn. Về việc sử dụng vốn các năm từ 1999 đến năm 2001 đều tăng năm sau cao hơn năm trước được thể hiện thông qua biểu 2. Biểu 2 : Tình hình sử dụng vốn giai đoạn 1999 - 2001 2000 1800 1600 1400 1200 DS cho vay 1000 DS thu nợ 800 Dư nợ 600 400 200 0 35 1999 2000 2001
  36. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn trong tổng doanh số cho vay năm 2000 là 4,5% giảm so với tỷ trọng 6,5% so với năm 1999 (do Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân tách khỏi Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa). Nhưng đến năm 2001 tỷ trọng cho vay trung và dài hạn là 17,7% so với năm 2000. Như vậy từ năm 1999- 2001 doanh số cho vay trung và dài hạn tăng trung bình 7,6% và doanh số cho vay từ năm 1999- 2001 giảm 440 tỷ đồng. Doanh số thu nợ năm 2000 giảm 21,4%, với 335 tỷ đồng so với năm 1999, doanh số thu nợ năm 2001 giảm 170 tỷ đồng so với năm 2000 bằng 13,8%. Doanh số thu nợ từ 1999-2001 giảm trung bình 17,6% năm. Như vậy ta có thể rút ra kêt luận mặc dù ngân hàng đã giảm doanh số cho vay rất nhiều so với năm 1999 nhưng doanh số thu nợ vẫn giảm. để đạt được hiệu quả cao Ngân hàng phải đè cao những giải pháp nhằm cải thiện công tác thu nợ của ngân hàng. Để đánh giá toàn diện tình hình sử dụng vốn ta xét chỉ tiêu dư nợ. Năm 2001, tổng dự nợ các loại tăng 33,8% so với năm 2000 vàtăng so với năm 1999 là 17,8%. Trong đó tín dụng trung và dài hạn tăng nhanh cả về tỷ trọng trong tổng dư nợ và mức tăng trên cho thấy nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng tăng trong nền kinh tế. - Về hoạt động bảo lãnh: cùng với nghiệp vụ kinh doanh, Ngân hàng Công thương Đống Đa còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tạm ứng. Các doanh nghiệp được chi nhánh bảo lãnh chúng thầu đều vay vốn ngân hàng để thực thiện hợp đồng. Hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển và đạt hiệu quả cao, tổng dư nợ bảo lãnh tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2001 là 313.000.000.000 trong đó bảo lãnh trung và dài hạn chiếm trên 90% - Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ: quán triệt tinh thần của ban giám đốc: “Phòng Kinh doanh Đối ngoại phải đảm bảo đủ nguồn vốn ngoại tệ đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán của khách hàng. Chú trọng khai thác những nguồn ngoại tệ có giá cả hợp lý.” Mặc dù kinh doanh trong điều kiện hết sức khó khăn, đặc biệt là ảnh hưởng của tình trạng nhập siêu. Vì vậy, dù không đủ lượng ngoại tệ tại chỗ để đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng, nhưng được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban 36
  37. lãnh đạo Chi nhánh, sự hỗ trợ rất hiệu quả của Ngân hàng Công thương Việt Nam nên Ngân hàng Công thương Đống Đa vẫn đáp ứng một cách tương đối đầy đủ về nhu cầu ngoại tệ, giữ được những khách hàng truyền thống có dự nợ cao. Tuy nhiên, tình trạng khan hiếm ngoại tệ có thể tiếp tục ảnh hưởng không nhỏ tới cơ cấu khách hàng trong thời gian tới. 2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại chi nhánh ngân hàng CÔNG THƯƠNG khu vực ĐốNG ĐA. 2.2.1. Đặc điểm hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa. Sự chuyển đổi nền kinh tế theo xu hướng mở cửa đã thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt nam phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Lĩnh vực công thương nghiệp mà Ngân hàng Công thương Đống Đa đang phục vụ cũng nảy sinh những nhu cầu nhập khẩu cấp thiết về vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị và nhu cầu hỗ trợ cho xuất khẩu của các tổng công ty, các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế vay vốn để thu mua, sản xuất , chế biến, kinh doanh hàng hoá trong danh mục được phép xuất nhập khẩu theo qui định. Sớm nhận thấy vấn đề đó Ngân hàng Công thương Đống Đa đã mở rộng hoạt động sang lĩnh vực tài trợ kinh doanh xuất nhập khẩu. Về đặc điểm chung tín dụng xuất nhập khẩu của chi nhánh cũng giống các ngân hàng khác. Tuy nhiên nó có một số điểm khác biệt đó là: - Mặc dù đã tiến hành đa dạng hoá khách hàng, song do luôn phải bám sát nhiệm vụ chính là phục vụ lĩnh vực công thương nghiệp nên khách hàng chủ yếu vẫn là các Doanh nghiệp Nhà nước. - Trong tổng doanh số cho vay thì tỉ trọng tín dụng cho nhập khẩu máy móc thiết bị chiếm tỉ trọng lớn. Điều này xuất phát từ các lí do như nền kinh tế Việt Nam còn nghèo, nhu cầu về máy móc công nghệ lớn mặt khác tại chi nhánh nhận thức về cho vay xuất khẩu còn nhiều hạn chế dẫn đến nắm bắt nhu cầu và triển khai cho vay khó khăn. Đây chính là một trong những vấn đề mà chi nhánh cần xem xét giải 37
  38. quyết để có thể đẩy mạnh được hoạt động tín dụng xuất khẩu và tạo được cơ cấu tín dụng phù hợp cho giai đoạn phát triển sau này. - Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của chi nhánh được thực hiện trên cơ sở phối hợp giữa nhiều phòng ban khác nhau gồm: các phòng tín dụng, phòng nguồn vốn. Điều này một mặt tạo điệu kiện cho việc cung cấp tín dụng được diễn ra thuận lợi chính xác hơn song mặt khác cũng gây những khó khăn trong việc điều hành quản lí điều hành hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng. 2.2.2. Các hình thức và qui trình tín dụng xuất nhập khẩu của chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa Do tín dụng xuất nhập khẩu còn nhiều mới mẻ và do một số hạn chế riêng nên tại các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng mới chỉ áp dụng một số ít các hình thức cho xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Tuy nhiên, về qui trình chung của hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ICBV cũng tương tự các ngân hàng khác và có thể sơ lược như sau: Bước 1: Tìm kiếm dự án Đây là giai đoạn cần thiết phải có sự phối hợp giữa các phòng ban và các chi nhánh để tiếp cận với các dự án có hiệu quả. Thông qua mối quan hệ của các phòng ban nói trên Ngân hàng sẽ nắm được tình hình phát triển của các ngành, lĩnh vực và các đơn vị cụ thể cũng như nhu cầu vốn của họ qua đó tìm kiếm các dự án có hiệu quả và xem xét đáp ứng một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Với tình hình cạnh tranh trong ngành ngân hàng như hiện nay thì đây có thể coi là hoạt động mang tính sống còn đối với không chỉ Ngân hàng Công thương Đống Đa. Bước 2: Tiến hành thẩm định và xét duyệt dự án: Sau khi tìm được dự án, các cán bộ tín dụng tiến hành phân tích tín dụng trên các mặt: Phân tích đánh giá dự án, phân tích đánh giá doanh nghiệp, dự báo khả năng hoàn trả. Bước 3: Hoàn chỉnh hồ sơ vay vốn 38
  39. Sau khi được chấp nhận cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập bộ hồ sơ vay vốn bao gồm: + Các văn bản pháp lý về quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép đăng kí kinh doanh xuất nhập khẩu, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng + Hồ sơ kinh tế và quản lí khách hàng gồm : Luận chứng kinh tế kĩ thuật của dự án đã được phê duyệt, đơn xin vay vốn, hợp đồng xuất nhập khẩu, tờ trình, hợp đồng tín dụng , bảng cân đối tài sản và báo cáo kết quả kinh doanh 3 năm liền, số hiệu tài khoản đã mở và các tài liệu liên quan khác như hồ sơ thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, các hình thức đảm bảo nợ vay Bước 4: Thực hiện giải ngân Sau khi các doanh nghiệp hoàn thành hồ sơ vay vốn và các thủ tục cần thiết thì ngân hàng bắt đầu giải ngân. Số lượng mỗi lần giải ngân và thời gian giải ngân như trong hợp đồng tín dụng. Bước 5: Kiểm tra và giám sát sử dụng vốn vay Định kì cán bộ tín dụng xuống chi nhánh và cơ sở để kiểm tra cà xem xét tình hình sử dụng vốn vay xem có thực hiện đúng như hợp đồng hay không và qua đó tìm ra những thiếu sót để xử lí. Bước 6: Thu nợ gốc, lãi vay và xử lí nợ Ngân hàng thực hiện thu nợ gốc và lãi vay theo thoả thuận trong hợp đồng. Đến ngày trả nợ các doanh nghiệp phải chủ động chi trả nếu không ngân hàng sẽ có quyền trích thu từ tài khoản của doanh nghiệp. Nếu hết hạn doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn và tính lãi phạt. Nếu vì một lí do nào đó được ngân hàng chấp nhận doanh nghiệp có thể xin gia hạn nợ theo qui định tín dụng. Bước 7: Kết thúc hợp đồng Sau khi doanh nghiệp đã trả hết nợ gốc và lãi ngân hàng sẽ cùng doanh nghiệp thực hiện tất toán hợp đồng 39
  40. Trên đây là qui trình chung tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa, còn đối với mỗi hình thức tín dụng khác nhau chi nhánh lại có những qui trình cụ thể hơn mà ta sẽ xem xét ở phần sau. + Các hình thức và qui trình tín dụng xuất nhập khẩu cụ thể Đối với xuất khẩu Chi nhánh cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế vay vốn ngắn hạn để thu mua, sản xuất chế biến kinh doanh hàng hoá trong danh mục được phép xuất khẩu theo qui định. Các doanh nghiệp muốn được vay vốn theo hình thức này phải thoả mãn một số điều: Doanh nghiệp đó phải là doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trực tiếp hoặc thu mua sản xuất, chế biến để uỷ thác xuất khẩu. Các doanh nghiệp phải có đủ những điều kiện của thể lệ tín dụng ngắn hạn hiện hành (có tư cách pháp nhân, có phương án sản xuất kinh doanh được ICBV chấp nhận). Về đảm bảo nợ vay doanh nghiệp có các hình thức sau: - Có tài sản thế chấp cầm cố - Có bảo lãnh của ngân hàng khác, của các công ty được thành lập theo quyết định 90, 91 - Có sự bảo đảm bằng tài khoản tiền gửi đối ứng VND (để cho vay USD) hoặc tiền gửi USD (để cho vay VND) của doanh ngiệp hoặc tổng công ty. - Cầm cố bằng hối phiếu hoặc bộ chứng từ. - Khi có L/C đã mở mà chi nhánh được chỉ định là ngân hàng chiết khấu và ngân hàng thông báo. - Nguồn thu từ hợp đồng xuất khẩu, hợp đồng uỷ thác (đối với doanh nghiệp không xuất khẩu trực tiếp) xác định rõ khả năng thanh toán của bên mua và chỉ định thanh toán về tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng. - Có hợp đồng xuất khẩu theo chương trình trả nợ nước ngoài của Chính phủ. 40
  41. Tuỳ theo mức độ tín nhiệm, khả năng thanh toán hợp đồng xuất khẩu của doanh nghiệp vay vốn mà quyết định phối hợp, lựa chọn nhiều hình thức bảo đảm nợ vay khác nhau. Qui trình tín dụng. Khi có nhu cầu vay vốn các doanh nghiệp phải gửi đến Ngân hàng Công thương Đống Đa hồ sơ xin vay bao gồm: 1) Hồ sơ liên quan đến tư cách pháp nhân như quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh, điều lệ (nếu có). 2) Các tài liệu về tình hình tài chính của doanh nghiệp gồm các báo cáo quyết toán các năm trước và quý gần nhất tính đến thời điểm xin vay. 3) Đơn xin vay kèm theo phương án sản xuất kinh doanh. 4) Các tài liệu liên quan đến việc cho phép xuất khẩu theo pháp luật Việt Nam 5) Hồ sơ thế chấp cầm cố, bảo lãnh và các hình thức bảo đảm nợ vay khác. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu có nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu thì phải gửi kèm theo hợp đồng xuất khẩu và các văn bản khác theo qui định của chi nhánh. Sau khi hoàn tất các điều kiện trên các doanh nghiệp tiến hành giải trình mục đích vay vốn, thanh toán hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của món vay. Nếu chấp nhận, ngân hàng sẽ kí hợp đồng hay khế ước vay vốn với doanh nghiệp. Các hình thức tín dụng xuất khẩu : Ngân hàng Công thương Đống Đa có thể cho vay đối với nhà xuất khẩu theo các hình thức cụ thể: - Cho vay trước khi có hợp đồng xuất khẩu: Doanh nghiệp trước khi có hợp đồng xuất khẩu có thể yêu cầu ngân hàng cho vay để bổ sung vốn lưu động, thu mua, dự trữ sản xuất hàng xuất khẩu. Mức tối đa bằng tổng chi phí cần thiết để thu mua, dự trữ hàng xuất khẩu. - Cho vay sau khi kí hợp đồng xuất khẩu: Sau khi kí hợp đồng xuất khẩu các doanh nghiệp xuất khẩu cũng có thể được chi nhánh xem xét cho vay để tiếp tục bổ sung vốn lưu động, thu mua sản xuất hàng xuất khẩu theo hợp đồng nhưng với điều kiện doanh nghiệp phải cam kết đảm bảo việc thanh toán tiền hàng xuất khẩu sẽ được chuyển vào tài khoản của doanh nghiệp mở tại ngân hàng để trả nợ. 41
  42. Mức tối đa = tổng chi phí sản xuất ra trị giá hàng hoá theo hợp đồng xuất khẩu đã kí - vốn tự có và vốn ứng trước của người mua, các nguồn huy động khác. - Cho vay khi L/C đã được mở: sau khi nhận được L/C do ngân hàng nước ngoài phát hành nếu doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn lưu động để thu mua dự trữ sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì ngoài những hồ sơ kể doanh nghiệp cần phải gửi hợp đồng xuất khẩu tới ngân hàng và đáp ứng một số điều kiện: Công thương Đống Đa phải là ngân hàng thông báo và thanh toán L/C ; Ngân hàng phát hành L/C phải được chi nhánh chấp nhận ; trong L/c phải qui định rõ bộ chứng từ phải được xuất trình tại chi nhánh nếu không thì bản gốc của L/C phải do Ngân hàng Công thương Đống Đa nắm giữ. Mức cho vay tối đa theo hình thức này không vượt quá trị giá L/C. Trường hợp doanh nghiệp đã được ngân hàng cho vay để thực hiện hợp đồng thì chi nhánh chỉ cho vay bổ sung phần vốn chênh lệch. - Cho vay cầm cố hối phiếu: Sau khi xuất hàng có được hối phiếu nếu nhà xuất khẩu có nhu cầu vay vốn sẽ được chi nhánh xem xét cho vay theo hình thức cầm cố hối phiếu. Mức cho vay tối đa không vượt quá 80% trị giá hối phiếu, trừ một số trường hợp được bảo lãnh khả năng thanh toán hoặc với khách hàng lớn có quan hệ lâu dài mức cho vay có thể đạt tới 90%-95% trị giá hối phiếu. Khi nhận được tiền hàng chi nhánh sẽ thanh toán lãi phải thu, tự động thu hồi nợ gốc đã cho vay và lãi. Lãi được tính từ ngày phát tiền vay đến ngày ngân hàng thu được tiền từ ngân hàng phát hành L/C hoặc từ doanh nghiệp, phần còn lại ngân hàng chuyển trả theo yêu cầu của doanh nghiệp. Phương pháp cho vay: Chi nhánh có thể cho vay theo quí hoặc cả mùa vụ (nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu ổn định) và ngân hàng sẽ xác định hạn mức tín dụng thường xuyên để kí hợp đồng. Với các doanh nghiệp có nhu cầu vốn không thường xuyên, ICBV áp dụng phương pháp cho vay theo món (cho vay từng lần) tương ứng với mức độ đảm bảo nợ vay. 42
  43. Thời hạn cho vay : Chi nhánh cho vay tối đa không quá 12 tháng và được xác định phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh và luân chuyển hàng hoá hoặc thời hạn thực hiện hợp đồng hoặc thời hạn thanh toán của L/C. Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay thực hiện theo hướng dẫn cụ thể của Tổng giám đốc trong từng thời kì và tương ứng với loại tiền vay. Với các khách hàng có quan hệ lâu dài, có quan hệ vay trả thường xuyên, cam kết bán lại ngoại tệ cho ngân hàng khi có doanh thu hàng xuất khẩu thì sẽ được cho vay với lãi suất ưu đãi. Trường hợp có tiền gửi VND làm đảm bảo thì được cho vay với lãi suất thấp. Thực hiện phát tiền vay: Việc phát tiền vay được dựa trên hợp đồng kinh tế và chuyển thẳng đến đơn vị thụ hưởng. Trường hợp người bán không có tài khoản thì được phép dùng tiền mặt hoặc ngân phiếu thanh toán và việc phát tiền vay dựa trên hoá đơn nhập kho, hợp đồng. Trường hợp ứng tiền để thu mua thì căn cứ vào tiến độ mua hàng giao giám đốc chi nhánh xem xét thực tế để quyết định cho vay. Sau từ 7-10 ngày kể từ khi phát tiền vay, chi nhánh phải kiểm tra việc sử dụng vốn vay. Xử lí hợp đồng vi phạm: Nếu hợp đồng tín bị phá vỡ do các nguyên nhân như: a) Bên mua phá vỡ hợp đồng b) Bên mua hoặc ngân hàng bên mua bị phá sản. c) Do hình thức thanh toán không an toàn (chuyển tiền điện tử, nhờ thu ). d) Rủi ro hối đoái, rủi ro chứng từ thanh toán và các điều khoản bất lợi cho nhà xuất khẩu qui định trong hợp đồng xuất khẩu Doanh nghiệp không được hưởng các ưu đãi nêu trên và khoản nợ coi như đến hạn nếu trong 15 ngày sau đó doanh nghiệp không có cách trả nợ cho ngân hàng. Đối với nhập khẩu Với các doanh nghiệp nhập khẩu Ngân hàng Công thương Đống Đa áp dụng các hình thức sau: *Cho vay mở L/C AT SIGHT - hình thức tín dụng tài trợ chủ yếu cho hoạt động nhập khẩu. 43
  44. Hiện nay tại Chi nhánh tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu dưới hình thức L/C AT SIGHT. Cụ thể về hình thức này như sau : Theo công văn 2725/ CV – NHCT5 ra ngày 29 tháng 09 năm 2000 về hướng dẫn việc mở và thanh toán L/C AT SIGHT của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam thì việc mở L/C AT SIGHT phải tuân theo những qui định dưới đây : Mở l/c at sight : Khách hàng có nhu cầu nhập vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị mà trong hợp đồng ngoại thương qui định thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ trả tiền ngay (gọi tắt là L/ C AT SIGHT) được Ngân hàng công thương xem xét cho mở L/C AT SIGHT. Trường hợp mở L/C AT SIGHT thanh toán bằng nguồn vốn của khách hàng : Khách hàng phải ký quỹ. Mức ký quỹ tuỳ thuộc vào khả năng khách hàng đó thuộc vào đối tượng nào. + 100% giá trị L/ C AT SIGHT : Với khách hàng có nhu cầu nhập khẩu vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị thanh toán bằng L/C AT SIGHT sẽ được bộ phận thanh toán quốc tế tiếp nhận và giải quyết. + Trường hợp ký quỹ dưới 100% giá trị L/C. Chỉ áp dụng đối với những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, quan hệ tín dụng với ngân hàng và với các ngân hàng khác sòng phẳng, không có nợ quá hạn, có lãi treo. Mức ký quỹ tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp : Với doanh nghiệp Nhà nước : - Khách hàng có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. a. Các Tổng công ty 90, 91 có thể xem xét ký quỹ. b. Các đơn vị thành viên Tổng công ty 90, 91, doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ,Tỉnh, Thành phố : Mức ký quỹ tối thiểu bằng 5% giá trị L /C. c. Các đối tượng khác : Mức ký quỹ tối thiểu bằng 20% giá tri L / C. 44
  45. - Khách hàng không có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. a. Các Tổng công ty 90, 91 tối thiểu bằng 5% giá trị L /C. b. Các đơn vị thành viên Tổng công ty 90, 91, doanh nghiẹp Nhà nước thuộc Bộ, Tỉnh, Thành phố : Mức ký quỹ tối thiểu bằng 10% giá trị L /C. c. Các đối tượng khác : Mức ký quỹ tối thiểu bằng 30% giá trị L/ C. Đối với khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh: a. Mức tối thiểu bằng 50% giá trị L / C đối với khách hàng có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. b. Và 80% giá trị L/C đối với khách hàng có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Trường hợp khách hàng mở L/C AT SIGHT thanh toán bằng nguồn vốn vay của NHCT : Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn mở L/C nhập khẩu hàng hoá. Ngân hàng sẽ tiến hành các bước xem xét thẩm định, quyết định cho vay, kiểm tra giám sát món vay và các thủ tục khác như các món vay bình thường và tiến hành mở L/C nếu khách hàng hội đủ các điều kiện vay v ốn. Nếu ngân hàng duyệt cho vay theo phương thức cho vay từng lần (đối với cho vay ngắn hạn) hoặc phương thức cho vay theo dự án (đối với dự án trung dài hạn) thì trước khi mở L/C ngân hàng và khách hàng phải ký kết hợp đồng tín dụng. Nếu ngân hàng duyệt cho vay theo phương thức hạn mức tín dụng thì khi mở L/C khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay (theo mẫu đính kèm). + Mức ký quỹ : -Đối với cho vay ngắn hạn : Giám đốc chi nhánh xem xét định mức ký quỹ hoặc miễm mức ký quỹ tuỳ thuộc vào mức độ tín nhiệm của khách hàng với ngân hàng trong quan hệ tín dụng, khả năng tài chính, khả năng tiêu thụ hàng hoá, hiệu quả kinh doanh, nguồn trả nợ của khách hàng. - Đối với mức cho vay trung dài hạn: a. Nếu khách hàng mở L/C AT SIGHT để thanh toán 100% bằng vốn vay cho hàng nhập khẩu là máy móc thiết bị thì được miễn ký quỹ. 45
  46. b. Trường hợp trong dự án có một phần cho vay nhập khẩu máy móc thiết bị thanh toán bằng L/C AT SIGHT qua Ngân hàng Công thương Việt Nam, đơn vị phải trích trong nguồn vốn tự có tham gia vào dự án vay tối thiểu là 5% giá trị L/C để ký quỹ nhưng phải đảm bao phần chênh lệch giữa giá trị L/C và số tiền ký quỹ không vượt quá phần vốn ngân hàng tham gia vào dự án. c. Trường hợp dự án cho vay vốn chỉ có một phần nhập khẩu máy móc thiết bị, đơn vị ký quỹ toàn bộ phần vốn tự có tham gia vào dự án xin vay để mở L/C nhập khẩu +Mức ký quỹ : Khi cho vay ngoại tệ mở và thanh toán L/C, chi nhánh phải chấp hành nghiêm túc mức uỷ quyền cho vay ngoại tệ theo quy định tại văn bản 1581/CV – NHCT5 ngáy 01 tháng 07 năm 1999 và văn bản 1012/CV - NHCT5 ngày 21 tháng 04 năm 2000 của NHCTVN đồng thời phải đảm bảo không vượt mức dư nợ cho vay và bảo lãnh cao nhất đối với mọi khách hàng đã được NHCTVN uỷ quyền cho chi nhánh. Thanh toán L/C AT SIGHT. Khi L/C đến hạn ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thanh toán L/C với nước ngoài. Mức cho vay bằng chênh lệch giữa số tiền thực tế thanh toán với nước ngoài trừ đi số tiền kỹ quỹ. Khách hàng phải ký vào giấy nhận nợ để hạch toán vào tài khoản cho vay thích hợp. Trường hợp đến ngày thanh toán L/C, khách hàng vì một lý do nào đó mà chưa kịp ký vào giấy nhân sự thì ngân hàng căn cứ vào hợp đồng tín dụng cho vay vốn (đã ký kết trước khi mở L/C), chứng từ thanh toán L/C, ngân hàng tự động ghi nợ tài khoản cho vay của khách hàng việc quản lý theo dõi thu nợ , thu lãi thực hiện như khoản vay bình thường. *Cho vay ngắn hạn nhập khẩu hàng hoá Ngân hàng Công thương Đống Đa, bên cạnh cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cũng thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp nhập khẩu 46
  47. để họ nhập khẩu hàng hoá phục vụ kinh doanh. Tuy nhiên với các doanh nghiệp nhập khẩu hình thức tín dụng này ít dùng hơn so với các doanh nghiệp xuất khẩu . Cho vay trung, dài hạn nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất Đây là hình thức chủ đạo trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ICBV hiện nay. Theo hình thức này ngân hàng sẽ cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phục vụ đầu tư phát triển. Cho vay theo hình thức bảo lãnh nhập hàng trả chậm Ngoài các hình thức nếu trên đối với các doanh nghiệp Ngân hàng Công thương Đống Đa còn cho vay theo hình thức ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho khách hàng nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài thông qua sự cam kết với ngân hàng nước ngoài trả nợ đúng hạn bằng việc mở L/C trả chậm cho khách hàng, nếu khách hàng không trả đúng hạn Ngân hàng Công thương Đống Đa sẽ đứng ra trả nợ thay cho doanh nghiệp và doanh nghiệp sẽ phải nhận nợ của ngân hàng. 2.3. Tình hình tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa thời gian qua 2.3.1. Những mặt đạt được. Kết quả chung: Mặc dù lĩnh vực xuất nhập khẩu là một lĩnh vực còn khá mới mẻ, nhưng từ khi bắt đầu đi vào hoạt động đến nay Ngân hàng Công thương Đống Đa đã thu được những thành công không nhỏ trong lĩnh vực này. - Về quan hệ hợp tác : Cho đến nay Ngân hàng Công thương Đống Đa đã thiết lập được nhiều mối quan hệ chặt chẽ với nhiều ngân hàng thương mại khác như : VCB, TECHCOMBANK, APBANK, HAHUBANK, . Hiện nay hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu đã góp phần đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng quốc tế trong quá trình hội nhập, kết hợp với các dịch vụ hoạt động ngân hàng quốc tế khác, phục vụ tích cực cho nhiệm vụ của Ngân hàng Công 47
  48. thương Đống Đa và sự phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. - Về hoạt động nghiệp vụ : Trong ba năm liên tục từ năm 1999 đến năm 2001. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn tăng trưởng ở mức cao trung bình năm 2000 tăng 93,95% so với năm 1999. Năm 2001 tăng 64,25% so với năm 2000. Điều này thể hiện thị trường xuất nhập khẩu đố với nhân hàng ngày càng được mở rộng. Bảng 3 : Doanh số cho vay xuất nhập khẩu giai đoạn 1999 - 2001 (đơn vị : 1000.000) Năm Doanh số cho vay Tăng so với năm trước (%) 1999 96725 2000 187600 93.95 2001 308141 64.25 Nguồn : Báo cáo Tổng kết hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu giai đoạn 1999-2001 Năm 1999 doanh số cho vay xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa chỉ đạt 96.725 triệu đồng , đến năm 2000 đã đạt 187.600 triệu đồng và năm 2001 doanh số cho vay xuất nhập khẩu đã đạt 308141 triệu đồng tăng 120541 triêụ đồng so với năm 2000. Về dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu : Năm 1999 đạt 84.320 triệu đồng , năm 2000 đạt 165205 triệu đồng , năm 2001 là năm hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa đạt dư nợ cao nhất là 287.052 triệu đồng , gấp 3.4 lần năm 1999 và 1.7 lần năm 2000. Điều này cho thấy theo thời gian hoật động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa càng tăng trưởng và khả năng đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ngày càng cao. Tỷ trọng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu trong tổng dư nợ tuy chưa cao , tuy nhiên tỷ lệ này được tăng dần qua các năm : 10.54% năm 1999 ; 23.6 % năm 2000 48
  49. và năm 2001 là 30.2% chứng tỏ vai trò của tín dụng xuất nhập khẩu trong hoạt đôngj tín dụng của Ngân hàng Công thương Đống Đa ngày càng quan trọng . Mặt khác , như ta đã biết giai đoạn từ năm 1999 đến nay là giai đoạn rất khó khăn đối với hoạt động kinh tế đối ngoại bởi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong hku vực và sự chững lại của một số nền kinh tế các nước có quan hệ bạn hàng với Việt Nam đã làm cho thị trường xuất nhập khẩu của nước ta bị thu hẹp , các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn về tiêu thụ hàng hoá . Trong điều kiện đó mức tăng trưởng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa vẫn dược duy trì ở mức cao và ổn định chứng tỏ khả năng và nỗ lực rất lớn của Chi nhánh trong lĩnh vực này. - Về cơ cấu tín dụng theo thời hạn : Năm 1999 tín dụng xuất nhập khẩu ngắn hạn là 37.728 triệu đồng chiếm 40% tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu , Năm 2000 dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu ngắn hạn là 85906.6 triệu đồng chiếm 52% tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu , Năm 2001 tỷ trọng này là 59% điều này thể hiện Ngân hàng Công thương Đống Đa có thể mở rộng và đáp ứng các khoản tín dụng cho những món vay có thời hạn ngắn cũng như dài hạn cho xuất nhập khẩu . Đồng thời ta thấy các khoản tín dụng xuất nhập khẩu ngắn hạn có xu hướng tăng lên so với tín dụng xuất nhập khẩu trung và dài hạn , cũng có nghĩa là nhu cầu về tín dụng ngắn hạn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là rất lớn . Đây là lợi thế mà chi nhánh cần quan tâm khai thác . - Cơ cấu tín dụng theo đối tượng khách hàng: Trong cơ cấu tín dụng xuất nhập khẩu theo đối tượng khách hàng thì tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mặc dù chưa nhiều nhưng đã được nâng nên qua các năm. Năm 1999, tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 9%, đến năm 2000 tỷ lệ này đã tăng nên 15% và năm 2001 là 23%. Về số tuyệt đối doanh số cho vay đối với thành phần này tăng với tốc độ khá nhanh.Năm 2001, tăng gấp 2,5 lần so với năm 2000 và gấp 8 lần năm 1999. Điều này cho thấy rõ xu hướng đa dạng hoá khánh hàng đã được chú trọng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang được chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa quan tâm hỗ trợ. 49
  50. Điều này được thể hiện ở biểu 3 Biểu 3 : Dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu giai đoạn 1999 – 2001 C h o v a y Cho vay Cho vay D N N N 7 7 % DNNN 91% DNNN 85% Cho vay Cho vay C h o v a y DNNQD 9% DNNQD 15% D N N QD 2 3 % Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Các doanh nghiệp Nhà nước vẫn luôn là đối tượng khách hàng lớn của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong tất cả các lĩmh vực mà đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Mặc dù tỷ trọng tín dụng cho các Doanh nghiệp nhà nướctuy có giảm song vẫn tăng cao về số tuyệt đối, điều này phản ánh thực tế khách hàng chủ yếu của Ngân hàng Công thương Đống Đa. * Tín dụng xuất khẩu: Những năm trước đây do đối tượng khách hàng chủ yếu của Ngân hàng Công thương Đống Đa là các doanh nghiệp hoạt động trong nước là chính nên các nhu cầu về tín dụng xuất khẩu rất thấp và chi nhánh hầu như không quan tâm theo dõi riêng mà tín dụng xuất khẩu được lồng ghép vào cho vay tín dụng chung. Khi nền kinh tế các nước khu vực ngày càng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi nền kinh tế Việt Nam phải có những bước đột phá mới để hoà nhập vào vơí nền kinh tế khu vực và sự phát triển chung của nền kinh tế quốc tế, nhu cầu xuất hàng hoá, các thiết bị của Việt Nam là rất cấp bách và Ngân hàng Công thương Đống Đa đã quan tâm đến tín dụng xuất khẩu thể hiện ở việc ngân hàng cho vay đối với các doanh nghiệp xuáat khẩu một số mặt hàng chủ yếu theo chương trình của chính phủ như: gạo, cà phê, cao su .Tuy nhiên, hoạt động tín dụng xuất mới chỉ nặng về chính sách mà không mang tính chất thương mại nên cũng chưa được quan tâm đúng mức. Từ năm 1999 đến nay do nhu cầu về vốn cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng lên và do chính sách đa dạng hoá trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, Ngân hàng Công thương Đống Đa mới thực sự coi hoạt động tín dụng xuất khẩu là một nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng. 50
  51. Mặc dù mới đi vào hoạt động, tín dụng xuất khẩu của ngân hàng bước đã đạt được một số kết quả khả quan. Đáp ứng một phần nhu cầu vốn không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Cụ thể là: - Về quan hệ khách hàng: hiện nay ICBV đã là nhà tài trợ của rất nhiều các tổng công ty có thế mạnh về xuất trên địa bàn, ngoài ra ngân hàng cũng quan tâm đến việc tài trợ cho các công ty liên doanh với nước ngoài. - Về hoạt động nghiệp vụ: hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu đã được triển khai trên địa bàn thuộc ngân hàng, và tại một số doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu mạnh đã triển khai tốt hoạt động này và đây là hạt nhân tốt để thúc đẩy việc thực hiện tốt trong hệ thống ngân hàng. - Kết quả hoạt động: dự nợ tín dụng mặc dù chiếm tỷ trọng chưa cao so với dự nợ tín dụng, nhưng đạt tốc độ tăng trưởng qua các năm: năm 1999 dư nợ tín dụng xuất khẩu đạt 26409,6 triệu đồng chiếm 28% trong tổng dư nợ xuất nhập khẩu, năm 2000 đạt 53262,1 triệu đồng chiếm 32,24% tổng dư nợ xuất nhập khẩu, năm 2001 98229,23 triệu đồng chiếm 34,22% tổng dư nợ xuất nhập khẩu. Tín dụng xuất khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa hiện nay 100% là cho vay ngắn hạn đáp ứng vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp xuất khẩu. Tỷ trọng cho vay xuất khẩu đạt trung bình 63,3%, trong đó năm cao nhất là năm 1999 chiếm 70%. Hai năm trở lại đây tỷ trọng này có giảm song không lớn (62% năm 2000 và 58% năm 2001) và dư nợ tuyệt đối vẫn tăng trong điều kiện hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn. Tín dụng nhập khẩu: Hoạt động tín dụng nhập khẩu của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa được thực hiện sớm hơn tín dụng xuất khẩu do từ lâu chi nhánh đã là bạn hàng của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công thương nghiệp có nhu cầu lớn về nhập khẩu móc thiết bị sản xuất kinh doanh cũng như bởi nhiều năm trước đây nhu cầu nhập khẩu cuả nước ta về hàng hoá lớn hơn nhiếu so với hiện nay vì các lí do: hoặc hàng của ta không sản xuất được hoặc sản xuất ra nhưng không xuất khẩu được do chất lượng kém, giá thành cao Những năm gần đây hoạt động tín dụng 51
  52. nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn đạt được những thành công mặc dù đấy không phải lĩnh vực chủ lực của Ngân hàng Công thương Đống Đa, cụ thể: - Về quan hệ bạn hàng và mạng lưới hoạt động: hiện nay quan hệ trong hoạt động tín dụng cho nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa có thể coi là khá rộng. Ngân hàng đã thiết lập mối liên hệ tài trợ của rất nhiều dự án nhập khẩu với nhiều ngân hàng trong và ngoài nước. Mạng lưới trong nước cũng không ngừng được mở rộng. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự mở rộng và tăng cường khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Công thương Đống Đa đối các ngân hàng khác. - Về kết quả hoạt động nghiệp vụ: dự nợ tín dụng nhập khẩu tăng mạnh trong điều kiện bất lợi về tỷ giá và đóng góp một vai trò lớn trong việc hiện đại hoá máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, hàng hoá của các doanh nghiêp. Năm 1999 dư nợ tín dụng nhập khẩu đạt 78662,88 triệu đồng, năm 2000 đạt 125555.8 triệu đồng, năm 2001 là 224647 triệu đồng. Tỷ trọng dư nợ tín dụng nhập khẩu đạt trung bình trên 79% trong tổng dư nợ xuất khẩu. Trong đó cho vay nhập khẩu chủ yếu là cho vay trung và dài hạn. Tỷ trọng tín dụng nhập khẩu ngắn hạn nhỏ so với tổng dư nợ nhập khẩu cho thấy hiện nay các dự án nhập khẩu mà Ngân hàng Công thương Đống Đa đang đáp ứng vẫn là những dự án nhập khẩu lớn, việc vay trả diễn ra trong nhiều năm. Tình hình nợ quá hạn xuất nhập khẩu (XNK) của ICBV. Chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng được phản ánh khá rõ ở tình hình nợ quá hạn. Do vậy, sẽ là thiếu sót khi ta xem xét chất lượng của các khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ICBV mà không chú ý đến nợ quá hạn của ngân hàng. So với các ngân hàng khác thì tỷ lệ nợ quá hạn xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa là thấp hơn khá nhiều. Chẳng hạn như ở chi nhánh ngân hàng EximBank Hà Nội một chi nhánh ngân hàng chủ lực trong kinh doanh đối ngoại thì tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu năm 1998 là 9,9% năm 1999 có hạ cũng chỉ ở mức 6,6%. Trong khi đó tỷ lệ này của Ngân hàng Công thương Đống Đa giao động ở con số 3%. Đây có thể xem là một thành tựu của ngân hàng 52
  53. hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa đã được hạ thấp các năm từ 1999-2001. Năm 1999 tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu là 3,15%, năm 2000 giảm xuống còn 3% và đến năm 2001 là 2,89%. Những con số này phản ánh nỗ lực rất lớn của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong việc nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu. Tỷ lệ nợ quá hạn xuất nhập khẩu được duy trì tương đối ổn định và ở mức có thể chấp nhận được. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp chủ yếu là do nợ quá hạn trung và dài hạn thấp. Năm cao nhất tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn mới chỉ là 2,6%. Nợ quá hạn trung và dài hạn thấp là do các nguyên nhân sau: + Thứ nhất: cho vay trung và dài hạn tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa thường có thời hạn cho vay dài, thời kỳ trả nợi ổn định và các doanh nghiệp có thể đề điều chỉnh kỳ trả nợ. Mặt khác, lãi suất của hình thức này thường thấp hơn các nguồn khác và người vay được lựa chọn lãi suất để hạn chế rủi ro do đó nó tạo cho các doanh nghiệp có thời gian khai thác vốn và thu được lợi nhuận để trả nợ. + Thứ hai: là nỗ lực của cán bộ tín dụng trong việc việc xử lý và thu hồi nợ, một số khoản vay cần được điều chỉnh mức thu nợ hàng năm đã được xử lý kịp thời. Tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu ngắn hạn cao hơn nhiều so với tín dụng trung và dài hạn với các lí do: - Cho vay ngắn hạn tập trung vào cho vay xuất khẩu mà các mặt hàng xuất khẩu như: nông, lâm, thuỷ hải sản thường mang tính mùa vụ cao do đó thời điểm hoàn trả thường sai lệch so sới thời điểm các doanh nghiệp xuất khẩu thu được tiền hàng. - Cho vay ngắn hạn tín dụng xuất nhập khẩu thường gặp những khó khăn do sự biến động giá cả tỷ giá hơn so với cho vay trung dài hạn. - Do có tâm lí là những khoản vay ngắn hạn thường nhỏ và phân tán ở nhiều khách hàng khác nhau nên việc thẩm định đối với các khoản tín dụng này còn lỏng lẻo, sự quản lí, đôn đốc thu hồi nợ thực hiện chưa được tốt. Năm 1999 là năm tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng trung ngắn hạn XNK cao nhất 3,8% đây là thời kì thị trường thế giới có những biến động lớn làm ảnh hưởng lớn 53
  54. đến giá cả hàng hoá XNK. Sự mất giá của một số đồng tiền trong khu vực làm khả năng cạnh hàng hoá XNK của họ tăng lên, các doanh nghiệp XNK của ta gặp nhiều khó khăn hơn nữa đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, sự biến động tỷ giá làm cho khả năng trả nợ của họ không được đảm bảo. Qua những số liệu và việc phân tích ở trên ta có thể thấy được Ngân hàng Công thương Đống Đa đã đạt những kết kết quả khá tốt về mặt chất lượng tín dụng cho XNK. Điều đó được phản ánh thông qua sự trợ vốn kịp thời và có hiệu quả cho nhiều ngành, nhiều dự án XNK quan trọng của các doanh nghiệp cũng như của đất nước, sự tin tưởng của khách hàng cũng như sự gia tăng về các mối quan hệ của Ngân hàng Công thương Đống Đa với các bạn hàng trong nước và quốc tế. Ngoài ra, với những chỉ tiêu cụ thể về tổng dư nợ tăng, nợ quá hạn giảm đã cho thấy tín dụng XNK của Ngân hàng Công thương Đống Đa đang dần được nâng cao. Tuy vậy bên cạnh những kết quả đã đạt được, đối với vấn đề chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa còn có nhiều hạn chế cần quan tâm. 2.3.2. Hạn chế Thứ nhất, nguồn vốn cho xuất nhập khẩu chưa đáp ứng yêu cầu: Hiện nay nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng cao trong khi ngân hàng chưa có một nguồn vốn lớn, ổn định để đáp ứng nhu cầu này ngân hàng thường phải sử dụng các nguồn vốn vay thương mại trên thị trường với lãi cao và thời hạn ngắn. Ngoài ra với nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế thì nguồn vốn trung dài hạn còn thấp, số tiền gửi thanh toán chưa cao gây khó khăn trong việc triển khai các dự án tài trợ trung dài hạn có giá trị lớn. Nguyên nhân của hạn chế này là do nhiều phía : đối với người gửi tiền họ còn thiếu tin tưởng vào sự ổn định tiền tệ, sự bùng nổ của lạm phát trong những năm trước đây đã tác động đến tâm lý của khách hàng khi đem tiền vào gửi tại ngân hàng. Bởi vậy, họ thường chỉ gửi tiền tại ngân hàng trong thời gian ngắn. Đối với Ngân hàng do mới đi vào hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu nên chưa tạo được các mối quan hệ lâu dài và ổn định với bạn hàng. Mặt khác, với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu nông lâm thuỷ hải sản thường 54
  55. mang tính thời vụ và phụ thuộc khá nhiều vào tự nhiên do đó nhu cầu vốn thường không ổn định gây khó khăn cho việc chuẩn bị vốn của Ngân hàng. Thứ hai là cơ cấu tín dụng xuất nhập khẩu chưa hợp lí, hình thức còn đơn điệu: Hiện nay tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa chủ yếu là phục vụ nhập khẩu, tín dụng xuất khẩu chiếm tỉ trọng nhỏ mới chỉ tập trung cho vay ngắn hạn. Bên cạnh, cơ cấu tín dụng chưa hợp lí thì về hình thức tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa còn đơn điệu các hình thức hiện nay Ngân hàng đang áp dụng mới chỉ là các hình thức cổ điển, nhiều hình thức tín dụng xuất nhập khẩu mới và có khả năng thích ứng còn chưa được áp dụng dẫn đến các sản phẩm cung cấp không đa dạng và hạn chế khả năng được lựa chọn của khách hàng cũng như phân tán rủi ro cho Ngân hàng . Thứ ba là tín dụng xuất khẩu còn mang nặng tính tự phát, chưa được triển khai đồng bộ trong toàn hệ thống dẫn đến chất lượng hoạt động nhiều khi còn thấp. Hoạt động tín dụng xuất khẩu chưa được các định rõ nét các biện pháp hỗ trợ riêng còn đan xen với các hoạt động khác. Nguyên nhân của tình trạng trên là do: Về nhận thức cho vay xuất khẩu chưa trải đều và sâu rộng, mang nặng quan niệm Ngân hàng là cho vay Đầu tư xây dựng cơ bản nên nhiều chi nhánh vẫn cho rằng khách hàng kinh doanh xuất khẩu không phải là đối tượng khách hàng của Ngân hàng Công thương Đống Đa. Về con người : Xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ trong việc phát triển hoạt động xuất khẩu hơn thế đây là hình thức nghiệp vụ còn nhiều mới mẻ do vậy lực lượng cán bộ tín dụng để triển khai vừa thiếu, vừa yếu về kinh nghiệm, nghiệp vụ và ngoại ngữ so với yêu cầu Về công cụ thực thi: Mạng lưới thanh toán quốc tế chưa đủ lớn và phù hợp. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khác như sự không định rõ chức năng quản lí giữa các phòng ban, qui chế cho vay xuất khẩu Thứ tư, nợ ngắn hạn quá hạn còn cao. 55
  56. Những năm qua mặc dù tỉ lệ nợ quá hạn đã giảm đi và ở mức thấp tuy nhiên tỉ lệ nợ ngắn hạn quá hạn còn cao so với mục tiêu dưới 2% của Ngân hàng. Hơn thế mặc dù tỉ lệ nợ quá hạn giảm nhưng về số tuyệt đối vẫn tăng như vậy cũng là không tốt. Ngoài ra, nợ khó đòi vẫn xảy ra tuy với tỉ lệ rất nhỏ nhưng nếu xét về giá trị tuyệt đối thì không nhỏ như vậy giá trị tổn thất của ngân hàng nếu xảy ra cũng không nhỏ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn, khó đòi của ngân hàng trong đó có một số nguyên nhân chính là: Môi trường pháp lí, kinh doanh trong nước chưa đồng bộ chặt chẽ, thị trường quốc tế thời gian qua có nhiều biến động dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp thấp. Về phía ngân hàng là khi xét duyệt cho vay còn thiếu sâu sát, chưa nghiên cứu kĩ đặc điểm từng ngành, thiếu thông tin trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (thông tin thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh ), thiếu thông tin về công nghệ, tổ chức tiếp thị trong giao dịch các nghiệp vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu còn chưa đầy đủ. 56