Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty Vimedimex

doc 84 trang nguyendu 7640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty Vimedimex", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_kinh_doanh_xu.doc

Nội dung text: Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty Vimedimex

  1. Lời nói đầu ở Việt Nam, từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ sáu vào tháng 12- 1996, đã có sự thay đổi căn bản trong đường lối chính sách phát triển kinh tế của đất nước. Đó là chuyển đổi từ nền kinh tế tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Qua hơn 10 năm thực hiện sự đổi mới này đã tạo nên những chuyển biến đáng kể, tạo nên một nền tảng cơ bản quan trọng làm tiền đề cho sự phát triển ổn định lâu dài của đất nước. Sự đổi mới này Đảng đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá đa dạng hoá nền kinh tế đối ngoại hướng mạnh về xuất khẩu nhằm trang thủ vốn công nghệ và thị trường quốc tế để tiến hành công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhằm nắm bắt thời cơ vươn lên phát triển nhanh tạo thế và lực mới vượt qua thử thách khắc phục nguy cơ trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực. Với sự khuyến khích và đầu tư thích đáng của nhà nước hàng loạt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã ra đời và phát triển, nhưng cũng có không ít các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thua lỗ dẫn đến phá sản. Điều này thể hiện sj cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trường. Do vậy mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì đòi hỏi các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao thì doanh nghiệp có điều kiện mở rộng và phát triển các hoạt động kinh doanh, đầu tư mua sắm thiết bị phương tiện để hoạt động kinh doanh và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuâth công nghệ cao vào hoạt động kinh doanh của mình chính vì vậy hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo trònh độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên làm thế nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các hoạt động xuất nhập khẩu đó lại là câu hỏi được đặt ra cho các doanh nghiệp đang tham, gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trên thị trường. Để trả lời câu hỏi này đòi hỏi mỗi công ty phải có hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả một cách khách quan khoa học từ đó giúp cho công ty có các giải pháp hữu hiệu cho các hoạt động kinh doanh của mình. 1
  2. Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như trước những đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu: với phạm vi kiến thức được trang bị trong nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuôí khoá tại công ty xuất nhập khẩu Y tế I - Hà Nội (VIMEDIMEX) tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty VIMEDIMEX” làm báo cáo chuyên đề thực tập và làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp. Trong chuyên đề này tôi đưa ra một số lý luận cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu và về hiệu quả kinh doanh kết hợp với một số phương pháp thống kê, phương pháp toán kinh tế để phân tích một số chỉ tiêu hiệu quả của công ty VIMEDIMEX, từ những phân tích đó tôi đưa ra một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Kết cấu của luận văn gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về hiệu quả và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Chương II: Thực trạng về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu y tế I-Hà Nội (VIMEDIMEX). Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty VIMEDIMEX-Hà nội. 2
  3. Chương I Tổng quan về hiệu quả và sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. I. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh doanh. 1. Khái niệm và bản chất. Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước hiện nay để thực hiện tốt chế độ hoạch toán kinh tế, bảo đảm lấy thu bù chi và có lãi trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, là cơ sở để thị trườngồn tại và phát triển của mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt. Điều này đòi hỏi các thành phần kinh tế các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh phải có hiệu quả. Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả được coi là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo một mục đích nhất định. Với những hình thái xã hội khác nhau, với những quan hệ sản xuất khác nhau thì bản chất của phạm trù hiệu quả và các yếu tố hợp thành phạm trù này cũng vận động theo khuynh hướng khác nhau. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư bản nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất, do vậy mọi hiệu quả, quyền lợi thu được từ sản xuất kinh doanh, và các quyền lợi khác đầu thuộc về các nhà tư bản. Điều này cho thấy việc phấn đấu để có hiệu quả trong kinh doanh của nhà tư bản là để đem về nhiều lợi nhuận, quyền lợi cho nhà tư bản chứ không đem lại lợi ích về cho người lao động và toàn xã hội. Việc tăng chất lượng sản phẩm hàng hoá của nhà tư bản không phải là yếu tố phục vụ cho nhu cầu của toàn bộ xã hội mà là mục đích thu hút nhiều khách hàng, để từ đó có nhiều cơ hội thu hút lợi nhuận cho mình hơn thông qua việc bán được nhiều hàng hoá. 3
  4. Trong xã hội chủ nghĩa phạm trù hiệu quả vẫn tồn tại nhưng nó được phát triển lên thành hiệu quả của toàn xã hội. Do các tài sản đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước, toàn dân và tập thể, hơn nữa mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng khác mục đích sản xuất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội nên bản chất của phạm trù hiệu quả cũng khác với chủ nghĩa tư bản. Hiệu quả kinh tế có rất nhiều cách hiểu, có rất nhiều định nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích kinh doanh của từng doanh nghiệp theo nghĩa rộng hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cụ thể là hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí nhỏ nhất. Quan điểm thứ nhất là của nhà kinh tế học người Anh Adamsimith cho rằng “hiệu quả kinh tế là kết quả trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”. Nhà kinh tế học người Pháp Ogiephri cũng có quan điểm như vậy. ậ đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó giải thích kết quả sản xuất kinh doanh có thể dùng cho chi phí mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất, nếu cùng một mức kết quả với hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng đều có hiệu quả. Quan điểm thứ hai cho rằng “hiệu quả kinh doanh là tỷ lệ so sánh giữa phần tăng thêm của chi phí”. Quan điểm này biểu hiện quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả và chi phí để đạt được kết quả đó. Quan điểm này có ưu điểm là bám sát được mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân. Nhưng khó khăn ở đây là phương tiện để đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Quan điểm thứ ba: Hiệu quả kinh tế được đo bằng kết quả hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. ưu điểm của quan điểm này là nó phản ảnh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó đã gắn được 4
  5. hiệu quả với toàn bộ chi phí, coi việc kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử sự các chi phí. Tuy nhiên, nó vẫn chưa biểu hiện được tương quan về chất và lượng giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối quan hệ này. Để phản ảnh được tình hình sử dụng các nguồn nhân lực thì cần phải cố định một trong 2 yếu tố hoặc là kết quả hoạec là chi phí bỏ ra. Nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin thì các yếu tố này luôn biến động, vì vậy khi xem xét hiệu quả của một quá trình kinh tế nào đó, phải xem xét trong trạng thái động. Quan điểm thứ tư là của các nhà kinh tế học của chủ nghĩa Mac-Lênin cho rằng: Hiệu quả kinh tế là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản xã hội chủ nghĩa. Quỹ tiêu dùng với tư cách là chi tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song khó khăn là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Khía niệm quỹ tiêu dùng được đề cập ở đây là một bộ phận của thu nhập quốc dân, bộ phận còn lại là tích luỹ. Từ các quan điểm trên cho thấy hiệu quả kinh doanh theo nghĩa rộng là một phạm trù kinh tế phản ảnh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Như vậy cần phải định sự khác nhau và mối liên hệ giữa kết quả với hiệu quả. Bất kỳ một hoạt động của con người nào đó nói chung và trong kinh doanh nói riêng đều mong muốn đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên kết quả đó được tạo ra ở mức độ nào, với giá nào là vấn đề cần xem xét, vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Mặt khác nhu cầu tiêu dùng của con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của mình. Chính vì vậy, người ta luôn quan tâm làm sao với khả năng hiện tại có thể tạo ra được nhiều sản phẩm nhất. Vậy nên khi đánh giá hoạt động kinh doanh tức là đánh giá chất lượng của hoạt động kinh doanh tạo ra kết quả mà nó đạt được. Như vậy bản chất của hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả của lao động xã hội, được xác định bằng cách so sánh giữa chất lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Do vậy thước đo hiệu quả là sự tiết 5
  6. kiệm hao phí lao động xã hội. Và tiêu chuẩn của hiệu quả là tối đa hoá kết quả và tối thiểu hoá chi phí dựa trên những điều kiện hiện có. 2. Phân loại hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau thông qua những đặc trưng ý nghĩa cụ thể khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu theo các tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu, nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu, mức hiệu quả và xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 2.1. Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp xuất nhập khẩu, biểu hiện chung của hiệu quả kinh tế cá biệt là doanh lợi của mỗi doanh nghiệp đạt được. Hiệu quả kinh tế xã hội mà hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu mang lại cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của các hoạt động kinh doanh vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu ngân sách, giải quyết vấn đề việc làm cải thiện đời sống cho nhân dân. Trong quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu, đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải đạt được hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp mình và phải đạt được hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân. Bởi giữa hai loại hiệu quả này có mối quan hệ mật thiết, nhân quả và tác động trực tiếp lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp và ngược lại hiệu quả kinh tế xã hội là điều kiện tiền đề để cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. 2.2. Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp. Mục đích hoạt động kinh doanh của các chủ nghĩa là thu được lợi nhuận tối đa. Vì vậy doanh nghiệp cần phải căn cứ vào thị trường để giải quyết các vấn 6
  7. đề đó là: Kinh doanh là gì? Kinh doanh như thế nào? Và kinh doanh với ai? Chi phí của hoạt động kinh doanh là bao nhiêu? Các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh trong những điều kiện cụ thể về nguồn vốn, tài nguyên, trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm của mình với một chi phí cá biệt nhất định, với mục đích là bán được hàng hoá với giá cao nhất. Mọi chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp suy cho cùng là chi phí lao động xã hội. Nhưng ở mỗi doanh nghiệp khi đánh giá hiệu quả thì chi phí lao động xã hội đó lại được thể hiện dưới dạng các chi phí cụ thể: chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động sống, ch phí hao mòn máy móc thiết bị, chi phí ngoài sản xuất Bản thân mỗi loại chi phí lại có thể được phân chia chi tiết tỷ mỉ hơn. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí nói trên và phải kết hợp đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí. Đó là việc làm giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp tìm ra các biện pháp làm giảm chi phí cá biệt của hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh. 2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh. Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể bằng cách xác định lợi nhuận thu được với chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế tuyệt đối có thể được tính bằng công thức: E=K-C Trong đó: E: hiêu quả kinh tế. K: kết quả hoạt động kinh tế. C: chi phí cần thiết. Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau. Nói cách khác hiệu quả so sánh chỉ mức 7
  8. chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án để từ đó cho phép lựa chọn một phương án có hiệu quả nhất. Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ ra chi phí để thực hiện một thương vụ nào đó, để biết được với chi phí bỏ ra đó sẽ thu được lợi ích cụ thể gì, và mục tiêu cụ thể gì từ đó quyết định có nên thực hiện thương vụ đó hay không. Trong thực tế hoạt động của các doanh nghiệp nếu phải bỏ ra chi phí thì đều phải tính toán đến hiệu quả tuyệt đối. Trên thực tế để thực hiện một hợp đồng kinh tế nào đó không chỉ có một phương án mà có thể đưa ra nhiều chi phí khác nhau. Mỗi phương án đầu tư có chi phí khác nhau, thời gian thực hiện và thời gian thu hồi vốn khác nhau. Do vậy muốn thu được hiệu quả kinh tế cao cần phải đưa ra được nhiều phương án khác nhau rồi tién hành so sánh hiệu quả của từng phương án để chọn ra phương án có hiệu quả nhất. Tóm lại: Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh trong kinh doanh xuất nhập khẩu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau song chúng lại có tính độc lập tương đối, xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả so sánh. Tuy nhiên có những chỉ tiêu hiệu quả so sánh không phụ thuộc vào hiệu quả tuyệt đối. II. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu cho phép đề ra được những biện pháp tăng doanh thu, giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. 1. Mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu. Mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu tăng thì doanh thu của công ty tăng theo tốc độ tương ứng đồng thời mức chi phí tuyệt đối cũng tăng do chi phí lưu thông khả biến tăng, nhưng tỷ xuất chi phí giảm 8
  9. xuống do chi phí bất biến không đổi. Cho nên tốc độ của chi phí tuyệt đối lưôn thấp hơn của mức lưu chuyển hàng hoá làm cho doanh thu của doanh nghiệp tăng nhanh hơn chi phí, hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá tăng lên. Ngoài ra khi tốc độ lưu chuyển hàng hoá tăng lên tao điều kiện sử dụng các phương tiện vật chất kỹ thuật hợp lý hơn, năng suất lao động tăng cao góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. 2. Kết cấu hàng hoá xuất nhập khẩu. Mỗi loại hàng hoá kinh doanh xuất nhập khẩu có một mức lợi nhuận riêng với mức độ chi phí riêng phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau. Khi cơ cấu hàng hoá kinh doanh thay đổi sẽ làm mức lợi nhuận chung của công ty thay đổi và chi phí kinh doanh thay đổi do đó tỷ suất lợi nhuận theo các cách tính khác nhau cũng thay đổi. Nếu cùng một tốc độ lưu chuyển hàng hoá, mặt hàng kinh doanh có lãi suất lớn chiếm tỷ trọng cao trong toàn bộ cơ cấu hàng xuất nhập khẩu thì mức lợi nhuận tăng cao hơn do đó tăng hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu và ngược lại. 3. Nhân tố giá cả. Nhân tố giá cả tác động lớn đến hoạt động kinh doanh. Tổng doanh thu phụ thuộc vào khối lượng hàng hoá bán ra và giá bán hàng xuất nhập khẩu. Sự thay đổi giá không làm tăng chi phí nhưng làm tăng doanh số tiêu thụ kết quả là tỷ suất chi phí lưu thông giảm đi và lợi nhuận tăng lên. Hiệu quả kinh doanh do đó cũng tăng lên. Giá mua hàng hoá xuất nhập khẩu ảnh hưởng lớn đén chi phí, rong tổng chi phí kinh doanh xuất nhập khẩu thì nó chiếm tỷ trọng chủ yếu do vậy nó tác động đến tổng chi phí trong kinh doanh. Việc mua hàng hoá với giá cao sẽ làm cho chi phí tăng và lợi nhuận giảm và ngược lại khi mua hàng hoá với giá thấp làm hạ thấp chi phí kinh doanh từ đó làm tăng lợi nhuận. Do vậy có thể nói hiệu quả kinh doanh chịu ảnh hưởng của giá mua hàng hoá xuất nhập khẩu. 4. Chi phí lưu thông. Chi phí lưu thông là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí hoạt động kinh doanh. Chi phí này phụ thuộc giá cả của chi phí lưu thông. Giá chi phí lưu thông gồm giá cước vận chuyển, phí thuê bốc dỡ hàng hoá, giá thuê 9
  10. công nhân Đây là một nhân tố khách quan nhưng nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu chi phí này tăng lên thì tổng chi phí tăng lên trong khi tổng doanh thu không đổi thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị giảm xuống. Chính vì vậy mỗi doanh nghiệp cần phải có biện pháp làm giảm chi phí lưu thông bằng cách lựa chọn các phương tiện vận chuyển nhằm tối ưu hoá quá trình vận chuyển, sử dụng có hiệu quả kho tàng và thuê mưới nhân công thì sẽ làm tăng lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh. 5. Tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ và VND cũng làm ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì trong kinh doanh xuất nhập khẩu doanh thu và chi phí mua bán hàng hoá được tính bằng ngoại tệ mạnh và cả đồng nội tệ. Khi tỷ giá giữa ngoại tệ mạnh và đồng nội tệ tăng cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu vì một đơn vị ngoại tệ sẽ đổi được nhiều đồng nội tệ hơn và điều này làm cho việc nhập khẩu gặp nhiều khó khăn hơn khi chi phí kinh doanh tăng lên. Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ làm cho việc nhập khẩu được đẩy mạnh còn xuất khẩu gặp khó khăn khi lợi nhuận của việc xuất khẩu bị giảm sút. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải theo dõi sát tình hình để kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình để nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.  Thuế: Thuế là khoản nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước, mức thuế có ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua việc làm stăng hoặc làm giảm tổng chi phí, trừ thuế lợi tức, thuế thu nhập thì các khoản thuế ( VAT, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ) làm tăng chi phí kinh doanh do đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị giảm xuống. Vì vậy nhà nước cần phải có chính sách trợ giá cho hoạt động xuất nhập khẩu, chính sách này nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích hoạt động xuất khẩu dựa vào lợi thế của Việt Nam. Mặt khác nhằm trợ giá cho những mặt hàng nhập khẩu trong nước chưa sản xuất được hay sản xuất không đủ để phục vụ nền kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.  Các nhân tố thuộc cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước: Việc thay đổi cơ chế xuất nhập khẩu sẽ làm ảnh hưởng tới doanh thu hay chi phí của 10
  11. hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, do vậy nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên nắm bắt các thông tin về chính sách quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước để có biện pháp ứng phó kịp thời trong hoạt động kinh doanh nhằm nâng hiệu quả sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.  Các nhân tố khác: Ngoài các nhân tố chủ yếu kể trên, còn một số nhân tố khác cũng ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu thể hiện ở việc đàm phán ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, tổ chức thực hiện hợp đồng, lựa chọn hình thức thanh toán để từ đó làm giảm các loại chi phí, tăng lợi nhuận; hoặc cơ sở hạ tầng của nền kinh tế như hệ thốnh thông tin liên lạc, kho tàng bến bãi, hệ thống giao thông vận tải nó ảnh hưởng đến điều kiện giao hàng, chi phí giao dịch, chi phí lưu thông và làm ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Tóm lại, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong đó có các nhân tố chủ quan và khách quan, chúng ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến doanh thu hoặc chi phí từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuânj của hoạt động kinh doanh. Vấn đề đặt ra là phải kiểm soát được các nhân tố chủ quan để có chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện doanh nghiệp, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, làm tăng doanh thu và giảm chi phí nâng cao hiệu quả kinh doanh. Phải nắm bắt được các nhân tố khách quan để điều chỉnh hoạt động kinh doanh thích ứng với những thay đổi đó nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh. III. Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh. 1. Hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh nhập khẩu. 1.1. Tỷ suất lợi nhuận của vốn sản xuất. Lợi nhuận P Vốn sả n xuất kinh doanh Công thức này cho thấy một đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiên đồng lợi nhuận. Nếu tỷ suất lợi nhuận của vốn sản xuất càng cao 11
  12. thì hiệu quả kinh tế cảu công ty càng cao và ngược lại. Để đạt được điều này điều này doanh nghiệp phải làm sao để tăng được lợi nhuận và giảm được vốn sản xuất kinh doanh. Nhưng không có nghĩa là giảm vốn sản xuất kinh doanh thì có hiệu quả mà phải chọn một mức vốn phù hợp để có lợi nhuận cao nhất. 1.2. Tỷ trọng lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh. Lợi nhuận P Doanh thu trong đó tổng giá trị kinh doanh chính là tổng doanh thu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tuỳ từng mặt hàng kinh doanh mà tỷ trọng lợi nhuận khác nhau. Trong công thức này nếu tỷ trọng lợi nhuận càng cao thì doanh nghiệp kinh doanh càng có hiệu quả. Nhưng ở đây chỉ so sánh trên mức độ tỷ trọng tương đối, nếu để so sánh với các đơn vị khác, mặt hàng kinh doanh khác thì chưa hẳn đã nói lên được kết quả giữa hai công ty, hai mặt hàng kinh doanh khác nhau. Bởi vì đối với môt số ngành, một số mặt hàng kinh doanh có tỷ trọng lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh là rất nhỏ nhưng giá trị tuyệt đối của nó lại rất lớn vì mặt hàng của công ty có giá trị cao và doanh thu tương đối lớn. Muốn so sánh ta phải so sánh giá trị tuyệt đối giữa hai công ty, giữa hai mặt hàng để có thể xác định kết quả một cách chính xác. 1.3. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận P Tổng chi phí Công thức này cho thấy doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí thì có thể thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để tăng hiệu quả kinh doanh thì công ty phải hạn chế tối đa chi phí để thu về hiệu quả cao nhất. 1.4. Tỷ suất giá trị gia tăng trên vốn sản xuất kinh doanh. Giá trị gia tăng H Tổng vốn kinh doanh 12
  13. Giá trị gia tăng của doanh nghiệp trong từng thời kỳ (tính theo năm) là chỉ tiêu phản ánh đầy đủ kết qủa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở tầm hiệu quả kinh tế xã hội. Nó phản ảnh tổng hợp không chỉ ở khả năng hoàn vốn và sinh lợi cho chủ sở hữu doanh nghiệp, mà còn góp phần cho ngân sách nhà nước dưới dạng thuế, tiền lương, tiền thưởng cho người lao động và cả khấu hao dùng để khôi phục, đổi mới và hoàn thiện tài sản cố định để tiếp tục phát triển kinh doanh. Giá trị gia tăng được tính như sau: GTGT= tiền công, tiền lương, tiền thưởng của người lao động. - Thu nhập hỗn hợp. - Thuế sản xuất kinh doanh các loại. - Khấu hao tài sản cố định. - Lợi nhuận sau thuế. ở công thức tính (H) để không ngừng tăng hiệu quả tức là phải tăng giá trị gia tăng, tăng qu mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho phép ta biết hiệu quả một cách tổng hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.5. Tỷ suất giá trị gia tăng trên tổng doanh thu. Giá trị gia tăng H Tổng doanh thu Công thức này cho ta thấy có một đồng giá trị kinh doanh của doanh nghiệp sẽ đóng góp cho xã hội bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng này là cơ sở để tổng hợp lại thành tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của quốc gia. Qua công thức trên ta thấy khi giá trị gia tăng càng cao thì hiệu quả kinh tế xã hội của công ty trong hoạt động kinh doanh càng lớn. Hiệu quả hoạt động kinh doanh này được xem trên góc độ tổng thể của doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫm chiều sâu. 13
  14. 1.6. Tỷ suất giá trị gia tăng trên tổng chi phí sản xuất. Giá trị gia tăng H Chi phí Công thức này cho biết doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí trong hoạt động kinh doanh thì sẽ thu về (hay đóng góp cho xã hội) bao nhiêu đòng giá trị gia tăng. Hệ số này càng cao thì cho phép ta đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng có hiệu quả. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yéu tố kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1. Hiệu quả sử dụng lao động. Số lượng và chất lượng lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất, góp phần quan trọng cho nanưg lực sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động hoặc hiệu suất tiền lương, năng suất lao động được xác định bằng cách chia kết quả kinh doanh trong kỳ cho số lượng lao động bình quân trong kỳ. Kết quả kinh doanh được phản ánh bằng ba mục tiêu: tổng giá trị kinh doanh; giá trị gia tăng; lợi nhuận do đó có ba cách biểu hiện của năng suất lao động bình quâncho một người lao động bình quân trong một kỳ (thường tính theo năm). Ta có: Kết quả kinh doanh Năng suất LĐ LĐ Cụ thể: Doanh thu Tính theo doanh thu: Năng suất LĐ LĐ Giá trị gia tăng Tính theo giá trị gia tăng: Năng suất LĐ LĐ Lợi nhuận Tính theo lợi nhuận: Năng suất LĐ LĐ Trong đó LĐ là số lao động. Năng suất lao động tính theo năm chịu ảnh hưởng rất lớn của việc sử dụng thời gian. Cụ thể vào số ngày bình quân làm việc trong năm (n), số giờ bình quân 14
  15. làm việc mỗi ngày của lao động trong doanh nghiệp (g) và năng suất lao động bình quân mỗi giờ (NSg). Điều này được thể hiện trong công thức: Năng suất lao động=n*g*NSg. Kết quả sả n xuất kinh doanh Năng suất LĐ n *g * LĐ Trong đó kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tính theo 3 tiêu thức: doanh thu; giá trị gia tăng; hoặc lợi nhuận. Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương được tính theo cách so sánh kết quả kinh doanh với tổng tiền lương và các khoản tiền thưởng có tính chất trong kỳ (ký hiệu là tiền lương). Kết quả kinh doanh Ta có: Hiệu suất tiền lưong . Tiền lưong Điều này có nghĩa là hiệu suất tiền lương trong kỳ cho biết một đồng tiền lương tương ứng với bao nhiêu đồng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu suất tiền lương tăng lên khi năng suất lao động tăng với nhịp độ cao hơn nhịp độ tăng tiền lương. Chẳng hạn, trong kỳ nghiên cứu năng suất lao động tăng 10%, tiền lương tăng 6%. 2.2. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Tài sản cố định là bộ phận lớn nhất, chủ yếu nhất trong tư liệu lao động và quyết định năng lực sản xuất kinh doanhcủa doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định bình quân, tính theo nguyên giá hoặc theo giá trị khôi phục trong kỳ được xét thường gọi là hiệu xuất tài sản cố định. Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định: Kết quả HTSCĐ= . TSCĐ Trong đó TSCĐ là tài sản cố định. 15
  16. Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định biểu hiện một đồng tài sản cố định trong kỳ sản xuất ra bình quân bao nhiêu đồng của chỉ tiêu kết quả kinh doanh tương ứng (lợi nhuận, giá trị gia tăng hoặc tổng giá trị kinh doanh). Hiệu quả sử dụng tài sản cố định có thể hiểu theo cách ngược lại, tức là lấy nghịch đảo cảu công thức trên, gọi là tài sản cố định. TSCĐ S . TSCĐ Kết quả Nó cho biết một đồng kết quả kinh doanh cần phải có bao nhiêu đồng tài sản cố định. 2.3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vốn lưu động là vốn đầu tư vào tài sản lưu động cảu xí nghiệp. Nó là số tiền ứng trước nhằm bảo đảm quá trình sản xuấtkinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm của loại vốn này là luôn luân chuyển không ngừng, luôn thay đổi hình thái biểu hiện, luân chuyển giá trị toàn bộ ngay một lần và hoàn thành trong một vòng tuần hoàn trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động thường bao gồm vốn dự trữ sản xuất (nguyên vật liệu chính, bán thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động thuộc tài sản lưu động) và vốn trong quá trình lưu động (vốn thành phẩm, vốn thanh toán). Hiệu quả sử dụng vốn lưu động (H VLĐ) cũng được xác định bằng cách lấy kết quả kinh daonh (KQ) chia cho vốn lưu động bình quân trong năm (VLĐ). KQ H VLĐ VLĐ Nếu kết quả kinh doanh tính bằng lợi nhuận, thì ta có: LN H VLĐ VLĐ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động còn được phản ánh gián tiếp thông qua chỉ tiêu vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm. Số ngày bình quân một vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm: 16
  17. TGT V1 C VLĐ V1 : số vòng luân chuyển. C TGT: tổng giá trị kinh doanh trong năm. 365 365 * VLĐ N 1 C V1 TGT C N 1 : số ngày luôn chuyển. C Điều này có thể thấy rằng, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động (HVLĐ) tính theo lợi nhuận sẽ bằng tích của tỷ suất lợi nhuận của tổng giá trị kinh doanh nhân với số vòng luân chuyển vốn lưu động. HVLĐ = PLN*V1/C. LN TGT Trong đó: PLN và V1 TGT C VLĐ LN TGT H VLĐ TGT VLĐ Như vậy nếu cố định chỉ tiêu tỷ trọng lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động tỉ lệ thuận với số vòng quay vốn lưu động. Vốn lưu động bình quân trong năm được tính bằng cách cộng mức vốn lưu động cảu 365 ngày trong năm rồi chia cho 365. Để đơn giản trong thực tế thường được tính như sau: VLĐĐầu tháng VLĐCuối tháng Vốn lưu động bình quân tháng: VLĐBQTháng = 2 VLĐ VLĐ Vốn lưu động bình quân năm = BQ Tháng1 BQ Tháng 2 12 17
  18. 3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ xã hội nào mà còn là mối quan tâm của tất cả mọi người, khi làm một công việc nào đó. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu nói chung và bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay nói riêng, không chỉ tồn tại một doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả. Đây là vấn đề thể hiện về một chất lượng của toàn bộ công tác quản lý và bảo đảm tạo ra kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh. Tất cả những công cuộc đổi mới, cải tiến về nội dụng, phương pháp ứng dụng trong hoạt động quản lý, kinh doanh chỉ thực sự mang lại ý nghĩa khi và chỉ khi làm tăng kết quả kinh doanh mà qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh. Đối với doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nói chung, hiệu quả không những là thước đo chất lượng, phản ảnh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Hàng hoá nhập khẩu thưởng có giá trị lớn, đối tượng quản lý vượt ra ngoài biên giơí quốc gia, do vậy chỉ cần một sai sót nhỏ trong hoạt động nhập khẩu sẽ dẫn đến yếu tố ảnh hưởng tới sự sống còn của doanh nghiệp, lợi ích của đất nước. Hiệu quả còn có vai trò quan trọng trong việc mở mang, phát triển nền kinh tế, tái đầu tư mua máy móc thiết bị, phương tiện kinh doanh, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, quy trình công nghệ mới Đối với nền kinh tế quốc dân, đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh nhập khẩu chính là tiết kiệm các nguồn lực, nguồn tài nguyên nhiên vật liệu cho xã hội. Tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước nắm bắt được những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, từ đó nâng cao đời sống cho nhân dân và sự phồn vinh cho đất nước. Đối với bản thân doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế xem xét về mặt tuyệt đối chính là lợi nhuận thu được, nó là cơ sở của tái sản xuất mở rộng, làm tăng tích luỹ cho nhà nước, tăng uy tín và thế lực cho doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. 18
  19. Đối với cá nhân người lao động thì hiệu quả lao động (lương và phúc lợi xã hội) là động cơ thúc đẩy, kích thích người lao động, làm cho người lao động hăng hái, yên tâm làm việc và quan tâm ngày càng nhiều hơn đến hiệu quả, trách nhiệm của mình đối với doanh nghiệp và có thể ngày càng đóng góp những công sức đáng kể cho sự phát triển của doanh nghiệp. Như vậy, hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty có vai trò vô cùng quan trọng đối với công ty và đối với đất nước. Để đạt được hiệu quả cao, công ty phải hoàn thành mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ phù hợp với những điều kiện của công ty và phù hợp với bối cảnh của đất nước. 19
  20. Chương II Thực trạng về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu y tế I-Hà Nội (VIMEDIMEX). I. Khái quát tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua. 1. Tình hình nền kinh tế thế giới. Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX sự tan dã của Liên Xô đã phá vỡ hai thế cực cảu nền kinh tế thế giới thiết lập nên thế đa cực và hình thành nên trật tự kinh tế thế giới mới. Nền kinh tế thế giới ngày càng diễn ra những biến đổi sâu sắc cả về chiều rộng lẫn chiều sâu theo quy mô và theo cơ cấu gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của mỗi quốc gia và tới trật tự kinh tế thế giới nói chung. Nên kinh tế thế giới đa cức được hình thành với các trung tâm kinh tế Mỹ, Nhật, Tây Âu, Đông Nam á, Mỹ La Tinh diễn ra sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Điều này tạo điều kiện cho các nước đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tạo đà cho sự phát triển đồng thời cũng tạo ra nhiều thách thức cho các nước đang phát triển. Xu hướng của thế giới hiện nay là chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Các cường quốc về kinh tế ngày càng quan tâm đến các nước nghèo và giúp đỡ các nước nghèo phát triển kinh tế. Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Điều này đòi hỏi phải có sự giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển giữa các quốc gia trong khu vực, nhằm đứng vững trong sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hoá nền kinh tế là sự phát triển của sự phân công lao động đến mức cao và chuyên môn hoá diễn ra sâu sắc giữa các nước, nó góp phần làm giảm bớt sự cạnh tranh và tạo điều kiện cho các nước cùng phát triển. Các nước trong khu vực tìm được tiếng nói chung, lợi ích chung tập hợp lại thành khu vực kinh tế tự do như hiệp hội các nước ASEAN với AFTA, các nước Bắc Mỹ với NAFTAS, các nước Nam Mỹ với MOCERSUR. Họ thực thi các chính sách kinh tế với các nước ngoài khối về các vấn đề như xuất nhập khẩu, sản xuất hàng hoá, thuế quan 20
  21. Cuối năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực đã gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. Hậu quả của nó làm cho nền kinh tế của nhiều nước bị suy thoái, các quan hệ kinh tế trên thế giới bị ảnh hưởng, sản xuất trong nước bị đình đốn, thương mại quốc tế bị giảm sút. Không chỉ các nước trong khu vực bị ảnh hưởng mà rất nhiều các nước có quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá với các nước trong khu vực cũng bị ảnh hưởng theo do nền kinh tế thế giới có liên hệ với nhau rất chặt chẽ. Liên tiếp hai năm sau cuộc khủng hoảng vẫn còn hậu quả cho các nước, cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, làm cho doanh thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm xuống đáng kể và chưa phục hồi kịp. Trong bối cảnh đó Việt Nam là một nước nằm trong khu vực cũng phải chịu ảnh hưởng, tuy ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này đến Việt Nam không lớn nhưng cũng gây ra nhiều thiệt hại, khó khăn cho nền sản xuất trong nước cũng như thương mại quốc tế. Đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá gặp rất nhiều khó khăn trong việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá, do vậy các doanh nghiệp này đòi hỏi phải có thời gian để phục hồi sản xuất kinh doanh như trước kia và bảo đảm tăng trưởng và phát triển. 2. Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam thời gian qua. Trong những năm gần đây, hoạt động xuất nhập khẩu đã đạt được kết quả to lớn. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu luôn tăng trên 20%. Đó là kết quả của việc cải cách kinh tế, thay đổi chính sách cũng như sự nỗ lực cảu nhà nước và của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Qua bảng 1 ta thấy thời kỳ 1991-1995 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 39,14 tỷ USD tăng 3,21 lần so với thời kỳ 1986-1990, trong đó xuất khẩu đạt 17,01 tỷ USD, nhập khẩu đạt 22,13 tỷ USD. Tốc độ xuất khẩu hàng năm tăng mạnh, trên 26%. Đây là nhân tố quan trọng góp phần duy trì tốc độ phát triển GDP. Tuy nhiên nước ta vẫn là một nước nhập siêu, kim ngạch nhập khẩu luôn lớn hơn kim ngạch xuất khẩu trong tổng kim ngạch. 21
  22. Bảng 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 1991-2000. (đơn vị tỷ USD) Chỉ tiêu 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Xuất khẩu 2.087 2.581 2.980 3.600 5.200 7.255 9.185 9.316 11.523 14.250 Nhập khẩu 2.338 2.541 3.924 4.500 7.800 11.415 11.592 11.945 11.636 13.525 Tổng kim ngạch 4.425 5.122 6.904 8.100 13.000 18.400 20.777 20.856 23.519 26.775 Cán cân XNK -0,215 +0,040 -0,944 -0,900 -2,600 -3,890 -2,350 -2.134 -0,113 -0,275 Bước sang năm 1996 tốc độ xuất nhập khẩu của nước ta tăng mạnh, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 18,4 tỷ USD, bằng 46,4% tổng kim ngạch của cả thời kỳ 1991-1995 và tăng 35% so với năm 1995. Trong đó xuất khẩu đạt 7,3 tỷ USD tăng 33,2% so với năm 1995, chiếm gần 30% GDP, song tốc độ tăng vẫn thấp hơn tốc độ tăng nhập khẩu (kim ngạch nhập khẩu tăng 36,6% so với năm 1995). Năm 1997 tốc độ xuất nhập khẩu tăng nhưng có phần chậm lại, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 20,77 tỷ USD tăng 12,8% so với năm 1996. Trong đó xuất khẩu đạt 9,185 tỷ USD tăng 26,6% so với năm 1996. Nhập khẩu là 11,592 tỷ USD tăng 0,5% so với năm 1996. Đến cuối năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực Đông Nam á nổ ra gây nhiều thiệt hại đến hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta. Kết quả là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chỉ đạt 20,856 tỷ USD tăng 0,38% so với năm 1997, tuy nhiên chỉ đạt hơn 20% so với kế hoạch đề ra. Sang năm 1999-2000, nền kinh tế của nước ta phục hồi trở lại, làm cho hoạt động xuất nhập khẩu được đẩy mạnh. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1999 đạt 23,59 tỷ USD trong đó xuất khẩu đạt 11,523 tỷ USD vượt 15% so với kế hoạch và tăng 23% so với năm 1998. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của năm 2000 đạt 26,775 tỷ USD tăng 15,61% so với năm 1999. Như vậy nền kinh tế của Việt Nam đã phục hồi sau cuộc khủng hoảng tiền tệ, hoạt động xuất nhập khẩu đã tăng cao, lý do của sự tăng trưởng này là do sức mua của thị trường khu vực đã được phục hồi làm cho tốc độ xuất khẩu của nước ta tăng nhanh. Bên cạnh đó là việc giá một số mặt hàng chủ lực của nước ta trên thị trường thế giới tăng lên. Kết quả là kim ngạch xuất khẩu tăng lên đáng kể. Về nhập khẩu năm 22
  23. 1999 kim ngạch nhập khẩu là 11,6 tỷ USD tăng 0,9% so với năm 1998. Khối lượng hàng nhập khẩu vẫn tăng, nhưng do giá giảm, nên giá trị hàng không tăng, cán cân xuất nhập khẩu năm 1999 về cơ bản được cân bằng, chỉ số nhập siêu là 0,113 tỷ USD thấp nhất trong giai đoạn 1996 -2000. Bảng 2: Chỉ số phát triển kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 1991đến 2000. Chỉ tiêu 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Xuất khẩu 86,8 123,7 115,7 135,8 134,4 133,2 126,6 101,9 123,1 114,9 Nhập khẩu 84,9 108,7 154,4 148,5 148,5 136,6 104,0 99,2 100,9 116,2 n xuất nhập khẩu năm 1999 về cơ bản được cân bằng, chỉ số nhập siêu là ,113 tỷ USD thấp nhất trong giai đoạn 1996-2000. II. Sự hình thành và hoạt động của công ty xuất nhập khẩu y tế I- Hà Nội (Vimedimex). 1. Quá trình hình thành, phát triển và chức năng nhiệm vụ của công ty xuất nhập khẩu y tế I - Hà Nội. Công ty xuất nhập khẩu y tế I . Có tên giao dịch quốc tế tại Việt Nam national medical import export,bắt đầu được thành lập ngày 2/5/1985theo quyết định 388 và 350/CP. Công ty được thành lập thành lập từ việc tách ra từ 5 công ty ngoại thương Minexport, Tocomtap, Machinoimport, Tecnoimport, Naforimex. Vào thời điểm này công ty thuộc bộ Y tế. Khi thành lập công ty có tên là công ty xuất nhập khẩu thiết bị Y tế TW. Là một doanh ngiệp nhà nước thuộc Bộ y tế sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu và bán buôn bán lẻ dược phẩm va các thiết bị Y tế. Công ty tự hạch toán độc lập với vốn ban đầu nhà nước cấp là 5.9 tỷ đồng. Có 56 cán bộ công nhân viên, trong đó có 45% có trình độ đại học. Đến năm 1993 căn cứ theo nghị định 135 /CP, nghị định 15/CP, nghị định 388/HĐBT và thông báo số 136/TB Bộ trưởng Bộ Y tế, quyết định thành lập công ty xuất nhập khẩu Y tế I- Hà Nội, tên giao dich quốc tế: Vimediex (Việt Nam medical national import export companyI-Ha Noi). 23
  24. Trực thuộc bộ Y tế theo quyết định số 530/BYTQĐ ngày 12-6-1993 với 96 ngưởi, vốn kinh doanh là 13,169 tỷ đồng và tự hạch toán độc lập. Khi đó mọi báo cáo cũng như xin phép của công ty đều phải trình lên Bộ Y tế, nhưng sang năm 1996 công ty dược Việt Nam được quyết định theo quyết định số 4670/BYTQĐ ngày 30-3-1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Từ đó công ty xuất nhập khẩu Y tế I được quyết định là thành viên của tổng công ty dược Việt Nam. Từ tháng 1 năm 1997 công ty giao nhận Y tế Hải Phòng, trước đây là công ty hạch toán thuộc tổng công ty dược Việt Nam trở thành chi nhánh của công ty xuất nhập khẩu Y tế I - Hà Nội (theo quyết định 35/BYTQĐ ngày 15-1-1997 của Bộ trưởng Bộ y tế về việc sát nhận công ty giao nhận Y tế Hải Phòng vào công ty xuất nhập khẩu Y tế I- Hà Nội, và quyết định số 06/TCTD ngày 31-1-1997 của tổng công ty dược Việt Nam, về việc thành lập chi nhánh công ty xuất nhập khẩu Y tế Hải Phòng trên cơ sở công ty giao nhận Y tế). Chi nhánh công ty giao nhận Hải Phòng đã có trên 20 năm kinh nghiệm chuyên làm nhiệm vụ tiếp nhận, vận chuyển thuốc trang thiết bị, dụng cụ y tế, hoá chất cho các đơn vị trong ngành, các chương trình nội bộ quốc tế về y tế, chương trình Y tế Quốc gia. Như vậy, chức năng chủ yếu của công ty xuất nhập khẩu Y tế I- Hà Nội từ khi thành lập đến nay là xuất nhập khẩu các mặt hàng thuộc lĩnh vực y tế với các nhiệm vụ cụ thể sau:  Xuất nhập khẩu các loại dược phẩm, dược liệu, nguyên liệu dược.  Xuất nhập khẩu các loại tinh dầu, hương liệu và mỹ phẩm.  Xuất nhập khẩu các loại máy móc thiết bị y tế.  Liên doanh khám chữa bệnh, sản xuất và chế biến thuốc.  Kinh doanh đúng ngành nghề đăng ký.  Bảo tồn và phát triển vốn nhà nước giao. 24
  25. 2. Đặc điểm về ngành hàng và các mặt hàng kinh doanh của công ty Công ty xuất nhập khẩu Y tế I- Hà Nội được Bộ y tế giao nhiệm vụ và đăng ký kinh doanh tất cả các mặt hàng phục vụ cho ngành y tế trong việc khám chữa bệnh và xuất khẩu những nguyên liệu, hương liệu và dược liệu. Đó là những thế mạnh của nước ta đã phục vụ đủ nhu cầu trong nước mà các nước bạn đang cần để chế taọ dược liệu phục vụ cho ngành y tế. Tuy nhiên nhiệm vụ là rất nặng nề, nhưng từ khi được thành lập công ty luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng như đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên. Mặt hàng kinh doanh của công ty rất đa dạng và phong phú chính vì vậy công ty luôn bám sát thị trường trong nước và quốc tế.  Xuất khẩu những mặt hàng nguyên liệu, hương liệu và dược liệu trong nước và các nước cần.  Nhập khẩu những nguyên liệu, hương liệu và dược liệu trang thiết bị y tế trong nước cần mà chưa sản xuất được để phục vụ công tác khám chữa bệnh cho ngành y tế. 3. Môi trường kinh doanh. Công ty xuất nhập khẩu y tế I - Hà Nội khai thác phục vụ chủ yếu vào thị trường miền Bắc. Trước năm 1988 công ty chủ yếu quan hệ xuất nhập khẩu mặt hàng y tế với các nước XHCN và trong thời kỳ này được nhà nước giao nhiệm vụ độc quyền về y tế. Từ sau năm 1988 với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, công ty hạch toán độc lập và tự tìm kiếm nguồn hàng cũng như khách hàng. Để tạo nguồn hàng cho xuất nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu, công ty coi trọng thị trường nội địa tăng cường bám sát và tìm mọi cơ hội để kinh doanh , linh hoạt 25
  26. gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế để tổ chức kinh doanh có hiệu quả. Đối với thị trường nước ngoài, công ty mở rộngquan hệ với thị trường quốc tế. Hiện nay đsản xuất có một hệ thống bàn hạng đông đảo, trong đó có các thị trường chính là: Trung Quốc, Nhật bản, Hồng Kông, Mông Cổ, Hàn Quốc và các nước thuộc Liên xô (cũ). Công ty xuất nhập khẩu chủ yếu sang thị trường các nướcnày là nguyên liệu, hương liệu, dược liêu và ting dầu. Đối với thị trường trong nước, Công ty là một trong những đơn vị chủ lực, hiện nay nhập khẩu được các loại dược liệu, trang thiết bị y tế cho các cơ quan y tế trong nước nhằm đảm bảo chất lượng cao, đamr bảo đầu đủ cho nhu cầu về phòng và khám chữa bệnh cho nhân dân, về quốc phòng,về dự trưc quốc gia và bình ổn giá trên thị trường. Bên cạnh thị trường truyền thống và trong khu vực công ty vẫn thường xuyên mở rộng tìm kiếm thị trường mới mà nổi bật trong giai đoạn này là công ty đsản xuất mở rộng quan hệ mua bán trực tiếp với thị trường Mỹ, sắp tới công ty sẽ có quan hệ buôn bán với thị trường EU. 26
  27. 4. Hệ thống tổ chức của công ty 4.1. Cơ cấu bộ máy công ty Công ty xuất nhập khẩu Y tế I - Hà nội là đơn vị nhỏ (không có các đơn vị trực thuộc) trực thuộc Tổng công ty dược Việt Nam. Trong thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay cùng với sự biến đổi liên tục của thị trường công ty đã có sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức bộ máy để đáp ứng kịp thời sự thay đổi thị trường. Giám đốc Phó Giám đốc Phó Giám đốc Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng tổ kế đối tài vụ xuất 1 xuất 2 xuất 3 kinh chức hoạch ngoại (thuốc (thuốc (dược doanh hành tổng tân tân liệu, tổng chính hợp dược) dược) TBYT) hợp Xí TTTM dược phẩm Chi nghiệp nhánh sản xuất nội địa và chế Các Phòng biến hiệu nhập dược thuốc liệu khẩu Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty xnk Y tế I – Hà Nội 27
  28. * Giám đốc vừa là đại diện cho nhà nước, vừa là đại diện cho công nhân viên quản lý theo chế độ thủ trưởng, giám đốc do cấp trên bổ nhiệm và miễm nhiệm sau khi đã tham khảo ý kiến của Đảng uỷ và phiếu tín nhiệm của công nhân viên. Giám đốc có quyền quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty theo đúng kế hoạch, chính sách, pháp luật của nhà nước. * Giúp việc cho giám đốc là hai phó giám đốc được giám đốc uỷ quyền phụ trách một số công việc cụ thể, phó giám đốc được giám đốc đề nghị cấp trên bổ nhiệm, miễm nhiệm. * Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban - Phòng tổ chức hành chính: nhiệm vụ chính là tổ chức lao động trong công ty nhằm đảm bảo nhu cầu lao động trong việc thực hiện kế hoạch cả về chất lượng lẫn ngành nghề lao động. Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật nghiệp vụ để đáp ứng nhu câù sản xuất trước mắt cũng như lâu dài của công ty. Thực hiện chế độ cho người lao động, công tác bảo hộ lao động, bảo hiểm, công tác đời sống tiền lương, hưu chí, mất sức. - Phòng sản xuất I: tìm kiếm và khai thác nguồn hàng dược xuất khẩu sang thị trường các nước là: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ. - Phòng sản xuất II: Tìm kiếm và khai thác nguồn hàng tinh dầu xuất khẩu sang các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Hồng Kông - Phòng sản xuất III: sản xuất tổng hợp sang các nước thuộc Liên Xô cũ, Mông Cổ, Trung Quốc. - Trung tâm kinh doanh tổng hợp: xuất nhập khẩu đông dược, dụng cụ y tế sang thị trường Trung Quốc và EU. - Phòng kinh doanh tranh thiết bị y tế: kinh doanh về máy móc vật tư thiết bị, hoá chất để phục vụ y tế. 28
  29. - Trung tâm thương mại dược phẩm: kinh doanh về tân dược nguyên liệu, thuốc chữa bệnh, hoá chất xét nghiệm. Ngoài ra còn quản lý các hiệu thuốc giới thiệu sản phẩm, bán buôn bán lẻ các mặt hàng y tế. - Phòng kế hoạch hợp tác quốc tế: quan hệ đối ngoại, thống kê báo cáo, xây dựng kế hoạch hàng năm, dự báo xu hướng biến động của trị trường trong và ngoài nước. - Phòng tài chính kế toán: chịu trách nhiệm về toàn bộ vốn phục vụ cho mọi hoạt động của công ty, bảo đảm việc thực hiện các chỉ tiêu tài chính, kế hoạch lợi nhuận. Phụ trách quỹ của công ty, công tác quản lý thống kê tài sản và thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế tháng, quý, năm. - Chi nhánh công ty tại Lạng Sơn: có chức năng vận chuyển giao nhận hàng hoá y tế của công ty dược xuất nhập khẩu tại Lạng Sơn, quảng cáo về sản phẩm mới. 4.2. Công tác tổ chức cán bộ lao động Tổng số cán bộ công nhân viên là 143 người, được bố trí ở hai hiệu thuốc, 5 phòng ban và 1 chi nhánh. rong đó trình độ Đại học và trên Đại học là 99 người, có 64 cán bộ là nữ. Công ty đã thực hiện tốt luật lao động và các văn bản nhà nước về lao động. Công ty đã có nhiều cố gắng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên như nâng cao hệ số lương hàng năm, tổ chức cho cán bộ công nhân viên đi nghỉ mát, thực hiện tốt chế độ cho người làm ca 3, ốm đau, thai sản, chế độ vệ sinh lao động và an toàn lao động. Công tác đào tạo cán bộ được chú ý: tổ chức cho cán bộ công nhân đi học các lớp chuyên môn, nghiệp vụ quản lý hành chính, quản trị kinh doanh, đại học chính trị, ngoại ngữ 29
  30. III. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. 1. Tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Đối với công ty VIMEDIMEX, hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty. Trong những năm gần đây mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng công ty luôn là đơn vị kinh doanh có hiệu quả, công ty luôn hoàn thành kế hoạch đề ra, và kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tăng vững chắc qua từng năm với xu hướng ngày càng cân đối giữa tỷ trọng xuất và nhập. 1. Mặt hàng xuất khẩu. Trong thời gian qua danh mục hàng hoá và khối lượng hàng hoá cảu công ty không ngừng được tăng lên, điều đó thể hiện sự phát triển của công ty. Từ chỗ chỉ xuất khẩu một số ít mặt hàng đến nay số mặt hàng xuất khẩu của công ty đã tăng lên con số gần 20 mặt hàng. Điều này phản ánh sự năng động, linh hoạt trong kinh doanh của công ty. Công ty đã thiết lập được cho mình một mạng lưới thu gom hàng hoá rộng khắp, sẵn sàng đáp ứng khi có nhu cầu xuất khẩu. 30
  31. Kết cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty trong thời gian qua thể hiện trong bảng sau: 1997 1998 1999 2000 Mặt hàng Giá trị Tỉ lệ Giá trị Tỉ lệ Giá trị Tỉ lệ Giá trị Tỉ lệ (USD) (%) (USD) (%) (USD) (%) (USD) (%) 1. Dược liệu 618.558 45,55 639.055 43,21 223.265 4.222.963 Long nhãn 163.916 11,8 42.081 2,85 17.721 1,92 2.035.792 47,48 Quế các loại 141.657 10,2 160.532 10,85 111.253 12,08 103.418 2,41 ý dĩ vỏ 48.060 3,46 199.981 13,52 35.378 3,84 26.048 Sa nhân 92.250 6,64 109.542 7,41 16.244 1,76 29.250 Thạch hộc 9.832 106.400 23.398 30.845 Hạt sen 89.943 Mực khô 1.043.669 Hoa hoè 21.000 9.219 119.729 Sâm củ 40.500 7.776 Thảo đậu khấu 11.400 2.400 19.271 Vải khô 291.774 Nhân quả khô 8.900 534.662 2. Tinh dầu 679.700 50,25 832.022 672.762 93.500 Xá xị 498.100 35,88 765.908 51,74 409.840 44,55 18.900 Xả 103.600 7,46 48.840 3,3 163.910 17,82 Hồi 78.000 3.165 69.000 Tràm 756 1.512 Húng quế 23.109 28.500 74.600 3. Hàng hoá khác 71.989 4,2 7.600 23.850 Cao sao vàng 10.807 7.600 Tinh sâm quy 10.752 Bột hoàng liên 50.430 13.600 Bột Atsunate 10.250 Tổng cộng 1.370.247 1.488.433 919.877 4.316.193 31
  32. Bảng thống kê trên cho ta thấy các mặt hàng xuất khẩu đều là các mặt hàng truyền thống của công ty nên có nhiều kinh nhiệm cũng như nhiều mối quan hệ kinh tế và bạn hàng. Đặc điểm của các mặt hàng này là những nguồn hương liệu, dược liệu có sẵn trong nước, và có nguồn cung cấp khá dồi dào, được nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho việc xuất khẩu. Tuy nhiên việc xuất khẩu những mặt hàng này cũng gặp một số khó khăn như giá cả thị trường biến đổi thất thường và là mặt hàng chưa qua tinh chế. Trong các mặt hàng trên có sáu mặt hàng chủ lực, đó là: long nhãn, quế các loại, ý nhĩ đỏ, sa nhân, tinh dầu xá xị, và tinh dầu xả thuộc hai nhóm mặt hàng chính đó là dược liệu và tinh dầu. Những mặt hàng này có tốc độ phát triển khá cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Năm 1997, trong hơn 20 mặt hàng xuất khẩu của công ty, các mặt hàng này chiếm tỷ trọng bằng 75,44% tổng giá trị xuất khẩu. Năm 1998 chúng chiếm tỷ trọng 89,67%. Năm 1999 chiếm tỷ trọng bằng 81,97%, và đến năm 2000 các mặt hàng này chiếm tỷ trọng bằng 50%. Trong số các mặt hàng kể trên thì long nhãn là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng giá trị dược liệu xuất khẩu. Năm 1997 xuất được 163.916 USD, Năm 1998 xuất được 42.081 USD, Năm 1999 xuất được 17.721 USD. Nguyên nhân của sự giảm giá trị xuất khẩu là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực vào cuối năm 1997, mà thị trường xuất khẩu long nhãn của công ty chủ yếu là các nước trong khu vực như Trung Quốc và Nhật Bản, nên cuộc khủng hoảng này đã gây ảnh hưởng đến số lượng và giá cả của mặt hàng long nhãn xuất khẩu. Bước sang năm 2000, nền kinh tế của nước ta và các nước trong khu vực cơ bản đã được phục hồi, do vậy thị trường xuất khẩu long nhãn của công ty cũng được phục hồi và đạt được ở mức cao, tổng giá trị xuất khẩu long nhãn đạt 2.035.792 USD trong đó xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 2.029.852 USD, xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt 5.490 USD chiếm tỉ trọng 47,48% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1999. Ngoài ra mặt hàng tinh dầu xá xị là mặt hàng có tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu của công ty. Năm 1997 tổng giá trị xuất khẩu đạt 489.100 USD chiếm 35,88% kim ngạch xuất khẩu, năm 1998 đạt 756.908 USD chiếm tỷ trọng 32
  33. 51,74% giá trị xuất khẩu của năm 1998. Bước sang năm 1999 tỷ trọng của mặt hàng này có giảm nhưng vẫn đạt ở mức cao hơn năm 1997, bằng 44,55% giá trị xuất khẩu của năm 1999 và đến năm 2000 thì giá trị xuất khẩu từ mặt hàng này bị giảm sút đáng kể ở mức 18.900 USD và chiếm tỷ trọng không đáng kể của năm 2000. Bên cạnh các mặt hàng có tỷ trọng xuất khẩu lớn trong kim ngạch xuất khẩu của công ty như lọng nhãn, tinh dầu xá xị thì các mặt hàng quế, ý dĩ đỏ, xa nhân và tinh dầu xả cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể và là những mặt hàng thường xuyên của công ty cungx như tình hình chung của công ty. Các mặt hàng này sang năm 2000 đã giảm xuống và có mặt hàng không có tên trong báo cáo các mặt hàng xuất khẩu của công ty. Nhìn chung các mặt hàng xuất khẩu của công ty đều biến động qua các năm, nguyên nhân của sự biến động trên là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ cuối năm 1997 trong khu vực và do ảnh hưởng bởi quyết định của Bộ y tế, một số mặt hàng nằm trong số mặt hàng truyền thống của công ty không nằm trong số 40 mặt hàng cấm của Bộ y tế năm1999 đã bị giảm và đến năm 2000 phải dừng hẳn. Nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty vẫn tăng qua các năm, riêng năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của công ty sụt giảm dưới 1 triệu USD nhưng đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của công ty lại tăng khá mạnh lên đến hơn 4 triệu USD. Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, công ty cũng chú trọng mở rộng và tăng cường xuất khẩu các mặt hàng khác như thach hộc, nhãn khô, vải khô, thảo điệu khấu và các loại tinh dầu như tinh dầu chàm, tinh dầu hồi, tinh dầu quế mặc dù các mặt hàng này chiếm tỷ trọng thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu và có độ tăng qua các năm chưa cao, nhưng chúng cũng góp phần ổ định và giữ vững hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty. Riêng năm 2000 mặt hàng cá mực khô đã được công ty xuất khẩu và đã thu được một kết quả khả quan, giá trị xuất khẩu đạt 1.043.669 USD chiếm tỷ trọng 24,34% giá trị xuất khẩu của năm 2000 và đem lại nhiều hứa hẹn trong tương lai sẽ trở thành mặt hàng chủ lực mới. 33
  34. 1.2. Mặt hàng nhập khẩu. Doanh mục hàng nhập khẩu của công ty khá đa dạng tuỳ thuộc vào nhu cầu của trong nước. So với mặt hàng xuất khẩu thì hàng nhập khẩu có chủng loại khá phong phú phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong các chủng loại hàng hoá nhập được phân làm ba chủng loại chính, đó là các mặt hàng thuốc tân dược, các máy móc thiết bị y tế và hàng hoá khác như: thuốc bắc, cao đơn, hạt nhựa các loại, bột PVC, dầu Siangpure và hoá chất thí nghiệm Bảng 4: Kết quả nhập khẩu theo mặt hàng 1997-2000. 1997 1998 1999 2000 Mặt hàng Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ (USD) (%) (USD) (%) (USD) (%) (USD) (%) Tân dược 2.614.395 37,71 1.665.875 15,32 2.090.509 21,76 2.348.283 32,81 Máy móc y tế 2.868.906 41,38 4.182.219 38,48 2.213.338 23,04 2.728.063 38,12 Hàng hoá khác 1.448.697 20,91 5.019.331 46,2 5.299.202 55,2 2.079.681 29,07 Tổng cộng 6.931.998 100 10.867.425 100 9.603.049 100 7.156.027 100 Phải nói rằng hoạt động nhập khẩu là hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty hiện nay. Kim ngạch nhập khẩu của công ty chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty. Năm 1997 chiếm 83,31% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, năm 1998 chiếm 87,95% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, năm 2000 chiếm 26,53% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Tỷ trong kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty có tốc độ tăng rất đáng kể. Năm 1997 nhu cầu về nhập khẩu thuốc tân dược và máy móc dngj cụ y tế khá lớn, nguyên nhân là do những mặt hàng này trong nước chưa sản xuất được và một số loại thuốc tân dược, máy móc dụng cụ y tế trong nước sản xuất ra chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước nên tỷ trọng nhập khẩu các mặt hàng này tương đối lớn chiếm 80% tổng kim ngạch nhập khẩu với giá trị 5.483.301 USD. Năm 1998 tỷ trọng nhập khẩu thuốc tân dược giảm đáng kể, chỉ chiếm 15,32% kim ngạch nhập khẩu và giảm 948520 USD so với năm 1997. Nhưng về mặt hàng máy móc và dụng cụ y tế lại tăng đáng kể so với năm 1997 là 34
  35. 1.313.313USD. Điều này cho thấy nhu cầu sử dụng máy móc và dụng cụ y tế ngày càng tăng lên, mà những mặt hàng này đòi hỏi phải có trình độ công nghệ cao nên trong nước chưa sản xuất ra được do đó đòi hỏi nhu cầu nhập khẩu ngày càng lớn hơn. nhưng nếu xét về tỷ trọng nhập khẩu thì tỷ trọng nhấp khẩu máy móc và dụng cụ y tế lại có sự giảm sút so với năm 1997. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu về nhập khẩu các hàng hoá khác, giá trị nhập khẩu các loại hàng hoá khác đạt 5.019.331 USD tỷ trọng 46,2% tổng giá trị nhập khẩu. Trong đó các mặt hàng nhập chủ yếu là thuốc bắc, cao đơn và dầu gió xanh con ó, giá trị đạt 4.762.426 USD và các mặt hàng khác như bột PVC, DOP, dầu Siangpure các loại và Cao Siangpure Năm 1999 kim ngạch nhập khẩu của công ty giảm nhẹ so với năm 1998, giá trị nhập khẩu đạt 9.603.049 USD bằng 88,36% so với năm 1997. Trong đó giá trị nhập khẩu thuốc tân dược và máy móc dụng cụ y tế ở mức ổn định hơn 2 triệu USD nhưng giá trị nhập khẩu các mặt hàng khác lại có phần tăng hơn mà mặt hàng chủ yếu vẫn là thuốc bắc Cao đơn, dầu gió xanh Con ó, và hàng chương trình PMU, điều này cho thấy nhu cầu về sử dụng thuốc tân dược và máy móc dụng cụ y tế đã ổn định và một số mặt hàng trong nước đã sản xuất đủ phục vụ nhu cầu trong nước. Sang năm 2000 do thực hiện chính sách của nhà nước là hạn chế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu nhằm khuyến khích sản xuất trong nước phát triển do vậy kim ngạch nhập khẩu của năm 2000 giảm xuống rất đáng kể, thấp hơn so vớia kim ngạch nhập khẩu của năm 1998 và năm 1999. Nhu cầu về nhập khẩu thuốc và máy móc dụng cụ y tế vẫn ở mức ổn định đạt giá trị là 2.348.238 USD và 2.728.063 USD chiếm tỷ trọng tương ứng là 32,81% và 38,12% tổng giá trị nhập khẩu. Điều này là do giá trị nhập khẩu hàng hoá kháng giảm một cách đáng kể một phần là do sản xuất trong nước đã đáp ứng một phần nhu cầu tiêu thụ sản phẩm. Đây là sự linh hoạt năng động cảu công ty trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 2. Tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu theo thị trường của công ty. 2.1. Thị trường xuất khẩu. Cơ cấu thị trường hàng hoá xuất khẩu của công ty thể hiện qua bảng. 35
  36. Bảng 5: Kết quả xuất khẩu theo thị trường. 1997 1998 1999 2000 Mặt hàng Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ (USD) (%) (USD) (%) (USD) (%) (USD) (%) Nhật 546.160 39,85 968.289 65,05 563.861 61,30 128.552 2,97 Anh 0 0 48.840 3,28 163.910 17,82 Phsản phẩm 61.182 4,47 23.109 1,55 97.500 10,60 74.600 1,73 ểc 78.000 5,69 756 0,05 1.512 0,16 Hàn Quốc 397.823 29,03 109.542 7,36 58.516 6,34 67.811 1,57 Hung 0 0 3.165 0,21 10.728 1,18 15.330 0,36 Đức 10.807 0,79 7.600 0,51 23.850 2,60 Đài Loan 103.600 7,57 106.400 7,14 0 Trung Quốc 172.675 12,60 220.732 14,85 0 4.030.110 93,37 Tổng cộng 1.370.247 1.488.433 919.877 4.316.463 Cùng với việc mở rộng danh mục hàng hoá xuất khẩu, công ty đã chú trọng phát hiện, thâm nhập mở rộng thị trường ra nhiều nước trên thế giới. đến nay công ty đã có quan hệ với trên 60 bạn hàng nước ngoài chủ yếu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản bên cạnh thị trường truyền thống là các thị trường mới. Thị trường truyền thống là thị trường có tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu, với giá trị xuất khẩu tương đối ổn định. Thị trường truyền thống của công ty bao gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Phsản phẩm Trong thị trường truyền thống thì Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc là bạn hàng tiêu thụ lớn nhất của VIMEDIMEX. Năm 1995 xuất khẩu sang thị trường Nhật Bnả đã đạt giá trị 546.160 USD chiếm 39,85% kim ngạch xuất khẩu, xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc đạt giá trị 397.823 USD chiếm 29,03% và xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt giá trị 172.675 USD chiếm tỷ trọng 12,60% kim ngạch xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu của công ty sang những thị trường này chủ yếu là hương dược liệu và các loại dầu tinh. Tốc độ xuất khẩu của công ty sang các thị 36
  37. trường truyền thống này ngày càng tăng mạnh. Năm 1996 xuất khẩu sang thị trường Nhật Bnả đạt giá trị 968.287 USD tăng 422.127 USD chiếm 65,05% của kim ngạch xuất khẩu của năm 1997. Xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc tuy có tăng nhưng tăng không đáng kể và chỉ đạt 220.732 USD chiếm 14,85% kim ngạch xuất khẩu. Nguyên nhân của sự tăng chậm này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ cuối năm 1997 của khu vực, gây ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường xuất khẩu của công ty sang các nước trong khu vực. Sang năm 1999 vẫn chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nên việc xuất khẩu của công ty sang các thị trường truyền thống giảm mạnh và đặc biệt là thị trường Trung Quốc và Đài Loan là không đáng kể, xuất khẩu sang thị trường Nhật Bnả đạt giá trị 563.816 USD so với năm 1997. Bước vào năm 2000 nền kinh tế trong khu vực dường như đã khôi phục và đi vào ổn định thì hoạt động xuất khẩu của công ty cũng được ổn định và phát triển một cách nhanh chóng và đặt biệt là xuất khẩu sang thị trường các nước trong khu vực tăng mạnh, trong đó xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 4.030.110 USD chiếm tỷ trọng 93,37% kim ngạch xuất khẩu của năm 2000, cao nhất so với các năm trước. Nhằm khai thác hết khả năng và tiềm năng xuất khẩu, công ty đã không ngừng tìm kiếm và mở rộng xuất khẩu sang thị trường mới mà điển hình nổi bật trong giai đoạn này là công ty đã mở rộng quan hệ buôn bán trực tiếp với thị trường rộng lớn là thị trường EU và thị trường Mỹ. Còn đối với thị trường Trung Quốc vẫn phát triển tương đối ổn định với lợi thế gần về địa lý, cũng như văn hoá truyền thống, công ty đã có chiến lược khai thác thị trường này. 37
  38. 2.2. Thị trường nhập khẩu. Bảng 4: Kết quả nhập khẩu theo thị trường năm 1997-2000. 1997 1998 1999 2000 Thị trường Giá trị Tỷ Giá trị Tỷ Giá trị Tỷ Giá trị Tỷ (USD) lệ (USD) lệ (USD) lệ (USD) lệ Trung Quốc 1.037.926 2.852.754 968.772 2.135.426 Hồng Công 156.506 188.124 110.238 120.324 Đài Loan 65.714 64.755 54.780 47.875 ấn độ 132.751 128.321 243.690 256.972 Nhật Bản 629.438 1.916.320 1.502.698 983.216 Thái Lan 729.153 618.531 603.497 470.513 Singapore 154.686 729.432 184.498 158.802 Malaysia 59.729 88.017 9.705 17.670 Hàn Quốc 427.802 171.750 474.824 375.435 Anh 264.000 511.360 303.633 215.000 Pháp 616.318 956.990 613.026 730.250 Đức 1.204.805 1.305.747 1.246.382 960.342 áo 10.000 1.649.748 57.621 Thuỵ sĩ 266.295 432.921 19.000 38.750 Hungari 189.933 223.034 5.717 23.180 Hà lan 46.140 2.555 Ba lan 250.000 130.000 240.530 Italia 12.673 54.490 NTT 112.257 221.500 125.949 275.239 Ship 6254 Canada 102.132 Mỹ 146.202 10.171 266.084 327.565 úc 616.219 349.384 705.400 650.123 Tiệp khắc 35.000 500.000 Philippin 41.124 Tổng cộng 6.931.998 10.867.497 9.603.049 7.156.027 38
  39. Nguồn cung cấp hàng nhập khẩu của công ty có nhiều thị trường khác nhau trên thế giới nhưng tập trung chủ yếu tại một số nước Châu á. Nguyên nhân chủ yếu là do vị trí địa lý thuận tiện cho việc vận chuyển giao dịch, mặt khác những hàng hoá nhập về từ thị trường này là một số loại thuốc đông dược cao đơn và một số loại thuốc phù hợp với tiêu dùng trong nước và một số máy móc dụng cụ y tế hiện đại với giá cả rẻ hơn ở các thị trường khác trong khi đó chất lượng cũng đáp ứng được nhu cầu trong nước. Một số thị trường cung cấp hàng hoá chính cho công ty là các thị trường Trung Quốc, Nhật Bnả, Hàn Quốc, Đài Loan, ấn Độ, Pháp, Đức, Mỹ, úc các thị trường này cung cấp cho công ty một số lượng hàng hoá lớn và ổn định, đáp ứng được một số yêu cầu tiêu thụ trong nước Bên cạnh các thị trường cung cấp hàng hoá chính của công ty là một số thị trường nhỏ cung cấp cho công ty một số loại hàng hoá đặc biệt mà thị trường lớn khong có như một số loại thuốc biệt dược, tuy khối lượng và giá trị hàng hoá từ các thị trường này không lớn nhưngnó cũng góp phần làm đa dạng và phong phú dang mục hàng hoá nhập khẩu của công ty. Hiện nay công ty vẫn đang nỗ lực tìm kiếm và mở rộng thị trường mới, nhằm tìm kiếm và mở rộng các nguồn hàng mới để đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu ở trong nước và nó cũng làm tăng mối quan hệ kinh tế của công ty với các bạn hàng quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh và thương mại quốc tế. 3. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty trong thời gian qua. Trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh của công ty phát triển khá vững chắc. Cơ chế mới đã cho phép công ty tự hoạt động kinh doanh, phát huy được các năng lực hoạt động của mình trong nỗ lực tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên trong điều kiện thị trường cạnh tranh khốc liệt, thêm vào đó là những khó khăn về vốn, thị trường tiêu thụ bấp bênh, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ của khu vực vào cuối năm 1997, thị trường thế giới có nhiều biến động phức tạp đã đặt ra nhiều thách thức lớn đối với công ty. 39
  40. Để đứng vững và phát triển trên thị trường công ty đã xây dựng một chiến lược kinh doanh hướng về thị trường phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của công ty trên cơ sở nhiên cứu thị trường nhằm tranh thủ những thuận lợi, hạn chế những khó khăn của môi trường kinh doanh. Với những nỗ lực của mình, công ty đã đương đầu với những khó khăn và thách thức. Qua những thr nghiệm ban đầu, công ty đã vượt qua những thử thách và giành lấy cơ hội không ngừng đưa công ty phát triển lên tầm cao mới. Kết quả được thể hiện qua bảng báo cáo thực hiện kinh doanh với các chỉ tiêu mua vào bán ra. Bảng 5: Thực hiện kinh doanh của công ty năm 1998-2000. 1998 1999 2000 Giá trị kinh Mua vào 145,365 99,693 136,795 doanh Bán ra 145,898 14,894 171,264 Thành phẩm Mua vào 19,338 29,084 28,199 Bán ra 28,162 35,416 37,379 Dụng cụ y tế Mua vào 40,826 30,406 39,287 Bán ra 61,305 32,817 42,721 Hoá chất Mua vào 5,275 1,112 474 nguyên liệu Bán ra 4,033 1,169 498 Dược liệu Mua vào 10,394 3,384 59,838 Bán ra 11,332 4,394 60,114 Tinh dầu Mua vào 14,921 19,025 845 Bán ra 9,724 20,635 593 Hàng hoá Mua vào 20,303 6,833 12,075 khác Bán ra 18,060 9,436 13,810 Đông dược Mua vào 24,675 9,849 16,077 cao đơn Bán ra 13,282 6,647 16,149 Phí dịch vụ 1,330 227 Qua bảng báo cáo kinh doanh của công ty, qua ba năm thực hiện (1998- 2000). Công ty đã thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, hoạt động tiêu thụ hàng hoá của công ty luôn vượt mức so với lượng hàng hoá mua vào, năm 1998 40
  41. lượng bán ra hơn lượng mua vào là 533 triệu đồng. Năm 1999 lương bán ra hơn lượng mua vào là 12.201 triệu đồng. Và năm 2000 lượng bán ra hơn lượng mua vào là 14.469 triệu đồng. Như vậy tình hình kinh doanh của công ty tăng khá mạnh qua các năm, điều này đã thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của công ty.  Về kim ngạch nhập khẩu. Hoạt động kinh doanh của công ty VIMEDIMEX chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty cũng được thể hiện rất ro thôg qua kim ngạch xuất nhập khẩu. Đây chính là hoạt động tạo nên doanh thu cho công ty. Từ năm 1997 đến nay tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tăng không ngừng điều này cho thấy tình hình kinh doanh của công ty phát triển khá khả quan. Đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng mạnh và kim ngạch nhập khẩu ngày càng giảm, điều này cho thấy xu hướng phát triển của công ty ngày càng tốt hơn. Qua bảng số liệu thống kê ta nhận thấy được sự tăng trưởng mạnh của công ty. Tuy nhiên năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty lại giảm xuống so với năm 1998. Năm 1997 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 8.320.245 USD, năm 1998 đạt 12.355.930 USD tăng 48% so với năm 1997. Bảng 6: Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty năm 1997-2000. Năm Mức tăng trưởng Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 98/97 99/98 00/99 Kim ngạch XK 1.370.247 1.488.133 919.877 4.316.463 1,09 0,68 4,69 Kim ngạch NK 6.931.998 10.867.497 9.603.049 7.156.027 1,58 0,88 0,74 Tổng kim ngạch 8.302.245 12.355.930 10.522.926 11.472.490 1,48 0,85 1,09 xuất nhập khẩu Sang đến năm 1999 thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty lại giảm xuống so với năm 1998 đạt giá trị bằng 10.522.926 USD bằng 85% so với năm 1998. Nhưng so với năm 1997 thì vẫn tăng 2.220.681 USD, mức tăng trưởng so với năm 1997 là 1,27%. Năm 2000 tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty đã có sự tăng trưởng trở lại, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty đạt 11.472.490 USD và mức tăng trưởng là 1,09 so với năm 1999. 41
  42. Nguyên nhân là các nước trong khu vực đang dần dần phục hồi từ cuộc khủng hoảng tài chính, do vậy thị trường xuất nhập khẩu của công ty được phục hồi và mở rộng một cách nhanh chóng góp phần nâng cao tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty. Biểu 1: Tỷ trọng kinh doanh xuất nhập khẩu năm 1997-2000. 12 10 8 6 Kim ngạch XK 4 Kim ngạch NK 2 0 19971 19982 19993 20004 Trong cơ cấu kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thì hoạt động nhập khẩu của công ty luôn chiếm tỷ trọng cao hơn hoạt động xuất khẩu. Nhưng xu hướng hiện nay của công ty là tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Qua bảng số liệu cho thấy, kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng trưởng qua các năm đặc biệt là sang năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng mạnh và đạt giá trị 4.316.463 USD mức tăng trưởng bằng 4,69 lần năm 1999 điều này cho thấy khả năng mở rộng quy mô thị trường xuất khẩu của công ty và kim ngạch nhập khẩu của công ty có xu hươngs giảm dần từ năm 1998 đến nay. Trong những năm vừa qua kim ngạch nhập khẩu vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn rtrong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty. Tóm lại: kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty trong mấy năm vừa qua có sự biến đổi không ổn định năm 1998 kim ngạch xuất nhập khẩu tăng cao, nhưng năm 1999 thì kim ngạch xuất nhập khẩu lại giảm mạnh, sang đến năm 2000 kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng trưởng trở lại nhưng chỉ đạt được ở mức của năm 1998. Mặc dù có sự biến động về kim ngạch xuất nhập khẩu nhưng đó là nguyên nhân khách quan bởi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. Nhưng xét trong cả thời kỳ thì công ty vẫn tăng trưởng một cách ổn 42
  43. định. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay công ty ngày càng mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước trong khu vực góp phần làm tăng đáng kể tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của công ty trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.  Kết quả hoạt động kinh doanh. Kết quả hoạt động kinh doanh cuỉa công ty trong thời gian qua được thể hiện qua một số chỉ tiêu, doanh thu, chi phí, lợi nhuận và một số chỉ tiêu khác như sau: Bảng 7: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty VIMEDIMEX 1997- 2000. Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 + Vốn hoạt động 21.555.716 21.730.834 21.920.750 24.240.750 Vốn cố định 1.511.253 1.513.522 1.710.312 22.516.220 Vốn lưu động 20.044.463 20.217.312 20.210.438 1.724.530 + Doanh thu thuần. 103.988.34 135.753.332 115.393.244 123.592.345 Doanh thu xuất khẩu 4 20.353.261 12.084.270 45.500.958 Doanh thu nhập khẩu 17.162.793 115.400.071 103.305.974 78.091.387 96.825.551 + Tổng chi phí. 102.734.05 133.998.921 113.781.244 121.866.691 Chi phí mua hàng. 3 12.559.093 98.989.682 104.633.354 Chi phí bán hàng. 88.762.223 2.411.980 1.992.172 9.140.000 Chi phí quản lý. 1.736.206 1.220.000 1.220.000 1.220.000 Thuế và chi phí khác. 1.220.000 17.807.848 11.599.390 6.873.337 11.015.840 + Tổng LN trước thuế 12.541.291 1.754.411 1.612.000 1.725.654 Thuế lợi tức. 401.373 561.412 515.840 552.210 Lợi nhuận sau thuế. 852.918 1.192.999 1.069.160 1.173.444 Qua bảng kết quả hoạt động kinh doanh ta thấy.  Về doanh thu. 43
  44. Đây là chỉ tiêu quan trọng, là kết quả của hoạt động kinh doanh, nó thể hiện quy mô kinh doanh, khả năng đáp ứng nhu cầu và cạnh tranh trên thị trường. Sự tăng hay giảm doanh thu cho biết tình hình kinh doanh của công ty phá triển hay suy thoái, đồng thời qua đây cũng nói lên những khó khăn trở ngại mà công ty gặp phải và những diễn biến phức tạp trên thị trường ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty. Doanh thu của công ty đạt được qua các năm là khá cao. Năm 1997 đạt 103.998.344 (nđ), năm 1998 đạt 135.753.332 (nđ) tăng 30,5% tương ứng với 31,764,988 (nđ). Năm 1999 doanh thu của công ty là 115.393.244 (nđ) giảm 20.360.088 (nđ) so với năm 1998. Doanh thu của công ty giảm đi như vậy là không tốt điều này thể hiện quy mô thị trường bị thu hẹp. Một phần là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực cuối năm 1997, mặt khác là do bước vào năm 1999 nhà nước cấm xuất khẩu tinh dầu bạc hà làm cho doanh thu hàng xuất khẩu của công ty bị giảm mạnh, thị trường của công ty bị thu hẹp nên doanh thu hàng nhập khẩu của công ty cũng giảm theo. Sang đến năm 2000 doanh thu của công ty có dấu hiệu phục hồi trở lại và đạt giá trị 123.592.345 (nđ) tăng 8.199.101 (nđ) so với năm 1999. Trong đó doanh thu từ hàng xuất khẩu tăng một cách đáng kể và đạt giá trị 45.500.58 (nđ). Nguyên nhân là bước vào năm 2000 thị trường của công ty được mở rộng đặc biệt là thị trường Trung Quốc, cùng với nó công ty đã mở rộng các mặt hàng xuất khẩu mới và đã thu được nhiều thành công, doanh thu từ mắt hàng xuất khẩu mới này cũng rất lớn ( công ty đã xuất khẩu cá mực khô sang thị trường Trung Quốc ). Còn về doanh thu nhập khẩu của công ty lại giảm sút so với các năm trước và chỉ đạt 78.091.387 (nđ) nguyên nhân của sự giảm sút này một phần là do chính sách của nhà nước hạn chế về nhập khẩu. Doanh thu của công ty đạt được hàng năm rất cao nhưng chi phí để thực hiện hoạt động kinh doanh của công ty cũng rất lớn. Năm 1997 chi phí hoạt động kinh doanh của công ty là 102.734.053 (nđ), năm 1998 chi phí là 133.998.921 (nđ), năm 1999 do hoạt động kinh doanh của công ty bị giảm sút nên tổng chi phí hoạt động kinh doanh của công ty cũng giảm xuống và đạt giá trị 113.781.244 (nđ). Sang đến năm 2000 tổng chi phí hoạt động kinh doanh của công ty là 121.866.691 (nđ). Do hoạt động kinh doanh của công ty chủ yếu là 44
  45. các mặt hàng xuất nhập khẩu, nên giá mua hàng ( chi phí mua hàng ) chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí kinh doanh tương đương với 87% tổng chi phí hoạt động. Ngoài ra còn có các khoản chi phí khác như chi phí lưu thông, chi phí bán hàng, chi phí quản lý, thuế sử dụng vốn làm cho chi phí hoạt động kinh doanh của công ty khá lớn. Cùng với việc tăng quy mô kinh doanh trong các năm thì chi phí hoạt động kinh doanh của công ty cũng tăng lên về giá trị tuyệt đối, nhưng tỷ suất chi phí thì giảm xuông theo tỷ lệ tăng của quy mô.  Về lợi nhuận. Lợi nhuận của công ty được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính, lợi nhuận từ các hoạt động bất thường. Trong đó lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là chính, mà hoạt động kinh doanh lại chủ yếu là hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá đem lại lợi nhuận. Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của công ty tuy không ổn định qua các nặm nhưng cũng luôn ở mức cao. Năm 1997 đạt 1.254.291 (nđ), năm 1998 đạt 1.754.411 (nđ), năm 1999 đạt 1.612.000 (nđ) và năm 2000 đạt 1.725.654 (nđ). Nguyên nhân của sự không ổn định là do khách quan từ môi trường bên ngoài mang lại. Nhưng dù là nguyên nhân khách quan như thế nào thì thì công ty cũng luôn cố gắng khắc phục để cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Năm 200 do thực hiện chủ trương chính sách hạn chế nhập khẩu làm cho lợi nhuận của công ty từ hàng hoá nhập khẩu giảm mạnh. Nhưng trong khó khăn công ty đã tìm cho mình một hướng đi mới đó là mở rộng thị trường và tìm kiếm thêm các mặt hàng xuất khẩu và biện pháp này đã đem lại hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh của công ty. Kết quả là lợi nhuận tổng thể của công ty năm 2000 vẫn tăng cao hơn năm 1999. 4. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty VIMEDIMEX-Hà Nội. Qua một số chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian qua (từ 1997-2000) cho thấy kết quả mà công ty đạt được là rất có khả quan, công ty hoạt động kinh doanh luôn có lãi, có quy mô ngày càng tăng. Tuy nhiên những chỉ tiêu trên chưa phản ánh hết hiệu quả mà công ty đã đạt được 45
  46. trong thời gian qua. Để đánh giá được hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian qua ta phải xem xét các chỉ tiêu hiệu quả cụ thể như sau. 4.1. Chỉ tiêu hiệu quả tổng quát. Bảng 8: Hiệu quả kinh doanh tổng quát (đơn vị 1000 đ) Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Tổng doanh thu 103.988.344 135.753.382 115.393.244 123.592.345 Tổng chi phí 102.734.053 133.998.921 113.781.244 121.866.691 Lợi nhuận trước thuế 1.254.291 1.754.411 1.612.000 1.725.654 Thuế lợi tức 401.373 561.412 515.840 552.210 Tổng chi phí 103.135.426 134.560.333 114.297.084 122.418.901 Lợi nhuận ST 852.918 1.192.999 1.069.160 1.173.444 Hiệu quả kinh doanh 1,0083 1,0088 1,0096 1,0096 (tương đối)  Về chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tuyệt đối được thể hiện thông qua chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp qua các năm 1997-2000. Năm 1997 với tổng doanh thu là 103.988.344 (nđ) và tổng chi phí là 103.135.426 (nđ), hiệu quả tuyệt đối thu được là 852.918 (nđ). Năm 1998 hiệu quả tuệt đối đạt 1.192.999 (nđ) tăng 39,87% so với năm 1997. Nguyên nhân làm cho hiệu quả tuyệt đối tăng lên là do công ty mở rộng hoạt động kinh doanh làm cho doanh thu của công ty năm 1998 tăng 30,54%, so với năm 1997 mức tăng là 31.765.038 (nđ). Và tổng chi phí hoạt động kinh doanh cũng tăng 30,46% so với năm 1997, nhưng tốc độ tăng của tổng chi phí thấp hơn tôc độ tăng của tổng doanh thu do vậy hiệu quả tuyệt đối cảu năm 1998 lớn hơn hiệu quả tuyệt đối năm 1997. Năm 1999, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và do chính sách của nhà nước cấm xuất khẩu một số mặt hàng làm cho thị trường xuất nhập khẩu của công ty bị thu hẹp, do đó tổng chi phí và tổng doanh thu cảu công ty năm 1999 bị giảm nhẹ so với năm 1998. Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh cũng bị giảm đáng kể so với năm 1998 và chỉ bằng 89,6% so với năm 1998. 46
  47. Năm 2000 lợi nhuận của công ty đạt 117.344 (nđ) và tăng so với năm 1999 là 104.284 (nđ) tương ứng với 9,75%. Do thị trường hoạt động kinh doanh được mở rộng làm cho tổng doanh thu tăng nhanh hơn tổng chi phí làm cho lợi nhuận công ty tăng mạnh và ngày càng có hiệu quả cao hơn.  Xét về chỉ tiêu hiệu quả tương đối kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được xem là khá ổn định và ngày càng tăng lên. Năm 1997 hiệu quả kinh doanh của công ty có tỷ lệ 1,0083 nghĩa là cứ 1 đơn vị chi phí kinh doanh đem lại cho công ty 1,0083 đơn vị doanh thu, con số này cho thấy đơn vị kinh doanh có hiệu quả. Tuy hiệu quả tuyệt đối mà công ty thu được năm 1997 là chưa cao vì quy mô của công ty còn nhỏ song xét mặt hiệu quả tương đối thì cũng rất khả quan. Điều này được thể hiện dựa trên quy mô của công ty, nếu quy mô càng lớn thì khối lượng chi phí kinh doanh lớn và hiệu quả tuyệt đối thu về sẽ cao hơn. Năm 1998 hoạt động kinh doanh của công ty được mở rộng do vậy tổng doanh thu và tổng chi phí đều tăng nhưng tốc độ tăng của tổng doanh thu cao hơn của tổng chi phí, làm cho hiệu quả tương đối cũng đạt được ở mức cao hơn năm 1997. Năm 1998 cứ 1 đơn vị chi phí bỏ ra sẽ thu về được 1,0088 đơn vị doanh thu, xét về hiệu quả tương đối của năm 1998 tăng 0,0005 so với năm 1997. Bước sang năm 1999 và năm 2000, hiệu quả kinh doanh của công ty có phần ổn định và ở mức cao hơn năm 1997 và 1998. Năm 1999 và năm 2000 cứ 1 đơn vị chi phí bỏ ra sẽ thu về được 1,0096 đơn vị doanh thu điều này cho thấy xét về hiệu quả tương đối thì hiệu quả kinh doanh của công ty trong 2 năm 1999 và 2000 là cao hơn năm 1998 nhưng xét về mặt hiệu quả tuyệt đối thì hiệu quả năm 1999 và 2000 lại thấp hơn. Lý do là doanh thu của công ty qua 2 năm vẫn chưa đạt được ở mức doanh thu của công ty của năm 1998. Nhưng tốc độ giảm sút của doanh thu lại thấp hơn tốc độ giảm sút chi phí do đó nó làm cho hiệu quả tương đối cao hơn của năm 1998. Tóm lại xét cả về mặt hiệu quả tuyệt đối và tương đối thì trong các năm từ 1997 đến năm 2000 công ty luôn là đơn vị hoạt động kinh doanh có hiệu quả, xét về hiệu quả tuệt đối thì công ty đạt được không ổn định qua các năm và năm 1998 công ty đạt giá trị hiệu quả tuyệt đối lớn nhất trong thời kỳ 1997-2000 47
  48. nhưng xét về mặt hiệu quả tương đối mà công ty đạt được thì hiệu quả tương đối luôn phát triển qua các năm mặc dù thị trường hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian vừa qua không ổn định, nhưng công ty đã tìm mọi biện pháp để khắc phục và làm cho hoạt động kinh doanh của công ty luôn đạt được kết quả cao nhất. 4.2. Tỷ suất doanh lợi. Bảng 9: Tỷ suất doanh lợi của công ty (1000 đ). Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Vốn kinh doanh 21.555.716 21.730.834 21.920.750 24.240.750 Tổng doanh thu 103.988.344 135.753.332 115.393.244 123.592.345 Tổng chi phí 103.135.426 134.560.333 114.297.084 122.418.901 Lợi nhuận 852.918 1.192.999 1.069.160 1.173.444 Tỷ suất lợi nhuận trên 0,03956 0,0548 0,0487 0,0484 vốn kinh doanh Tỷ suất lợi nhuận/ 0,00820 0,00878 0,00926 0,00949 tổng doanh thu Tỷ suất lợi nhuận / 0,00826 0,00886 0,00935 0,00958 tổng chi phí  Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh: chỉ tiêu này cho biết mỗi một đồng vốn công ty bỏ ra thì thu được bao nhiêu lợi nhuận. Để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn qua các năm, ta so sánh chỉ tiêu này qua các năm. Năm 1997 mỗi một đồng vốn công ty bỏ ra thu được 0,03956 đồng lợi nhuận. Đây là một kết quả phản ảnh hiệu quả kinh doanh của công ty đạt được ở mức trung bình. Các năm 1998, 1999 và 2000 chỉ tiêu này luôn cao hơn năm 1997. Năm 1998, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh đạt 0,0548 tăng 38,5% với mức tăng tuyệt đối là 0,0153, mức tăng cao này chứng tỏ năm 1998 hoạt động kinh doanh của công ty đạt kết quả cao. Trong đó lợi nhuận của năm 1998 tăng 39,87% với mức tăng tuyệt đối là 340,081 (nđ) trong khi lượng vốn được đầu tư vào không đáng kể. Do vậy tổng hợp của sự biến động của hai nhân tố 48
  49. vốn và lợi nhuận này cho ta thấy tỷ suất lợi nhuận trên vốn hoạt động kinh doanh của công ty năm 1998 tăng mạnh hơn so với năm 1997. Năm 1999, chỉ tiêu này đạt 0,0487 tức là giảm so với năm 1997 là 0,0061 và chỉ bằng 88,86% năm 1998. Tỷ suất lợi nhuận năm 1999 giảm sút so với những năm trước là do lượng vốn bổ xung vào hoạt động kinh doanh tăng lên lấy từ hoạt động kinh doanh của năm trước. Như vậy lợi nhuận thu được từ hoạt động ks của năm 1999 giảm so với năm 1998. Điều này làm cho tỷ xuất lợi nhuận trên vốn kinh doanh của công ty năm 1999 giảm mạnh so với năm 1998. Nhưng tỷ suất lợi nhuận của năm 1999 vẫn cao hơn năm 1997 do tốc độ tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của năm 1999 tăng so với lợi nhuận của năm 1997 cao hơn tốc độ tăng của vốn từ năm 1997 và 1999. Năm 2000, chỉ tiêu này đạt được 0.0484, tức là vẫn giảm nhẹ so với năm 1999. Điều này chỉ ra rằng năm 2000 cả nguồn vốn và lợi nhuận đều tăng so với năm 1999, nhưng tốc độ tăng trưởng của vốn tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận nên làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn hoạt động kinh doanh của công ty giảm đi. Nhưng nhìn chung thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn hoạt động kinh doanh của công ty của các năm 1998-2000 đều tăng so với năm 1997. Và tỷ suất lợi nhuận trung bình trong cả thời kỳ đạt giá trị 0,04785, đạt ở mức trung bình.  Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: chỉ tiêu này phản ảnh một đồng doanh thu thì trong đó có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua bảng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ta thấy được tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là nhất nhỏ. Trung bình hàng năm chỉ tiêu này đạt giá trị 0,0089325 tức là cứ một đồng doanh thu thì có 0,0089325 đồng lợi nhuận trong đó. Điều này phản ảnh hoạt động kinh doanh của công ty tuy có doanh thu cao nhưng vì các mặt hàng kinh doanh của công ty là mặt hàng xuất nhập khẩu, chi phí phải bỏ ra để mua hàng cũng như các chi phí khác là rất cao nên thu được lợi nhuận thấp, làm cho tỷ suất lợi nhuận trên tổng doanh thu thấp.  Tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí: chỉ tiêu này thể hiện một đồng chi phí bỏ ra thì sẽ thu về được bao nhiêu lợi nhuận. 49
  50. Trong thời kỳ 1997-2000 tỷ suất lợi nhuận trên chi phí đạt được giá trị không cao, nhưng có xu hướng tăng dần qua các năm. Tuy chi phí thực hiện kinh doanh của công ty qua các năm không đều nhau, nhất là chi phí kinh doanh của năm 1998 là lớn nhất trong giai đoạn 1997-2000. Nhưng xét về tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí thì mức tăng trưởng lại ổn định qua các năm. Và giá trị trung bình của giai đoạn 1997-2000 đạt 0,00901 nghĩa là mỗi một đồng chi phí bỏ ra sẽ thu được 0,00901 đồng lợi nhuận cho công ty. Tóm lại qua nghiên cứu các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận đều cho thấy hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty ngày càng được tăng lên trong mấy năm qua. Trong giai đoạn đã qua, tuy công ty có gặp nhiều khó khăn trở ngại về vốn, về thị trường kinh doanh nhưng công ty vẫn luôn cố gắng và tìm kiếm mọi biện pháp tháo gỡ để từng bước nâng cao hoạt động kinh doanh của mình. 5. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Các chỉ tiêu cụ thể về sử dụng vốn của công ty được tính qua bảng sau. Bảng 10: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Vốn lưu động 20.044.463 20.217.312 20.210.438 22.316.220 Tổng doanh thu thuần 103.988.334 135753.332 115.393.244 123.592.345 Lợi nhuận 852.918 1.192.999 1.069.160 1.173.444 Mức doanh lợi của 0,0425 0,069 0,0521 0,0521 vốn LĐ Vòng quay vốn LĐ 5,187 6,717 5,709 5,489 Mức độ đảm nhận 0,192 0,148 0,175 0,182 vốn LĐ Mức doanh lợi của vốn lưu động: cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra kinh doanh xuất nhập khẩu thì công ty thu về được bao nhiêu lợi nhuận. Qua bảng trên ta thấy chỉ tiêu này đạt được không lớn qua các năm. Trong giai đoạn 1997-2000 trung bình hàng năm mức doanh lợi vốn đạt 0,051625 tức là cứ bình quân một đồng vốn lưu động bỏ ra chỉ đem lại cho công ty mức lợi nhuận là 0,051625 đồng. Trong đó hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty 50
  51. cao nhất là năm 1998 chỉ số tăng đạt là 0,059 tăng 38,8% so với năm 1997 và cao hơn mức trung bình của cả thời kỳ là 14,2%, chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong năm 1998 là có hiệu quả cao nhất trong cả giai đoạn 1997-2000 của công ty. Sang năm 1999 do tình hình khó khăn nên lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của công ty giảm làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty giảm, nhưng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong năm 1999 vẫn được coi là cao hơn năm 1997 do mức doanh lợi của vốn lưu động cao hơn. Nhìn chung mức doanh lợi của vốn lưu động tăng trưởng không ổn định qua các năm, nhưng so với giai đoạn trước mức doanh lợi của vốn lưu động tăng trưởng ở mức cao hơn nên ta thấy việc sử dụng vốn lưu động của công ty vẫn có hiệu quả hơn. Vòng quay của vốn lưu động: đây là chỉ tiêu phản ánh trình độ quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Nó cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra thu về bao nhiêu đồng doanh thu hay là nó cho biết số lần quay vòng của vốn lưu động trong năm để thực hiện các hoạt động kinh doanh của công ty. Qua bảng phân tích ta thấy số vòng quay của vốn lưu động là không lớn, tốc độ quay vòng trung bình của vốn trong giai đoại 1997-2000 là 5,77475 tương ứng với số vòng quay là số ngày của một vòng lưu chuyển là 63 ngày. Đây là một con số cao nó cho thấy quy mô hoạt động của công ty là lớn. Nguyên nhân của việc quay vòng vốn nhanh của công ty chủ yếu là do công ty đã tổ chức được hệ thống nguồn hàng ở rộng khắp mọi nơi bằng các đại lý, tạo mốiquan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác bảo đảm tiêu thụ hàng hoá cho các nhà cung ứng. Do đó khi cần hàng là có được ngay. Đồng thời công ty tập trung khai thác, liên tục ký kết các hợp đồng xuất khẩu để tiến hàng xuất khẩu. Cùng với việc thúc đẩy các mặt hoạt động xuất khẩu công ty cũng tiến hàng chú trọng trong việc nghiên cứu thị trường trong nước và tiến hành nhập khẩu các mặt hàng phục vụ cho nhu cầu trong nước. Điều này góp phần đẩy nhanh tốc độ quay vòng của vốn lưu động. Nhìn chung thì dựa vào tốc độ quay vòng của vốn lưu động trong giai đoại ta thấy là việc sử dụng vốn lưu động của công ty có hiệu quả cao, nhưng nhìn vào bảng so sánh giữa các năm trong giai đoạn 1998-2000 ta thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty có phần giảm sút. Nguyên nhân của việc giản sút này một phần là do vốn lưu động của công ty được bổ sung thêm, mặt khác là do 51
  52. kết quả hoạt động kinh doanh của công ty 1999-2000 vẫn chưa cao bằng của năm 1998. Mức độ đảm nhận vốn: Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu vòng quay vốn lưu động. Nó cho biết mức độ đảm nhận của đồng vốn lưu động trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thông qua bảng số liệu ta thấy rằng chỉ số này rất nhỏ. Điều này chứng tỏ để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình công ty cần rất ít vốn. Trong quá trình kinh doanh của mình công ty chủ yếu dùng biện pháp tận dụng vốn của khách hàng để đẩy mạnh tốc độ hoạt động của vốn kinh doanh, thường là bằng cách công ty mua hàng trả chậm và sau đó bán hàng song thì thanh toán cho người cung ứng làm cho công ty giảm đáng kể được lượng vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 6. Hiệu quả sử dụng vốn cố định. Bảng 11: Hiệu quả sử dụng vốn cố định. Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Vốn cố định 1.511.253 1.513.522 1.710.312 1.724.630 Doanh thu 103.988.334 135.753.332 115.393.244 123.592.345 Lợi nhuận 852.918 1.192.999 1.069.160 1.173.444 Mức sinh lợi vốn CĐ 0,564 0,788 0,625 0,680 Hiệu quả sử dụng tài sản cố định 68,8 89,69 67,46 71,66 Qua bảng số liệu ta thấy hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty tăng trưởng không ổn định. Lý do chính là do kết quả hoạt động kinh doanh cũng không ổn định và công ty cũng thường xuyên đầu tư trang thiết bị tài sản cho việc kinh doanh. Hàng năm tốc độ đầu tư tăng nhanh và tốc độ tăng thường xuyên không ổn định làm cho hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty không tăng trưởng một cách ổn định. Mặc dù chỉ số này không ổn định nhưng giá trị đạt được ở mức cao cho thấy việc sử dụng tài sản của công ty vẫn có hiệu quả. Năm 1998 chỉ số này đạt ở mức cao nhất, mức sinh lợi đạt 0,788% và hiệu quả sử dụng tài sản cố định đạt 89,69%. Điều nay cho thấy năm 1998 hiệu quả sử dụng tài sản của công ty là cao nhất. Năm 1999 và 2000 do tốc độ đầu tư tài sản cố định tăng nhanh, nhưng công việc kinh doanh không được thuận lợi làm 52
  53. cho hiệu quả sử dụng tài sản cố định giảm so với năm 1998. Tuy việc đầu tư thêm trang thiết bị, tài sản làm giảm hiệu quả sử dụng vốn cố định, nhưng đây là điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh doanh chung của công ty. Điều này sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của công ty và gián tiếp làm tăng doanh thu hoạt động của công ty, cũng như làm tăng hiệu quả kinh doanh của công ty. 7. Hiệu quả sử dụng lao động. Bảng 12: Hiệu quả sử dụng lao động. Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Doanh thu thuần 103.988.334 135.753.332 115.393.244 123.592.345 Lợi nhuận 852.918 1.192.999 1.069.060 1.173.444 Số lao động 140 151 147 143 Doanh thu bình 742.773 899.028 784.988 864.282 quân/1 lao động Mức sinh lợi của 6.092,27 7.900,6 7.273,19 8.205,9 một lao động Qua bảng ta thấy hiệu quả sử dụng lao động của công ty qua các năm tăng lên khá rõ rệt. Mức doanh thu bình quân trong giai đoạn này đạt 822 triệu đồng một người một năm trong đó mức sinh lợi lao động tăng nhanh hơn doanh thu bình quân, năm 2000 so với năm 1997 tương ứng là 35% và 16,5%. Bên cạnh việc chú trọng nâng cao doanh thu trên một lao động công ty đã chú trọng nâng cao mức lợi nhuận bình quân trên một lao động, và qua bảng phân tích ta thấy lợi nhuận trên một lao động tăng nhanh hơn là số doanh thu trên một lao động. Điều này chứng tỏ rằng việc sử dụng lao động của công ty là ngày càng có hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên mức tăng trưởng này cũng không ổn định trong các năm của toàn giai đoạn. Qua bảng ta thấy được hiệu quả sử dụng lao động của năm 1998 cao hơn hiệu quả sử dụng lao động của năm 1997, và hiệu quả sử dung lao động của năm 2000 cao hơn năm 1997. Bằng chứng là mức sinh lợn của năm 1998 cao hơn năm 1997 là 29,6% năm 2000 cao hơn năm 1999 là 12,8% và mức sinh lợn của năm 2000 cao hơn năm 1998 là 3,86%. Có được kết quả khả quan này là do doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng cao trong khi công ty lại đang cơ cấu lại số lượng lao động rút gọn xuống mức thấp nhất có thể. Đồng thời công ty đã sử 53
  54. dụng hợp lý lực lượng lao động, phân công bố trí công việc phù hợp với trình độ lao động của mỗi người, quản lý lao động chặt chẽ, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Bảng 13: Thu nhập bình quân đầu người/năm. Lao Tổng số BHXH trả Các khoản TNBQ đầu Năm Chia lương động thu nhập thay lương khác người/năm 1998 151 963.701 936.330 9.781 17.600 531.849 1999 147 1.139.101 954.005 3.896 181.200 645.749 2000 143 1.253.210 1.085.704 8.965 158.541 716.902 Trong những năm vừa qua số lượng lao động của công ty biến động theo xu hướng giảm dần. Nguyên nhân là do công ty cơ cấu lại lao động, giảm bớt số lượng lao động hợp đồng ngắn hạn điều này làm cho hiệu quả sử dụng lao động của công ty tăng lên rõ rệt, xét trên các chỉ tiêu hiệu quả lao động trong giai đoạn 1997-2000 có sự tiến bộ đáng kể, thu nhập của người lao động cũng được cải thiện và nâng cao hơn. Nếu như thu nhập bình quân đầu người năm 1998 là 531.849.000 đồng, thì đến năm 2000 con số này là 716.902.000 đồng (gần sáu trăm ngàn đồng một tháng). Bảng 14: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Nộp ngân sách 3.223.067 4.235.810 4.655.111 5.294.991 VAT 677.619 1.475.000 1.613.547 1.821.546 Thuế xuất nhập khẩu 2.144.075 2.199.398 2.525.724 2.921.235 Thuế TNDN 401.373 561.412 515.840 552.210 Tỷ lệ đóng góp cho ngân sách nhà nước của công ty VIMEDIMEX không ngừng được nâng lên trong những năm vừa qua. Thông qua mức đóng góp với ngân sách nhà nước có thể đánh giá được hiệu quả kinh tế xã hội mà công ty mang lại. Tốc độ tăng mức nôp ngân sách thể hiện sự cố gắng trong kinh doanh với điều kiện ngày càng khó khăn của công ty. Năm 2000 mặc dù gặp rất nhiều 54
  55. khó khăn nhưng công ty vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch nộp ngân sách với số nộp đạt 5.294.991.000 đồng. 5294991 4655111 Tỷ đồng 4235810 5 3223067 4 3 2 1 1997 1998 1999 2000 IV. Những thành tựu và những tồn tại trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của VIMEDIMEX. 1. Thành tựu. Trong những năm gần đây hoạt động kinh doanh của công ty VIMEDIMEX đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trên lĩnh vực kinh doanh cũng như hiệu quả xã hội. Có thể đánh giá thành tựu về hoạt động xuất nhập khẩu của công ty VIMEDIMEX như sau. Trong những năm qua, công ty luôn có nhiều cố gắng bán sát, xâm nhập và phát triển thị trường trong và ngoài nước. Khai thác được nhiều nguồn hàng chứng khoán và hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch.  Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về đẩy mạnh xuất khẩu, công ty đã chú trọng quan tâm đến công tác tiếp thị, khai thác mở rộng thị trường xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu mới. Các mặt hàng xuất khẩu chính của công ty là hương liệu, dược liệu, và các loại tinh dầu cũng như một số mặt hàng khác. Nên kim ngạch xuất khẩu xủa công ty ngày một tăng cao đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu của năm 2000 tăng mạnh gấp hơn 4 lần của năm 1999.  Trong quá trình kinh doanh công ty phải cạnh tranh gay gắt khi khai thác nguồn hàng, do nhà nước mở rộng cơ chế xuất nhập khẩu nên có rất nhiều 55
  56. công ty tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng như của công ty, ngoài ra còn có các văn phòng đại diện cũng tham gia mua bán trực tiếp đến tận các cơ sở thu mua, sản xuất, chế biến nên làm cho giá cả lên xuống thất thường. Sự biến độngtiền tệ trong khu vực và thế giới, tỷ giá ngoại tệ mạnh lên xuống cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty nhất là năm 1997. Trước tình hình đó, công ty đã áp dụng nhiều biện phsản phẩm kinh doanh, tìm kiếm khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, giao hàng đúng hạn và bảo đảm chất lượng hàng hoá, thanh toán sòng phẳng, và đã thực sự gây được lòng tin đối với khách hàng, lôi cuốn khách hàng đến hợp tác lâu dài. Những điều đó vừa tạo được nguồn hàng ổn định vừa có khách hàng tiêu thụ.  Thị trường của công ty không ngừng được mở rộng, công ty có quan hệ bạn hàng với nhiều nước trên thế giới, không chỉ những nước trong khu vực như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc Công ty còn mở rộng quan hệ với các nước ở Châu âu và thị trường Mỹ. Đây là xu hướng phù hợp với tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay, đó là đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế.  Nhờ vào các biện phsản phẩm tích cực mở rộng thị trường mà khối lượng hàng hoá lưu chuyển của công ty ngày càng tăng làm cho kim ngạch xuất nhập khẩu và doanh thu xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, hiệu quả kinh doanh của công ty cũng không ngừng được tăng lên, và đạt được những con số đáng khích lệ. Xét về các chỉ tiêu thực hiện năm 2000 so với năm 1997 thì hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty tăng lên rõ rệt. Về lợi nhuận tăng 37,5%. Các tỷ suất lợi nhuận trên vốn, doanh thu, chi phí đều tăng, mức doanh lợi của vốn lưu động tăng 24,47%, Số vòng quay của vốn lưu động tăng 3,82%, doanh thu bình quân một lao động tăng 16,35%, mức sinh lợi của một lao động tăng cao là 34,68%. Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác đạt rất cao như tình hình nộp ngân sách nhà nước tăng 64,28%. Điều này cho thấy giai đoạn hoạt động của công ty từ 1997-2000 là khá hiệu quả cả về mặt hiệu quả doanh nghiệp lẫn hiệu quả xã hội.  Có được kết quả trên là do công ty đã nỗ lực cố gắng trong hoạt động kinh doanh của mình như: 56
  57. + Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu nhanh chóng, chính xác, đúng chính sách và pháp luật của nhà nước, nộp thuế xuất nhập khẩu đúng hạn đầy đủ. + Thực hành tiết kiệm trong công ty, giảm các loại chi phí trong kinh doanh như chi phí vận tải, bốc xếp giám định, bảo quản hàng hoá các chi phí về quản lý hành chính đều ở mực cho phép. + Tổ chức bộ máy quản lý của công ty gọn nhẹ làm việc có hiệu quả nên năng suất cao. + Công ty luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng đào tạo nang cao nghiệp vụ chuyên môn, tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên đi học bổ túc thêm trình độ về nghiệp vụ ngoại thương, về trình độ ngoại ngữ, tin học và trình độ mọi mặt. Ngoài ra còn có nguyên nhân nữa dẫn đến hiệu quả kinh doanh cao là công ty rất coi trọng công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong mọi hoạt động công ty đều lấy chất lượng, hiệu quả làm điều kiện tiên quyết tạo được uy tín đối với bạn hàng trong và ngoài nước. 2. Những tồi tại. Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty vẫn còn những tồi tại. Công ty thường xuyên bị động về vốn, phải vay ngân hàng với lãi xuất cao, thời hạn ngắn nên dẫn tới tình trạng phải trả theo thời hạn khi mà đồng vốn vẫn chưa kịp sinh lợi. Công ty luôn phải tự cân đối để giữ uy tín với ngân hàng. Chất lượng hàng hoá của công ty chưa ổn định, tỷ trọng hàng thô vẫn còn chiếm khá lớn. Thị trường tiêu thụ tuy có mở rộng song vẫn chưa ổn định, một số bạn hàng chưa đủ tin cậy để tiến hành làm ăn lớn. Trong hoạt động tạo nguồn hàng công ty chưa thiết lập được mối quan hệ với các cơ sở sản xuất chế biến, thu mua. Hàng của công ty chủ yếu là theo kiểu thu gom, công ty chỉ thực hiện các hoạt động tạo nguồn hàng khi có khách hàng nêu yêu cầu. Vì vậy trong nhiều trường hợp công ty bị động về nguồn hàng hoặc việc tạo hàng không đủ số 57