Đề tài Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội

doc 86 trang nguyendu 3920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_hoan_thien_va_phat_trien_nghiep_vu_bao_lanh_tai_ngan.doc

Nội dung text: Đề tài Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội

  1. Lời mở đầu. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của nền kinh tế Việt Nam là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy mạnh sự phát triển đất nước và tăng cường hoà nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Để đảm bảo cho sự phát triển này, vốn cần cho nền kinh tế ví như máu cần cho một cơ thể sống. Với vai trò “ trái tim “ của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng đang trở mình trong công cuộc đổi mới và đa dạng hoá nghiệp vụ ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng găy gắt , việc hoàn thiện và phát triển các hoạt động là huớng đi và phương châm cho các ngân hàng tồn tại và phát triển . Và xét cho cùng đây chính là sự đáp ứng cho yêu cầu hiện đại hoá, đa dạng hoá hoạt động ngân hàng và xu thế hội nhập của nền kinh tế. Bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ của ngân hàng thương mại hiện đại. Nó còn mới mẻ với các ngân hàng Việt Nam nói chung và ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng vì hệ thống ngân hàng này có tuổi đời kinh doanh còn rất trẻ. Trong thời gian qua, sự phát triển và khởi sắc của nghiệp vụ bảo lãnh tuy tích cực nhưng còn chưa tương xứng với vai trò và tiềm năng cuả nó đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Nhận thức được vấn đề trên sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội tôi quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội”. Nội dung đề tài bao gồm các phần sau: Chương 1: Lý luận chung về bảo lãnh ngân hàng. Chương 2: Thực trạng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Chương 3: Các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Phạm vi của đề tài là nghiên cứu nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động này tại ngân hàng. Về phương pháp nghiên cứu, bài viết này sẽ sử dụng phương pháp tổng hợp phân tích và đặc biệt sử dụng nhiều tới lý luận và chính sách Marketing trong ngân hàng. Để hoàn thành đề tài này,tôi đã nhận được sự hướng dẫn rất quý báu của Thầy giáo hướng dẫn, Giáo sư Cao Cự Bội và các Thày Cô trong khoa Ngân hàng- Tài chính. Ngoài ra, trong thời gian thực tập, tôi còn 1
  2. được sự giúp đỡ tận tình của bác Nguyễn Đường Tuấn- Phó Giám đốc ngân hàng, cô Huỳnh Kim Ngọc và chị Nguyễn Thị Minh Thu cùng các Anh Chị, Cô Chú tại trụ sở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội và tại Chi nhánh Thanh Trì . Tôi xin chân thành cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô và các cô chú trong ngân hàng. 2
  3. Nội dung Chương 1: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo lãnh. Các vấn đề chính trong chương này bao gồm: - Các khái niệm về bảo lãnh. - Phân loại và nội dung các loại hình bảo lãnh. - Bảo lãnh ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 3
  4. I. Các khái niệm về bảo lãnh. 1. Khái niệm về bảo lãnh và bảo lãnh ngân hàng. Trước khi đưa ra khái niệm bảo lãnh trong ngân hàng, chúng ta hãy tìm hiểu về bảo lãnh nói chung và khái niệm bảo lãnh một số lĩnh vực khác. Bảo lãnh là một thuật ngữ được sử dụng từ lâu đời. Trong xã hội phong kiến người ta đã biết đến khái niệm lý trưởng và những người có thế lực bảo lãnh cho tù nhân trong thời gian thi hành án, cha mẹ bảo lãnh cho con Sau đó bảo lãnh được phát triển sang lĩnh vực dân sự và nhiều lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội. Bảo lãnh được phân ra hai hình thức dựa vào tính chất và đối tượcg bảo lãnh là: Bảo lãnh đối nhân và bảo lãnh đối vật. -Bảo lãnh đối nhân: Được áp dụng chủ yếu với các quan hệ phi tài sản hình sự, tố tụng hình sự, chế tài hành chính và quan hệ phi tài sản trong dân sự. -Bảo lãnh đối vật: Được áp dụng trong quan hệ hợp đồng kinh tế và dân sự có yếu tố tài sản. Đó chính là bảo lãnh, một trong các phương thức bảo đảm việc vi phạm hợp đồng. Trong pháp luật dân sự nước ta khái niệm bảo lãnh được nêu trong điều 366 Bộ luật Dân sự: “ Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền ( gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ( gọi là người được bảo lãnh), nếu khi đến hạn mà nguời được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ ”. Trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế: “ Bảo lãnh tài sản là sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết ” Từ đó ta đưa ra khái niệm chung về bảo lãnh như sau: “ Bảo lãnh là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các nghiã vụ và quyền lợi nếu người xin bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với bên yêu cầu bảo lãnh”. Hoạt động bảo lãnh ngày nay được phát triển phong phú và đa dạng trong mọi mặt của nền kinh tế xã hội. Để phân loại, người ta dựa vào một số các tiêu thức như: -Dựa trên chủ thể bảo lãnh: +Bảo lãnh nhà nước với doanh nghiệp. +Bảo lãnh công ty mẹ với công ty con. 4
  5. + Bảo lãnh của ngân hàng với doanh nghiệp. - Dựa trên mục đích kinh tế: +Bảo lãnh vì mục đích kinh tế. +Bảo lãnh vì mục đích phi kinh tế. * Khái niệm bảo lãnh ngân hàng: Theo điều 1 trong Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng( ban hành kèm theo Quyết định số 196/ QĐ- NH 14 ngày 16 tháng 9 năm 1994 củaThống đốc NHNN): “Bảo lãnh là một trong các nghiệp vụ của ngân hàng, là cam kết của ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện hiện đúng và đủ các các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh, được quy định cụ thể tại thư bảo lãnh của ngân hàng”. 2. Sự ra đời và quá trình phát triển của bảo lãnh ngân hàng. 2.1. Sự ra đời của bảo lãnh ngân hàng. Theo như phần khái niệm trên bảo lãnh ngân hàng là bảo lãnh vì mục đích kinh tế với người bảo lãnh là các ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng chỉ được ra đời và phát triển vào đầu thập niên 70 của thế kỷ và trở thành một loại hình dịch vụ hữu hiệu của các ngân hàng hiện đại với nền kinh tế. Chúng ta hãy xem xét sự ra đời của bảo lãnh ngân hàng, một loại hình dịch vụ mới của ngân hàng thương mại. Theo quan niệm Marketing sự ra đời một sản phẩm dịch vụ mới thường bắt nguồn từ ba nhân tố : Phát sinh nhu cầu, khả năng cung ứng và sự cho phép của luật pháp.Ba nhân tố này với sự ra đời của bảo lãnh ngân hàng là: * Sự phát sinh nhu cầu bảo lãnh: Chính sự phát triển của nền kinh tế mà ở đây là sự phát triển của thương mại và tín dụng đã làm nảy sinh xuất hiện những nhu cầu mới. - Về thương mại: Xã hội loài người đã trải qua các hình thức sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời tạo ra bước nhảy vọt trong đời sống, kinh tế và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của thương mại. Thương mại ra đời từ sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sâu và lợi thế so sánh giữa các vùng,các doanh nghiệp và các quốc gia. Khi nền kinh tế phát triển, thương mại phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu đặc biệt với xu hướng hoà nhập tham gia vào phân công lao động khu vực và thế giới. Sự phát triển của thương mại làm tăng số lượng,giá trị và tốc độ các giao dịch của doanh nghiệp làm các giao dịch vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia. - Về tín dụng: Tín dụng ra đời do nhu cầu chu chuyển vốn trong nền kinh tế giữa những nơi thừa và thiếu tương đối. Thương mại phát triển kéo 5
  6. theo sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực. Để đổi mới sản phẩm, công nghệ đáp ứng thị trường vốn trở nên cực kỳ quan trọng. Tín dụng khi đó không chỉ bao gồm quan hệ cung ứng vốn giữa các tổ chức trong một nước mà còn giữa các nước,các khu vực trên nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là thương mại với nguyên tắc hoàn trả vốn gốc và một phần lãi nhất định. Điều kiện cơ bản trong tín dụng là hoàn trả có nghĩa rằng người cho vay có thể thu hồi vốn và lãi sau một thời hạn nhất định. Ngược lại, người cấp tín dụng sẽ phải đối mặt với rủi ro tín dụng nếu người vay không hoàn trả đúng yêu cầu. Rủi ro này càng lớn khi tín dụng được thực hiện ở phạm vi ngoài quốc gia. Sự phát triển của thương mại và tín dụng dẫn tới: + Sự thiếu hụt thông tin và do đó là sự thiếu tín nhiệm bạn hàng: Giao dịch diễn ra với đặc điểm tăng về số lượng, phức tạp hơn trong thời gian dài và trên phạm vi toàn cầu.Quá trình kinh doanh diễn ra với tốc độ chóng mặt, do vậy trong cùng một lúc một doanh nghiệp phải giao dịch với rất nhiều bạn hàng khác nhau. Họ thiếu thông tin về các bạn hàng cũng như đối thủ cạnh tranh. Sự thiếu hụt thông tin có thể dẫn tới rủi ro về đạo đức do bạn hàng không đáp ứng các hợp đồng đã ký kết. Hoặc nếu họ có thể tìm hiểu được thông tin thì việc tranh thủ cơ hội kinh doanh và các chi phí phải bỏ ra ngăn cản họ thực hiện điều này. Mâu thuẫn nảy sinh đó là sự thiếu hiểu biết về nhau làm các đối tác không có đủ độ tín nhiệm cần thiết để ký kết hợp đồng. + Tăng các rủi ro trong kinh doanh: Một doanh nghiệp trong kinh doanh phải gánh chịu rủi ro về lãi suất, tỷ giá, cạnh tranh, các rủi ro bất khả kháng Rủi ro có thể gây ra những hậu quả không lường trước được cho doanh nghiệp. Theo cơ chế lan truyền các rủi ro này còn ảnh hưởng tới cả các doanh nghiệp khác cùng thực hiện hợp đồng. Rủi ro ví dụ như các rủi ro bất khả kháng đôi khi nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Kiểm soát rủi ro là khó khăn đặc biệt là các rủi ro lan truyền từ đối tác.Khi cạnh tranh bị đẩy tới mức độ gay gắt, các doanh nghiệp đều phải tận dụng mọi cơ hội để vượt lên trên đối thủ.Mà chịu rủi ro có nghĩa là chịu đe doạ tụt hậu. Vì vây các doanh nghiệp luôn tìm cách giảm thiểu rủi ro. Như vậy từ bản thân nền kinh tế xuất hiện nhu cầu cần có công cụ ngăn ngừa rủi ro từ đối tác, khắc khục tình trạng thiếu hụt thông tin làm các bên yên tâm thực hiện giao dịch. Về mặt thanh toán các rủi ro đã được kiểm soát bởi các hình thức tín dụng chứng từ, bảo đảm hối phiếu Còn các rủi ro về không thực hiện không đơn thuần là nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng, nó là cơ sở ra đời của một công cụ mới- bảo lãnh. 6
  7. *Khả năng cung ứng: Nhu cầu bảo lãnh nảy sinh đòi hỏi có một người thứ ba đứng ra làm trung gian bảo đảm các bên yên tâm thực hiện hợp đồng. Ngân hàng thương mại một trung gian tài chính với các điều kiện sau: -Có khả năng bảo đảm về tài chính, có uy tín trong kinh doanh tiền tệ. -Chuyên cung cấp các dịch vụ trung gian tài chính cho nền kinh tế. -Có khả năng nắm bắt, thu thập thông tin do có mạng lưới khách hàng và đội ngũ cán bộ chuyên môn. Ngân hàng thương mại hoàn toàn có khả năng cung ứng dịch vụ này thoả mãn nhu cầu nền kinh tế. Mặt khác nếu tiếp cận theo các hình thức tín dụng ngân hàng thì có thể coi bảo lãnh là một loại hình tín dụng đặc biệt, tín dụng chữ ký. Sự phát triển các hình thức tín dụng ngân hàng có thể kể tới là : - Tín dụng thông thường: Đó là việc ngân hàng trực tiếp phát tiền cho vay theo nguyên tắc hoàn trả vốn và một khoản lãi nhất định. Đây là hình thức tín dụng truyền thống và chiếm tỷ trong lớn nhất trong các hoạt động sử dụng vốn của hầu hết cá ngân hàng. - Tín dụng chữ ký: + Tín dụng chấp nhận :là việc khác hàng phát hành một hối phiếu trong đó ngân hàng đóng vai trò là người thụ lệnh. Khách hàng dùng hối phiếu này chiết khấu ở ngân hàng khác để nhận tiền. Trước khi hối phếu này đến hạn thanh toán, khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng để ngân hàng chi trả cho ngân hàng chiết khấu. Trong quan hệ này ngân hàng cho mượn uy tín của mình để khách hàng được vay vốn. +Tín dụng chứng từ: Ngân hàng cấp tín dụng chứng từ cho khách hàng là người nhập khẩu, người thụ hưởng là người xuất khẩu nước ngoài. Với hình thức này ngân hàng cam kết trả tiền khi người xuất khẩu giao hàng và xuất trình những giấy tờ đúng theo cam kết trong thư tín dụng. Bảo lãnh ngân hàng: Cũng được coi là một hình thức tín dụng bằng chữ ký. Ngân hàng không phải xuất vốn ngay mà chỉ phát hành thư bảo lãnh bảo đảm chi trả cho người thụ hưởng nếu người được ngân hàng bảo lãnh vi phạm hợp đồng ký kết với người thụ hưởng. * Về pháp luật: ở một số nước bảo lãnh được thực hiện bởi các công ty bảo hiểm như ở Mỹ và Canada. Song phần lớn các quốc gia trên thế giới nghiệp vụ này ngân hàng được phép thực hiện. Như vậy sự ra đời và tồn tại của bảo lãnh ngân hàng là khách quan và cần thiết. 2.2.Sự phát triển của bảo lãnh ngân hàng: 7
  8. Nếu như thư tín dụng đã được các ngân hàng sử dụng rông rãi từ những năm 30 thì bảo lãnh ngân hàng mới chỉ ra đời và phát triển vào đầu thập niên 70 của thế kỷ này. Sự phát triển nhanh chóng của các quốc gia sản xuất dầu hoả ở Trung Đông trong thời gian này cho phép họ ký kết những hợp đồng lớn với các công ty phương Tây cho những dự án lớn như cải tiến cơ sở hạ tầng, các tiện ích công cộng, dự án công nông nghiệp và quốc phòng. Nguồn gốc phát sinh nhu cầu bảo lãnh ngân hàng đặc biệt là bảo lãnh thanh toán ngay lần đầu là từ khu vực này. Với sự phát triển của thương mại quốc tế ,các giao dịch ngày càng mang tính toàn cầu. Ví dụ các công ty kiến trúc của Hà Lan và Anh có thể cùng tham gia liên doanh các công ty khác trong một dự án xây dựng một sân bay và một số công trình phụ trợ ở Arập, thuê các nhà thầu phụ Nam Triều Tiên, mua thiếp bị từ nhà cung cấp ở Pháp.Tầm cỡ và sự phức tạp của các giao dịch đòi hỏi và thúc đẩy sự phát triển của bảo lãnh ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng được sử dụng mạnh mẽ trên thế giới và đạt được doanh số kỷ lục.Chỉ riêng tại Hà Lan, doanh số các loại bảo lãnh do các ngân hàng Hà Lan phát hành trong năm 1980 là 12. 850 triệu NGL. Con số này tăng lên 26. 281 triệu NGL vào năm 1990.( Theo số liệu công bố ngày 10/7/1990 của Uỷ ban kiểm soát của Ngân hàng trung ương Hà Lan). Còn theo Uỷ ban soạn thảo Điều khoản sửa đổi Luật thương mại Hoa Kỳ: Đến cuối 1995 số tiền bảo lãnh còn hiệu lực tại các ngân hàng Hoa Kỳ lên tới 500 tỷ USD trong đó bảo lãnh của khách hàng Mỹ là 250 tỷ. Trị giá của từng loại bảo lãnh cũng lên tới hàng chục triệu USD. Bảo lãnh ngân hàng còn được phát triển cả về hình thức sử dụng. Thoạt đầu là loại bảo lãnh có điều kiện được bắt đầu từ thị trường Mỹ. Với các loại như bảo lãnh bổ xung , bảo lãnh tiền bảo chứng, nó tỏ ra không hiệu quả và bất lợi cho bên yêu cầu bảo lãnh và do người bảo lãnh có thể viện dẫn lý do biện hộ để không thanh toán dẫn tới các tranh cãi phát sinh. Các ngân hàng cũng ngần ngại khi phát hành những bảo lãnh này vì họ không muốn dính líu đến các rắc rối trong hợp đồng. Bảo lãnh chỉ được sử dụng ở một số nước châu Phi, Trung Đông ít thông dụng ở thị trường châu Âu. Loại bảo lãnh được sử dụng nhiều nhất là bảo lãnh thanh toán theo yêu cầu hay bảo lãnh vô điều kiện.Với loại này người thụ huởng được thanh toán khi có yêu cầu mà không cần đưa ra chứng cứ về sự vi phạm. Một số nước vận dụng pha trộn giữa hai loại trên miễn rằng các bên chấp thuận và ngân hàng đồng ý phát hành. 8
  9. Hiện nay bảo lãnh ngân hàng phát triển rộng rãi trên nhiều lĩnh vực. Có thể chắc chắn rằng những thương vụ lớn với nước ngoài hiện nay không thể không có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm. Bảo lãnh còn đưởc sử dụng rộng rãi trong trị trường nội địa do tính đa dạng và năng động của nó. Bảo lãnh không chỉ hỗ trợ cho các hợp đồng thương mại mà cả các giao dịch phi thương mại, tài chính, phi tài chính như: bảo lãnh thanh toán, hoàn trả tiền ứng trước, thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thuế quan Bảo lãnh không chỉ được thực hiện như một loại hình dịch vụ mà còn là một công cụ tài trợ cho các doanh nghiệp. Cùng với tín dụng chứng từ, bảo lãnh là một trong những loại hình giao dịch thông dụng và phổ biến nhất trong các hoạt động ngân hàng trên thế giới. 3. Các yếu tố trong bảo lãnh: 3.1. Các bên trong bảo lãnh: Một giao dịch bảo lãnh bao giờ cũng liên quan tới ba bên: Bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh(bên chỉ thị) và bên thụ hưởng.Quan hệ giữa các bên quy định bởi ba hợp đồng độc lập trong đó thư bảo lãnh ngân hàng chỉ là hợp đồng giữa ngân hàng và bên thụ hưởng bảo lãnh. *Bên bảo lãnh: Dùng uy tín của mình đứng ra cam kết chịu trách nhiệm thay trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng hợp đồng. Trong bảo lãnh ngân hàng,bên bảo lãnh là các ngân hàng phát hành bảo lãnh. * Bên được bảo lãnh (bên chỉ thị bảo lãnh): Bên được ngân hàng cam kết trả thay nếu vi phạm hợp đồng. *Bên thụ hưởng: Được ngân hàng thanh toán khi có yêu cầu do bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. Các hợp đồng liên quan: - Hợp đồng cơ sở giữa bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng. - Hợp đồng bảo lãnh giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh. - Thư bảo lãnh của ngân hàng là hợp đồng giữa ngân hàng- bên bảo lãnh với bên thụ hưởng. Bảo lãnh thanh toán theo yêu cầu đầu tiên hay bảo lãnh yêu cầu được sử dụng thông dụng và mang đầy đủ nhất các đặc điểm, chức năng bảo lãnh(sẽ được trình bày ở dưới đây). Do vậy, chúng ta sẽ tìm hiểu trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh theo Quy tắc thống nhất của Phòng Thương Mại Quốc Tế ICC, UCPsố 458 về bảo lãnh yêu cầu. (UCP 458 các điều 2, 7, 9, 10, 11, 12, 13 , 16) Nghĩa vụ và trách nhiệm: 9
  10. - Khi bên bảo lãnh nhận được chỉ thị phát hành thư bảo lãnh nhưng đó là chỉ thị mà, nếu được thực hiện thì bên bảo lãnh vì lý do luật pháp, quy dịnh của nước phát hành không có khả năng thực hiện được các quy định trong bảo lãnh, thì chỉ thị không được thực hiện và ngay lập tức bên bảo lãnh phải thông báo cho bên đã gửi chỉ thị bằng Telex hoặc nếu không bằng phương tiện nhanh chóng về lý do không thực hiện và yêu cầu họ gửi chỉ thị khác phù hợp hơn. - Khi đã phát hành bảo lãnh, trách nhiệm của bên bảo lãnh theo như bảo lãnh là trả số tiền được quy định trong đó khi xuất trình yêu cầu thanh toán bằng văn bản và các chứng từ khác quy định trong bảo lãnh mà hình thức phù hợp với các quy định của bảo lãnh. - Tất cả các chứng từ được chỉ định và xuất trình theo bảo lãnh, kể cả văn bản yêu cầu sẽ được bên bảo lãnh xem xét, kiểm tra với sự cẩn thận cần thiếtđể xác định xem hình thức của chúng có phù hợp với các điều khoản hay không. Khi chúng không phù hợp hoặc hình thức giữa chúng không phù hợp với nhau chúng sẽ bị từ chối. - Bên bảo lãnh cần có thời gian phù hợp để xem xét kiểm tra yêu cầu theo thư bảo lãnh và để quyết định nên thanh toán hay từ chối yêu cầu đó. Nếu bên bảo lãnh quyết định từ chối thì phải gửi thông báo ngay sau đó cho bên thụ hưởng bằng Telex hoặc nếu không thì bằng phương tiện nhanh chóng khác. Bất kỳ chứng từ nào đã được xuất trình theo thư bảo lãnh phải được giữ lại cho bên thụ hưởng. - Bên bảo lãnh không hề có nghĩa vụ hoặc trách nhiệm đối với các hậu quả do chậm chễ hay thất lạc bất kỳ một văn bản, thư yêu cầu hặc một chứng tù nào, hoặc đối với sự chậm chễ, sự biến dạng hoặc các lỗi khác phát sinh trong khi truyền đi bằng phương tiện thông tin. Bên bảo lãnh không có trách nhiệm đối với lỗi trong bản dịch hặc các giải thích về các điều khoản kỹ thuật và có quyền truyền nội dung bảo lãnh hoặc bất kỳ phần nào đó mà không cần dịch ra. - Bên bảo lãnh và bên chỉ thị không hề có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với những hậu quả phát sinh do hoạt động của mình bị gián đoạn do thiên tai, nổi loạn nội chiến, khởi nghĩa, chiến tranh hoặc bất kỳ nguyên nhân nào ngoài sự kiểm soát của mìnhhoặc đình công đóng cửa các hoạt động công nghiệp mang tính khách quan. - Bên bảo lãnh chỉ có trách nhiệm đối với bên thụ hưởng theo các quy định ghi trong bảo lãnh và các văn bản sửa đổi kèm theo quy tắc này số tiền không quá như đã quy định trong bảo lãnh hoặc các văn bản sửa đổi kèm theo. 10
  11. Trong khi trên thế giới chưa có một luật pháp quốc tế nào điều chỉnh quan hệ bảo lãnh(Công ước Liên Hợp Quốc về các bảo lãnh độc lập và thư tín dụng dự phòng đã soạn thảo nhưng chưa áp dụng) thì UCP 458 là một văn bản tương đối hoàn thiện. Việc nghiên cứu và dẫn chiếu theo quy tắc này sẽ tránh được rủi ro do không nắm được luật pháp của các bên đối tác. 3.2. Nội dung thư bảo lãnh của ngân hàng: Phát hành thư bảo lãnh chỉ là một trong các hình thức bảo lãnh của ngân hàng mà ta sẽ xem xét ở phần dưới.Tuy nhiên đây là hình thức thông dụng nhất. Thông qua thư bảo lãnh chúng ta có thể hiểu rõ hơn một số khái niệm cũng như nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Theo Điều 3 UCP 458, các bảo lãnh đều phải quy định: - Bên chỉ thị - Bên thụ hưởng - Bên bảo lãnh - Hợp đồng cơ sở yêu cầu phát hành bảo lãnh - Số tiền lớn nhất được thanh toán và loại tiền thanh toán - Ngày hoặc sự kiện đáo hạn của bảo lãnh - Các điều kiện đòi thanh toán - Các điều khoản khấu trừ bảo lãnh nếu có Một thư bảo lãnh thường bao gồm những nội dung sau: *Tên, địa chỉ người nhận *Phần mở đầu: - Các thành viên tham gia hợp đồng, số hợp đồng, ngày ký hợp đồng. - Tên hàng, giá trị hàng (công trình). - Mục đích bảo lãnh: Khẳng định việc thiết lập thư bảo lãnh ngân hàng như đã thoả thuận trong hợp đồng . Phần mở đầu bao gồm một đoạn giới thiệu qua về nghiệp vụ chính từ đó dẫn tới thiết lập thư bảo lãnh ngân hàng. Phần này không mang tính bắt buộc nhưng cần thiết để làm rõ các phần sau. *Phần nội dung: Tuyên bố trách nhiệm của ngân hàng: - Ngân hàng đứng ra bảo lãnh: tên, địa chỉ. - Bên chỉ thị bảo lãnh:Tên, địa chỉ. - Bên thụ hưởng bảo lãnh: Tên, địa chỉ. - Hợp đồng cơ sở dẫn tới bảo lãnh. - Số tiên tối đa và loại tiền phải trả : Nếu không quy định điều này người thụ hưởng có thể yêu cầu đòi tiền lớn hơn số tiền trong thư bảo lãnh. Số tiền tối đa này không bao gồm lãi suất phạt trong trường hợp ngân hàng trả chậm. 11
  12. Loại tiền trong thư bảo lãnh không nhất thiết phải là đồng tiền trong hợp đồng cơ sở. - Điều kiện đòi tiền: Đây là điều khoản quan trọng nhất của một thư bảo lãnh vì nó thể hiện mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng cơ sở và sự thoả thuận về phân chia rủi ro giữa các chủ thể này. Thường có các điều kiện sau: + Trả tiền theo yêu cầu đầu tiên. + Trên cơ sở xuất trình chứng từ hoặc phán quyết của toà án. - Thời hạn hiệu lực: Có ba cách quy định ngày hết hạn : + Quy định ngày cụ thể theo lịch. + Dựa trên một sự kiện xảy ra trong hợp đồng cơ sở. Ví dụ như thư bảolãnh tiền ứng trước trong hợp đồng mua bán thường quy định ngày hết hiệu lực là ngày người xuất khẩu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Việc quy định này thường dùng với các trường hợp không xác định cụ thể ngày hoàn thành nghĩa vụ của người được bảo lãnh. + Phối hợp hai cách trên: Chẳng hạn thư bảo lãnh tiền ứng trước có thể quy định nó sẽ hết hiệu lực khi kết thúc giao hàng lần cuối nhưng không được muộn hơn một ngày cụ thể nào đó. - Điều khoản khấu trừ (nếu có): Điều khoản này có ý nghĩa làm giảm số tiền tối đa của thư bảo lãnh theo tiến độ thực hiện hợp đồng và do đó làm giảm trách nhiệm của ngân hàng và người được bảo lãnh theo thư bảo lãnh. Điều khoản này thường xuất hiện trong thư bảo lãnh tiền vay vốn, bảo lãnh tền ứng trước - Các nội dung khác như: Thời gian trả tiền của ngân hàng, chuyển nhượng, luật áp dụng và cơ quan tài phán - Chữ ký của người có thẩm quyền: Thư bảo lãnh có thể lập bằng văn bản có chữ ký của người có thẩm quyền hoặc bằng Telex có khoá mã. 3.3.Phí bảo lãnh: Phí bảo lãnh là chi phí mà người được bảo lãnh phải trả cho ngân hàng do được hưởng dịch vụ này. Phí bảo lãnh phải đảm bảo bù đắp các chi phí bỏ ra của ngân hàng có tính đến các rủi ro mà ngân hàng có thể phải gánh chịu. Nếu xét bảo lãnh dưới góc độ một sản phẩm dịch vụ thì phí bảo lãnh chính là giá cả của dịch vụ đó. Phí bảo lãnh có thể được tính bằng số tuyệt đối hoặc tính trên cơ sở tỷ lệ phí. Phí bảo lãnh theo tỷ lệ phí được tính theo công thức: Phí bảo lãnh = Số tiền bảo lãnh * Tỷ lệ phí * Thời gian bảo lãnh. 12
  13. Số tiền bảo lãnh: Là số tiền ngân hàng cam kết trả thay khi bên được bảo lãnh không thực hiện đúng hợp đồng được ghi trong hợp đồng bảo lãnh. Tỷ lệ phí (%): Được quy định cụ thể với từng loại bảo lãnh, từng ngân hàng và từng quốc gia khác nhau. Phí bảo lãnh được tính vào phí dịch vụ nói chung của ngân hàng và đóng góp trực tiếp vào lợi nhuận của ngân hàng. 4. Đặc điểm và chức năng của bảo lãnh ngân hàng 4.1. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng: Về thực chất, bảo lãnh là lời hứa thanh toán của ngân hàng với người được yêu cầu bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bảo lãnh là một công cụ bảo đảm, chứ không phải là công cụ thanh toán. Nghiên cứu đặc điểm của bảo lãnh cho chúng ta cơ sở phân biệt giữa bảo lãnh với công cụ thanh toán và bảo đảm khác như thư tín dụng, bảo hiểm Bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm sau: 4.1.1. Bảo lãnh là một mối quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau: Khi đồng ý bảo lãnh ngân hàng phát hành thư bảo lãnh. Thư bảo lãnh là một hợp đồng giữa hai bên thường là giữa ngân hàng và người thụ hưởng. Hợp đồng này độc lập trong mối quan hệ với hợp đồng cơ sở. Tuy nhiên để hiểu cơ chế của công cụ này cần thiết phải hiểu rằng bảo lãnh không chỉ là mối quan hệ giữa hai bên mà là một quan hệ tạo thành trong mối quan hệ nhiều bên bao gồm cả: - Mối quan hệ hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng . - Mối quan hệ hợp đồng giữa người được bảo lãnh và ngân hàng. Hợp đồng bảo lãnh sẽ không thể tồn tại nếu không có mối quan hệ trên. Dù có sự phân chia, ba mối quan hệ này liên hệ lẫn nhau và có ảnh hưởng đến nhau. 4.1.2. Tính độc lập: Một đặc tính hết sức quan trọng của bảo lãnh ngân hàng là tính độc lập với hợp đồng. Mặc dù mục đích của một bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn toàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh nhưng việc thanh toán một bảo lãnh chỉ căn cứ vào các điều khoản hoàn toàn. Bảo lãnh vô điều kiện tạo nên sự khác biệt với các hình thức bảo chứng cổ điển và các hình thức bảo lãnh kèm theo chứng từ.Ngược lại nếu là bảo lãnh có điều kiện hay bảo lãnh có kèm theo chứng từ như phán quyết của toà án, quyết định của trọng tài, 13
  14. xác nhận của bên thứ ba về sự vi phạm của người được bảo lãnh thì tính độc lập của bảo lãnh ít nhiều bị giảm sút. Tính độc lập còn thể hiện trong trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành. Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với mối quan hệ giữa ngân hàng và người được bảo lãnh.Ngân hàng không được viện các lý do như: Người được bảo lãnh bị phá sản, vẫn còn nợ ngân hàng để từ chối thanh toán . Về tính độc lập này trong điều 2 của quy tắc thống nhất về bảo lãnh yêu cầu UCP 845 của ICC có giải thích “về bản chất bảo lãnh là giao dịch tách rời khỏi hợp đồng cơ sở hay các diều kiện dự thầu mà bảo lãnh lấy làm căn cứ và bên bên bảo lãnh không hề quan tâm hay bị ràng buộc bởi hợp đồng hay các điều kiện dự thầu đó, dù có trích tham chiếu đến chúng trong bảo lãnh. Trách nhiệm của bên bảo lãnh theo như bên bảo lãnh là trả lại số tiênd được quy địmh đó khi xuất trình yêu câù thanh toán bằng các văn bản và các chứng từ khác quy định trong bảo lãnh mà hình thức phù hợp vơí các quy định của bảo lãnh. “ Với ngân hàng quy tắc độc lập này cũng có thuận lợi. Khi người thụ hưởng có yêu cầu đòi tiền theo htư bảo lãnh, ngân hàng chỉ có trách nhiệm xem xét, kiểm tra xem những điều khoản, điều kiện của thư bảo lãh có được thoả mãn hay không. Nhiệm vụ này được thực hiện khá dễ dàng. Do vậy ngân hàng không liên quan đến quyền nhghĩa vụ các bên ttrong hợp đồng cơ sở và không liên quan tới tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cơ sở giữa hai bên. Tuy nhiên tính chất độc lập của bảo lãnh cũng làm tăng rủi do phải thanh toán hộ khi có sự không trung thực cuar bên yêu cầu bảo lãnh. Nhưng cần nhớ rằng tính độc lập của bảo lãnh cũng phụ thuộc vào các điều kiện của bảo lãnh, nó là loại bảo lãnh vô điều kiện hay bảo lãnh có điều kiện (xem định nghĩa phần hai). Nếu là bảo lãnh vô điều kiện, việc thanh toán được thực hiện theo yêu cầu đầu tiên, tính độc lập được bảo đảm. 4.2. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng: 4.2.1. Chức năng bảo đảm: Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. Theo chức năng này người thụ hưởng sẽ được hưởng một khoản bồi thường về tài chính nếu người được bảo lãnh vi phạm cam kết. Nhưng khả năng xảy ra nghĩa vụ bồi thường của ngân hàng là rất nhỏ. Theo thống kê của các nhà ngân hàng Mỹ thì chỉ 1% trên tổng số bảo lãnh phát hành ở nước này bị người thụ hưởng yêu cầu thanh toán. Ngoài ra bảo lãnh còn sử dụng 14
  15. cho các thoả thuận phi mua bán như dự thầu, thực hiện hợp đồng Do vậy bảo lãnh không phải là công cụ thanh toán mà là công cụ bảo đảm. 4.2.2. Chức năng tài trợ: Để thi công công trình hay thực hiện hợp đồng mua bán có thể phải dùng vốn lớn trong thời gian dài. Người thi công có thể phải yêu cầu từ người chủ công trình một khoản tiền ứng trước. Hoặc trong cuộc đấu thầu, chủ thầu có thể yêu cầu người dự thầu nộp một khoản tiền đặt cọc tham gia đấu thầu. Ngân hàng phát hành bảo lãnh như một công cụ tài trợ làm cho chủ thầu được bảo đảm sẽ ứng trước tiền cho nhà thầu và khi dự thầu, nhà thầu thay việc đặt cọc bằng bảo lãnh của ngân hàng. Xét về mặt này, bảo lãnh ngân hàng mang chức năng tài trợ và điều kiện như được quy định trong thư bảo lãnh và ngân hàng không thể viện cớ những vấn đề phát sinh từ hợp đồng cơ sở để từ chối thanh toán. 4.2.3.Chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng: Bảo lãnh cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng cam kết trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và ngân hàng có quyền đòi lại khoản tiền này. Người bị bảo lãnh luôn bị một áp lực của việc bồi hoàn toàn bảo lãnh.Do vậy bảo lãnh có vai trò đốc thúc người được bảo lãnh thực hiện hoàn tất hợp đồng đã ký kết. Tuy được bảo đảm sẽ nhận được khoản tiền bồi hoàn nhưng ngay cả người thụ hưởng cũng hoàn toàn không muốn điều này xảy ra. Cái họ muốn là sự hoàn tất xuôn xẻ của hợp đồng. Bảo lãnh mang ý nghĩa ràng buộc đốc thúc người được bảo lãnh thực hiện hợp đồng hơn là việc bồi hoàn. Ví dụ: trong bảo lãnh dự thầu, chủ thầu yêu cầu bảo lãnh ngân hàng với người dự thầu nhằm bảo đảm bảo họ sẽ không rút bỏ giữa chừng thực hiện hợp đồng khi đã chúng thầu. Họ không mong đợi nhận được bồi hoàn do việc vi phạm như từ chối thực hiện thi công khi chúng thầu vì khi đó họ phải mất thời gian và chi phí để tìm kiếm đối tác khác. Ba chức năng trên cho thấy tác dụng của bảo lãnh. Nghiên cứu chúng cho phép chúng ta phát huy đầy đủ các chức năng này và vận dụng bảo lãnh có hiệu qủa hơn. Các đặc điểm và chức năng của bảo lãnh cho phép ta phân biệt chúngvới các công cụ khác chẳng hạn như tín dụng thư. * So sánh bảo lãnh ngân hàng với thư tín dụng: Bảo lãnh ngân hàng Thư tín dụng - Mang chức năng bảo đảm - Mang chức năng thanh toán. - Trả tiền theo yêu cầu đầu tiên - Trả tiền khi người thụ hưởng - Trả tiền khi có vi phạm xuất trình chứng từ phù hợp. 15
  16. - Không có điều lệ thống nhất - Thanh toán khi hoàn thành mà theo tập quán. nghiã vụ. - Thông thường người đứng ra - Theo điều lệ thống nhất của đảm lĩnh chịu mọi phí tổn. phòng thương mại Paris. - Không tự động tất toán và - Thông thường chi phí được kết thúc trách nhiệm bảo đảm. chia cho các bên. - Tự động tất toán và kết thúc khi hết hạn hiêu lực. II. Phân loại và nội dung các loại hình bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng rất đa dạng tuỳ theo phạm vi, cách thức thực hiện, mục đích sử dụng Vì vậy ta cần phân loại chúng để có thể hiểu được nội dung từng loại hình và thấy được bảo lãnh là một công cụ đa năng như thế nào. A. Các loại bảo lãnh ngân hàng 1. Phân loại theo đối tượng bảo lãnh: Gồm hai loại là bảo lãnh trong nước (Bảo lãnh đối nội) và bảo lãnh ngoài nước (Bảo lãnh đối ngoại). 1.1. Bảo lãnh trong nước: Là loại bảo lãnh mà người yêu cầu bảo lãnh, người được bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh ở trong phạm vi một quốc gia. Các hình thức phổ biến là: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước được thực hiện qua việc ngân hàng phát hành thư bảo lãnh. 1.2 Bảo lãnh ngoài nước: Là loại hình bảo lãnh sử dụng một trong các hình thức sau: - Mở thư tín dụng mua hàng trả chậm. - Ký bảo lãnh trên các hối phiếu nhận nợ với nước ngoài. - Phát hành thư bảo lãnh. - Lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ. 2. Phân loại theo hình thức sử dụng: 2.1. Bảo lãnh vô điều kiện (Unconditional Guarantee ) : Còn được gọi là bảo lãnh theo yêu cầu (Demand Guarantee) Đây là loại bảo lãnh trong đó việc thanh toán sẽ được thực hiện ngay sau khi ngân hàng nhận được yêu cầu đầu tiên của người thụ hưởng và xem đó là một lệnh thanh toán không đòi hỏi phải có chứng từ kèm theo. Loại bảo lãnh này có tính độc lập cao nhất với các giao dịch khác kể cả hợp đồng cơ sở mà theo đó nó được phát hành. Người bảo lãnh 16
  17. không được viện dẫn bất cứ lý do gì để từ chối thanh toán. Loại bảo lãnh này được sử dụng rất phổ biến vì sự thuận tiện và lợi thế cho phía người hưởng và phù hợp với tập quán, thông lệ giao dịch của ngân hàng thương mại trên thế giới. Tuy nhiên mặt trái của nó là việc đòi bồi thường mang tính chủ quan, nên có thể xảy ra gian lận thậm chí lừa đảo nếu người thụ hưởng là đối tác không trung thực. 2.2. Bảo lãnh có điều kiện ( Conditional guarantee): Đây là loại bảo lãnh mà người thụ hưởng, nếu muốn được trả tiền phải xuất trình chứng từ của phía thứ ba hoặc của Toà án để chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của đối tác. Loại bảo lãnh này gây ra sự chậm chễ trong thanh toán trả bồi thường cho người thụ hưởng. Các ngân hàng cũng ngần ngại trong việc phát hành những bảo lãnh này vì họ có thể dây vào những tranh chấp phát sinh giữa cá bên trong quan hệ hợp đồng.Với các điều kiện chứng từ như trên, về bản chất bảo lãnh có điều kiện rất tương đồng với nghiệp vụ bảo hiểm. Do kém linh hoạt và không hợp với thông lệ giao dịch ngân hàng nên bảo lãnh có điều kiện ít được sử dụng trong nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Vì vậy với nhiều nước bảo lãnh này do các công ty bảo hiểm phát hành như ở Mỹ và Canada. Hiện nay, bảo lãnh có điều kiện chỉ được sử dụng nhiều ở khu Trung Đông, Bắc Phi mà ít được sử dụng ở châu Âu. Một số các nước khác chấp nhận dạng bảo lãnh pha trộn của hai dạng trên miễn là các bên yêu cầu và ngân hàng đồng ý phát hành. 3. Phân loại theo cách mở bảo lãnh: 3.1. Bảo lãnh trực tiếp ( Direct guarantee): Là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh cam kết thanh toán không huỷ ngang trực tiếp với người thụ hưởng không qua ngân hàng trung gian. Loại bảo lãnh này chịu sự chi phối của luật trong nước và khi hết hạn có thể trực tiếp tất toán với người bảo lãnh mà không cần hoàn trả thư bảo lãnh. Ưu điểm của loại bảo lãnh này là người được bảo lãnh không phải mất thêm phí hoa hồng cho ngân hàng đại lý nước ngoài. 17
  18. Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp: Bên xin chỉ thị bảo lãnh (2) (3) Ngân hàng Bên thụ hưởng bảo lãnh bảo lãnh (1) (1) Người được ký bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở với bên thụ hưởng trong đó quy định các điều khoản của thư bảo lãnh. (2) Bên được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh. (3) Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho bên thụ hưởng. 3.2. Bảo lãnh gián tiếp ( Indirect Guarantee): Là loại bảo lãnh mà ngân hàng uỷ nhiệm một ngân hàng thứ hai ở nước người thụ hưởng hoặc một ngân hàng trung gian khác mở tiếp bảo lãnh. Bảo lãnh này có lợi cho người thụ hưởng do họ được thuận tiện hơn trong giao dịch hoặc đòi tiền sau này. Trong quan hệ này ngân hàng thứ nhất là ngân hàng chỉ dẫn, ngân hàng thứ hai là ngân hàng phát hành. Cần lưu ý rằng chỉ ngân hàng thứ hai phát hành thư bảo lãnh trong khi ngân hàng thứ nhất chỉ hành động như ngân hàng chỉ dẫn và ngân hàng này không có bất cứ một quan hệ hợp đồng nào với người thụ hưởng. Người thụ hưởng không đòi tiền từ ngân hàng thứ nhất. Mối quan hệ giữa ngân hàng thứ nhất với ngân hàng thứ hai gần giống mối quan hệ giưã người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành trong trường hợp bảo lãnh trực tiếp. Nghĩa vụ đền bù cho ngân hàng phát hành thường được quy định trong thư bảo lãnh đối ứng mà ngân hàng thứ nhất phát hành cho ngân hàng thứ hai được thụ hưởng. Theo đó, nếu ngân hàng phát hành phải trả tiền cho người được thụ hưởng theo đúng các điều khoản của thư bảo lãnh. Ngân hàng phát hành sẽ được ngân hàng chỉ dẫn bồi hoàn và ngân hàng chỉ dẫn sẽ đòi người được bảo lãnh. 18
  19. Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp. Ngân hàngchỉ Ngân hàng dẫn phát hành (4) (2) (1) Bên yêu cầu Bên thụ hưởng bảo lãnh (1) Bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng ký kết hợp đồng cơ sở trong đó có quy định các điều khoản bảo lãnh. (2) Người được bảo lãnh chỉ dẫn ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh. (3) Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng có quan hệ đại lý với mình đóng trụ sở ở nước người thụ hưởng phát hành thư bảo lãnh kèm theo thư bảo lãnh đối ứng hoặc thư tín dụng dự phòng cho ngân hàng đại lý thụ hưởng. (4) Ngân hàng đại lý phát hành thư bảo lãnh cho bên thụ hưởng. 4. Phân loại theo nguồn hình thành Đây là cách phân loại thông dụng nhất và cách này cho biết mục đích sử dụng của từng loại bảo lãnh. Các loại hình bảo lãnh theo cách phân loại này bao gồm: 4.1. Bảo lãnh dự thầu (Bid bond/ Tender guarantee) Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với chủ thầu sẽ trả tiền thay trong phạm vi thời hạn và số tiền bảo lãnh nếu bên dự thầu vi phạm quy chế dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ số tiền phạt cho bên chủ thầu. Trong việc thực hiện các hợp đồng xây dựng hoặc cung cấp hàng hoá, đấu thầu thường được sử dụng để lựa chọn đối tác tối ưu nhất. Việc đấu thầu bao gồm các bước gọi thầu, mở thầu, tuyên bố trúng thầu. Trong hồ sơ xin dự thầu chủ thầu yêu cầu người dự thầu phải có thư bảo lãnh của ngân hàng với giá trị từ 1% -3% tổng giá trị ước tính của giá bỏ thầu nhằm xác minh khả năng của họ tham gia đấu thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là khẳng định việc tham gia đấu thầu là nghiêm túc và người dự thầu sẽ ký hợp đồng nếu trúng thầu.Việc phát hành bảo lãnh dự thầu còn bảo đảm cho chủ thầu về khả năng tài chính của người thầu. Trong trường hợp trúng thầu các hình thức bảo lãnh cho các công việc tiếp 19
  20. theo như: bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền đặt cọc sẽ được sẵn sàng. Nếu ngân hàng đồng ý bảo lãnh họ sẽ phát hành một thư bảo lãnh dự thầu. Chủ đầu tư có quyền đòi tiền theo thư bảo lãnh nếu nhà thầu không thực hiện đúng nghĩa vụ. Số tiền và thời hạn bảo lãnh được ghi trong thư bảo lãnh khớp đúng với đề nghị của bên yêu cầu bảo lãnh nhưng không trái với quy chế đấu thầu. Điều kiện để chủ thầu đòi tiền theo thư bảo lãnh dự thầu là: - Nhà thầu rút hồ sơ dự thầu trong thời gian cò hiệu lực nêu trong đơn dự thầu. - Nhà thầu, khi được chủ thầu thông báo trúng thầu trong thời gian còn hiệu lực của đơn dự thầu mà: + Không ký hợp đồng theo phần chỉ dẫn khi được chủ thầu yêu cầu hoặc : + Không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho chủ thầu. Bảo lãnh dự thầu hoàn thành chức năng và sẽ không bị đòi tiền khi các nhà thầu khác thắng thầu. Đôi khi trong thư bảo lãnh dự thầu còn quy định rằng nó phải được trả lại nhà thầu khi họ không thắng thầu. Các loại bảo lãnh dự thầu bao gồm: - Bảo lãnh dự thầu xây lắp. - Bảo lãnh dự thầu cung ứng máy móc, thiết bị, hàng hoá. 4.2. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee): Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng bảo lãnh về việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh. Trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hợp đồng mà không nộp hoặc không nộp đủ tiền phạt cho bên yêu cầu bảo lãnh thì ngân hàng bảo lãnh trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh. Đây là loại bảo lãnh được dùng phổ biến nhất và có thể không phải yêu cầu một loại bảo lãnh nào khác ngoài nó trong quá trình mua bán hàng hoá hoặc dự thầu xây dựng. Số tiền trong thư bảo lãnh thường có giá trị từ 5- 15 % giá trị hợp đồng cơ sở.Trường hợp đặc biệt trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắp số tiền này có thể hơn 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp nhận. Số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ hợp đồng. Thời hạn trong thư bảo lãnh được kéo dài đến khi hoàn thành hợp đồng như hàng hoá đã giao xong, máy móc thết bị đã được vận hành, công trình được đưa vào sử dụng; sau đó chuyển sang giai đoạn bảo hành. Các loại bảo lãnh thực hiện hợp đồng: 20
  21. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắp. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cung ứng máy móc, thiết bị, hàng hoá. 4.3. Bảo lãnh tiền ứng trước(Advanced Payment Guarantee): Bảo lãnh tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc sử dụng tiền ứng trước của nhà thầu/ Người nhập khẩu với chủ thầu/ Người xuất khẩu. Ngân hàng sẽ trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh vi phạm họp đồng ứng trước. Trong hầu hết các hợp đồng lớn, nhà xuất khẩu/ nhà thầu thường được ứng trước từ 5%- 15% giá trị hợp đồng để họ có nguồn hỗ trợ tài chính thực hiện hợp đồng, đặc biệt trong giai đoạn đầu thực hiện dự án. Đổi lại nhà nhập khẩu/ chủ đầu tư thường yêu cầu nhà thầu phải nộp một thư bảo lãnh tiền ứng trước để bảo đảm việc hoàn trả lại số tiền này trong trường hợp nhà thầu không thực hiện đúng hợp đồng. Số tiền bảo lãnh có giá trị bằng toàn bộ số tiền ứng trước của hợp đồng.Tiền bảo lãnh ứng trước sẽ được giảm dần theo các chuyến giao hàng hoăc theo tiến độ thực hiện công trình.Vì vậy trong thư bảo lãnh loại này thường có điều khoản khấu trừ quy định việc giảm số tiền bảo lãnh tối đa của thư bảo lãnh khi có bằng chứng về việc đã hoàn thành từng việc của hợp đồng cơ sở. Ví dụ thư bảo lãnh tiền ứng trước trong hợp đồng mua bán hàng hoá giảm giá trị tới không khi nhà thầu đã giao hàng xuống tầu. Thư bảo lãnh tiền ứng trước khi đó hết hiệu lực và việc hoàn thành toàn bộ giao dịch sẽ được bảo đảm bằng thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Mục đích của bảo lãnh tiền ứng trước có thể rộng hơn bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Chẳng hạn khi hai bên thoả thuận huỷ bỏ hợp đồng hay hợp đồng không được thực hiện do lý do khách quan thì thư bảo lãnh tiền ứng trước sẽ bị đòi tiền. Lý do là việc trả tiền theo thư bảo lãnh tiền ứng trước được xem như là trả lại số tiền chủ thầu đã ứng cho nhà thầu trong khi bảo lãnh thực hiện hợp đồng lại chỉ đảm bảo những tổn thất do vi phạm hợp đồng. Các loại bảo lãnh tiền ứng trước gồm: -Bảo lãnh tiền ứng trước thi công công trình. -Bảo lãnh tiền ứng trước sản xuất máy móc thiết bị. 4.4. Bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm theo hợp đồng (Maintenance Guarantee): Là loại bảo lãnh ngân hàng cam kết với chủ thầu/ Nhà nhập khẩu trong trường hợp nhà thầu/ nhà xuất khẩu vi phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm mà không bồi thường hoặc không bồi thường đủ ngân hàng sẽ trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh. 21
  22. Bảo lãnh này phát hành nhằm bảo đảm nhà thầu/ Nhà xuất khẩu sẽ sửa chữa những hỏng hóc phát sinh sau khi giao hàng, bàn giao công trình hoặc bồi thường do hàng hoá thiếu hụt, phẩm chất kém. Loại bảo lãnh này có hiệu lực trong thời gian bảo hành sản phẩm. Số tiền bảo lãnh thấp hơn nhiều so với bảo lãnh thực hiện hợp đồng thường từ 2% -5% giá trị hợp đồng. Các loại bảo lãnh chất lượng sản phẩm: - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng công trình. - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng máy móc thiết bị và hàng hóa. Bảo lãnh bảo hành chất lượng công trình được sử dụng nhiều trong hợp đồng xây lắp. Bảo lãnh nhằm thuyết phục chủ đầu tư giải toả lần thanh toán cuối cùng mà chủ đầu tư thường giữ lại để nhằm bảo đảm nhà thầu sẽ sửa chữa những hỏng hóc có thể xảy ra trong thời gian bảo hành công trình. 4.5. Bảo lãnh bảo đảm thanh toán(Payment Guarantee): Đây cam kết của ngân hàng với bên thụ hưởng về việc thanh toán tiền đúng theo hợp đồng cơ sở của người được bảo lãnh. Trong truờng hợp người được bảo lãnh không hoặc không thanh toán đủ số tiền theo hợp đồng thì ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả thay cho người được bảo lãnh. Bảo lãnh bảo đảm thanh toán nhằm mục đích tránh tổn thất cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán hoặc không thanh toán đủ số tiền theo đúng hợp đồng. Số tiền và thời hạn bảo lãnh phù hợp với số tiền và thời hạn thanh toán trong hợp đồng cơ sở. Các loại bảo lãnh thanh toán: - Bảo lãnh thanh toán tiền xây lắp công trình. - Bảo lãnh thanh toán tiền lắp đặt máy móc thiết bị. 4.6. Bảo lãnh hoàn trả vốn vay(Repaymnet Guarantee): Bảo lãnh hoàn trả vốn vay của ngân hàng là cam kết của ngân hàng sẽ trả thay nợ vay (Gốc và lãi) nếu bên đi vay không trả đủ hoặc đúng hạn nợ vay. Việc bảo lãnh này nói chung khá phức tạp, số tiền bảo lãnh thường lớn do vậy rủi ro của ngân hàng bảo lãnh là rất cao. Ngân hàng phải xem xét tính khả thi của dự án, tài sản thế chấp và tư cách người vay để quyết định bảo lãnh bởi chính ngân hàng là người có trách nhiệm trả tiền khi người vay không có khả năng hoàn trả các khoản nợ đến hạn. Số tiền và thời hạn bảo lãnh là số tiền, thời hạn ghi trong thư bảo lãnh theo đề nghị của bên đi vay phù hợp với hợp đồng vay vốn. 22
  23. Ngoài hình thức phát hành thư bảo lãnh,ngân hàng có thể bảo lãnh vay vốn bằng cách mở L/C trả chậm, ký bảo lãnh trên các hối phiếu và giấy nhận nợ theo yêu cầu của người được bảo lãnh. 5. Các loại bảo lãnh khác: 5.1. Thư tín dụng dự phòng(Stand-by L/C): Thư tín dụng dự phòng thường được sử dụng với mục đích tương tự như bảo lãnh thanh toán nhằm bảo đảm an toàn thanh toán trong trường hợp bên được bảo lãnh có thể không thực hiện hợp đồng cam kết. Loại thư tín dụng này thường được sử dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế. Người nhập khẩu thường phải cung cấp tín dụng cho người xuất khẩu dưới dạng tiền đặt cọc, ký quỹ, ứng trước, mở L/C Các khoản này chiếm tới 10-15 % tổng giá trị đơn đặt hàng. Vì vậy cần có bảo lãnh bảo đảm trả lại số tiền đó nếu bên xuất khẩu không thực hiện đúng nghĩa vụ giao hàng. Để hiểu cách thức của một thư tín dụng dự phòng hãy so sánh nó với một thư tín dụng thông thường. Thư tín dụng dự phòng khác với một thư tín dụng thông thường ở những điểm sau: - Người làm đơn mở là người xuất khẩu và ngân hàng bên xuất khẩu sẽ phát hành thư bảo lãnh. - Người thụ hưởng là người nhập khẩu trong khi người thụ hưởng của thư tín dụng thông thường là người xuất khẩu. - Thư tín dụng dự phòng là một phương tiện bảo lãnh trong khi thư tín dụng thông thường là một phương tiện thanh toán. Loại thư tín dụng này được quy định trong điều lệ thống nhất và thực hành về thư tín dụng UCP 500 của Phòng Thương Mại Quốc Tế năm 1993. Thư tín dụng dự phòng được áp dụng trong những trường hợp sau: - Mua bán máy móc và thiết bị toàn bộ. - Mua bán nguyên vật liệu với khối lượng lớn, thời hạn dài. - Mua bán đổi hàng, mua bán đối ứng, mua bán lại. 5.2. Bảo lãnh vận đơn(Bill Loading Guarantee): Mục đích của bảo lãnh vận đơn nhằm bảo vệ người có quyền lợi chính đáng trước sự lợi dụng vận đơn. Số tiền bảo lãnh từ 100%-150% trị giá hàng hoá để có thể bù đắp những thiệt hại phát sinh, thường cho tới khi chủ hàng có hàng mới. Có hai loại bảo lãnh vận đơn: - Bảo lãnh vận đơn người xuất khẩu là người đề nghị phát hành: Trong trường hợp này ngân hàng cam kết với người nhập khẩu bồi thường mọi 23
  24. thiệt hại có thể phát sinh đối với họ nếu vận đơn gốc không được xuất trình hoặc xuất trình hoặc xuất trình không kịp thời. - Bảo lãnh vận đơn người nhập khẩu là người đề nghị phát hành: Ngân hàng cam kết với người chủ vận tải sẽ bồi thường mọi khoản thiệt hại nếu hàng hoá được giao cho một người không có quyền nhận hàng, do chứng từ thất lạc, đến chậm hơn tàu hoặc chủ hàng vận tải được uỷ nhiệm nhận hàng không có chứng từ để sử dụng. 5.3. Bảo lãnh thuế quan (Custom Guarantee): Mục đích của bảo lãnh này là đảm bảo cho người có trách nhiệm nộp thuế trước những đòi hỏi của cơ quan thuế quan do chưa được thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, như trong trường hợp nhập hàng tạm thời để tham gia hội chợ, nhập máy móc công cụ để lắp ráp công trình xây dựng. Giá trị bảo lãnh do cơ quan thuế quan ấn định trong từng trong từng trường hợp cụ thể. Thời hạn bảo lãnh cho đến khi hoàn tất nghĩa vụ nộp thuế. 5.4. Bảo lãnh sai sót trong chứng từ nhờ thu: Theo đề nghị của nhà xuất khẩu ngân hàng cam kết với người nhập khẩu bù đắp những thiệt hại phát sinh trong phương thức thanh toán nhờ thu do việc xuất trình chứng từ không phù hợp với những điều khoản của hợp đồng mua bán hoặc số lượng chứng từ thiếu không được gửi tiếp theo. 5.5. Bảo lãnh hối phiếu( Draft Guarantee): Đây là cam kết của ngân hàng trả tiền cho bên thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn trả tiền mà bên được bảo lãnh không thực hiện đúng các trách nhiệm tài chính như đã quy định. Với hình thức bảo lãnh này phải ghi rõ nội dung và kèm theo chữ ký của đại diện bên đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng chịu trách nhiệm đến mức như trách nhiệm của người được bảo lãnh đối với bên thụ hưởng trừ khi ngân hàng đã quy định trên hối phiếu. 5.6. Bảo lãnh phát hành chứng khoán(Underwriting Guarantee) : Là việc ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho việc phát hành cổ phiếu của một công ty thường chưa có uy tín, tiếng tăm trên thị trường. Với loại bảo lãnh này trách nhiệm của ngân hàng là phải thanh toán đủ mệnh giá B. Một số mô hình bảo lãnh thường gặp trong thực tế: Trong thực tế có trường hợp không chỉ có một ngân hàng đứng ra bảo lãnh. Do yêu cầu phân chia rủi ro mà nhiều ngân hàng cùng tham gia bảo lãnh. Căn cứ vào số ngân hàng tham gia bảo lãnh có thể chia ra hai mô hình bảo lãnh: Một ngân hàng bảo lãnh và nhiều ngân hàng bảo lãnh. 24
  25. Trong mô hình nhiều ngân hàng bảo lãnh lại bao gồm: mô hình đồng bảo lãnh và mô hình tái bảo lãnh. 1. Mô hình một ngân hàng bảo lãnh : Giống như trường hợp bảo lãnh trực tiếp ở trên. 2. Mô hình nhiều ngân hàng bảo lãnh: 2.2.Mô hình đồng bảo lãnh: Khi ngân hàng thấy mức độ rủi ro lớn của món bảo lãnh hoặc do giới hạn của luật định mà muốn khách hàng được bảo lãnh nhiều hơn có thể nó sẽ mời thêm các ngân hàng khách cùng tham gia bảo lãnh.Đây là trường hợp nhiều ngân hàng cùng bảo lãnh cho một khách hàng với quyền hạn trách nhiệm như nhau hoặc phân theo một tỷ lệ nhất định. Mô hình đồng bảo lãnh: NHBLA (1) Bên được BL NHBLB (2) (3) (4) Bên thụ hưởng (5) NHBLC (1). Bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng ký kết hợp đồng cơ sở. (2). Các ngân hàng bảo lãnh cho bên được bảo lãnh. (3). Bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng (4). Bên thụ hưởng yêu cầu các ngân hàng thực hiện nghĩa vụ (5). Các ngân hàng thực hiện phần nghĩa vụ của mình. 2.2. Mô hình tái bảo lãnh Trong trường hợp người yêu cầu bảo lãnh không thực sự tin tưởng vào ngân hàng bảo lãnh hoặc ngân hàng bảo lãnh muốn chia sẽ bớt rủi ro các bên có thể tiến hành theo mô hình tái bảo lãnh như sau: Mô hình tái bảo lãnh : (2) Ngân hàng bảo Bên được bảo lãnh chính lãnh (6) (3) (1) Ngân hàng tái (5) bảo lãnh (4) Bên yêu cầu bảo lãnh 25
  26. Giải thích: (1) Bên được bảo lãnh và bên yêu cầu bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở. (2) Ngân hàng bảo lãnh chính phát hành thư bảo lãnh (3) Bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. (4) Ngân hàng bảo lãnh chính không trực tiếp thanh toán. (5) Ngân hàng tái bảo lãnh thanh toán cho ngươì thụ hưởng bảo lãnh (6) Ngân hàng tái bảo lãnh đòi tiên ngân hàng bảo lãnh chính. Theo cách bảo lãnh này ngân hàng bảo lãnh chính sẽ phải san sẻ một phần phí cho ngân hàng tái bảo lãnh . III. Bảo lãnh ngân hàng trong nền kinh tế: 1. Rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, có một số quan điểm cho rằng thực hiện bảo lãnh gặp rất ít rủi ro Vì tiền của ngân hàng không ra khỏi ngân hàng mà chỉ phát hành mỗi thư bảo lãnh. Trong phần này chúng ta thử phân tích xem nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng có rủi ro không và mưcs độ rủi ro như thế nào. 1.1. Khái niệm chung về rủi ro : Quan niệm chung nhất về rủi ro đó là những sự vật hiện tượng nằm ngoài ý muốn của con người và gây ra bất lợi cho con người. Trong kinh doanh, mối nguy cơ bị rủi ro là lớn nhất vì các nhà kinh doanh không những phải gánh chịu nhữnh rủi ro chung như thiên tai, hoả hoạn mà còn chịu rủi ro về thay đổi giá cả, sản phẩm ứ đọng, nợ nần dây dưa, thua lỗ Rủi ro trong kinh doanh được định nghĩa là sự xuất hiện một biến cố không mong đợi gây ra mất mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập trong quá trình kinh doanh. Người ta phân loại rủi ro thành rủi ro động và rủi ro tĩnh : - Rủi ro động là khi giá trị của sản phẩm hoặc dịch vụ bị suy giảm do kết quả quá trình vận động của nền kinh tế ( như sự thay đổi về cung cầu, giá cả, năng suất ). Rủi ro động có thể ảnh hưởng đến hầu hết hoặc tất cả các doanh nghiệp trong một thời điểm. - Rủi ro tĩnh là khi tài sản bị huỷ hoại về vật chất (do hoả hoạn, lụt lội ) hoặc tài sản sở hữu bị chuyển giao cho người khác do hành vi giả mạo của các cá nhân( như ăn cắp, lừa đảo ). Rủi ro tĩnh thường chỉ ảnh hưởng đến tài sản trong mỗi trường hợp riêng biệt nào đó. 1.2.Các loại rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng 26
  27. 1.2.1.Mọi rủi ro của doanh nghiệp được bảo lãnh là rủi ro của ngân hàng: Nguyên nhân gây ra rủi ro trong kinh doanh rất đa dạng. Ngoài những rủi ro chung như thiên tai, hoả hoạn còn có những nguyên nhân như thiếu thông tin, lạm phát, các chính sách không ổn định trong đó đặc biệt là chính sách thuế, tình hình chính trị không ổn định Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng đã khẳng định bảo lãnh cam kết của ngân hàng chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh. Như vậy có thể kết luận rằng mọi rủi ro của các doanh nghiệp được bảo lãnh dẫn tới doanh nghiệp này có thể không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với bên yêu cầu bảo lãnh cũng sẽ là rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. 1.2.2. Rủi ro tín dụng: Trong bảo lãnh ngân hàng có loại bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay. Tuy không phát tiền vay nhưng về thực chất mức độ trách nhiệm, nghĩa vụ ngân hàng trong nghiệp vụ này cũng tương đương như nghiệp vụ tín dụng. Hoạt động bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay đặt ngân hàng trước cùng một rủi ro như rủi ro của các món cho vay trực tiếp. Rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất trong kinh doanh của ngân hàng thương mại. Nguyên nhân của rủi ro này là người vay cố tình dây dưa không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ. Người vay tạm thơì có khó khăn về ngân quỹ hoặc do kinh doanh không có hiệu quả hoặc bị rủi ro. 1.2.3.Rủi ro về lãi suất: Rủi ro về lãi suất trong bảo lãnh ngân hàng được thể hiện dưới nhiều dạng: Trong nền kinh tế thị trường lãi suất huy động vốn luôn biến động trong khi mức phí bảo lãnh đã được xác định cố định trong suốt thời gian hiệu lực của bảo lãnh dẫn tới có khả năng rủi ro lãi suất trong trường hợp lãi suất bình quân đầu vào tăng. 1.2.4. Rủi ro hối đoái : Tỷ giá hối đoái là quan hệ về giá trị giữa hai đồng tiền, hay nó là giá cả của đơn vị tiền tệ này được thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ khác. Tỷ giá luôn biến động nên ngoài các rủi ro thông thường, bảo lãnh bằng ngoại tệ còn có rủi ro hối đoái. 1.2.5.Rủi ro mất khả năng thanh toán : Căn cứ vào tỷ lệ trích quỹ bảolãnh là 5% giá trị bảo lãnh, nếu rủi ro thực tế lớn hơn 5% giá trị bảo lãnh thì khả năng thanh toán trong nghiệp 27
  28. vụ bao lãnh sẽ không bảo đảm, gây tác động xấu đối với khả năng thanh toán chung của ngân hàng. Ngược lại khi khả năng thanh toán chung của ngân hàng không đảm bảo khả năng thanh toán trong bảo lãnh cũng bị ảnh hưởng. 1.3. Mức độ rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng: Như đã phân tích ở trên, thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cũng luôn đối mặt với rủi ro. Để đánh giá rủi ro trong các món bảo lãnh chúng ta hãy tìm hiểu mức độ rủi ro của các tài sản có của ngân hàng. Người ta phân chia tài sản có của ngân hàng ra thành 7 loại. Mỗi loại có một hệ số rủi ro khác nhau phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của từng loại đó. Cụ thể là: - Loại có hệ số rủi ro bằng 0% : Đó là tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHTƯ, tiền cho chính phủ vay, các khoản vay có thế chấp bằng tiền. - Loại có hệ số rủi ro bằng 10% : Đó là : +Tiền mặt ngoại tệ tại quỹ + Tín dụng có bảo lãnh của NHNN và của chính phủ. + Tín dụng có thế chấp bằng ngoại tệ. - Loại có hệ số rủi ro bằng 20% : + Tín dụng có thế chấp bằng vàng bạc, đá quý. + Các loại trái phiếu giữ tại ngân hàng + Các khoản tiền mặt trong quá trình thu. - Loại có hệ số rủi ro bằng 40% : + Cho vay các tổ chức tín dụng + Tín dụng bảo lãnh bởi các tổ chức tín dụng khác + Tín dụng có thế chấp bằng hàng hoá - Loại có hệ số rủi ro bằng 50%: + Tín dụng có thế chấp bằng động sản và bất động sản : + Hùn vốn, liên doanh, liên kết + Các tài sản của ngân hàng - Loại có hệ số rủi ro bằng 100% : Các khoản tín dụng tư nhân và các thành phần khác nhau không có thế chấp. Để xác định được mức độ rủi ro của các loại bảo lãnh chúng ta cũng xử lý theo một cách tương tự bằng cách ấn định cho mỗi loại bảo lãnh một loại tín dụng tương đương và ta sẽ có các hệ số rủi ro tương đương phản ánhmức đọ rủi ro của các loại bảo lãnh. Như vậy ta sẽ có hệ số rủi ro của loại ký quỹ 100% bằng đồng tiền bảo lãnh là 0 %. Hệ số này tăng dần lên đến 50% cho loại bảo lãnh có thế chấp bằng động sản và bất động sản và hệ số này đạt 100% cho loại bảo lãnh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có thế chấp. 2. Vai trò của bảo lãnh trong nền kinh tế: 28
  29. Trong phần I chúng ta đã đề cập tới ba chức năng của bảo lãnh. Đây chính là công dụng của bảo lãnh. Nếu xét riêng rẽ, các chủ thể trong bảo lãnh có động cơ tham gia và được hưởng lợi ích khác nhau từ dịch vụ này. Như vậy bảo lãnh có vai trò khác nhau với các bên tham gia. Nếu xét cả người yêu cầu bảo lãnh và người được bảo lãnh dưới giác độ một doanh nghiệp thì vai trò của bảo lãnh với các đối tượng khác như sau: 2.1. Vai trò của bảo lãnh với doanh nghiệp: Ta hãy xem tại sao một doanh nghiệp lại cần tới ngân hàng xin bảo lãnh. Thứ nhất, như đã trình bày ở trên, trong quan hệ kinh tế không phải lúc nào các đối tác cũng đủ tin tưởng nhau. Để an toàn và nhanh chóng, một bên thường yêu cầu bên kia có công cụ của bảo lãnh ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng đôi khi là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp để tiếp cận tới hợp đồng. Thứ hai, sử dụng bảo lãnh ngân hàng giúp doanh nghiệp tiết kiệm được khoản vốn đáng kể, có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động,doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản phí bảo lãnh tương đối thấp. Thứ ba, bảo lãnh còn làm doanh nghiệp tăng thêm uy tín với các đối tác do được uy tín của ngân hàng đứng ra bảo đảm. 2.2. Vai trò của bảo lãnh với ngân hàng: Bảo lãnh là một hình thức dịch vụ ngân hàng cung ứng cho nền kinh tế. Lợi ích trực tiếp của bảo lãnh đó là sự đóng góp của phí bảo lãnh với lợi nhuận ngân hàng. Phí bảo lãnh được tính theo công thức: Phí bảo lãnh = Tỷ lệ phí(%) * giá trị bảo lãnh*Thời gian bảo lãnh Phí bảo lãnh chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng phí dịch vụ các ngân hàng hiện đại. Một ưu điểm trong bảo lãnh là ngân hàng không phải xuất vốn ra ngay do vậy chưa phải sử dụng vốn của mình, không phải trả chi phí huy động và không phải mất chi phí cơ hội cho cho mục đích kinh doanh khác. Không những đóng góp vào lợi nhuận, bảo lãnh làm đa dạng hoá các loại hình dịch vụ nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung làm giảm sự phụ thuộc vào tín dụng. Mà tăng tỷ trọng thu từ dịch vụ là xu hướng phát triển của các ngân hàng hiện đại ngày nay. Ngoài ra thực hiện bảo lãnh giúp ngân hàng thực hiện chính sách khách hàng. Một mặt đáp ứng nhu cầu và gắn bó hơn với khách hàng truyền thống, mặt khác thu hút được các khách hàng mới. Điều này làm lợi cho ngân hàng không chỉ về mặt thu phí bảo lãnh mà còn thúc đẩy các 29
  30. hoạt động khác của ngân hàng như huy động vốn, thanh toán và tín dụng phát triển Sự hỗ trợ của bảo lãnh và và các hoạt động khác của ngân hàng thể hiện ở chỗ chúng tác động lẫn nhau trong việc cung cấp thông tin về khách hàng, thực hiện chính sách khách hàng và cùng làm tăng uy tín ngân hàng. Chẳng hạn việc thu hút thêm khách hàng bảo lãnh cũng có nghĩa là ngân hàng có thể thu được một khoản tiền gửi từ việc thực hiện , thanh toán công trình và tăng lượng tín dụng do cho vay thêm với khách hàng. Và một ngân hàng với các hoạt động khác phát triển sẽ tạo uy tín cho khách hàng tới bảo lãnh. Cuối cùng, bảo lãng nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng đặc biệt là trên trường quốc tế. Thông qua bảo lãnh ngoài nước, ngân hàng mở rộng quan hệ đối ngoại của mình. Bảo lãnh thành công, ngân hàng tạo được thế mạnh và uy tín ,giúp ngân hàng tăng bạn hàng và lợi nhuận. 2.3. Vai trò của bảo lãnh với nền kinh tế: Bảo lãnh là loại hình dịch vụ ngân hàng tồn tại khách quan đáp ứng cho nhu cầu một nền kinh tế ngày càng phát triển. Sự khách quan này chính là do vai trò to lớn của nó với nền kinh tế được xét dưới các mặt sau: - Bảo lãnh ngân hàng có vai trò như một chất xúc tác làm điều hoà và xúc tiến hàng loạt các quan hệ hợp đồng trong nền kinh tế. Nhờ có bảo lãnh các bên yên tâm tham gia ký kết hợp đồng và có trách nhiệm với các nghĩa vụ đã ký kết. Bảo lãnh đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia và như vậy là mang lợi cho nền kinh tế nói chung. - Bảo lãnh có vai trò quan trọng trong thu hút vốn cho sản xuất kinh trong và ngoài nước. Đối với những nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá như nước ta hiện nay vốn vô cùng cần thiết ví như chất “dầu nhờn” bôi trơn cỗ máy doanh nghiệp.Nhưng hầu hết các doanh nghiệp chưa đủ uy tín, tin tưởng cho các đối tác cho vay nước ngoài.Nhờ có uy tín ngân hàng, bảo lãnh được sử dụng như công cụ tiếp cận tới các nguồn vốn.Do vậy bảo lãnh giúp thu hút một lượng lớn vốn nước ngoài thường có thời hạn dài và lãi xuất tương đối thấp. Nguồn vốn này thường tập trung cho sản xuất tạo điều kiện cho doanh nghiệp mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu thi trường. Sản xuất phát triển kéo theo lợi ích kinh tế xã hội như:giảm thất nghệp, tăng tổng sản phẩm quốc dân, tăng vị thế hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. - Bảo lãnh tác động đến chiến lược phát triển của nền kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng thúc đẩy các ngành kinh tế mũi nhọn và các khu vực trọng 30
  31. điểm phát triển. Chính sách bảo lãnh của ngân hàng như: ưu tiên bảo lãnh vay vốn và các bảo lãnh khác làm ngành được ưu đãi phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu. Ngoài ra bảo lãnh ngân hàng còn là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển qua việc ưu đãi về tỷ lệ phí bảo lãnh bảo đảm cho họ có thể vay được nguồn vốn với lãi xuất thấp. Từ đó bảo đảm cho các doanh nghiệp này có khả năng đứng vững trên thị trường. -Bảo lãnh ngân hàng đảm bảo sự lành mạnh trong kinh doanh. Nhờ bảo lãnh ngân hàng, các doanh nghiệp yên tâm hơn khi thực hiện hợp đồng và hơn nữa thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện đúng hợp đồng một cách nhanh chóng,trên cơ sở đó giảm các rủi ro vơi doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. - Bảo lãnh ngân hàng tác động tới việc tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh và các xí nghiệp quốc doanh. - Cuối cùng, bảo lãnh ngân hàng góp phần tăng cường mối quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia. 3. Các nhân tố tác động tới nghiệp vụ bảo lãnh của một ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng là nghiệp vụ do các ngân hàng tiến hành cho khách hàng và nó chịu ảnh hưởng của các yếu tố trong môi tường kinh tế xã hội cũng như trong môi trường luật pháp. Ba nhân tố ngân hàng , khách hàng, môi trường thực hiện tác động lẫn nhau ảnh hưởng tới hoạt động bảo lãnh. 3.1. Nhân tố môi trường: Môi truờng là nhân tố khách quan tác động tới hoạt động bảo lãnh của một ngân hàng. Nhân tố môi trường ở đây bao gồm cả môi trường luật pháp và môi trường kinh tế. Luật pháp là một bộ phận không thể thiếu của một nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước. Không có luật pháp hoặc luật pháp không phù hợp thì hoạt động của nền kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn. Pháp luật tạo môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và có hiệu quả, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại. Do vậy nhân tố pháp luật có vai trò rất lớn với các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Khi hệ thống pháp luật không đồng bộ, không phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, của nghiệp vụ bảo lãnh, các văn bản dưới luật bị mâu thuẫn nhau, khách hàng và ngân hàng nhiều khi không thể thực hiện đúng được. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh. 31
  32. Môi trường kinh tế cũng tác động tới bảo lãnh theo hai chiều. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho các khách hàng của ngân hàng trong quá trình kinh doanh. Khi đó các doanh nghiệp không phải đối phó với các biến động bất ngờ, làm ăn có hiệu quả, có khả năng chiếm lĩnh thị trường và đặc biệt có khả năng thực hiện đúng các nghĩa vụ hợp đồng đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh Nó sẽ tránh được các rủi ro trong kinh doanh cho cả ngân hàng và khách hàng. Còn khi tình hình kinh tế tài chính bất ổn, các doanh nghiệp phải hứng chịu tình hình ngược lại và như vậy các thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh khó được thực hiện. Tình hình này làm tăng khả năng ngân hàng phải trả thay cho khách hàng. 3.2. Nhân tố khách hàng. Khách hàng là nhân tố tác động tương đối nhiều tới hoạt động bảo lãnh của ngân hàng bởi chính ngân hàng tiến hành hoạt động này là để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Khách hàng tác động tới cả quy mô và chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. Quy mô bảo lãnh của ngân hàng phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng, không có nhu cầu của khách hàng thì không có nghiệp vụ bảo lãnh. Còn nếu khách hàng xin bảo lãnh làm tốt các yêu cầu của ngân hàng như cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, có trách nhiệm trong việc thực hiện những cam kết đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh sẽ giúp ngân hàng rất nhiều trong tiến hành bảo lãnh. 3.3. Ngân hàng bảo lãnh: Đây là nhân tố chủ quan mang tính chất quyết định tác động tới bảo lãnh và bao gồm các yếu tố của ngân hàng liên quan tới hoạt động bảo lãnh. Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng có phát triển tốt hay không phụ thuộc vào điều kiện cũng như cách thức tổ chức và tiến hành bảo lãnh, tức là các chính sách của ngân hàng trong việc thực hiện bảo lãnh. Luật pháp chỉ là khung xương cho ngân hàng tiến hành bảo lãnh còn vận dụng có sát thực hợp lý hay không là tuỳ thuộc các ngân hàng. Các yếu tố ảnh hưởng tới bảo lãnh ngân hàng như trình độ cán bộ, công tác điều hành quản trị, quy trình bảo lãnh, công nghệ ngân hàng và sự thu thập sử lý thông tin 32
  33. Chương 2 Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội Các vấn đề trong chương: - Giới thiệu chung về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. - Các quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng . - Những vấn đề tồn tại và khó khăn. 33
  34. I. Giới thiệu vài nét về chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 1. Giới thiệu chung về chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội được thành lập ngày 27/5/1957 là một trong những chi nhánh lớn trong tổng số 61 chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh, thành phố của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.Các mốc phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng là các mốc phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Ngày 26/4/1957 Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, tiền thân của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, được thành lập trực thuộc Bộ Tài chính đã đánh dấu một bước đổi mới đầu tiên trong cơ chế quản lý vốn đầu tư của Nhà nước. Thời kỳ quản lý vốn theo kiểu thực thanh, thực chi đã chấm dứt và chuyển sang thực hiện đầu tư có trình tự, thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành theo kế hoạch Nhà nước. Ngân hàng chỉ thực hiện cho vay ngắn hạn trong phạm vi còn rất nhỏ hẹp do chính phủ duyệt. Ngày 24/6/1981, Chính phủ ra quyết định 259-CP chuyển Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam sang Ngân hàng Nhà nước và đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam với các nhiệm vụ mới: - Cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản các công trình không thuộc ngân sách Nhà nước cấp hoặc vốn tự có không đủ song song với cấp vốn thanh toán các công trình thuộc Ngân sách Nhà nước. - Cho vay vốn lưu động với các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản . Trong thời kỳ này tín dụng đã bắt đầu phát triển song còn nhỏ bé. Ngân hàng phục vụ mục tiêu chính trị là chủ yếu, chưa chuyển sang kinh doanh thực sự. Từ 11/4/1990 Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và được đổi mới căn bản toàn diện, hoạt động tiền tệ tín dụng, thực hiện kinh doanh theo mô hình kinh doanh đa năng tổng hợp. Theo quyết định số 293/QĐ- NH 9 ngày 18/11/1994 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thì “Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được phép thực hiện các hoạt động của ngân hàng thương mại quy định tại pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính và theo điều lệ mới của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt” 34
  35. Từ năm 1995, lĩnh vực cấp phát vốn đầu tư chuyển nhiệm vụ cấp phát sang Tổng Cục Đầu tư và Phát triển và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được tổ chức theo mô hình tổng công ty Nhà nước. Năm 1995 là một năm hết sức khó khăn cho cả hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nhưng cũng chính là một năm đáng tự hào của ngân hàng. Bước sang kinh doanh thương mại trong điều kiện gần như toàn bộ nguồn vốn giành cho đầu tư phát triển đã chuyển sang cục đầu tư , ngân hàng đã đứng vững và đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong các năm 1996,1997,1998. Sự chuyển biến của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội nói riêng thể hiện sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo xu hướng phù hợp với các hệ thống ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Đó là xu hướng phá vỡ dần bức tường ngăn cách của kinh doanh theo lĩnh vực chuyên doanh, đa năng hoá hoạt động ngân hàng và giảm bớt vai trò của một ngân hàng chính sách trong nền kinh tế. * Các nghiệp vụ chủ yếu Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đang thực hiện là: - Huy động vốn từ các nguồn tiền gửi các tổ chức kinh tế và tiết kiệm của dân cư. - Nguồn vốn ODA, nguồn SWIT - Kinh doanh tín dụng: cho vay phục vụ đầu tư phát triển theo kế hoạch nhà nước, cho vay ngắn hạn các thành phần kinh tế. - Thanh toán quốc tế về kinh doanh ngoại tệ. + Thanh toán quốc tế: Làm dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế. Qua Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh Hà Nội có quan hệ với các Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh trên địa bàn để đồng tài trợ. + Kinh doanh ngoại tệ: Việc mua bán ngoại tệ chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp giao dịch thường xuyên tại chi nhánh. Tỷ giá mua bán tuân thủ giá của ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. - Nghiệp vụ bảo lãnh: + Bảo lãnh dự thầu(trong xây dựng cơ bản). + Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. + Bảo lãnh tiền ứng trước. + Bảo lãnh chất lượng hợp đồng. + Bảo lãnh nước ngoài mở L/C trả chậm và vay thương mại cho doanh nghiệp. 35
  36. - Nghiệp vụ kế toán, ngân quỹ: Chi nhánh bắt đầu thực hiện thanh toán tập chung nên tốc độ thanh toán còn 1-2 giờ ( bằng 1/15 thời gian so với trước). Thời gian thanh toán bù trừ với các đơn vị trong địa bàn tỉnh, thành phố chỉ trong vòng một ngày. Chính vì vậy doanh số thanh toán năm 1997 trên 8000 tỷ đồng tăng 20%so với năm 1996. Số lượng khách hàng cá nhân chuyển tiền qua ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội ngày càng đông thu phí dịch vụ đáng kể. *Về mô hình tổ chức của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội có Hội sở chính tại số 4B Lê Thánh Tông và 4 chi nhánh trực thuộc các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm, Thanh Trì và hai phòng giao dịch tại 106 Trần Hưng Đạo-Hà Nội và phòng giao dịch Sông Lừ. a. Tại hội sở chính bao gồm - Ban giám đốc: 1 Giám Đốc và bốn Phó Giám đốc. - 12 phòng có thể tạm chia làm hai khối. *Khối trực tiếp kinh doanh: 1- Phòng nguồn vốn kinh doanh: nhiệm vụ chuy yếu là đề ra chỉ tiêubiện pháp huy động vốn và sử dụng vốn. 2- Phòng tín dụng một: Cho vay khối kinh tế TƯ (ngành xây dựng,giao thông ). 3- Phòng tín dụng 2: Cho vay kinh tế địa phương (Hà Nội). 4- Phòng tín dụng 3: Cho vay kinh tế ngoài quốc doanh. 5- Phòng tín dụng 4: Cho vay khối kinh tế TƯ (ngành công nghiệp và các ngành khác). 6- Phòng kế toán tài chính: Quản lý tài chính và thực hiện nghiệp vụ thanh toán. 7- Phòng nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại: Cho vay xuất nhập khẩu bằng đồng ngoại tệ, làm dịch vụ quốc tế. 8- Phòng thẩm định kinh tế kỹ thuật và tư vấn đầu tư. *Khối phục vụ 9- Phòng tổ chức cán bộ, lao động tiền lương và đào tạo. 10- Văn phòng: Tổng hợp và hành chính quản trị. 11- Phòng thông tin điện toán: Thực hiện công tác báo cáo thống kê và quản lý mạng vi tính phục vụ chỉ đạo điều hành. 12- Phòng tiền mặt kho quỹ: Quản lý nguồn tiền mặt và kho tiền. 13- Phòng kiểm soát: Kiểm tra nội bộ các mặt nghiệp vụ. b. Các chi nhánh 36
  37. - 4 chi nhánh trực thuộc tại Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì. Về tổ chức mỗi chi nhánh đều có ban giám đốc và các phòng. + Phòng kế toán - Hành chính. + Phòng kinh doanh. + Phòng giao dịch. - Phòng giao dịch số một (trực thuộc chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội) đặt tại 106 Trần Hưng Đạo, do mới thành lập năm 1996 nêm mới có nhiệm vụ huy động tiền gửi dân cư, hướng lâu dài có thể cho vay đơn giản, giá trị nhỏ. 2. Hoạt động kinh doanh tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội 2.1. Về tạo vốn Trải qua quá trình hoạt động công tác huy động vốn của ngân hàng có rất nhiều chuyển biến. Từ khi thành lập gần như toàn bộ nguồn vốn của ngân hàng là do Ngân sách Nhà nước cấp để làm nhiệm vụ cấp phát vốn cho các công trình. Năm 1995 đánh dấu một mốc quan trọng trong công tác huy động vốn của ngân hàng với việc bàn giao hàng trăm tỷ đồng vốn sang Cục Đầu tư. Trước đó, ngân hàng đã thử nghiệm nhiều hình thức huy động như phát hành kỳ phiếu bảo đảm theo giá vàng(1992), thử nghiệm hình thức tiền gửi tiết kiệm và cho vay làm nhà trong dân cư(1993), phát hành trái phiếu dài hạn cho đầu tư và phát triển (1994). Trong giai đoạn 1990-1994 , chi nhánh tự huy động được 55,6 tỷ đồng, tuy nhiên đây mới chỉ là nguồn vốn trung và dài hạn , chi nhánh chưa được phép huy động nguồn vốn ngắn hạn dưới một năm. Từ 1995, chi nhánh được phép huy động nguồn vốn với mọi kỳ hạn” thực hiện các hoạt động của ngân hàng thương mại” bên cạnh chức năng huy động vốn phục vụ đầu tư, phát triển. Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội theo hình thức huy động. Đơn vị Triêụ đồng. Khoản mục\Thời 31/12/94 31/12/95 31/12/96 31/12/97 31/12/98 gian I.Vay 419.395 420.306 488.050 461.893 482.476 NHĐTPTVN 206.644 444.698 609.398 873.609 1258.807 II.Nguồn NH tự 149.821 214.388 310.572 299.221 367.050 37
  38. HĐ _ _ _ _ _ 1.Tiền gửi của KH _ _ 4.781 20.374 4 2.Tiền gửi của KB 32.018 135.823 257.141 423.314 749.100 3.Tiền gửi TCTD 7 60.907 7 87.003 87.000 4.Huy động dân 24.798 33.580 36.898 43.697 55.653 cư 903.717 _ _ _ _ 5.Vay các TCTD 6.Huy động khác III.Nguồn NS cấp Tổng nguồn 1.529.75 865.044 1.097.44 1.335.501 1.741.283 6 8 Biến động so với - 57% 127% 122% 130% kỳ trước(%) Hình 1: Biểu đồ tăng trưởng nguồn vỗn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. (Trang sau) g n 3500000 ồ đ 3000000 u ệ i r 2500000 T 2000000 Tổng nguồn vốn 1500000 Nguồn tự huy động 1000000 500000 0 1995 1996 1997 1998 Năm Từ số liệu trong bảng trên ta thấy rằng: - Về tổng nguồn : Năm 1995 sau khi chuyển nguồn Ngân sách Nhà nước cấp sang Cục Đầu tư, tổng nguồn của chi nhánh là 865,044 tỷ đồng . Năm 1996, con số này đạt tới 1097,448 tỷ đồng tăng 27% so với năm trước. Năm 97,98 tỷ lệ này là 22% và 30 %. Năm 1998 tổng nguồn của chi nhánh là 1741,283 tỷ đồng vượt xa cả tổng nguồn vốn năm 1994 bao gồm cả vốn ngân sách. - Cơ cấu nguồn vốn: Năm 1994, vốn ngân sách Nhà nước cấp chiếm 59% tổng nguồn vốn, trong khi vốn chi nhánh tự huy động chỉ chiếm 13,5%. Từ năm 1995, phát huy tinh thần tự chủ thực hiện tư tưởng chủ đạo của ngành là tự lo vốn là chính, chi nhánh đã tăng cường huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế tao ra cơ cấu mới về vốn. Cụ thể nguồn vốn tự huy động của chi nhánh đã tăng từ 206,644 tỷ năm 1994 lên 38
  39. 1258,807 năm 1998 gấp 6,09 lần. Tỷ trong nguồn tự huy động của chi nhánh cuối năm 1995 là 51,2%, năm 1998 là 72,3% Chi nhánh đã sử dụng nhiều biện pháp huy động mới và tìm mọi cách khơi thông nguồn vốn trong dân cư. Trong năm 1997 và đầu năm 1999 chi nhánh đã tiến hành bán trái phiếu và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao cho. Đến nay chi nhánh không những đảm bảo cân đối vốn tại chỗ mà còn hỗ trợ các chi nhánh bạn trong cùng hệ thống và điều chuyển vốn về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 2.2. Về công tác tín dụng Bước sang cơ chế hoạt động theo cơ chế của một ngân hàng thương mại, chi nhánh đã chú trọng mở rộng cho vay ngắn hạn trên cơ sở mở rộng đối tượng và hình thức cho vay(cho vay kín, cho vay đệm ) đồng thời mở rộng thêm khách hàng có liên quan đến xây dựng cơ bản, trên cơ sở có sự chọn lọc theo đúng định hướng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Bảng 2: Cơ cấu sử dụng nguồn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội Đơn vị : Triệu đồng Khoản mục\Thời 31/12/94 31/12/9 31/12/96 31/12/97 31/12/98 gian 5 I.Nghiệp vụ cho 496.948 674.374 870.699 1050.177 1291.394 vay 121.840 314.607 441.078 494.946 642.420 1.Cho vay ngắn 126.286 116.866 99.460 149.558 166.541 hạn 248.816 240284 330.155 405.669 456.715 2.Cho vay trung _ _ 7 3 25.717 hạn 467 5539 12.493 20.852 26.184 3.Cho vay dài _ _ 4.350 4.350 4.350 hạn 206 _ 8.143 16.502 21.830 4.Cho vay TT 173.297 185.091 201.657 250.602 408.475 II.Kinh doanh 859043 _ _ _ _ khác _ _ 13.598 13.870 15.229 1.Hùn vốn KD 2.Kinh doanh NT III.Vốn đảm bảo TT IV.Vốn cấp phát V.Tài sản có 39
  40. khác Tổng nguồn 1.529.75 865.04 1.097.44 1.335.50 1.741.28 6 4 8 1 3 Biến động so với - 127% 122% 130% kỳ trước(%) 57% Khối lượng tín dụng chi nhánh thực hiện được rất lớn chiếm xấp xỉ 1/10 cả hệ thống.Tổng dư nợ tín dụng ngày 31/12/1994 là 496.949 tỷ đồng và đến năm 1998 là 1291,4 tỷ gấp 2,6 lần.Dư nợ tín dụng ngắn, trung và dài hạn đều tăng qua các năm. Về cơ cấu cho vay: Năm 1994: Trong tổng dư nợ thì dư nợ ngắn hạn chiếm 24,5%, trung hạn 25,4% và dư nợ dài hạn chiếm 50,1%. Cơ cấu tín dụng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn. Năm 1997 tỷ trọng dư nợ ngắn hạn chiếm 47% và con số nằy năm 1998 là 50%. Công tác tín dụng của chi nhánh đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Với nhiều biện pháp tích cực linh hoạt và việc sử dụng chính sách lãi suất mềm dẻo chi nhánh không những đáp ứng cho nhu cầu vốn trung dài hạn cho đầu tư và phát triển mà còn phục vụ lượng lớn nhu cầu vốn ngắn hạn. Đặc biệt tỷ lệ nợ quá hạn thấp chỉ là 1.9% năm 1998. II. Các quy chế chấp hành trong thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 1. Quy định chung 1.1Các văn bản quy định: Từ khi ra đời việc thực thi hoạt động tại chi nhánh ngân hàng dựa trên cơ sở khung pháp lý các quy định quy chế sau: - Quyết định số 23/QĐ-NH14 ngày 29/2/1994 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành kèm theo quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài . - Quyết định số 196/QD-NH14 ngày 16/9/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng. - Công văn 39 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ngày 4/2/1995 hướng dẫn về việc thực hiện quy chế nghiệp vụ bảo lãnh theo quyết định số 196/QĐ-NH14. 40
  41. - Quyết định số 162/QĐ-NH14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về sửa đổi một số điều trong quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng kèm theo quyết định 196/QĐ-NH14. - Công văn 143 của chi nhánh ngày 20/4/1995 của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. - Nghị định số 42/CP ngày 16/7/1996 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng. - Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo quy chế đấu thầu. - Quy chế bảo hành công trình xây dựng số 499/BXD/GĐ ngày 18/9/1996 của Bộ xây dựng. - Quyết định số 632/QĐ-VP1 ngày 18/6/97 về việc uỷ nhiệm xét duyệt cho vay bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. - Quyết định số 263/QĐ-NH14 ngày 19/9/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành về việc sửa đổi một số điều của quy chế ban hành và tái bảo lãnh trong quyết định số 23/QĐ-NH14. - Công văn số 562/CV-BL ngày 09/04/1998 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về việc áp dụng bảo lãnh với hình thức bảo đảm bằng hợp đồng chỉ định chuyển tiền về tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng hoặc bảo lãnh của tổng công ty kết hợp với việc có ký quỹ một phần. - Văn bản số 2538 CV-BL ngày 27/11/1998 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chỉ đạo một số vấn đề về nghiệp vụ bảo lãnh. - Các văn bản khác có liên quan 2. Một số quy định Trong các văn bản trên thì quyết định 196 QĐ/NH14 về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng và công văn số 39 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hướng dẫn thực hiện quy chế là hai văn bản quan trọng nhất tạo khung pháp lý cho hoạt động bảo lãnh chi nhánh. Sau đây là nội dung chính của các văn bản này: 2.1.Phạm vi bảo lãnh: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tổ chức các loại bảo lãnh sau: - Bảo lãnh dự thầu. - Bảo lãnh htực hiện hợp đồng. - Bảo lãnh đảm bảo chất lượng theo hợp đồng. - Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước. - Bảo lãnh bảo dảm thanh toán. - Bảo lãnh hoàn trả vốn vay. 41
  42. Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh bảo lãnh trong phạm vi quỹ bảo lãnh của chi nhánh cho 4 trong 6 loại bảo lãnh trên trừ bảo lãnh đảm bảo thanh toán và bảo lãnh hoàn trả vốn vay. 2.2.Điều kiện được bảo lãnh. Doanh nghiệp được bảo lãnh phải có đủ các điều kiện sau: - Có tư cách pháp nhân, hoạt động theo luật pháp hiện hành của Việt Nam. - Có hợp đồng liên quan đến bảo lãnh. - Có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng thanh toán. Có giấy phép xuất nhập khẩu nếu hoạt động xuất nhập khẩu liên quan đến bảo lãnh. - Không có nợ quá hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. - Có đủ tài sản thế chấp hợp pháp cho bảo lãnh. Điều kiện cụ thể được hướng dẫn như sau: 2.2.1 Bảo lãnh để tham gia dự thầu xây lắp, thực hiện hợp đồng thi công, bảo lãnh chất lượng công trình: Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề xây dựng theo đúng nghề nghiệp và phạm vi hoạt động được cấp có thẩm quyền cấp theo quy định hiện hành của nhà nước. Nếu là đơn vị trực thuộc tổ chức có giấy phép hành nghề thì phải có giấy uỷ quyền của tổ chức đó. - Trường hợp các đơn vị liên doanh dự thầu thì một đơn vị phải làm đại diện để xin bảo lãnh cho liên doanh. Người đại diện phải kê khai rõ, đầy đủ các doanh nghiệp xây lắp tham gia liên doanhvà các doanh nghiệp này phải có đủ điều kiện về đăng ký kinh doanh và giấy phép hành nghề đã nêu ở trên. 2.2.2. Bảo lãnh để tham gia dự thầu, thực hiện các hợp đồng kinh tế (ngoài hợp đồng xây lắp), bảo lãnh chất lượng sản phẩm theo hợp đồng kinh tế liên quan đến các lĩnh vực sản xuất thì doanh nghiệp phải có giấy phép hành nghề và giấy phép kinh doanh theo quy định của nhà nước như: Đóng tàu, sản xuất rượu bia, thuốc lá, khai thác khoáng sản phù hợp với nội dung xin bảo lãnh. 2.2.3. Bảo lãnh tiền ứng trước: Doanh nghiệp phải mở tài khoản tiền gửi sản xuất kinh doanh chính và tài khoản nhận tiền ứng trước tại ngân hàng đâù tư và phát triển, doanh nghiệp phải chịu sự quản lý giám sát của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển về việc sử dụng đungs mục đích của khoản ứng trước này. 42
  43. 2.2.4. Bảo lãnh thanh toán, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chỉ bảo lãnh việc bảo đảm thanh toánkhi ngân hàng nắm chắc về khả năng, nguồn vốn thanh toán của doanh nghiệp xin bảo lãnh. 2.2.5. Bảo lãnh hoàn trả vốn vay: Trước mắt các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chỉ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn có tài khoản hoạt động sản xuất kinh doanh tại chính ngân hàng đầu tư và phát triển. Trường hợp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn có tài khoản hoạt động sản xuất kinh doanh chính tại ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác thì chi nhánh phải báo cáo và gửi hồ sơ lên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trung ương xem xét cho ý kiến trước khi thực hiện. 2.3. Phí bảo lãnh: Trường hợp doanh nghiệp xin bảo lãnh ký quỹ 100% hoặc số dư trên tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển luôn lớn hơn số tiền xin bảo lãnh, doanh nghiệp cam kết không rút số dư đó thì phí bảo lãnh ưu đãi được áp dụng là 0.7% năm tính trên số dư bảo lãnh và tính từ ngày phát sinh thư bảo lãnh. Trường hợp số tièn xin bảo lãnh quá thấp (nhỏ hơn 80 triệu) các chi nhánh được áp dụng mức phí bảo lãnh tối thiểu là 300000 đồng cho một món bảo lãnh để đảm bảo bù dư chi phí của ngân hàng và phí này thu ngay một lần trước khi phát hành thư bảo lãnh. Những trường hợp khác áp dụng phí bảo lãnh do chi nhánh quyết định nhưng tối đa không quá 1% năm. Đối với những trường hợp thu phí theo tỷ lệ, phí bảo lãnh thu ba tháng một lần, lần đầu thu ngay khi phát hành thủ tục bảo lãnh. 2.4.Quỹ bảo lãnh và mức bảo lãnh: Các ngân hàng căn cứ vào số vốn được phép sử dụng vào kinh doanh để dự kiến số tiền có thể đưa vaò lập quỹ bảo lãnh của mình. Tổng mức bảo lãnh được xác định trên cơ sở quỹ bảo lãnh dự kiến và khả năng an toàn vốn trong bảo lãnh của từng ngân hàng, nhưng tối đa không quá 20 lần số tiền của quỹ bảo lãnh. Số tiền để lập quỹ bảo lãnh được hạch toán vào một tiểu khoản riêng tại ngân hàng bảo lãnh theo từng lần bảo lãnh với tỷ lệ tối thiểu 5% so với doanh số bảo lãnh và được sử dụng để trả cho bên yêu cầu bảo lãnh khi doanh nghiệp được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ. Tổng số tiền bảo lãnh cho một doanh nghiệp không quá 30% tổng mức bảo lãnh của ngân hàng bảo lãnh. 2.5. Tài sản thế chấp: 43
  44. Tài sản thế chấp bảo lãnh là bất động sản: nhà đất; động sản: vàng, bạc, đá quý ; hoặc các chứng từ có giá: trái phiếu, tín phiếu Trong trường hợp đặc biệt doanh nghiệp có tín nhiệm bảo đảm có nguồn vốn thanh toán đúng hạn số tiền bảo lãnh có sử dụng kết hợp cả hình thức ký quỹ, thế chấp, tín nhiệm và khả năng tài chính để lập hồ sơ bảo lãnh báo cáo ngân hàng đầu tư phát triển trung ương xem xét uỷ nhiệm. Trường hợp số tiền bảo lãnh không lớn, doanh nghiệp có thể ký quỹ số tiền tương ứng với số tiền xin bảo lãnh hoặc kết hợp cả hai hình thức ký quỹ và thế chấp tài sản. Tiền ký quỹ phải được gửi tại chi nhánh thực hiện việc bảo lãnh. Tiền ký quỹ được hưởng lãi suất phù hợp với tính chất thời hạn của việc bảo lãnh. Trong suốt thời gian bảo lãnh, chi nhánh có trách nhiệm quản lý theo dõi số tiền dư tài khoản ký quỹ và tài sản thế chấp của doanh nghiệp đảm bảo số dư tài khoản này và giá trị tài sản thế chấp luôn tương ứng với số tiền còn đang được bảo lãnh. 2.6. Thẩm quyền của chi nhánh: Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam uỷ nhiệm cho giám đốc chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bảo lãnh trong phạm vi quỹ bảo lãnh của chi nhánh cho các loại sau: - Bảo lãnh dự thầu. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. - Bảo lãnh tiền ứng trước. - Bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm. Trong trường hợp vượt quỹ bảo lãnh của doanh nghiệp, chi nhánh lập hồ sơ, báo cáo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trung ương để xem xét bảo lãnh hoặc uỷ quyền cho chi nhánh bảo lãnh. Trên đây là một số nội dung trong quy định đã nêu. Vì bảo lãnh là một loại hình mới được áp dụng ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển và ở Việt Nam nói chung nên cần nắm được các nội dung này trong thực thi bảo lãnh. Những nội dung này tuy một số đã được sửa đổi nhưng nó là cơ sở áp dụng và cơ sở cho việc đánh giá hoạt động của bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. III. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội. 1. Thực trạng hoạt động bảo lãnh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội bắt đầu tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh từ năm 1995, khi hệ thống ngân hàng đầu tư bước sang một giai 44
  45. đoạn mới, giai đoạn hoạt động như một ngân hàng thương mại. Với mục tiêu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và yêu cầu đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, chi nhánh đã cho ra đời và phát triển một ”chất xúc tác” cho nền kinh tế, một loại hình dịch vụ của ngân hàng hiện đại. Với tuổi đời hơn bốn mươi năm nhưng tuổi kinh doanh còn rất trẻ chi nhánh thực thi nghiệp vụ bảo lãnh trước hết phục vụ các khách hàng truyền thống làm đa dạng hoá các loại sản phẩm ngân hàng . Hoạt động trên lĩnh vực đầu tư xây dựng, ngân hàng có thế mạnh là nhu cầu bảo lãnh của khách hàng tương đối lớn, phát sinh liên tục. Hoạt động bảo lãnh ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã đạt được một số kết quả nhất định. Song theo tôi nó chưa trở thành một công cụ linh hoạt, chưa khai thác được hết tiềm năng thế mạnh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội cũng như trong việc đáp ứng nhu cầu các khách hàng. Sau đây là thực trạng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. 1.1. Kết quả chung:. Bảng 3: Kết quả bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Đơn vị: Triệu đồng. Loại bảo lãnh Năm 1995 Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Số tiền BL Số tiền BL Số tiền BL Số tiền BL Bảo lãnh uỷ 34.387 191.491 236.826 250.520 nghiệm TX Bảo lãnh trả 0 62.086 70.032 55.808 chậm Tổng số 34.387 253.577 306.858 306. 328 45
  46. Hình 2: Biểu đồ tăng trưởng doanh số bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. 600000 ) 500000 Đ . Tổng doanh r T ( h 400000 số bảo lãnh n ã l o 300000 ả b ố bảo lãnh UN s 200000 h n thường a o D 100000 xuyên 0 1995 1996 1997 1998 Năm Từ bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng : - Từ năm 1995 chi nhánh bắt đầu thực hiện bảo lãnh, doanh số bảo lãnh còn nhỏ chỉ là 34387 triệu đồng với các loại bảo lãnh trong xây dựng mà chủ yếu mới chỉ là bảo lãnh dự thầu có thời hạn ngắn.Chi nhánh chưa tiến hành bảo lãnh trả chậm. - Năm 1996 đánh giá được nhu cầu và lợi ích của bảo lãnh chi nhánh đã có những chú trọng tới công tác này. Doanh số bảo lãnh tăng 7,4 lần so với năm 1995. Chi nhánh tiến hành cả bảo lãnh trả chậm. Trong năm phát sinh một món bảo lãnh trả chậm của công ty Sứ Thanh trì với số tiền bảo lãnh là 4018224 USD trong thời hạn 5 năm. - Năm 1997: Đây là một năm có hiều biến động với hoạt động cả ngân hàng và hoạt động bảo lãnh nói chung. Tuy nhiên doanh số bảo lãnh vẫn tăng lên 21% so với năm 1996 do đà phát triển chung của nhu cầu bảo lãnh. Trong năm này do chính sách yêu cầu ký quỹ bắt buộc 100%với hầu hết các món baỏ lãnh bằng VNĐ, ngân hàng đã mất đi một số khách hàng lớn. Nhưng bù lại trong năm này chi nhánh thu hút được các món bảo lãnh bằng USD với doanh số bảo lãnh và phí thu được từ ngoại tệ lớn. - Đến ngày 31/12/1998 số tiền bảo lãnh của chi nhánh là 306.328 triệu đồng.Nếu xét riêng các món bảo lãnh được uỷ nhiệm thường xuyên, doanh số bảo lãnh tăng 5,8% những tổng doanh số bảo lãnh thì giảm do bảo lãnh vay trả chậm phát sinh ít. 46
  47. Xem xét kết quả bảo lãnh trên ta thấy nhìn chung doanh số bảo lãnh qua các năm theo chiều hướng tăng lên song không rõ rệt. Đó một phần là do nhu cầu bảo lãnh trong xây dựng không phát sinh theo quy luật hay khuynh hướng nhất định. Giả sử trong năm nào đó khách hàng của ngân hàng tham gia một công trình lớn hay một món bảo lãnh trả chậm với nước ngoài với thời hạn dài thì doanh số bảo lãnh của ngân hàng tăng lên tương ứng. Điều này cho thấy tính thụ động trong sự gia tăng này. Về kết quả thu phí bảo lãnh của ngân hàng: Bảng 4 : Phí thu từ hoạt động bảo lãnh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Đơn vị : Triệu đồng. Năm 1995 1996 1997 1998 Phí bảo 233 1200 1.782 1.865 lãnh Một vấn đề cần giải quyết với các ngân hàng đầu tư đó là tỷ trong thu nhập từ dịch vụ còn rất nhỏ bé. Vì vậy phí thu được từ hoạt động bảo lãnh có vai trò rất lớn trong thu nhập từ hoạt động dịch vụ và lợi nhuận ngân hàng. Hình 3: Biểu đồ tăng trưởng thu phí bảo lãnh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. 2000 1865 1782 1500 1200 h n ã l o 1000 ả b í h P 500 233 0 1995 1996 1997 1998 Năm 47
  48. Phí bảo lãnh thu được đã đóng góp lượng không nhỏ vào tổng phí dịch vụ và lợi nhuận ngân hàng. Và với hoạt động bảo lãnh ngân hàng không phải xuất vốn chỉ phải trích quỹ bảo lãnh 5%. + Năm 1995, năm đầu tiên thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đã thu được 233 triệu đồng từ phí baỏ lãnh. Năm 1996, con số này là 1,2 tỷ tăng 415% so với năm 1995. Trong năm này phí từ bảo lãnh chiếm 59% tổng phí dịch vụ và góp phần làm phí dịch vụ tăng từ 1% năm 1995 lên 2% năm 1996. + Năm 1997 phí thu được tăng 48 % so với năm 1996 và tổng thu phí từ bảo lãnh năm 1998 là 1865 triệu chiếm 56,3% tổng phí vụ ngân hàng. -Việc tiến hành bảo lãnh giúp ngân hàng phát triển các hoạt động khác. Hầu hết các khách hàng bảo lãnh thực hiện các công trình tại chi nhãnh sẽ chuyển tiền thanh toán giao dịch qua tài khoản của họ tai ngân hàng, do vậy ngân hàng có thể huy động thêm nguồn tiền gửi lớn. Ví dụ như công ty xây dựng và phát triển hạ tầng (Licogi) là một khách hàng lớn trong cả bảo lãnh và tín dụng tại chi nhánh. Trong năm 1998 tổng số tiền bảo lãnh của tổng công ty này lên tới 14.680 triệu đồng và số dư tiền gửi bình quân của họ là 7.2 tỷ đồng. - Việc thực thi bảo lãnh làm đa dạng hoá hoạt động dịch vụ ngân hàng thương mại góp phần làm tăng tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ tronh tổng thu nhập ngân hàng bởi tỷ trọng này trong ngân hàng đầu tư còn rất thấp so với các ngân hàng khác và tiêu chuẩn của một ngân hàng thương mại hiện đại. - Đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng truyền thống tham gia đấu thầu, ký kết hợp đồng góp phần thực hiện chính sách khách hàng của ngân hàng, tăng cường quan hệ với khách hàng truyền thống, thu hút thêm khách hàng mới, thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng. - Trong năm năm thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng chi nhánh chưa để xảy ra một rủi ro phải trả thay cho khách hàng vi phạm hợp đồng. Điều này càng làm tăng uy tín và vị thế của ngân hàng. Sở dĩ ngân hàng đạt được những kết quả trên là do những nguyên nhân sau: - Do sự phát triển của nền kinh tế nói chung thúc đẩy sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp làm phát sinh và phát triển nhu cầu bảo lãnh. Cơ chế kế hoạch hoá hoạt động theo chỉ định của nhà nước bị xoá bỏ, thay vào đó là cơ chế hoạt động của thị trường. Do sự phát triển của nền kinh tế nói chung thúc đẩy sự cạnh tranh ngày cường giao lưu với nước ngoài và tự do lựa chọn bạn hàng . 48
  49. - Chủ trương đổi mới của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội nói riêng nhằm đa dạng hoá hiện đại hoá hoạt động của ngân hàng theo định hướng ngân hàng đa năng. - Do ngân hàng hoạt động trên lĩnh vực đầu tư và phát triển với các khách hàng truyền thống thi công xây lắp. Đây là một thế mạnh bởi nhu cầu về sự bảo lãnh trong xây dựng phát sinh thường xuyên và là tiềm năng phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng. - Mặt khác, các loại bảo lãnh của ngân hàng thực hiện chủ yếu là các món bảo lãnh thi công thực hiện công trình xây dựng, bảo lãnh vay vốn qua mở L/C trả chậm mới phát sinh lượng nhỏ. Nếu việc thực hiện hợp đồng thương mại chịu rất nhiều rủi ro như sự thay đổi thường xuyên của giá cả thị trường và chu kỳ kinh doanh thì trong xây dựng mức độ này thấp hơn , do vậy rủi ro thấp hơn. - Do uy tín và vị thế của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Ngân hàng chỉ đứng sau Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh và sở giao dịch của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trung ương. Địa bàn hoạt động của ngân hàng là thành phố Hà Nội cùng năm huyện ngoại thành tập chung lượng lớn các doanh nghiệp và các đầu mối của tổng công ty, công ty trên cả nước. 1.2. Tình hình thực hiện các loại hình bảo lãnh tại chi nhánh: Theo công văn hướng dẫn số 39 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, các ngân hàng được phép thực hiện 6 loại hình bảo lãnh: Bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng, tiền ứng trước, bảo hành chất lượng công trình, bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Tuy nhiên đến nay, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội mới thực hiện bốn trong sáu loại hình trên, chi nhánh chưa thực hiện bảo lãnh thanh toán, bắt đầu nhận uỷ quyền thực hiện thanh toán nước ngoài theo hình thức mở L/C trả chậm. Bảng 5: Tình hình thực hiện các loại bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Loại bảo lãnh Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Số tiền Tỷ Số tiền Tỷ Số tiền Tỷ Tr.đ trọng Tr.đ trọng Tr.đ trọng (%) (%) (%) Bảo lãnh dự 41.386 16 50.366 16 50.965 16.6 thầu Bảo lãnh 93.551 37 31.111 10 149.314 48.7 THHĐ 49
  50. Bảo lãnh tiền 54.554 22.6 152.762 50 44.800 14.6 ƯT Bảo lãnh bảo 1.000 0,4 2.587 0.84 5.441 1.8 hành công trình Bảo lãnh thanh 0 0 0 0 0 0 toán Bảo lãnh trả 62.086 24 70.032 22.8 55.808 18.2 chậm Tổng số 253.57 100 306.858 100 306. 100 7 328 Hình 4: Tỷ trọng doanh số các loại bảo lãnh năm 1998 . Bldự thầu 48% Blthực hiện hợp đồng 17% BL tiền ứng trước BL bảo hành 18% 15% công trình 2% BLtrả chậm Bảo lãnh dự thầu: Theo nghị định số 43/CPngày 16/7/96 của chính phủ ban hành về quy chế đấu thầu, trong hồ sơ dự thầu của khách hàng phải có thư bảo lãnh dự thầu của ngân hàng. Vì vậy lượng khách hàng khá đông đảo. Năm 1996 doanh số bảo lãnh dự thầu là :41.386 triệu đồng chiếm 16 %. Tỷ trọng doanh số bảo lãnh dự thầu trong tổng doanh số bảo lãnh tương đương nhau trong 3 năm nhưng tỷ lệ tăng doanh số qua các năm : năm 1997 tăng 21% so với 1996 và năm 1998 tăng 1,8% so với năm 1997. Tuy món bảo lãnh loại này lớn song giá trị bảo lãnh nhỏ từ 1% - 3% giá trị hợp đồng. Riêng tổng công ty Licogi năm 1998 có tới 20 món bảo 50
  51. lãnh dự thầu tại chi nhánh với thời hạn từ 30-60 ngày. Rủi ro loại bảo lãnh này thường thấp nhưng lại cần đảm bảo đúng thời gian dự thầu. Trong thời gian qua chi nhánh thực hiện tương đối tốt loại hình bảo lãnh này giúp khách hàng tham gia đấu thầu không để một rủi ro phải thanh toán nào xảy ra. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Số tiền bảo lãnh từ 10-15% giá trị hợp đồng lớn hơn nhiều so với bảo lãnh dự thầu. Thời gian để thực hiện hợp đồng thường dài lên độ rủi ro của loại bảo lãnh này thường lớn hơn.Loại bảo lãnh này khá thông dụng, nó chiếm doanh số lớn nhất trong tổng doanh số bảo lãnh tại chi nhánh trong năm 1996 và 1998. Do số tiền trong bảo lãnh lớn trong khi các doanh nghiệp xây lắp lại có số vốn tự có ít, chủ yếu hoạt động bằng vốn vay nên loại này các doanh nghiệp thường xin tín chấp hoặc kết hợp với thế chấp tài sản. Trong năm 1997 ngân hàng có chính sách yêu cầu khách hàng phải ký quỹ100% số tiền bảo lãnh nên doanh số bảo lãnh này giảm cả về số tuyệt đối và tỷ trọng. Loại bảo lãnh phát sinh thường xuyên có tiềm năng phát triển. Do vậy doanh nghiệp cần chú ý khai thác loại này. Bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng là hai loại bảo lãnh được thực hiện tại cả trụ sở chính và tất cả các chi nhánh huyện trực thuộc ngay từ khi bắt đầu tién hành nghiệp vụ bảo lãnh. Bảo lãnh tiền ứng trước: Trong hợp đồng xây dựng để hỗ trợ vốn thi công cho nhà thầu, chủ thầu thường ứng trước cho họ một khoản tiền. Để đảm bảo cho khoản tiền này được nhà thầu sử dụng đúng mục đích, chủ thầu yêu cầu phải có thư bảo lãnh tiền ứng trước của ngân hàng. Loại bảo lãnh này phát sinh ít hơn bảo lãnh thực hiện hợp đồng do có thể chủ thầu không yêu cầu thư bảo lãnh mà vẫn giữ lại một khoản chưa thanh toán để đảm bảo nhà thầu không vi phạm. Số tiền bảo lãnh loại này tương đối lớn. Doanh số phát sinh lớn nhất là vào năm 1997 là 152.762 triệu chiếm 50% tổng doanh số bảo lãnh trong năm. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng theo hợp dồng: Tại chi nhánh bảo lãnh này bao gồm hai loại bảo lãnh bảo đảm chất lượng công trình và bảo đảm chất lượng máy móc thiết bị, trong đó chủ yếu là bảo lãnh chất lượng công trình. Doanh số phát sinh loại này còn nhỏ chỉ trên dưới 1% trong doanh số bảo lãnh chung xong có xu hướng tăng lên. 51
  52. Thời gian bảo hành xây lắp được tính từ ngày doanh nghiệp xây dựng kết thúc hợp đồng xây dựng, bàn giao công trình cho chủ đầu tư đến khi hết thời hạn quy định. Quy định về thời hạn bảo lãnh chất lượng công trình: Công trình thuộc nhóm Thời hạn Mức tiền bảo lãnh tính theo Dự án % của giá trị thanh lý hoạt động xây lắp A 24 tháng 65% B 18 tháng 1,5% C 12 tháng 3% Doanh số bảo lãnh bảo hành công trình nhỏ do một số công trình khi bảo lãnh thực hiện hợp đồng đến hết thời hạn bảo hành công trình và do vậy chủ đầu tư không yêu cầu nhà thầu phải thực hiện bảo lãnh thực hiện công trình. Hoặc có thể khi bàn giao công trình, chủ đầu tư không thanh toán toàn bộ tiền cho nhà thầu mà giữ lại một phần để bảo hành công trình khi hết thời gian bảo hành mới thanh toán nốt. Bảo lãnh vay vốn nước ngoài( Bảo lãnh trả chậm): Chi nhánh đã bắt đầu thực hiện từ năm 1996 nhưng số phát sinh còn nhỏ. Loại bảo lãnh này là do trung ương uỷ quyền cho chi nhánh thường có thời hạn tương đối dài, giá trị bảo lãnh lớn nhưng rủi ro cũng lớn nhất. Trong điều kiện hiện nay nhiều khách hàng có nhu cầu bảo lãnh vay vốn nhưng do chi nhánh chỉ được uỷ quyền nên phải trình lên tổng giám đốc ngân hàng trung ương quyết định tốn nhiều thời gian nên không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Kết quả áp dụng loại hình này vẫn “giậm chân tại chỗ”. Với kinh nghiệm về thẩm định doanh nghiệp, thẩm định dự án, chi nhánh hoàn toàn có đủ khả năng phát triển loại hình này hạn chế tối đa rủi ro thu thêm phí. Điều này có thể thấy ở sở giao dịch I Hà Nội của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trung ương doanh số bảo lãnh tăng nhanh do đóng góp của doanh số bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Bảo lãnh thanh toán: Chưa được áp dụng tại chi nhánh. Loại bảo lãnh này được áp dụng cả trong xuất nhập khẩu và xây dựng. Trong xây dựng nếu bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng, tiền đặt cọc đảm bảo quyền lợi cho chủ thầu thì bảo lãnh thanh toán lại bảo đảm cho nhà thầu. Bảo lãnh này rất cần thiết vì bên vi phạm đôi khi là chủ thầu vì vậy chi nhánh nên nghiên cứu áp dụng. 52