Đề tài Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

doc 78 trang nguyendu 3960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_hoan_thien_nghiep_vu_thi_truong_mo_cua_ngan_hang_nha.doc

Nội dung text: Đề tài Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

  1. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ thực sự có ý nghĩa và thể hiện đúng vai trò vị trí của mình hay không lại phụ thuộc vào quá trình sử dụng các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Để thực hiện vai trò và trách nhiệm đã được quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở. Sau một thời gian dài chuẩn bị về hàng lang pháp lý, trang thiết bị, nhân lực, nghiệp vụ thị trường mở đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính thức khai trương vào ngày 12/7/2000. Trải qua hơn 5 năm hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn, góp phần quan trọng vào việc điều tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, cũng như các công cụ chính sách tiền tệ khác của Ngân hàng nhà nước, nghiệp vụ thị trường mở đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Số lượng các tổ chức tín dụng tham gia ít, doanh số giao dịch nhỏ, hàng hoá giao dịch chưa nhiều, các quy định về quy trình, xử lý thông tin còn chưa hoàn thiện. Vì vậy, nhu cầu đổi mới và hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trưởng mở là hết sức cấp bách và cần thiết. Nhận thức được điều dó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu của Luận văn. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ, công cụ chính sách tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương. - Phân tích, đánh giá hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2000 đến nay. - Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  2. 2 - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. - Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2000 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng là phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số biểu, bảng để minh hoạ. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương Chương 2. Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Chương 3. Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
  3. 3 CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 1.1. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ - MỘT CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG Tại bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế thị trường, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô đều phải sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách tiền tệ (CSTT). Thông qua việc điều hành các chính sách này để tác động đến các mục tiêu như tăng trưởng, lạm phát, việc làm Vì vậy, CSTT đóng vai trò là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. 1.1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ CSTT là một chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền tảng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý. Theo nghĩa rộng, CSTT là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Theo nghĩa hẹp, CSTT là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. NHTW có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến CSTT vì mọi hoạt động của NHTW và hệ thống ngân hàng đều ảnh hưởng đến hệ thống điều kiện tiền tệ của nền kinh tế được thể hiện qua các chỉ tiêu như khối lượng tiền, tín dụng, lãi suất, tỷ giá Vì thế công tác xây dựng và điều hành CSTT là trọng tâm hoạt động của một NHTW. 1.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ Nội dung của CSTT thể hiện thông qua việc thiết kế hệ thống mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ bao gồm các mục tiêu tổng quát và hệ thống mục tiêu điều hành.
  4. 4 1.1.2.1. Mục tiêu tổnq quát (mục tiêu cuối cùng) Mục tiêu CSTT hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp phần tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục tiêu vĩ mô trên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế phát triển đặc thù quốc gia. Tuy nhiên do tính chất mâu thuẫn giữa các mục tiêu nên NHTW không thể theo đuổi tất cả các mục tiêu trên trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này buộc NHTW phải có sự lựa chọn và ưu tiên cho những mục tiêu quan trọng trong từng thời kỳ mặc dù mục tiêu ổn định giá cả luôn là mục tiêu dài hạn của NHTW. 1.1.2.2. Mục tiêu điều hành Các mục tiêu chính sách trên chỉ là mục tiêu cuối cùng mà các CSTT nhắm tới. Đây là các mục tiêu mang tính định tính nên để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình điều hành CSTT, các NHTW đều xây dựng hệ thống mục tiêu điều hành mang tính định lượng cụ thể hơn. Mục tiêu điều hành là các biến số tiền tệ có tác động mạnh theo một chiều nhất định đến mục tiêu cuối cùng (mục tiêu chính sách) của CSTT. Căn cứ vào sự phát triển và diễn biến của thị trường tiền tệ, NHTW các nước đều lựa chọn các mục tiêu điều hành của CSTT. Mục tiêu điều hành của CSTT bao gồm mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động. a, Mục tiêu trung gian NHTW không thể sử dụng các công cụ CSTT tác động trực tiếp và ngay lập tức đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế. Ảnh hướng của CSTT chỉ xuất hiện sau một thời gian nhất định. Để khắc phục hạn chế này, NHTW của tất cả các nước thường xác định các chỉ tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Tiêu chuẩn của chỉ tiêu trung gian: (1) Có thể đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng, bởi vì các chỉ tiêu này chỉ có ích khi nó phản ánh được tình trạng của CSTT nhanh hơn mục tiêu cuối cùng; (2) Có thể kiểm soát được để có thể điều chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng của CSTT; (3) Có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng. Cả tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn trên, nhưng NHTW không thể chọn cả hai chỉ tiêu trên làm mục tiêu trung
  5. 5 gian mà chỉ có thể chọn một trong hai chỉ tiêu đó. Bởi lẽ, nếu đạt được mục tiêu về tổng khối lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động của lãi suất và ngược lại. b, Mục tiêu hoạt động Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của công cụ CSTT đồng thời có mối quan hệ chi phối tới các mục tiêu trung gian. Việc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thích hợp làm mục tiêu hoạt động có ý nghĩa quan trọng quyết định hiệu quả tác động của CSTT. Hệ thống chỉ tiêu này vừa đóng vai trò phản ánh tình trạng CSTT đồng thời phản ánh dấu hiệu về định hướng CSTT của NHTW. Các tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu làm mục tiêu hoạt động cũng tương tự như tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trung gian, bao gồm: (1) Phải đo lường được nhằm tránh những suy diễn thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu của CSTT; (2) Phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của CSTT; (3) Phải có mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với mụcc tiêu trung gian được lựa chọn. Căn cứ vào tiêu chuẩn trên, các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động của NHTW bao gồm: lãi suất liên ngân hàng và dự trữ ngân hàng. 1.1.3. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ Để thực hiện CSTT theo các mục tiêu đã xác định trong từng thời kỳ, NHTW sử dụng một số công cụ CSTT nhằm tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất (chi phí) vay vốn. Công cụ CSTT là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm tác động trực tiếp tới các mục tiêu hoạt động, qua đó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới mục tiêu trung gian, từ đó đạt được các mục tiêu cuối cùng của CSTT. 1.1.3.1. Các công cụ chủ yếu Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào các mục tiêu hoạt động của CSTT như lãi suất thị trường liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay, và thông qua cơ chế thị trường mà tác động này truyền tới các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này bao gồm: a, Dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc (DTBB) là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài khoản tiền gửi tại NHTW trong một thời kỳ nhất định. DTBB được
  6. 6 tính trên cơ sở tỷ lệ DTBB do NHTW quy định đối với từng loại tiền gửi cấu thành nên nguồn vốn hoạt động của một ngân hàng. Tỷ lệ DTBB do NHTW quy định và được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại NHTM. Tỷ lệ DTBB được áp dụng có phân biệt đối với các loại tiền gửi có thời hạn khác nhau, quy mô và tính chất hoạt động của NHTM. DTBB tác động tới cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân cung ứng tiền tệ. Tỷ lệ DTBB tăng lên sẽ làm giảm số tiền gửi được nâng đỡ bởi một mức nhất định của cơ số tiền tệ và dẫn đến việc thu hẹp cung ứng tiền. Mặt khác, tỷ lệ DTBB giảm xuống sẽ dẫn đến một sự tăng lên của cung ứng tiền tệ do việc tạo thêm tiền gửi gấp nhiều lần. Việc quy định tỷ lệ DTBB do NHTW quyết định tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế. b, Chính sách chiết khấu Chiết khấu là một trong những hình thức cho vay của NHTW đối với các NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt NHTW đã làm tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán của họ. Chính sách chiết khấu bao gồm các quy định về hạn mức chiết khấu, lãi suất chiết khấu và điều kiện cho vay của NHTW đối với các ngân hàng. NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá của ngân hàng. NHTW kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động tới giá cả khoản vay thông qua lãi suất chiết khấu căn cứ vào mục tiêu của CSTT là thắt chặt hay nới lỏng, từ đó tác động tới lượng tiền trong lưu thông. Sự thay đổi về lãi suất chiết khấu được xem là một dấu hiệu thông báo của NHTW trong định hướng thực hiện CSTT. Các tuyên bố của NHTW về chiều hướng biến động lãi suất chiết khấu (tăng lên hoặc giảm xuống) có tác dụng hướng dẫn hành vi của thị trường theo định hướng CSTT. c, Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là hoạt động NHTW mua, bán GTCG như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi trên thị trường tiền tệ, nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ mà đặc biệt là tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng, qua đó tác động đến khối lượng tiền cung ứng. Do vậy, thị trường này có khả năng tiếp nhận được một lượng rất
  7. 7 lớn nghiệp vụ của NHTW mà không làm cho giá cả biến động mạnh. OMO là công cụ CSTT quan trọng của NHTW. Nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và đó cũng là nguồn gốc chính gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ. OMO là một trong những cửa ngõ quan trọng để NHTW phát hành tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về thông qua mua hay bán các các loại GTCG. Qua nghiệp vụ mua bán này NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của các NHTM, tác động đến khả năng tín dụng của các ngân hàng này và từ đó làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng. 1.1.3.2. Các công cụ bổ trợ Bên cạnh những công cụ chủ yếu nêu trên thì NHTW còn sử dụng các công cụ bổ trợ để thực hiện CSTT. a, Lãi suất Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có thể kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là một công cụ quan trọng của NHTW trong thực hiện CSTT. Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi muốn điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất của mình, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng. Ngoài ra, NHTW có thể quản lý trực tiếp lãi suất của các TCTD đối với nền kinh tế thông qua quy định các mức lãi suất cụ thể về cho vay và huy động. Tuy nhiên hình thức quản lý trực tiếp lãi suất này chỉ phù hợp tại các nước có hệ thống tài chính tiền tệ chưa phát triển, và xu hướng chung là giảm dần sự quản lý trực tiếp này. b, Hạn mức tín dụng Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp trực tiếp của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng của tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các ngân hàng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy
  8. 8 định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng, trong định hướng cơ cấu kinh tế và trong giới hạn tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một thời gian xác định. Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của nó mang tính áp đặt của NHTW đối với hệ thống ngân hàng. c, Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là tương quan giữa sức mua của đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, hay có thể nói là giá cả của đồng tiền này đo bằng một đồng tiền khác. Tỷ giá vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, có tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động nhạy bén và mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, vốn đầu tư và dự trữ của quốc gia. Về thực chất thì tỷ giá không phải là công cụ CSTT bởi lẽ tỷ giá không làm tăng giảm khối lượng tiền trong lưu thông, mà chỉ góp phần thay đổi cơ cấu khối lượng tiền. Tuy nhiên tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, có mức độ đôla hoá cao, thì tỷ giá được xem là một công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành CSTT. 1.2. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 1.2.1. Khái niệm Theo cách hiểu chung nhất thì khái niệm “Nghiệp vụ thị trường mở” là hoạt động mua bán các GTCG của NHTW với các đối tác được lựa chọn để qua đó tác động tới lãi suất của thị trường hoặc dự trữ của các đối tác này, vì thế có thể ảnh hưởng tới các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế thông qua những ảnh hưởng về mặt lượng và giá cả. Thuật ngữ "Thị trường mở" ở đây được hiểu là một thị trường có tính chất mở, nghĩa là đa dạng về các đối tác tham gia thị trường và đa dạng về các loại giao dịch trên thị trường. Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) được Ngân hàng Anh áp dụng đầu tiên từ năm 1914 trong nỗ lực tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn. OMO là một trong các công cụ CSTT có hiệu quả cao và hiện đang được
  9. 9 các nước trên thế giới sử dụng. Mặc dù OMO được sử dụng phổ biến nhưng việc đưa ra một khái niệm chung là không thống nhất. Sự không thống nhất này thể hiện ở sự khác nhau về hàng hoá giao dịch, các đối tác tham gia thị trường và các loại giao dịch trên thị trường. Các GTCG được sử dụng trên thị trường mở là các GTCG ngắn hạn và dài hạn như tín phiếu, trái phiếu chính phủ, tín phiếu NHTW, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu ngân hàng v.v Các chủ thể của thị trường mở là NHTW và các đối tác chủ yếu là các ngân hàng, và có thể là các tổ chức tài chính, tín dụng phi ngân hàng. Xét về mặt hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng khoán nợ cả ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên khác với các khái niệm có phạm vi và loại hình công cụ rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ, thị trường mở ở các nước khác nhau lại khác nhau về phạm vi, loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường. Đối với một số nước, hàng hoá giao dịch trên thị trường mở chỉ gồm các GTCG ngắn hạn và đối tác tham gia chỉ là các TCTD. Khi đó, thị trường mở là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Đối với nước khác như Mỹ, Đức thì các GTCG dài hạn cũng có thể giao dịch, khi đó thị trường mở bao gồm cả một phần của thị trường chứng khoán. Điều đó có nghĩa là các giới hạn, quy định khác nhau về hàng hoá và đối tác tham gia OMO với NHTW sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước. 1.2.2. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở Thông qua hoạt động mua, bán các GTCG trên thị trường mở, NHTW đã tác động trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức lãi suất trên thị trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng. a, Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia OMO) và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác tham gia OMO). Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng
  10. 10 NHTW Dự trữ Dự trữ mở Khối MS bán NH rộng cho lượng TD giảm GTCG giảm vay giảm giảm Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ của hệ thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. b, Về mặt giá - Tác động qua lãi suất Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau: Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định. Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất Cung TPKB Giá TPKB LS thị trường tăng giảm tăng tăng NHTW bán Đầu tư TPKB giảm Dự trữ NH Cung của quỹ Lãi suất ngắn Lãi suất thị giảm cho vay giảm hạn tăng trường tăng
  11. 11 Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng. Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi suất thị trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. 1.2.3. Vai trò và sự cần thiết của nghiệp vụ thị trường mở 1.2.3.1. Đối với ngân hàng trung ương Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, NHTW đã xây dựng và thực thi các công cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo tín hiệu thị trường. Trong đó, OMO là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất tại nhiều quốc gia làm thay đổi cung - cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua bán GTCG tại thị trường mở, NHTW có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung ứng. Như vậy, OMO đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công
  12. 12 cụ mang tính trực tiếp trong điều hành CSTT. Bên cạnh mục đích điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, thông qua mua bán GTCG trên thị trường mở, NHTW còn cấp tín hiệu cho thị trường về định hướng điều hành CSTT trong tương lai là nới lỏng hay thắt chặt. Đặc biệt khi thực hiện OMO thường xuyên và hiệu quả, lãi suất thị trường mở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo lãi suất thị trường và qua đó NHTW có thể hạn chế những biến động của lãi suất thị trường. OMO là một công cụ CSTT có tính chủ động cao. OMO do NHTW chủ động khởi xướng, khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của NHTW thường do các ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. Như vậy, NHTW có thể chủ động thực hiện OMO theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết. OMO có thể được thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như thời gian giao dịch. NHTW có thể thực hiện OMO ở quy mô lớn/nhỏ (khối lượng mua bán GTCG lớn/nhỏ) với thời hạn dài/ngắn tuỳ theo quyết định mua/bán GTCG. OMO có thể khắc phục được những hạn chế của các công cụ kiểm soát tiền tệ trực tiếp và các công cụ gián tiếp khác. Các giao dịch OMO có tính hai chiều, qua đó NHTW có thể bơm thêm tiền vào lưu thông hoặc rút tiền từ lưu thông, trong khi công cụ TCV chỉ có thể bơm thêm tiền vào lưu thông. Mặt khác, với công cụ OMO, NHTW có thể chủ động hơn trong việc điều tiết lưu thông, không phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của NHTM như trong công cụ TCV. Qua việc tính toán và dự báo vốn khả dụng cũng như lượng tiền cung ứng, NHTW có thể biết chính xác được khối lượng tiền cần bơm thêm hoặc rút về từ lưu thông. 1.2.3.2. Đối với các đối tác của ngân hàng trung ương Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong cơ chế thị trường ngày càng đa dạng dẫn đến hoạt động quản lý và sử dụng vốn khả dụng cần phải chủ động và linh hoạt hơn. Hiện nay trong cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn với thời gian dưới 12 tháng thường chiếm tỷ trọng từ 60-70%. Vì vậy, vấn đề cấp bách hiện nay đối với các ngân hàng là làm thế nào để sử dụng vốn linh hoạt hiệu quả và giải quyết được khó
  13. 13 khăn tạm thời về vốn khả dụng trong thời gian ngắn, không gây ách tắc trong thanh toán cũng như đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng. Thị trường mở là nơi các đối tác của NHTW được chủ động tham gia mua bán GTCG với NHTW và lãi suất thực sự là mang tính thị trường. Thông qua thị trường mở, các ngân hàng có thể sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào các GTCG để thu được lợi tức và đáp ứng nhu cầu dự trữ thứ cấp. Khi cần thiết, các ngân hàng có thể bán lại các GTCG này trên thị trường mở để giải quyết khó khăn về nguồn vốn. Các thành viên tham gia thị trường mở thường là các đối tác có độ tin cậy cao, nên việc mua bán GTCG trên thị trường mở có độ an toàn rất cao. Bên cạnh đó, những điều kiện về chủng loại và chất lượng các GTCG được giao dịch trong OMO sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư GTCG của các ngân hàng, từ đó cải thiện theo hướng tích cực cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng, làm giảm dự trữ không sinh lợi và cải thiện bảng tổng kết tài sản của ngân hàng. Ngoài ra, OMO góp phần đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD. Các TCTD không chỉ đơn thuần thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống như cho vay, bảo lãnh, dịch vụ mà còn sử dụng một nguồn vốn nhất định để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh mới là mua bán các GTCG. OMO cũng thúc đẩy các mối quan hệ mang tính kinh doanh giữa các thành viên tham gia thị trường. OMO do các ngân hàng tự nguyện tham gia thực hiện theo các nguyên tắc thị trường, không mang tính chất bắt buộc như DTBB và cũng không có tác động như một hình thức "đánh thuế" đối với hoạt động của các ngân hàng như DTBB. Lãi suất trên thị trường mở cũng mang tính chất thị trường chứ không bị áp đặt như trong công cụ chiết khấu GTCG của NHTW. Như vậy, thị trường mở tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi hiệu quả hơn và đa dạng hoá thêm các nghiệp vụ kinh doanh của các ngân hàng. 1.2.3.3. Đối với nền kinh tế Mặc dù thành viên của OMO chủ yếu là các tổ chức tín dụng, tài chính và NHTW nhưng OMO cũng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Thông qua việc phát hành, mua bán GTCG trên thị trường mở, các chủ thể của thị trường mở đã làm tăng thêm tính thanh khoản cho các GTCG này.
  14. 14 Điều này góp phần thúc đẩy các thị trường tài chính phát triển. Từ đó, tạo điều kiện cho các trung gian tài chính thu hút vốn trong nền kinh tế và thay đổi thói quen tiết kiệm, tiêu dùng của các hộ gia đình trong nền kinh tế. Thị trường mở có sự gắn kết chặt chẽ với các thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường nội tệ liên ngân hàng. Sự phát triển của thị trường mở tác động mạnh đến sự hoàn thiện và phát triển của thị trường liên ngân hàng. Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam phải thực hiện các cam kết yêu cầu của các tổ chức tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế hay các quốc gia phát triển, trong đó có yêu cầu về cải cách hệ thống ngân hàng và nâng cao tính minh bạch trong các hoạt động của NHTW. Tại các quốc gia phát triển hay các quốc gia trong khu vực Đông Nam á đều sử dụng OMO trong điều hành CSTT để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, việc sử dụng OMO là một điều kiện cần thiết để hội nhập nền kinh tế vào khu vực và thế giới. 1.2.4. Thành viên nghiệp vụ thị trường mở Thị trường mở là một thị trường có tính chất mở nên các thành viên thị trường rất đa dạng với các mục đích khác nhau. Nhìn chung, mọi nhà đầu tư đều có thể là đối tác giao dịch với NHTW trong các giao dịch OMO nếu thoả mãn những tiêu chuẩn cụ thể của NHTW ở các nước. Các tiêu chuẩn này nhằm mục đích: (i) Các đối tác phải đảm bảo độ tin cậy nhất định và (ii) Việc giao dịch với các đối tác phải có hiệu quả xét trên khía cạnh can thiệp của NHTW. Thông thường, thành viên OMO bao gồm: 1.2.4.1. Ngân hàng trung ương NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường mở theo các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng các loại OMO và tần suất sử dụng OMO. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua bán các GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu CSTT. NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương tiện thanh toán cho các TCTD cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
  15. 15 Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các mục tiêu xác định của nó. 1.2.4.2. Các đối tác của ngân hàng trung ương a. Các ngân hàng thương mại Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia OMO của NHTW và là đối tác quan trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu quả. Các NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán và đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi. Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch OMO có ý nghĩa quan trọng xét trên góc độ hiệu quả CSTT do: (i) NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới hoạt động rộng. NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, nhất là ở các nước đang phát triển; (ii) Hơn nữa NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay trên thị trường tiền tệ. b. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Tại một số quốc gia, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được tham gia OMO. Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết kiệm coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập thông qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua bán các GTCG. c. Các nhà giao dịch sơ cấp Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào OMO với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các nhà giao dịch sơ cấp có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính. Thực tế ở nhiều nước, 70% giao dịch can thiệp của NHTW trên thị trường mở được thực hiện thông qua các nhà giao dịch sơ cấp. Khi đó, NHTW chỉ thực hiện mua bán GTCG với các nhà giao dịch sơ cấp. Và để thực hiện được vai trò này, các nhà giao dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng yêu cầu quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc. 1.2.5. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở Các loại GTCG được sử dụng trong các giao dịch OMO ở các nước có khác nhau. Tại Anh, Mỹ, OMO được hiểu là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán Chính phủ của NHTW nhưng chủng loại các GTCG của Chính phủ
  16. 16 được sử dụng lại phong phú hơn ở một số nước khác như Nhật Bản, úc, Pháp. Hơn nữa, tại một số nước chỉ cho phép các GTCG ngắn hạn được sử dụng trong OMO, nhưng tại một số nước khác thì các GTCG dài hạn cũng được sử dụng làm hàng hoá của OMO. Như vậy, OMO không giới hạn cụ thể về chủng loại cũng như thời hạn các GTCG giao dịch, nhưng bao gồm những loại chủ yếu sau: 1.2.5.1. Tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán Chính phủ được phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu kho bạc thường dưới 12 tháng. Đây là loại hàng hoá chủ yếu của OMO ở hầu hết thị trường mở các nước vì một số lý do sau: (i) Có tính thanh khoản cao, (ii) Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và đáp ứng nhu cầu can thiệp của NHTW với mức độ và quy mô khác nhau. Việc sử dụng tín phiếu kho bạc trong OMO có một số ưu điểm nhất định. Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc thay cho việc phát hành tín phiếu NHTW để thực hiện CSTT thắt chặt thì gánh nặng về thực hiện CSTT sẽ chuyển sang ngân sách và được thể hiện rõ ràng trên số liệu ngân sách. Mặt khác khi thị trường tiền tệ chưa phát triển, số dư tín phiếu kho bạc lại khá lớn thì việc sử dụng tín phiếu kho bạc để thực hiện CSTT sẽ giảm rủi ro của việc phân tách thị trường. 1.2.5.2. Tín phiếu ngân hàng trung ương Tín phiếu NHTW là loại GTCG ngắn hạn do NHTW phát hành để làm công cụ cho OMO. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm hàng hoá trên thị trường mở có một số ưu điểm như tăng cường tính độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT và là công cụ linh hoạt cho việc quản lý vốn khả dụng Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi CSTT sẽ làm cho chi phí hoạt động của NHTW tăng lên, mặc dù NHTW hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng tín phiếu NHTW đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định với Bộ Tài chính. Khi NHTW và Bộ Tài chính đồng thời phát hành tín phiếu NHTW và tín phiếu kho bạc, nếu lãi suất chênh lệch thì các đối tác trên thị trường mở sẽ tập trung mua loại tín phiếu có lãi suất cao hơn. Khi đó sẽ có sự phân khúc giữa thị trường tín phiếu kho bạc và thị trường tín
  17. 17 phiếu NHTW, làm cho mục đích phát hành các GTCG này không đạt được và có thể làm giảm hiệu quả tác động của 2 loại hàng hoá này. 1.2.5.3. Trái phiếu Chính phủ Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến 10-30 năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao dịch OMO ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng phát hành thường lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính. 1.2.5.4. Trái phiếu Chính quyền địa phương Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu và thường do các chính quyền địa phương lớn phát hành. Sự can thiệp của NHTW thông qua việc mua bán loại trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ. 1.2.5.5. Chứng chỉ tiền gửi Chứng chỉ tiền gửi (CD) là giấy nhận nợ của ngân hàng hay tổ chức tài chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng với một kỳ hạn và lãi suất nhất định. Thời hạn của CD có thể từ 7 ngày đến 7 năm nhưng thường là ngắn hạn. CD được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tiền tệ do các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền khi cần thiết mà không phải rút tiền gửi trước hạn. 1.2.6. Phương thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở 1.2.6.1. Các loại giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở Có 2 loại giao dịch trên thị trường mở là giao dịch không hoàn lại (mua bán hẳn) và giao dịch (mua bán) có kỳ hạn. a, Giao dịch không hoàn lại (mua bán hẳn) Giao dịch không hoàn lại (mua bán hẳn) là các giao dịch mua bán GTCG của NHTW theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Theo phương thức này, quyền sở hữu của GTCG là đối tượng giao dịch được chuyển sang cho NHTW hoặc ngược lại cho các thành viên tham gia giao dịch. Do vậy tác động của giao dịch này đối với dự trữ ngân hàng thường là dài hạn.
  18. 18 b, Giao dịch mua bán có kỳ hạn Phương thức giao dịch này thường được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời thông qua các hợp đồng mua lại (Repos) hoặc hợp đồng mua lại đảo ngược. Repos được sử dụng khi NHTW thực hiện mua GTCG với thoả thuận là sau một thời gian ngắn trong tương lai người bán sẽ mua lại các GTCG đó. Repos đảo ngược được sử dụng khi NHTW thực hiện bán GTCG với thoả thuận người mua sẽ bán lại vào một ngày xác định trong tương lai. Thông thường, Repos và Repos đảo ngược được sử dụng trong một khoảng thời gian ngắn với mục đích điều tiết vốn khả dụng của các NHTM một cách linh hoạt. Giao dịch theo hợp đồng Repos thực chất là một khoản cho vay của NHTW có bảo đảm bằng các GTCG có tính thị trường cao. Các giao dịch mua bán có kỳ hạn được sử dụng chủ yếu trong OMO do các lý do: (i) Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ ngân hàng, (ii) Chi phí giao dịch thấp hơn các giao dịch mua bán hẳn, (iii) Thích hợp trong trường hợp các định hướng của CSTT không hoàn hảo dẫn đến phải sử dụng các giải pháp khắc phục, (iiii) Làm giảm bớt thời gian thông báo, do đó mà giảm bớt biến động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW. 1.2.6.2. Phương thức đấu thầu của nghiệp vụ thị trường mở Các giao dịch OMO thường được thực hiện thông qua 2 phương thức đấu thầu là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. a, Đấu thầu khối lượng Đấu thầu khối lượng là phương thức đấu thầu với lãi suất được NHTW công bố trước. NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện. NHTW công bố điều kiện đặt thầu để các thành viên đăng ký số tiền dự thầu trên cơ sở chấp thuận mức lãi suất đã xác định trước. Sau khi mở thầu NHTW sẽ xác định tỷ lệ giá trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt thầu. Việc phân bổ thầu được tiến hành thực hiện như sau: Trước hết toàn bộ số lượng đăng ký dự thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ các đơn dự thầu đều được phân bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì khối lượng
  19. 19 trúng thầu của từng thành viên được phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên đó. Các đơn dự thầu sẽ được phân bổ như sau: n Tỷ lệ % phân bổ thầu: k = A/ bi trong đó: i 1 - A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán - n: là tổng số thành viên tham gia dự thầu - bi là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i - k là tỷ lệ phân bổ thầu Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i (Wi) được xác định như sau: Wi = k x bi b, Đấu thầu lãi suất Theo phương thức đấu thầu lãi suất thì các thành viên tham gia tự đăng ký số tiền ứng với mỗi mức lãi suất do tự mình lựa chọn. - Trường hợp NHTW cần cung ứng tiền thêm vào lưu thông thông qua việc mua GTCG, các đơn dự thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân bổ theo các mức lãi suất từ cao xuống thấp. Nghĩa là những đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân bổ trước cho đến khi khối lượng phân phối được sử dụng hết. Nếu tại mức lãi suất thấp nhất được chấp nhận, khối lượng đăng ký dự thầu lớn hơn khối lượng được phân phối thì quá trình phân bổ như sau: Gọi: - A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán - rt : là mức lãi suất thứ t được đăng ký - b(rt)i là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i ứng với mức lãi suất rt - b(rt) là tổng khối lượng đặt thầu của các thành viên ứng với mức lãi suất rt - rm là mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận. Đối với trường hợp NHTW đấu thầu để bơm thêm vốn khả dụng cho hệ thống ngân hàng thì: r1 rt r m - k(rm) là tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối cùng m 1 A - b(rt ) t 1
  20. 20 B(rm) k(rm) = Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k(r m), khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i (Wi) tại mức lãi suất rm được xác định như sau: W(rm) = k(rm) x b(rm) - Trường hợp NHTW cần hút tiền từ lưu thông về thông qua việc bán GTCG thì các quy trình diễn ra ngược lại. Trên thế giới có hai phương thức đấu thầu lãi suất là đấu thầu theo kiểu Mỹ và đấu thầu theo kiểu Hà Lan. Nếu đấu thầu theo kiểu Mỹ thì tất cả các mức lãi suất đã đăng ký trong phạm vi đặt thầu đều thực hiện theo đúng mức lãi suất đã đăng ký. Nếu đấu thầu theo kiểu Hà Lan thì tất cả lượng đặt thầu được xác định cùng mức lãi suất đạt thầu. 1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự vận hành nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương OMO là một công cụ CSTT có tính chất tự nguyện theo các nguyên tắc thị trường và linh hoạt nên sự vận hành của OMO phụ thuộc nhiều vào các yếu tố xuất phát từ bản thân NHTW và từ các thành viên thị trường. 1.2.7.1. Nhân tố chủ quan a. Dự báo về vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng Với vai trò tổ chức, xây dựng và điều hành các hoạt động OMO, trên cơ sở dự báo các diễn biến tiền tệ, tình hình vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, NHTW quyết định thời điểm, khối lượng chào mua-bán GTCG, thời hạn và phương thức giao dịch OMO nhằm điều tiết thị trường tiền tệ theo mục tiêu đã xác định. Khi dự báo vốn khả dụng dư thừa trong ngắn hạn, NHTW sẽ thực hiện các phiên chào bán GTCG hoặc phát hành tín phiếu NHTW nhằm thu hút và hấp thụ vốn khả dụng dư thừa của hệ thống ngân hàng. Trường hợp dự báo vốn khả dụng thiết hụt thì NHTW sẽ thực hiện chào mua GTCG hoặc chứng chỉ tiền gửi để cung ứng vốn cho hệ thống ngân hàng. Vì vậy, việc quyết định thực hiện các phiên giao dịch OMO và kết quả giao dịch OMO phụ thuộc rất nhiều vào độ chính xác của việc dự báo vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Nếu việc dự báo vốn khả dụng của NHTW phù hợp với thực tế diễn biến thị trường thì khả năng tham gia phiên giao dịch OMO của các ngân hàng sẽ cao hơn. Nếu dự báo sai hoặc ngược chiều thì kết quả giao dịch OMO sẽ rất thấp hoặc không có đối tác
  21. 21 nào khác tham gia giao dịch OMO. b, Các quy định về nghiệp vụ thị trường mở Nhìn chung, nghiệp vụ thị trường mở rất đa dạng về hình thức giao dịch, hàng hoá giao dịch, tần suất giao dịch, đối tác giao dịch, kỳ hạn giao dịch. Các quy định về OMO này đều có tác động nhất định đến sự vận hành của OMO. Hiện nay, OMO thường được NHTW thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: NHTW mua hẳn hoặc bán hẳn GTCG, NHTW mua hoặc bán có kỳ hạn các GTCG, NHTW phát hành tín phiếu NHTW, cầm cố các chứng chỉ tiền gửi, cho vay không có bảo đảm hoặc hoán đổi ngoại tệ. Việc quyết định sử dụng các hình thức nào phụ thuộc vào thực tế diễn biến thị trường và sự phát triển của NHTW và hệ thống ngân hàng tài chính. Hình thức mua bán có kỳ hạn GTCG là hình thức giao dịch OMO chủ yếu tại nhiều NHTW xuất phát từ tính linh hoạt của hình thức này và tiết kiệm chi phí giao dịch. Hơn nữa, NHTW sử dụng hình thức này có thể khắc phục dễ dàng các sai lầm của mình. Bên cạnh đó, hàng hoá của OMO thường là các GTCG có thu nhập cố định (lãi suất cố định) và tính thanh khoản cao như chứng khoán của chính phủ, tín phiếu NHTW. Vấn đề nổi lên gần đây là sự thiếu hụt các GTCG đủ điều kiện giao dịch trên thị trường mở của các ngân hàng, xuất phát từ quy mô thị trường trái phiếu chính phủ nhỏ. Ngoài ra, các giao dịch hoán đổi ngoại tệ cũng chỉ được thực hiện tại một số quốc gia. Một quy định nữa của NHTW cũng tác động đến sự vận hành OMO là quy định về đối tác tham gia thị trường. Tại nhiều quốc gia, chỉ có các ngân hàng mới được giao dịch trên thị trường mở. Tuy nhiên tại Ấn Độ và Ba Lan thì các đối tác chủ yếu lại là các nhà giao dịch sơ cấp. Tại Hàn Quốc thì ngân hàng, công ty tín thác và đầu tư, công ty chứng khoán cũng là các đối tác trên thị trường mở. Chính vì vậy, quy định về đối tác thị trường mở của NHTW tác động rất lớn tới sự sôi động và quy mô hoạt động của thị trường. 1.2.7.2. Các nhân tố khách quan a. Trình độ phát triển của thị trường tiền tệ quốc gia OMO là công cụ có tính chất tự nguyện theo các nguyên tắc thị trường, không có tính chất bắt buộc. Chính vì vậy, hoạt động OMO không chỉ phụ thuộc vào NHTW mà còn bị chi phối bởi môi trường kinh tế vĩ mô, hành vi của công chúng, sự tham gia thị trường và nhu cầu giao dịch của các ngân hàng. Các ngân hàng tham gia OMO nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản và mục
  22. 22 tiêu lợi nhuận từ việc kinh doanh GTCG. Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình, các ngân hàng có thể thực hiện việc bán các GTCG, vay từ các tổ chức tài chính, tín dụng khác trên thị trường vốn hoặc vay từ NHTW. Việc giao dịch trên thị trường mở phụ thuộc vào khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng thông qua thị trường tiền tệ và thường được lựa chọn cuối cùng bởi vì các lý do phi kinh tế. Khả năng tìm kiếm các nguồn vốn khác của ngân hàng phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tiền tệ quốc gia. Chính vì vậy, nếu ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu thanh khoản của mình trên thị trường tiền tệ qua việc huy động các nguồn vốn mới, bán các tài sản, vay các ngân hàng khác, hoặc thông qua các công cụ khác thì việc giao dịch OMO tại NHTW sẽ giảm thiểu. Khi đó khả năng tác động của OMO sẽ bị hạn chế. b. Hàng hoá thị trường mở do các ngân hàng nắm giữ Để tham gia thị trường mở, nhất là khi cần bổ sung nguồn vốn, các ngân hàng phải nắm giữ một lượng hàng hoá nhất định về cả khối lượng và chủng loại phù hợp với điều kiện và nhu cầu giao dịch của NHTW. Chỉ khi các hàng hoá nắm giữ của ngân hàng phù hợp với nhu cầu giao dịch của NHTW thì các ngân hàng mới có thể tham gia giao dịch OMO. Khi thực hiện giao dịch OMO, NHTW thường yêu cầu sử dụng các GTCG có độ rủi ro rất thấp và tính thanh khoản cao. Chính vì vậy, các GTCG do Bộ Tài chính hay chính NHTW phát hành thường được NHTW ưu tiên chấp thuận. Các GTCG này thường được nắm giữ bởi các ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh, quy mô lớn hoặc nguồn vốn dồi dào. Bên cạnh đó, NHTW cũng chấp thuận các GTCG khác như: GTCG do Chính phủ các nước phát triển phát hành, GTCG do chính quyền địa phương phát hành hoặc GTCG do các tổ chức tín dụng, tài chính có độ tín nhiệm cao phát hành. Chính vì vậy, danh mục GTCG được chấp thuận sử dụng trong giao dịch OMO càng đa dạng thì các ngân hàng cũng có thêm sự lựa chọn trong cơ cấu đầu tư GTCG nhằm đảm bảo tính thanh khoản và khả năng sinh lợi. 1.3. KHẢO CỨU SỰ VẬN HÀNH NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1.3.1. Sự vận hành OMO của NHTW các nước phát triển a. Ngân hàng Nhật Bản Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) là NHTW của Nhật Bản, có một quá trình
  23. 23 lịch sử thực hiện mua bán GTCG khá lâu năm từ thời kỳ trước chiến tranh. Tuy nhiên lúc đầu các hoạt động OMO được thực hiện rất hạn chế trong những trường hợp ngoại lệ để hỗ trợ cho hoạt động tái cấp vốn của BOJ. Đến tháng 11/1962, BOJ bắt đầu thực hiện mua bán GTCG một cách linh hoạt hơn cùng với việc áp dụng hạn mức tín dụng nhằm đa dạng hoá các công cụ điều hành CSTT, đồng thời ổn định thị trường tiền tệ. Thông qua các hoạt động mua bán GTCG trên thị trường mở, BOJ cung ứng khối lượng tiền cần thiết cho phát triển kinh tế thay cho việc cung ứng tiền qua kênh TCV như trước đây. Dần dần OMO đã trở thành một trong các công cụ CSTT được BOJ sử dụng thường xuyên và ngày càng quan tọng trong thực thi CSTT. Hàng hoá được sử dụng đầu tiên trong OMO là các GTCG có tính thanh khoản cao như trái phiếu và tín phiếu Chính phủ. Hiện nay ngoài các chứng khoán Chính phủ, BOJ còn sử dụng các trái phiếu công ty làm hàng hoá cho các giao dịch này. Tuy nhiên, đến nay thị trường tín phiếu, trái phiếu Chính phủ vẫn là cơ sở quan trọng cho các hoạt động của thị trường mở của Nhật Bản. Đặc biệt là trên thị trường đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Chính phủ, BOJ được phép thực hiện vai trò là người mua cuối cùng. Điều này giúp cho BOJ luôn có công cụ chủ động điều hoà thị trường tiền tệ mà không nhất thiết phải phát hành tín phiếu NHTW. Ban đầu phương thức giao dịch được áp dụng trong OMO của BOJ là giao dịch mua bán có kỳ hạn thông qua các hợp đồng mua lại theo lãi suất cố định. Sua đó phương thức giao dịch được chuyển sang thực hiện trên cơ sở mua bán GTCG theo giá thị trường, thông qua hình thức đấu thầu nhằm nâng cao khả năng điều chỉnh lãi suất trên thị trường. Việc tổ chức đấu thầu không chỉ được thực hiện theo định kỳ mà BOJ còn tổ chức đấu thầu nhanh, trong đó khối lượng GTCG mà NHTW cần mua được xác định và thực hiện ngay trong một ngày. Điều này góp phần nâng cao tính linh hoạt của thị trường. Đối tác của BOJ chủ yếu là các ngân hàng. Ban đầu BOJ thực hiện mua bán GGCG trực tiếp với các ngân hàng. Hiện nay, BOJ đã thực hiện các giao dịch OMO chủ yếu thông qua các nhà giao dịch sơ cấp và chỉ giới hạn trong phạm vi các ngân hàng mà không bao gồm các trung gian tài chính phi ngân hàng và các doanh nghiệp. Vì vậy, tác động của OMO tại Nhật Bản không mạnh như tại các NHTW của các nước phát triển khác trên thế giới.
  24. 24 b, Cục dự trữ liên bang Mỹ Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed, NHTW của Mỹ) bắt đầu thực hiện OMO từ cuối những năm 1920. Khi đó, OMO được sử dụng như một công cụ hỗ trợ thực hiện cho vay chiết khấu của Fed. Nhưng đến nay, OMO được coi là công cụ CSTT linh hoạt, có hiệu quả và quan trọng nhất của Fed vì hoạt động OMO có tính chất quyết định đến sự thay đổi dự trữ của hệ thống ngân hàng và lãi suất thị trường. Để điều hành OMO, Fed đã thành lập Uỷ ban nghiệp vụ thị trường mở (FOMC). Theo định kỳ 6 tuần/lần, FOMC họp bàn phân tích các diễn biến kinh tế - tiền tệ và các yếu tố ảnh hưởng để đưa ra các quyết định về mục tiêu tăng trưởng M1, M2 và lãi suất liên ngân hàng định hướng, lãi suất chiết khấu từ đó quyết định khối lượng GTCG giao dịch trên thị trường mở, phương thức giao dịch và thời hạn giao dịch. Fed lựa chọn những chứng khoán có tính thanh khoản và độ an toàn cao làm công cụ thực hiện OMO nhằm đạt được mục tiêu điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng một cách có hiệu quả nhất. Chứng khoán Chính phủ Mỹ (đặc biệt là tín phiếu kho bạc) là công cụ chủ yếu được sử dụng trong các giao dịch OMO do có khối lượng giao dịch trên thị trường lớn, có tính thanh khoản và độ an toàn cao. Thời hạn của các chứng khoán Chính phủ được giao dịch trên thị trường khá đa dạng, từ dưới 01 năm đến trên 10 năm. Đối tác giao dịch chủ yếu của Fed là các ngân hàng. Tuy nhiên hầu hết các giao dịch OMO thực hiện thông qua các nhà giao dịch chứng khoán chính phủ chuyên nghiệp (ngân hàng). Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà Fed áp dụng hình thức mua bán hẳn hoặc mua bán có kỳ hạn, thông qua hình thức đấu thầu lãi suất. Các giao dịch mua bán hẳn thường được sử dụng khi việc dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến mức dự trữ của các NHTM như khối lượng tiền ngoài lưu thông, khả năng chi tiêu của Chính phủ cho thấy mức dự trữ cần được tiếp tục điều chỉnh trong một thời gian dài. Ngoài ra khi cần tăng dự trữ, bên cạnh việc mua hẳn, Fed có thể sử dụng thêm hình thức cho trả trước hạn các chứng khoán. Thực chất cả 2 nghiệp vụ mua bán hẳn và thanh toán trước hạn chứng khoán đều có tác động giống nhau. Trong trường hợp dự báo cho thấy cần thay đổi tạm thời dự trữ của các ngân hàng, hoặc không dự báo được chính xác mức độ cũng như thời hạn biến
  25. 25 động của dự trữ, Fed có thể thực hiện phương thức mua bán có kỳ hạn ngắn thông qua các hợp đồng Repos, với thời gian thường không quá 15 ngày. 1.3.2. Sự vận hành OMO của Ngân hàng Thái Lan Ngân hàng Thái Lan (BOT, NHTW của Thái Lan) thực hiện OMO thông qua mua bán GTCG với các thành viên (bao gồm các NHTM, tất cả các định chế tài chính khác và một số DNNN). Hàng hoá sử dụng trong các OMO bao gồm các chứng khoán chính phủ, tín phiếu NHTW và trái phiếu DNNN được Bộ Tài chính bảo lãnh phát hành và được gửi tại NHTW. Tại Thái Lan, do số dư trái phiếu chính phủ giảm mạnh trong một vài năm qua từ tình trạng ngân sách nhà nước bội thu và nhiều trái phiếu chính phủ đã được thanh toán trước hạn nên BOT đã mở rộng giao dịch bằng chứng khoán khác và tự phát hành tín phiếu NHTW để tạo điều kiện thuận lợi cho OMO. Phương thức giao dịch OMO chủ yếu của BOT là các giao dịch có kỳ hạn thông qua các hợp đồng repo. Thậm chí đã có thời gian BOT dựa hoàn toàn vào hình thức giao dịch mua bán có kỳ hạn thông qua các hợp đồng mua bán lại trên thị trường thứ cấp mà không thực hiện các hoạt động OMO trên thị trường sơ cấp. Nhưng sau này, khi số dư trái phiếu chính phủ giảm mạnh, BOT cũng thực hiện việc đấu thầu tín phiếu NHTW trên thị trường mở. Do thị trường tiền tệ có quy mô nhỏ và tính cạnh tranh giữa các thành viên so với các nước phát triển, phạm vi hoạt động OMO của BOT tương đối rộng. Mặc dù vậy, sự hạn chế về hàng hoá cũng như sự phát triển thị trường chưa hoàn hảo làm cho tác động có thể thiệp của BOT thông qua OMO còn hạn chế. Hiện nay, hoạt động OMO của BOT vẫn còn hai hạn chế chủ yếu: Thứ nhất là, BOT chưa thực hiện OMO năng động vơi mục đích thay đổi mức dự trữ của các ngân hàng theo các mục tiêu của CSTT, mà chủ yếu thực hiện OMO nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường. Thứ hai là, quy mô và mức độ biến động của các luồng vốn quốc tế ngày càng tăng khiến cho BOT tăng cường quy mô hoạt động OMO nhằm bù đắp lại những biến động của các nhân tố khác gây ra đối dự trữ của các ngân hàng (mà cụ thể là nhằm bù đắp lại việc bơm/hút đồng Baht của Quỹ ổn định tỷ giá). Khác với các nước khác, thị trường tài chính Thái Lan bị ảnh hưởng
  26. 26 mạnh bởi nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo CSTT độc lập, BOT phải sử dụng OMO một cách tích cực để điều chỉnh luồng vốn này. Một sự điều tiết có hiệu quả trong trường hợp này đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ hoạt động có thể thiệp của NHTW trên thị trường mở với chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá. Đây là vấn đề mà BOT đang phải đương đầu, để đảm bảo tính hiệu quả của CSTT. Hiện nay, Thái Lan đang thực hiện hai chiến lược nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của OMO: Trước tiên, BOT đưa ra thêm nhiều công cụ thực hiện OMO nhằm tăng cường khả năng can thiệp của NHTW cả thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối. Chẳng hạn BOT đã phát hành các tín phiếu NHTW vào các ngày thứ sáu hàng tuần. Danh mục các GTCG đủ điều kiện sử dụng trên thị trường mua lại sẽ được mở rộng bao gồm cả các trái phiếu của các DNNN không được Bộ Tài chính bảo lãnh phát hành. Nghiệp vụ swap cũng được coi như một phương tiện khác để thực hiện việc bơm hay rút tiền Baht thông qua sử dụng USD. Thứ hai, BOT coi việc thiết lập một hệ thống các nhà giao dịch sơ cấp như một kênh bổ sung thực hiện thị trường mở. Theo kế hoạch, bước đầu, BOT sẽ có lựa chọn một số các NHTM, các công ty tài chính và các công ty chứng khoán thực hiện vai trò các đối tác không chính thức mua bán các GTCG với NHTW. Chứng khoán được giao dịch giữa NHTW và các đối tác này sẽ giới hạn, chỉ gồm chứng khoán chính phủ, trái phiếu NHTW và các trái phiếu DNNN. Trong giai đoạn này, các định chế tài chính thực hiện vai trò các nhà giao dịch sơ cấp không chính thức sẽ không phải chấp nhận thực hiện nghĩa vụ cụ thể nào. Tuy nhiên, các hoạt động kinh doanh và tạo lập thị trường của các đối tác này sẽ được đánh giá làm cơ sở lựa chọn tiếp các nhà giao dịch sơ cấp chính thức. Khi được chỉ định chính thức, các nhà giao dịch sẽ phải chấp nhận các nghĩa vụ nào đó như tham gia đều đặn vào các phiên đấu thầu trái phiếu NHTW hàng tuần và thực hiện vai trò tạo lập thị trường đối với trái phiếu Chính phủ và trái phiếu NHTW thông qua việc sẵn sàng chào giá hai chiều đối với BOT và các đối tượng khác (gồm các thể chế tài chính và các nhà đầu tư tư nhân) và cung cấp thông tin thị trường theo yêu cầu của NHTW.
  27. 27 1.3.3. Sự vận hành OMO của Ngân hàng quốc gia Ba Lan Ba Lan là một quốc gia thuộc khối Đông Âu, đã và đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Ba Lan cũng đang chuẩn bị gia nhập khối EU và thực hiện những cải cách quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng. Cũng như các quốc gia khác, công cụ OMO trở thành công cụ chính của NBP trong thực thi CSTT. Việc phát hành tín phiếu NBP vào năm 1990 là hình thức đầu tiên của OMO. Các giao dịch đảo ngược (repo và repo đảo ngược) được NBP đưa vào sử dụng vào năm 1993, khi thị trường tiền gửi liên ngân hàng tại Ba Lan đã phát triển. Lúc này NBP đã có thể thực hiện các giao dịch nhằm bổ sung hoặc hấp thụ vốn cho hệ thống ngân hàng. Sau một thời gian, do nguồn vốn của các ngân hàng gia tăng nên giao dịch cung ứng vốn của NBP đã ngừng lại. Giao dịch repo cuối cùng thực hiện vào ngày 27/01/1995. Kể từ đó, NBP chỉ thực hiện các giao dịch nhằm hấp thụ vốn dư thừa từ hệ thống ngân hàng. NBP cũng đã từng nhận tiền gửi từ nền kinh tế trong thời kỳ từ tháng 9 đến tháng 12/1997 và đây là một công cụ ngoại lệ trong OMO. Việc nhận tiền gửi của NBP đã làm gia tăng lãi suất huy động tiền gửi của hệ thống ngân hàng. Hiện nay NBP thực hiện các hình thức của OMO như sau: - Các giao dịch hấp thụ vốn như bán hẳn, bán có kỳ hạn tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NBP; - Các giao dịch bổ sung vốn như mua đảo ngược, mua hẳn tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc. Mặc dù quy định về thời hạn giao dịch khá rộng nhưng NBP chủ yếu sử dụng hình thức phát hành tín phiếu NBP với thời hạn 14 ngày trong các giao dịch thị trường mở. Hiện nay, các giao dịch bổ sung vốn không được sử dụng do nguồn vốn của hệ thống ngân hàng liên tục gia tăng. Bên cạnh đó, các giao dịch đảo ngược hay hoặc bán hẳn tín phiếu kho bạc không được thực hiện do NBP không nắm giữ các GTCG này. Nguyên nhân là do NBP chỉ có thể mua các GTCG này trên thị trường mở do việc tài trợ thâm hụt ngân sách của NBP kể cả việc mua trực tiếp các GTCG do kho bạc phát hành đã bị cấm thực hiện theo quy định tại Hiến pháp của Ba Lan. Từ tháng 9/2000, NBP đã bán các trái phiếu kho bạc hiện đang nắm giữ. Đây là các trái phiếu mà NBP mua được từ các giao dịch trước khi thay đổi
  28. 28 quy định về việc tài trợ ngân sách của NBP, được thực hiện trong tháng 9 và tháng 12/1999. NBP bán các GTCG này là một hình thức giao dịch OMO cấu trúc nhằm giảm bớt sự dư thừa nguồn vốn của hệ thống ngân hàng. Từ tháng 2/2002, giao dịch OMO cơ bản - hình thức phát hành tín phiếu NBP thời hạn 28 ngày (và 14 ngày kể từ 01/01/2003), được thực hiện vào ngày thứ 6 hàng tuần. Khối lượng phát hành tín phiếu NBP được xác định trên cơ sở tình hình thị trường và nhu cầu thanh toán của hệ thống ngân hàng. Kể từ khi Ban điều hành CSTT được thành lập vào năm 1998, NBP bắt đầu đưa vào áp dụng lãi suất tham chiếu, được xác định từ lãi suất tín phiếu NBP thời hạn 28 ngày. Kể từ năm 2003, lãi suất tham chiếu được xác định từ lãi suất tín phiếu NBP thời hạn 14 ngày. Quy mô phát hành tín phiếu NBP được công bố trên mạng Reuters. Các nhà giao dịch thị trường tiền tệ và Quỹ bảo hiểm ngân hàng có thể mua các tín phiếu này tại thị trường sơ cấp, trong khi các NHTM chỉ có thể mua các tín phiếu trên thị trường thứ cấp. Sau khi gia nhập Liên minh châu Âu, NBP trở thành một thành viên của hệ thống NHTW châu Âu (ESCB). Vì vậy, NBP phải điều chỉnh các công cụ CSTT của mình phù hợp với quy định của ESCB. Lý do điều chỉnh xuất phát từ thực tế tình trạng dư thừa vốn của hệ thống ngân hàng Ba Lan và sự thay đổi trong địa vị pháp lý của NBP. Sự khác biệt trong công cụ OMO của NBP và ESCB xuất phát từ tình trạng dư thừa vốn do đó NBP không sử dụng các giao dịch TCV ngắn hạn (14 ngày) và dài hạn (3 tháng) mà chỉ thực hiện các giao dịch hấp thụ vốn. Trong các giao dịch dài hạn, NBP không loại trừ việc sử dụng các công cụ có thời hạn dài hơn. Vì vậy, NBP đã phát hành tín phiếu NBP thời hạn 3 tháng nhằm phù hợp với quy định về công cụ thời hạn 3 tháng của ECB. Ngoài ra NBP đã thực hiện các giao dịch bán hẳn đối với trái phiếu kho bạc với toàn bộ thời hạn còn lại của trái phiếu. 1.3.4. Một số kiến nghị đối với Việt Nam Qua thực tế sử dụng công cụ OMO của NHTW một số nước trên thế giới nêu trên với các trình độ phát triển khác nhau, chúng ta có thể rút ra một số kiến nghị đối với việc vận hành OMO để điều tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng trong điều kiện cụ thể của Việt Nam như sau: Thứ nhất, tuỳ theo điều kiện cụ thể của nền kinh tế và mức độ phát triển
  29. 29 của thị trường tài chính của từng quốc gia để vận dụng và xử lý linh hoạt công cụ OMO trong điều tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng nhằm thực thi CSTT. Công cụ OMO ngày càng được sử dụng phổ biến tại các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau và vai trò đang ngày càng quan trọng. Tại hầu hết các quốc gia hiện nay, công cụ OMO đều được sử dụng với các hình thức và mức độ khác nhau. Điều này chứng tỏ sự ưu việt của công cụ này trong điều hành CSTT. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản, công cụ này được sử dụng phổ biến và chủ yếu. Còn tại Thái Lan, công cụ này đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện. Tại Ba Lan, NBP đã và đang thực hiện công cụ này và điều chỉnh nhằm phù hợp với quy định của NHTW châu Âu. Chính vì vậy, việc áp dụng công cụ OMO tại Việt Nam vào năm 2000 là một bước đột phá trong xây dựng và điều hành CSTT của Việt Nam, trong điều kiện các thị trường tài chính tiền tệ chưa thực sự phát triển. Thứ hai, cần phối kết hợp sử dụng hài hoà công cụ OMO với các công cụ khác trong quá trình thực thi CSTT để thực hiện các mục tiêu CSTT cụ thể trong từng thời kỳ. Tuy công cụ OMO là loại công cụ được sử dụng phổ biến trong thực thi CSTT nhưng không thể giải quyết được tất cả các tình huống của thị trường. Chính vì vậy, NHTW các nước đã lựa chọn các công cụ khác như swap, tỷ giá, lãi suất của BOT, chiết khấu của Fed để phối hợp sử dụng. Tại Ba Lan, bên cạnh OMO, NBP cũng sử dụng các công cụ khác như DTBB, tín dụng Lombard, công cụ tiền gửi cuối ngày, chính sách lãi suất. Cùng với OMO, các công cụ này đã hình thành nền hệ thống công cụ CSTT và đảm bảo thực hiện có hiệu quả CSTT trong các tình huống. Thứ ba, về các loại hàng hoá giao dịch trên thị trường mở. Nhìn chung tất cả các quốc gia đều xem các loại chứng khoán của Chính phủ như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa phương và tín phiếu NHTW là các loại hàng hoá chủ yếu trong các giao dịch OMO. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi vì các loại GTCG này nhìn chung có thời hạn ngắn, có khối lượng đủ lớn để NHTW có thể can thiệp và có tính thanh khoản cao. Bên cạnh đó, một số loại GTCG của các doanh nghiệp lớn, có uy tín, đã được niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc được Bộ Tài chính bảo lãnh cũng được phép giao dịch. Đối với Thái Lan, do nhiều trái phiếu Chính phủ được thanh toán trước hạn nên BOT
  30. 30 đã mở rộng sang sử dụng các loại GTCG khác và tự phát hành tín phiếu NHTW để giao dịch. Như vậy, việc lựa chọn và quyết định chủng loại hàng hoá cho giao dịch thị trường mở tuỳ thuộc vào tình hình và điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Tuy nhiên, các loại chứng khoán của Chính phủ vẫn là hàng hoá chủ yếu và không thể thiếu tại bất kỳ một quốc gia nào. Các loại GTCG do các doanh nghiệp phát hành cũng có thể được giao dịch nếu như đủ uy tín và có tính thanh khoản cao. Thứ tư, đối tác giao dịch của NHTW trong các hoạt động OMO. Trong giai đoạn đầu thì BOJ chỉ giao dịch với các TCTD, sau đó chuyển sang giao dịch với các nhà giao dịch sơ cấp. BOT còn thành lập các nhà giao dịch sơ cấp gồm các ngân hàng, công ty tài chính, công ty chứng khoán như là một kênh giao dịch bổ sung. NBP chỉ giao dịch với các nhà giao dịch thị trường và Quỹ Bảo hiểm ngân hàng trên thị trường sơ cấp. Đối tác giao dịch chủ yếu của Fed là các ngân hàng. Như vậy, khi hệ thống ngân hàng đủ lớn mạnh và có thể tác động tới thị trường tài chính thì NHTW vẫn ưa thích lựa chọn các ngân hàng làm các đối tác giao dịch chủ yếu. Còn nếu thị trường tài chính chưa thực sự phát triển như trong trường hợp của Thái Lan thì NHTW sẽ mở rộng các đối tác giao dịch nhằm tăng cường khả năng tác động tới thị trường.
  31. 31 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Luật NHNN Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1998 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho NHNN Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới hoạt động ngân hàng trong thiên niên kỷ mới, trong đó có đổi mới về các công cụ CSTT. Theo quy định tại Điều 9, Điều 16 và Điều 21 Luật NHNN, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ thực hiện CSTT quốc gia, theo đó: “OMO là nghiệp vụ mua, bán các GTCG ngắn hạn do NHNN thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện CSTT quốc gia.” 2.1.1. Sự cần thiết ra đời nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước 2.1.1.1. Hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ thấp Nhìn chung, công tác điều hành CSTT của NHNN giai đoạn 1995-2000 đã đem lại những thành công đáng kể khi nhìn vào các chỉ số phản ánh sự biến động của các mục tiêu vĩ mô: tỷ lệ lạm phát ở mức một chữ số, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 8,6%/năm. Tuy nhiên nếu quan niệm rằng mục tiêu hàng đầu của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền thì mục tiêu này chưa được thực hiện tốt. Tỷ lệ lạm phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán. Đặc biệt từ năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán vẫn tăng liên tục nhưng chỉ số giá cả, tiếp đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế, vẫn có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 1998 và 1999. Điều này chứng tỏ sự hạn chế trong hiệu quả tác động của các công cụ CSTT của NHNN, thể hiện sự thiếu chủ động, linh hoạt và khả năng truyền dẫn tác động chậm chạp. Hoạt động TCV bước đầu đã hình thành cơ chế cho vay bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về nguồn vốn của NHNN đối với các ngân hàng, tạo ra kênh cung ứng vốn tin dụng ngắn hạn có kiểm soát của NHNN. Tuy nhiên, việc TCV mới chỉ thực hiện chủ yếu tại 4 NHTMNN và hơn 70% các khoản vay dành cho mục tiêu chỉ định. Hiệu lực tác động của công cụ này thấp, không có tác dụng kích thích nhu cầu tiền tệ của các TCTD và tác động tới lãi suất
  32. 32 thị trường. Nguyên nhân chủ yếu do lãi suất TCV được quy định cứng nhắc, xa rời lãi suất thị trường và chỉ điều chỉnh nhằm phù hợp với lãi suất thị trường hơn là điều tiết thị trường. Bên cạnh đó, do NHNN không quy định phải tính DTBB đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng nên khả năng kiểm soát và điều tiết M2 của NHNN còn hạn chế. Việc trả lãi tiền gửi vượt DTBB đã không khuyến khích cả TCTD tận dụng tối đa nguồn vốn. Thêm vào đó việc quản lý vốn khả dụng của các NTHM còn yếu, chưa chủ động trong dự báo dẫn đến tình trạng có thời kỳ các NHTM để dự trữ dư thừa nhiều, hạn chế các hoạt động của thị trường tiền tệ, nhất là hoạt động cho vay ngắn hạn hoặc qua đêm giữa các ngân hàng, có lúc gây ra thiếu phương tiện thanh toán trầm trọng. Các công cụ hiện hành không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện dư thừa. Tình trạng dự trữ dư thừa không mong muốn tại các ngân hàng bắt đầu từ năm 1994 và kéo dài đến năm 2000 là cho các ngân hàng phải chịu áp lực mạnh về chi phí vốn, đồng thời giảm hiệu quả tác động của CSTT, đặc biệt công cụ TCV. Các công cụ này tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Điều này thể hiện rõ trong hai năm 1998-1999 khi trần lãi suất cho vay liên tục giảm nhưng khối lượng tín dụng không tăng tương ứng, đồng thời giá cả và sản lượng giảm liên tục. Hiệu quả của CSTT thấp còn bởi vì chúng chỉ tác động được qua kênh truyền dẫn duy nhất là kênh tín dụng của hệ thống ngân hàng. Các kênh tác động khác như lãi suất và thị trường tài chính chưa phát huy do thị trường tiền tệ và chứng khoán chưa hoạt động. Vì vậy, tác động của CSTT trong giai đoạn này chủ yếu thông qua tác động về khối lượng. Để khắc phục nhược điểm này, bên cạnh việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các công cụ hiện có cũng như kênh truyền dẫn tác động, việc đưa vào áp dụng các công cụ CSTT gián tiếp có khả năng tác động đến lãi suất và khối lượng vốn của nền kinh tế là cấp thiết. Một trong những công cụ đó là nghiệp vụ thị trường mở. Chính vì vậy, sự hình thành thị trường mở trở thành mục tiêu của NHNN trong việc hoàn thiện công cụ CSTT trong giai đoạn này. 2.1.1.2. Sự tồn tại của các thị trường chứng khoán nợ
  33. 33 Trước năm 1990, nền kinh tế Việt Nam được tài trợ từ các trung gian tài chính mà chủ yếu là các ngân hàng. Từ đầu thập niên 1990s, tình trạng này đã được cải thiện. Nhiều người có nhu cầu vốn đã bắt đầu làm quen với hình thức huy động vốn trực tiếp từ công chúng trên cơ sở sử dụng các GTCG với các thời hạn khác nhau. Đây là điều kiện nền tảng cho hoạt động thị trường mở. Các thị trường chứng khoán nợ (ngắn hạn và dài hạn) đã ra đời và phát triển, đó là thị trường trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp. Trái phiếu chính phủ đã trở thành nguồn bù đắp chi tiêu ngân sách phổ biến từ năm 1994 khi Chính phủ bắt đầu phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình. Từ năm 1995, tín phiếu kho bạc đã bắt đầu được phát hành theo hình thức đấu thầu tại NHNN với số lượng trúng thầu ngày càng tăng. Lượng tín phiếu kho bạc trúng thầu qua NHNN đã tạo cơ sở tiền đề về hàng hoá ban đầu cho hoạt động thị trường mở sau này. Bên cạnh trái phiếu chính phủ, một số chứng khoán nợ của doanh nghiệp cũng được phát hành, trong đó chủ yếu là các kỳ phiếu ngân hàng. Tuy nhiên các giao dịch đối với trái phiếu doanh nghiệp là nhỏ bé và tự phát. Mặc dù thị trường giao dịch trái phiếu chưa phát triển nhưng cũng đã tạo ra những điều kiện tiền đề cho sự vận hành của thị trường mở. 2.1.1.3. Xu thế hội nhập kinh tế Xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động thương mại và tài chính đã ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế vĩ mô và các công cụ CSTT ở hầu hết các nước trên thế giới. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Xu hướng toàn cầu hoá tất yếu dẫn đến trào lưu liên minh khu vực và tự do hoá các thị trường tài chính khu vực. Trào lưu này đòi hỏi các công cụ CSTT phải đảm bảo mối liên hệ linh hoạt giữa các cân bằng nội và cân bằng ngoại. Nghiệp vụ thị trường mở, với cơ chế hoạt động chủ yếu dựa vào thị trường, là công cụ CSTT thích hợp nhất tại hầu hết các quốc gia. Thông qua OMO, NHTW có thể tác động trức tiếp và nhanh chóng đến các mục tiêu hoạt động. Bên cạnh đó, OMO đang trở thành một công cụ CSTT phổ biến ở các quốc gia phát triển và đang phát triển. Đây là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc học hỏi kinh nghiệm và tổ chức hoạt động của thị trường mở tại Việt Nam. 2.1.2. Quá trình hình thành và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của nghiệp vụ thị trường mở
  34. 34 2.1.2.1. Khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời của nghiệp vụ thị trường mở Bên cạnh các điều kiện vĩ mô về tiền tệ ngân hàng cho sự ra đời của nghiệp vụ thị trường mở thì việc thiếu cơ sở pháp lý hợp lý và đồng bộ sẽ hạn chế hoạt động và phát triển của thị trường mở. Về cơ bản, hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động thị trường mở phải bao gồm các lĩnh vực sau: Giới hạn phạm vi thị trường, các công cụ của thị trường, quy định về phát hành GTCG, cơ chế hoạt động của thị trường thứ cấp, quy chế hoạt động can thiệp của NHNN, quản lý vốn khả dụng của NHNN. Cho đến tháng 3/2000, về cơ bản, hệ thống văn bản pháp lý làm cơ sở cho sự ra đời và hoạt động của OMO đã hình thành. Cụ thể: Thứ nhất, khung pháp lý về phạm vi thị trường và công cụ Theo quy định tại Điều 21 Luật NHNN: "NHNN thực hiện OMO thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các loại GTCG ngắn hạn trên thị trường tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia." Như vậy, thị trường mở chỉ giới hạn trong phạm vi thị trường tiền tệ, ngụ ý rằng các giao dịch thị trường mở phải có thời gian dưới 12 tháng và các loại GTCG giao dịch cũng phải đáo hạn trong vòng 1 năm. Ngoài ra, Luật NHNN cũng đã cụ thể hoá các loại công cụ (GTCG) giao dịch thông qua OMO là tín phiếu KBNN, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các loại GTCG ngắn hạn khác do Thống đốc quy định cụ thể. Thứ hai, khung pháp lý về việc phát hành các giấy tờ có giá - hàng hoá của thị trường Để cung cấp hàng hoá cho thị trường, một số loại GTCG đã được phát hành. Hệ thống pháp lý về việc ban hành các GTCG này đã được hoàn thiện, như: - Quy chế phát hành tín phiếu NHNN ban hành theo Quyết định số 362/1999/QĐ-NHNN1 ngày 08/10/1999 của Thống đốc; - Quy chế phát hành trái phiếu chính phủ theo Nghị định số 72/CP ngày 26/7/1994 của Chính phủ và Quyết định số 01/2000/QĐ-TTg ngày 13/01/2000 của Thủ tướng Chính phủ; - Pháp lệnh thương phiếu tháng 2/1999; - Luật Thương mại năm 1997.
  35. 35 Thứ ba, khung pháp lý về thị trường thứ cấp NHNN đã ban hành nhiều văn bản quy định về các giao dịch thứ cấp nhằm tạo tính thanh khoản cho các GTCG trên và thị trường thứ cấp, như: - Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường nội tệ liên ngân hàng theo Quyết định số 136 QĐ/NH2 ngày 20/7/1993 của Thống đốc; - Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo Quyết định số 101/1999/QĐ-NHNN13 ngày 26/3/1999 của Thống đốc; - Quy chế về nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng theo Quyết định 356/1999/QĐ-NHNN14 ngày 06/10/1999 của Thống đốc. Thứ tư, khung pháp lý về hoạt động can thiệp của NHNN trên thị trường mở Quy chế nghiệp vụ thị trường mở được ban hành theo Quyết định 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 09/3/2000 của Thống đốc. Quy chế này hướng dẫn thực hiện giao dịch trên thị trường mở, nghiệp vụ thanh toán, lưu ký, và sự can thiệp của NHNN trên thị trường. NHNN cũng đã thành lập Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở để quyết định tất cả các vấn đề liên quan. Thứ năm, khung pháp lý về quản lý vốn khả dụng Quy chế quản lý vốn khả dụng được ban hành theo Quyết định số 37/2000/QĐ-NHNN1 ngày 24/01/2000 của Thống đốc. Đây là yếu tố nền tảng cho hoạt động OMO và hoạt động TCV của NHNN. Nó xác định lượng vốn khả dụng thừa thiếu hàng ngày làm căn cứ để quyết định chiều hướng và mức độ can thiệp của NHNN trên thị trường mở. Như vậy, để chuẩn bị cho công cụ OMO triển khai hoạt động, NHNN đã ban hành nhiều văn bản pháp lý liên quan, không những trực tiếp quy định về công cụ này như quy chế về OMO, thành lập Ban điều hành OMO, quy trình thực hiện OMO, hạch toán giao dịch OMO, chế độ thông tin báo cáo, mà còn ban hành quy định về những vấn đề liên quan đến công cụ này như quy chế quản lý vốn khả dụng, quy chế lưu ký GTCG ngắn hạn, quy trình đấu thầu tín phiếu kho bạc, Thông qua các quy định này, NHNN đã hướng dẫn cụ thể việc tổ chức và thực hiện các giao dịch trên thị trường mở, tạo điều kiện cho các TCTD nắm bắt và triển khai thực hiện. Hệ thống các văn bản pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường mở đã cơ bản đầy đủ và sẽ
  36. 36 hoàn thiện trong tương lai. Các quy định này đảm bảo hoạt động thị trường mở trôi chảy từ khâu phát hành GTCG đến giao dịch GTCG cũng như cơ sở để xác định mức độ can thiệp thị trường của NHNN. 2.1.2.2. Quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở Sau một thời gian chuẩn bị, nghiệp vụ thị trường mở chính thức được NHNN khai trương và đưa vào vận hành vào ngày 12/7/2000, đánh dấu một bước tiến quan trọng của NHNN trong việc chuyển sang điều hành CSTT bằng các công cụ gián tiếp. Trong thời gian 5 năm triển khai thực hiện, NHNN cũng đã tiến hành sửa đổi kịp thời các văn bản nhằm thúc đẩy sự hoạt động của thị trường như sửa đổi quy chế hoạt động OMO vào các năm 2001, 2002, 2003 và 2004; quy chế lưu ký GTCG được sửa đổi năm 2004, a. Quy chế về nghiệp vụ thị trường mở Để tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai công cụ OMO tại Việt Nam, ngày 09/3/2000, Thống đốc đã ban hành Quy chế hoạt động nghiệp vụ thị trường mở kèm theo Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN (gọi tắt là Quy chế 85). Theo đó, OMO là nghiệp vụ mua bán các GTCG ngắn hạn giữa một bên là NHNN với một bên là các TCTD là thành viên của thị trường mở trên thị trường tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia. Các GTCG ngắn hạn được giao dịch ở thị trường mở bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các loại GTCG ngắn hạn khác do Thống đốc quy định. Quy chế 85 cũng quy định về các giao dịch trên thị trường mở, phương thức giao dịch, phương thức đấu thầu, điều kiện tham gia thị trường mở, các loại GTCG được giao dịch thông qua thị trường mở, quy trình tham gia OMO. Tuy nhiên, việc quy định về hình thức giao dịch đấu thầu lãi suất, ngày thanh toán, lãi suất mua hoặc bán, khối lượng mua hoặc bán tại Quy chế 85 chưa phù hợp nên NHNN đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung bằng các Quyết định số 1439/2001/QĐ-NHNN ngày 20/11/2001 và Quyết định số 877/2002/QĐ- NHNN ngày 19/8/2002. Theo đó, “Đấu thầu lãi suất là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia OMO trên cơ sở lãi suất dự thầu của các TCTD và khối lượng GTCG NHNN cần mua hoặc bán.” và “Ngày thanh toán là ngày đấu thầu, các TCTD trúng thầu thực hiện giao, nhận GTCG và thanh
  37. 37 toán với NHNN.”. Bên cạnh đó, NHNN cũng quy định thẩm quyền của “Ban điều hành OMO quyết định thông báo hoặc không thông báo khối lượng GTCG NHNN cần mua hoặc cần bán trước mỗi phiên đấu thầu”trong phương thức đấu thầu lãi suất. Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN được ban hành, NHNN đã ban hành Quyết định số 1085/2003/QĐ-NHNN ngày 16/9/2003 và công văn số 1511/NHNN-TD ngày 28/12/2004 để sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Quy chế nghiệp vụ thị trường mở. Theo đó, “NHNN thực hiện OMO thông qua việc mua bán ngắn hạn tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các loại GTCG khác với TCTD trên thị trường tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia.” Bên cạnh đó, cuối năm 2005, Thống đốc ban hành Quyết định số 1909/QĐ-NHNN ngày 30/12/2005 cho phép trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển được phép giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở. Chủng loại GTCG được giao dịch trên thị trường mở cũng được mở rộng, ngoài những GTCG ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN còn bao gồm cả những GTCG dài hạn như trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư do ngân sách trung ương thanh toán, công trái, trái phiếu công trình trung ương và các loại GTCG khác do Thống đốc quy định. Ngoài ra, NHNN cũng đã sửa đổi các quy định liên quan đến thời gian thực hiện nghiệp vụ, các mẫu biểu đi kèm nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các TCTD khi tham gia thị trường mở. Để khắc phục những hạn chế và tiến dần tới chuẩn hóa các quy định của Ngân hàng Nhà nước trong các giao dịch liên quan đến GTCG, Thống đốc đã ban hành Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007 về ban hành Quy chế nghiệp vụ thị trường mở, thay thế tất cả các quy định trước đó. b. Quy chế quản lý vốn khả dụng Để quyết định việc “bơm”, “hút” tiền qua thị trường mở, NHNN cần phải căn cứ vào thực trạng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Vì vậy việc quản lý và dự báo vốn khả dụng nhằm phục vụ cho điều hành CSTT là hết sức cần thiết. Theo Quy chế quản lý vốn khả dụng kèm theo Quyết định số 37/2000/QĐ-NHNN ngày 24/01/2000 của Thống đốc, vốn khả dụng là số tiền gửi của các TCTD (gồm tiền gửi DTBB, tiền gửi thanh toán và các loại tiền
  38. 38 gửi khác) tại NHNN. Trên cơ sở tính toán, phân tích và dự báo sự thay đổi về vốn khả dụng, NHNN sẽ xác định mức vốn khả dụng cần duy trì của các TCTD để đảm bảo thực hiện CSTT, từ đó đưa ra các giải pháp để can thiệp đến vốn khả dụng của các TCTD thông qua các công cụ CSTT. NHNN dự báo vốn khả dụng của các TCTD trên cơ sở xác định các nhân tố ảnh hưởng đến vốn khả dụng, như: cung cầu ngoại tệ trên thị trường tiền tệ và sự can thiệp của NHNN; diễn biến thu chi ngân sách nhà nước; doanh số phát hành và thu hồi tiền mặt của NHNN; nhu cầu vay và khả năng huy động vốn của các NTHM, Kết quả dự báo vốn khả dụng của các TCTD được sử dụng làm cơ sở thực hiện OMO và dự đoán cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ để điều hành CSTT. Như vậy, việc tính toán và dự báo diễn biến vốn khả dụng là cơ sở cho việc điều hành OMO nói riêng và CSTT nói chung của NHNN. 2.1.3. Bộ máy tổ chức điều hành nghiệp vụ thị trường mở Để tổ chức và điều hành OMO, NHNN cũng đã hình thành được một bộ máy tổ chức và triển khai hoạt động thị trường mở tại NHNN bao gồm Ban điều hành OMO do một Phó Thống đốc làm trưởng ban. Bên cạnh đó, một số bộ phận tại các Vụ Cục cũng được thiết lập và hoàn thiện nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực về con người, trang thiết bị để xây dựng và hoàn thiện hoạt động thị trường mở. 2.1.3.1. Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở Ban điều hành OMO trực tiếp chỉ đạo điều hành toàn bộ hoạt động OMO tại Việt Nam. Trưởng ban điều hành là 1 Phó Thống đốc. Ban điều hành có 1 phó trưởng ban thường trực là Vụ trưởng Vụ CSTT, 1 phó trưởng ban là Giám đốc Sở giao dịch NHNN. Các uỷ viên Ban điều hành OMO là đại diện lãnh đạo các Vụ Tín dụng, Vụ Quản lý ngoại hối và Sở Giao dịch. Thư ký ban là chuyên viên của Vụ CSTT và Sở giao dịch. Mọi vấn đề từ chủ trương định hướng đến các quyết định cụ thể trong từng phiên hay các sáng kiến cải tiến cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật đều được Ban điều hành bàn bạc tập thể và Trưởng ban quyết định trên cơ sở các ý kiến đã thống nhất. Việc điều hành OMO đã ngày càng mang tính thị trường, các quyết định mua và bán GTCG với các phương án đấu thầu, xét thầu cụ thể đối với từng phiên đều được Ban điều hành cân nhắc kỹ lưỡng trên cơ sở xem xét
  39. 39 tình hình vốn khả dụng của hệ thống các TCTD, xu hướng lãi suất thị trường và mục tiêu điều hành CSTT của NHNN. Bên cạnh việc chỉ đạo sát sao các Vụ, Cục liên quan chủ động nghiên cứu đổi mới cơ chế, quy chế về OMO, Ban điều hành đã tổ chức một số đợt tập huấn, hội nghị sơ kết hàng năm để hướng dẫn các văn bản mới, tiếp thu kịp thời các kiến nghị, đề xuất góp phần hoàn thiện công cụ OMO. Đồng thời thông qua một số đợt khảo sát trong nước và nước ngoài, Ban điều hành đã kịp thời có các đề xuất về đổi mới hoạt động OMO, phát triển các nghiệp vụ thị trường tiền tệ và việc điều hành CSTT của NHNN nói chung. 2.1.3.2. Các phòng, bộ phận liên quan Để triển khai những nghiệp vụ mới phục vụ cho OMO, một số bộ phận tại các Vụ, Cục của NHNN đã được thiết lập và hoàn thiện. a, Bộ phận quản lý vốn khả dụng thuộc Vụ Chính sách tiền tệ, xây dựng và hoàn thiện Quy chế quản lý vốn khả dụng; trực tiếp thu thập các thông tin để dự báo sự biến động về vốn khả dụng trên thị trường, đề xuất với Ban điều hành về định hướng hoạt động OMO, cũng như khối lượng, lãi suất và phương thức giao dịch của từng phiên đấu thầu, qua đó hỗ trợ đắc lực cho Ban điều hành đưa ra những quyết sách phù hợp. b, Phòng Nghiệp vụ thị trường tiền tệ thuộc Sở Giao dịch, xây dựng các quy trình thực hiện OMO, trực tiếp thực hiện các quy trình thủ tục đấu thầu, xét thầu theo quyết định của Ban điều hành. c, Phòng Thị trường tiền tệ và bảo lãnh thuộc Vụ Tín dụng, thực hiện xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, quy chế cho hoạt động OMO và các thị trường tiền tệ liên quan. d, Một số phòng ban khác đã góp phần cho hoạt động OMO được thực hiện thành công như: - Phòng Kế toán, Phòng Thanh toán điện tử liên ngân hàng, Phòng Ngân quỹ tại Sở Giao dịch thực hiện các nghiệp vụ hạch toán, thanh toán, lưu ký GTCG - Phòng Kỹ thuật I, Phòng Kỹ thuật II, Phòng Quản lý thông tin thuộc Cục Công nghệ tin học ngân hàng thực hiện thiết kế cài đặt chương trình phần mềm ứng dụng, trang bị phần cứng, đường truyền kết nối, xử lý các vấn đề kỹ thuật trong việc thực hiện OMO qua mạng máy tính.
  40. 40 2.1.4. Các thành viên tham gia thị trường mở Các thành viên tham gia thị trường mở tại Việt Nam bao gồm NHNN và các TCTD có đủ điều kiện theo quy định của NHNN. 2.1.4.1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHNN tham gia thị trường mở với tư cách vừa là người tổ chức và điều hành thị trường mở vừa là thành viên. NHNN là cơ quan xem xét và chứng nhận tư cách thành viên cho các TCTD đủ điều kiện. 2.1.4.2. Các đối tác của Ngân hàng nhà nước Việt Nam Theo quy định hiện hành về OMO, thành viên tham gia OMO chỉ là các TCTD thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD và có đủ các điều kiện sau: (i) Có tài khoản tiền gửi tại NHNN, (ii) Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia OMO, và (iii) Có đăng ký tham gia OMO. Trong điều kiện (ii), đòi hỏi các TCTD phải có đầu tư cơ sở vật chất ban đầu để tham gia giao dịch trên thị trường mở như máy tính để giao dịch, nối mạng với Sở giao dịch NHNN, chương trình phần mềm giao dịch Đối với các TCTD có quy mô lớn thì có thể đầu tư các thiết bị mạng theo kỹ thuật tiên tiến để giao dịch. Đối với những TCTD có quy mô nhỏ thì có thể giao dịch với NHNN thông qua việc truyền file với chi phí thấp. Khi OMO bắt đầu hoạt động vào tháng 7/2000, có 20 TCTD được công nhận là thành viên tham gia OMO. Số lượng thành viên thị trường mở tăng dần qua các năm, nhưng với tốc độ chậm, chỉ 1-2 thành viên mỗi năm. Đến ngày 31/12/2005 đã có 29 TCTD được công nhận là thành viên tham gia OMO, gồm 05 NHTMNN, 14 NHTMCP, 07 chi nhánh NHNg, 01 ngân hàng liên doanh, 01 công ty tài chính và Quỹ Tín dụng nhân dân trung ương. Đây có thể coi là những thành viên năng động nhất trên thị trường tiền tệ, góp phần quan trọng vào việc điều hoà vốn cho thị trường, truyền dẫn vốn từ NHTW đến các TCTD thiếu vốn nhưng không có đủ các điều kiện để tham gia OMO. Bảng 2.1. Số lượng thành viên thị trường mở qua các năm Số lượng thành viên Năm Năm Năm Năm Năm Năm OMO 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1. NHNN 1 1 1 1 1 1 2. NHTM nhà nước 4 4 4 5 5 5
  41. 41 3. NHTM cổ phần 9 10 10 11 13 14 4. NH nước ngoài 4 4 5 5 6 7 5. NH liên doanh 1 1 1 1 1 1 6. TCTD phi ngân hàng 1 1 1 1 1 1 7. Quỹ TDNDTW 1 1 1 1 1 1 Tổng 21 22 23 25 28 30 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Như vậy, hiện nay chỉ có các TCTD mới có thể là thành viên thị trường mở. Quy định về điều kiện thành viên OMO hiện nay là phù hợp với giai đoạn phát triển đầu của thị trường mở tại Việt Nam, điều kiện phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam và năng lực quản lý điều hành của NHNN. 2.1.5. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở Khi thị trường mở bắt đầu hoạt động vào tháng 7/2000, các loại GTCG được giao dịch trên thị trường mở là tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các loại GTCG ngắn hạn khác do Thống đốc quy định cụ thể trong từng thời kỳ. Đây là những GTCG có tính an toàn rất cao và hầu như không bị rủi ro. Để có thể giao dịch được trên thị trường mở, các GTCG này phải thoả mãn các điều kiện sau: (i) Có thể giao dịch được; (ii) Được phát hành bằng đồng Việt Nam; (iii) Đã đăng ký tại NHNN theo quy định và (iv) GTCG được mua, bán hẳn phải có thời hạn còn lại tối đa là 90 ngày. Các quy định về GTCG như trên là rất chặt chẽ nhằm hạn chế tối đa các rủi ro trên thị trường mở. Điều này phù hợp với thời kỳ phát triển ban đầu của thị trường mở tại Việt Nam. Để phù hợp với quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN, NHNN đã bổ sung các GTCG được giao dịch trên thị trường mở. Theo đó, các loại GTCG dài hạn như trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư do ngân sách trung ương thanh toán, công trái, trái phiếu công trình trung ương đã được chấp thuận giao dịch. Hàng hoá giao dịch của thị trường mở lúc này bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư do ngân sách trung ương thanh toán, công trái, trái phiếu công trình trung ương và các loại GTCG khác do Thống đốc quy định. Việc mở rộng các loại GTCG được chấp thuận giao dịch đã tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động của thị trường mở sôi động hơn và khối lượng mua bán GTCG nhiều hơn.
  42. 42 Nhìn chung, các loại hàng hoá (GTCG) giao dịch trên thị trường mở được "lựa chọn" cẩn thận nhằm đảm bảo độ an toàn và tính thanh khoản cao. Hiện nay chỉ các GTCG do ngân sách trung ương hoặc NHNN thanh toán mới được giao dịch trên thị trường mở. Bất kỳ một loại GTCG nào khác, kể cả chứng chỉ tiền gửi hay GTCG do TCTD, chính quyền địa phương phát hành, đều chưa được giao dịch. 2.1.6. Phương thức giao dịch trên thị trường mở 2.1.6.1. Phương thức mua bán Giao dịch OMO giữa NHNN và các thành viên được thực hiện theo 2 phương thức sau: a, Giao dịch mua và bán hẳn: NHNN sẽ mua hoặc bán các GTCG với toàn bộ thời hạn còn lại của chúng. Sau khi giao dịch, quyền sở hữu GTCG sẽ được chuyển giao từ bên bán sang bên mua và không kèm thoả thuận mua bán lại các GTCG. b, Giao dịch bán và cam kết mua lại (giao dịch có kỳ hạn) được NHNN thực hiện như sau: - Trường hợp NHNN bán các GTCG mà mình đang nắm giữ cho các thành viên kèm theo một cam kết sẽ mua lại các GTCG này sau một thời gian nhất định. Đến thời hạn NHNN sẽ mua lại GTCG và thanh toán tiền mua cho các TCTD. - Ngược lại, các thành viên bán GTCG cho NHNN kèm theo cam kết sẽ mua lại GTCG này sau một thời gian nhất định. Đến thời hạn các thành viên sẽ mua lại các GTCG và thanh toán tiền mua cho NHNN. Như vậy, quyền sở hữu GTCG tạm thời chuyển giao giữa NHNN và các TCTD thành viên trong một thời gian nhất định. Thực chất đây là một hình thức tín dụng giữa NHNN và các TCTD có bảo đảm bằng GTCG. 2.1.6.2. Phương thức đấu thầu Các giao dịch mua bán trong OMO giữa NHNN và các thành viên đều được thực hiện thông qua hình thức đấu thầu. Việc tổ chức đấu thầu các giao dịch trên thị trường mở thể hiện rõ tính thị trường trong quan hệ giữa NHNN và các TCTD. NHNN áp dụng 2 hình thức đấu thầu sau: a, Đấu thầu khối lượng Khi thực hiện đấu thầu khối lượng, việc mua bán GTCG thực hiện như sau:
  43. 43 Thứ nhất, NHNN sẽ thông báo khối lượng và lãi suất các loại GTCG cần mua cần bán cho các thành viên thị trường mở. Thứ hai, Các thành viên đặt thầu khối lượng các loại GTCG cần mua hoặc cần bán theo lãi suất do NHNN thông báo. Thứ ba, NHNN xét thầu và phân bổ khối lượng trúng thầu theo nguyên tắc: - Trường hợp khối lượng dự thầu của các thành viên nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng NHNN cần mua hoặc bán thì khối lượng trúng thầu của từng thành viên là khối lượng mà các thành viên đó đặt thầu. - Trường hợp khối lượng dự thầu của các thành viên lớn hơn khối lượng NHNN cần mua hoặc bán thì khối lượng trúng thầu của từng thành viên được phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các thành viên đó và được làm tròn đến 10 triệu đồng. b, Đấu thầu lãi suất Khi thực hiện đấu thầu lãi suất, việc mua bán GTCG thực hiện như sau: Thứ nhất, Ban điều hành OMO sẽ dự kiến khối lượng GTCG cần mua/bán trong phiên đấu thầu. Khối lượng dự kiến cần mua/bán có thể thông báo hoặc không thông báo trước mỗi phiên đấu thầu cho các thành viên tham gia dự thầu. Thứ hai, TCTD dự thầu theo các mức lãi suất và khối lượng GTCG cần mua/bán ứng với các mức lãi suất đó. Lãi suất đặt thầu được tính theo tỷ lệ %/năm. Thứ ba, NHNN tổ chức xét thầu theo các bước và nguyên tắc sau: - Các mức đặt thầu được xếp theo thứ tự lãi suất giảm dần (trường hợp NHNN mua GTCG) và theo thứ tự tăng dần (trường hợp NHNN bán GTCG). - Lãi suất trúng thầu là lãi suất đặt thầu thấp nhất (trường hợp NHNN mua GTCG) hoặc lãi suất đặt thầu cao nhất (trường hợp NHNN bán GTCG). - Khối lượng trúng thầu của thành viên là khối lượng của các mức dự thầu có lãi suất bằng hoặc cao hơn mức lãi suất trúng thầu (trường hợp NHNN mua) hoặc có lãi suất bằng hoặc thấp hơn lãi suất trúng thầu (trường hợp NHNN bán). - Trường hợp tại mức lãi suất trúng thầu, tổng khối lượng đặt thầu của các TCTD vượt quá khối lượng GTCG mà NHNN cần mua/bán thì khối lượng GTCG trúng thầu của các TCTD tại mức lãi suất trúng thầu được tính theo tỷ
  44. 44 lệ thuận với khối lượng đặt thầu của TCTD tại mức lãi suất đó và được làm tròn đến 10 triệu đồng. Nếu tại mức lãi suất trúng thầu, TCTD có nhiều loại GTCG cần mua/bán thì NHNN xét thầu xác định theo thứ tự ưu tiên như sau: + GTCG đăng ký bán hoặc mua có khối lượng lớn hơn, + GTCG có thời hạn bán hoặc mua ngắn hơn (trường hợp mua hoặc bán hẳn), + Thời hạn còn lại của GTCG ngắn hơn. Để xác định lãi suất áp dụng từng mức trúng thầu cho TCTD sau khi đã xác định được khối lượng trúng thầu, NHNN áp dụng 2 phương pháp xác định lãi suất như sau: - Phương pháp tính lãi suất trúng thầu theo lãi suất thống nhất (phương pháp Hà Lan): Toàn bộ khối lượng GTCG trúng thầu được tính thống nhất theo mức lãi suất trúng thầu. - Phương pháp tính lãi suất trúng thầu theo lãi suất riêng lẻ (phương pháp Mỹ): Từng mức khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với mức lãi suất TCTD đặt thầu. TCTD dự thầu ở mức lãi nào thì khi trúng thầu ở mức lãi suất đó sẽ được áp dụng để tính giá mua bán GTCG. 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Bắt đầu từ ngày 12/7/2000, NHNN tiến hành đưa công cụ OMO vào hoạt động. Đây là một bước tiến mới trong điều hành CSTT của NHNN theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, để phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển của đất nước. Nó đã mở ra một kênh cung ứng và điều tiết vốn khả dụng của các TCTD cho NHNN và tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng linh hoạt các loại GTCG của mình. Công cụ OMO liên tục được NHNN cải tiến trong những năm qua và dần trở thành một công cụ CSTT chủ yếu của NHNN. 2.2.1. Doanh số trúng thầu nghiệp vụ thị trường mở Ngay từ khi triển khai, NHNN đã xác định OMO sẽ là một công cụ chủ yếu trong điều hành CSTT của NHNN. Để đạt được mục đích đó, NHNN đã tập trung thực hiện việc điều hoà lưu thông tiền tệ thông qua công cụ này. Điều này thể hiện ở doanh số mua bán GTCG trên thị trường mở tăng nhanh qua các năm. Những năm gần đây, tốc độ này đạt trên 200%. Bảng 2.2. Tổng doanh số trúng thầu OMO qua các năm
  45. 45 Đơn vị: tỷ đồng Doanh số trúng thầu Tốc độ Năm Tổng Mua Mua có Bán Bán có Doanh số tăng số hẳn kỳ hạn hẳn kỳ hạn bình quân trưởng (%) 2000 1.904 480 874 550 112 2001 3.934 60 3.254 570 50 82 106,7 2002 9.146 7.246 1.900 108 132,5 2003 21.184 9.844 11.340 198 131,6 2004 61.936 60.986 950 504 192,4 2005 102.479 100.679 1.100 700 649 65,5 Tổng 200.582 540 182.882 15.460 1.700 373 95,73 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thông qua hoạt động OMO, NHNN không chỉ mua GTCG để bơm thêm vốn khả dụng khi thị trường thiếu hụt vốn khả dụng và mà còn bán GTCG để hút tiền nhàn rỗi khi thị trường dư thừa vốn nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Doanh số trúng thầu OMO tăng mạnh qua các năm, trung bình tăng 1,9573 lần/năm, qua đó tăng khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của TCTD cũng như các điều kiện tiền tệ.
  46. 46 Từ năm 2002-2004, doanh số trúng thầu tăng trưởng hàng năm trên 100% và năm 2004 bằng 2,924 lần năm 2003 và 15,74 lần năm 2001. Doanh số trúng thầu tăng nhanh bởi các phiên OMO đã được tổ chức thường xuyên hơn, và doanh số giao dịch từng phiên tăng lên. Năm 2005, doanh số trúng thầu bằng 165,5% so với năm 2004. Doanh số mua vào qua OMO tăng nhanh qua các năm từ khi khai trương đến nay và nhìn chung tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng doanh số giao dịch OMO. Đặc biệt doanh số mua vào năm 2004 tăng đột biến, bằng 6,2 lần so với năm 2003. Doanh số mua vào năm 2005 bằng 165,1% so với doanh số mua vào năm 2004. Điều này chứng tỏ sự thay đổi của NHNN trong điều hành CSTT và diễn biến thị trường thường xuyên thiếu vốn khả dụng. Bên cạnh đó, tỷ trọng doanh số mua vào tăng từ 71,1% năm 2000 lên đến 98,2% vào năm 2005. Chỉ có năm 2003, tỷ trọng này giảm chỉ còn 46,5%. Doanh số trúng thầu bình quân của từng phiên cũng tăng tăng lên qua các năm. Năm 2000 mới đạt 112 tỷ đồng thì năm 2005 đã đạt 649 tỷ đồng, bằng 5,8 lần năm 2000. Bên cạnh đó, doanh số trúng thầu cao nhất trong một phiên cũng tăng lên theo các năm. Năm 2000, doanh số trúng thầu tối đa trong một phiên là 250 tỷ thì đến năm 2005 là 3.939 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các TCTD và các điều kiện của thị trường tiền tệ ngày càng tăng. 2.2.2. Tần suất và phương thức giao dịch trên thị trường mở 2.2.2.1. Tần suất giao dịch Để tăng cường khả năng tác động của công cụ này, NHNN đã tăng tần suất giao dịch thị trường mở. Trong thời gian đầu khi mới triển khai, các phiên OMO được tổ chức với tần suất 10 ngày/phiên. Ngày giao dịch OMO được tính theo ngày làm việc. Từ phiên thứ 14 vào ngày 29/11/2000, OMO được thực hiện với tần suất 1 tuần/phiên vào ngày thứ Tư hàng tuần. Điều này đã giúp cho các TCTD chủ động điều chỉnh kịp thời, linh hoạt vốn khả dụng của mình. Từ năm 2001, Ban điều hành OMO đã tăng định kỳ tổ chức các phiên giao dịch OMO 2 phiên/1 tuần vào ngày thứ 3 và thứ 5 hàng tuần. Ngoài ra để đáp ứng kịp thời vốn khả dụng cho TCTD, NHNN đã tổ chức các phiên đấu thầu đột xuất theo ngày, cá biệt 2 phiên/ngày trong thời gian giáp Tết Nguyên đán. Việc tổ chức các phiên đột xuất đã hỗ trợ kịp thời cho các
  47. 47 TCTD khắc phục khó khăn về thiếu hụt vốn khả dụng, đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ. Bắt đầu từ tháng 11/2004, giao dịch OMO đã được thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, vào ngày thứ 2, 4 và 6, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Trong năm 2005, NHNN đã tổ chức được 158 phiên thị trường mở, tăng 28,5%so với năm 2004. Mặc dù hiện nay đã giao dịch với tần suất 3 phiên/tuần nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu giao dịch vốn của các ngân hàng. Bảng 2.3. Số lượng các phiên giao dịch OMO Số Số phiên mua Số phiên bán Tần suất Năm phiên Mua Mua có Bán Bán có giao dịch hẳn kỳ hạn hẳn kỳ hạn 2000* 17 4 10 3 0 10 ngày/phiên 2001 48 3 39 5 1 1 tuần/phiên 2002 85 1 58 26 0 1 tuần/2 phiên 2003 107 0 52 55 0 1 tuần/2 phiên 2004 123 0 109 0 14 1 tuần/3 phiên 2005 158 0 150 6 2 1 tuần/3 phiên Tổng số 538 8 418 95 17 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (*) từ 12/7 đến 31/12/2000 NHNN chủ yếu thực hiện các giao dịch nhằm cung ứng vốn khả dụng cho TCTD, chiếm tới 79,2% tổng số phiên OMO. Các phiên giao dịch nhằm hấp thụ vốn dư thừa của hệ thống ngân hàng được tổ chức rất ít, điều này xuất phát từ thực tế của hệ thống ngân hàng là thường xuyên thiếu hụt vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng và thanh toán của nền kinh. Trong 2 năm gần đây, NHNN chỉ tổ chức 22 phiên bán GTCG trong tổng số 281 phiên OMO. 2.2.2.2. Phương thức đấu thầu, xét thầu Bảng 2.4. Phương thức đấu thầu, xét thầu trên thị trường mở Năm Tổng Phương thức đấu thầu Phương thức xét thầu số Lãi suất khối lượng Riêng lẻ Thống nhất 2000* 17 13 4 14 3 2001 48 14 34 12 36 2002 85 68 17 67 18 2003 107 88 19 86 21
  48. 48 2004 123 123 0 83 40 2005 158 158 0 84 74 Tổng số 538 464 74 346 192 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (*) từ 12/7 đến 31/12/2000 Về phương thức giao dịch trên thị trường mở, NHNN chủ yếu sử dụng phương thức đấu thầu lãi suất và phương thức xét thầu riêng lẻ. Phương thức đấu thầu lãi suất đã được NHNN sử dụng trong 86,2% số phiên giao dịch trong 5 năm qua và tới 100% số phiên trong 2 năm gần đây. Điều này xuất phát từ lý do NHNN đang điều hành CSTT theo khối lượng tiền tăng thêm nên nhu cầu giao dịch GCTG của NHNN thường được xác định trước. Ngoài ra, NHNN cũng sử dụng phương thức xét thầu riêng lẻ trong 65,3% số phiên giao dịch. Trong nửa cuối năm 2005, NHNN hầu như chỉ áp dụng phương thức xét thầu thống nhất trong các phiên OMO. 2.2.3. Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở Nhìn chung, lãi suất OMO khá bám sát các lãi suất khác của NHNN công bố như lãi suất cơ bản, lãi suất TCV và lãi suất chiết khấu. Lãi suất trúng thầu thường nằm giữa mức lãi suất TCV và lãi suất chiết khấu. Lãi suất trúng thầu, trong các phiên đấu thầu lãi suất, thể hiện khá chính xác và phù hợp với diễn biến thị trường. Lãi suất công bố trong phương thấu đấu thầu khối lượng
  49. 49 Trước khi thực hiện các phiên đấu thầu khối lượng, Ban điều hành OMO công bố lãi suất để các thành viên đặt thầu mua bán GTCG. Lãi suất công bố này là lãi suất trúng thầu trong các phiên. Vì vậy, lãi suất trúng thầu trong các phiên đấu thầu khối lượng thường chỉ có một lãi suất nhất định. Tuy nhiên, do lãi suất trúng thầu đã được NHNN xác định nên các thành viên không có sự lựa chọn về lãi suất khi giao dịch với NHNN và lãi suất này chưa phản ánh được nhu cầu về vốn của các thành viên trên thị trường. Đây là một nhược điểm của phương thức đấu thầu khối lượng trong giao dịch thị trường mở. Vì thế, trong 2 năm trở lại đây, NHNN đã không áp dụng phương thức đấu thầu BiÓu ®å 2.2 L·i suÊt tróng thÇu OMO %/n¨m 10 9 8 7 6 5 4 3 2 LS c¬ b¶n LS tróng thÇu thÞ tr­êng më LS t¸i cÊp vèn LS chiÕt khÊu khối lượng trong các phiên OMO nữa. Lãi suất trúng thầu trong phương thức đấu thầu lãi suất Trước mỗi phiên đấu thầu, Ban điều hành OMO dự kiến khối lượng GTCG cần giao dịch. Khối lượng giao dịch có thể được NHNN thông báo hoặc không thông báo trước. Đồng thời, căn cứ vào dự báo tình hình vốn khả dụng, NHNN cũng xác định một lãi suất chỉ đạo làm điểm dừng khi giao dịch.
  50. 50 Lãi suất này không thông báo cho các thành viên thị trường khác. Trường hợp NHNN mua GTCG, lãi suất chỉ đạo sẽ là lãi suất mua thấp nhất của NHNN và ngược lại. Mục đích của NHNN khi đưa ra lãi suất chỉ đạo là để định hướng lãi suất trên thị trường tiền tệ. Trường hợp áp dụng phương thức xét thầu thống nhất, lãi suất trúng thầu chỉ có một mức nhất định. Trường hợp áp dụng phương thức xét thầu riêng lẻ, nhìn chung sẽ có nhiều mức lãi suất trúng thầu. Do lãi suất trúng thầu trong các phiên OMO theo phương thức đấu thầu lãi suất phản ánh chính xác hơn diễn biến của thị trường nên tại Việt Nam, NHNN chủ yếu thực hiện OMO theo phương thức đấu thầu lãi suất, chiếm tới 86,2% tổng số phiên và 100% số phiên trong 2 năm gần đây. 2.2.4. Đánh giá hoạt động nghiệp vụ thị trường mở 2.2.4.1. Những kết quả đạt được Thứ nhất, các cơ chế và quy trình OMO đã được không ngừng cải tiến và hoàn thiện Dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành OMO, các Vụ Cục chức năng của NHNN đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật có liên quan. Về cơ bản, các vướng mắc về cơ chế, quy trình và hạ tầng kỹ thuật đã được từng bước xử lý, khắc phục. Công tác tổ chức, điều hành hoạt động OMO của NHNN được thực hiện bài bản, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong các phiên giao dịch. Các GTCG được sử dụng trong OMO đã được mở rộng theo tinh thần Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 2003. Đến nay các GTCG được giao dịch không chỉ gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN mà còn cả các loại trái phiếu dài hạn do ngân sách trung ương thanh toán. Quy trình thanh toán từng bước được rút ngắn. Từ thanh toán sau 2 ngày kể từ ngày đấu thầu (T+2) năm 2000, thanh toán sau ngày đấu thầu 1 ngày (T+1) năm 2001 và từ năm 2002 đến nay việc thanh toán được thực hiện ngay trong ngày đấu thầu (T+0). Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN đưa vào vận hành từ tháng 5/2003 đã tạo điều kiện cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và OMO được thanh, quyết toán tức thời, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các TCTD.