Đề tài Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng

doc 65 trang nguyendu 5500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_hoan_thien_hach_toan_chi_phi_san_xuat_va_tinh_gia_tha.doc

Nội dung text: Đề tài Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng

  1. Lời mở đầu Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến do có sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Trước sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, mối quan tâm lớn nhất và là hàng đầu của các Doanh nghiệp là Lợi nhuận: Lợi nhuận quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của Doanh nghiệp. Từ tình hình thực tế, các Doanh nghiệp phải thường xuyên điều tra, tính toán, cân nhắc để lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu sao cho với chi phí bỏ ra ít nhất nhưng đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất với sản phẩm có chất lượng cao. Để đạt được mục đích này đòi hỏi các Doanh nghiệp phải quan tâm tới mọi yếu tố ảnh hưởng tới sản phẩm của mình. Hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong các Doanh nghiệp sản xuất nói chung và trong Doanh nghiệp kinh doanh xây lắp nói riêng đã và đang là một vấn đề được nhiều nhà kinh doanh quan tâm. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu quan trọng trong bất kỳ Doanh nghiệp nào, hai chỉ tiêu này luôn có mối quan hệ khăng khít và không tách rời nhau. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay thì vấn đề tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc nâng cao lợi nhuận, tăng tích luỹ cho Doanh nghiệp, nó là tiền đề đảm bảo cho sự tồn tại, củng cố chỗ đứng của Doanh nghiệp trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Để làm tốt công việc này, đòi hỏi các Doanh nghiệp cần tổ chức công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời, đúng đối tượng, đúng chế độ quy định và đúng phương pháp để từ đó có những biện pháp cụ thể tiết kiệm các khoản mục chi phí chi dùng cho sản xuất. Xuất phát từ nhận thực trên và qua thời gian thực tập tại Công ty XL và VTXD 8 em thấy rằng xây lắp là một trong những hoạt động chính của Công ty và hiện nay Công ty đang dần phát huy khả năng và ưu thế của mình trên thị trường này. Để đạt được lợi nhuận cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất, đồng thời sản phẩm xây lắp đạt chất lượng cao thì việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty đã được chú ý và đặc biệt coi trọng. Vì những lý do trên nên em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng “làm luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung của luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần Phần 1: Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong nền kinh tế thị trường. Phần 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng 8. Phần 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý hach toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Xây lắp tại Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng 8. Phần I Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong nền kinh tế thị trường. I - Chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, yêu cầu của công tác quản lý, nhiệm vụ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp. 1. Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và sản phẩm xây lắp: Xây dựng cơ bản (XDCB) là ngành sản xuất vật chất độc lập có chức năng tái sản xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Nó tạo nên cơ sở vật chất cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế và quốc phòng của đất nước. Hơn thế nữa, đầu tư XDCB gắn liền với việc ứng dụng các công nghệ hiện đại do đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ - 1 -
  2. thuật đối với các ngành sản xuất vật chất. Nó có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân nói chung và quỹ tích luỹ nói riêng với vốn đầu tư, tài trợ của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực XDCB. So với các ngành sản xuất khác, XDCB có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc trưng, được thể hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra sản phẩm của ngành. Đặc điểm của sản phẩm xây lắp là có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian sử dụng lâu dài, có giá trị lớn đòi hỏi các nhà xây dựng phải dự đoán trước xu hướng tiến bộ xã hội để tránh bị lạc hậu. Phong cách kiến trúc và kiểu dáng một sản phẩm cần phải phù hợp với văn hoá dân tộc. Trên thực tế, đã có không ít các công trình xây dựng trở thành biểu tượng của một quốc gia như chùa Một cột ở Hà nội, tháp Ephen ở Pari và do đó chất lượng của các công trình xây dựng cũng phải được đặc biệt chú ý. Nó không chỉ ảnh hưởng tới tuổi thọ của công trình và còn ảnh hưởng tới sự an toàn cho người sử dụng. Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp phát huy tác dụng về mặt kinh tế, chính trị, kế toán, nghệ thuật Nó rất đa dạng nhưng lại mang tính độc lập, mỗi một công trình được xây dựng theo một thiết kế, kỹ thuật riêng, có giá trị dự toán riêng và tại một địa điểm nhất định, nơi sản xuất ra sản phẩm cũng đồng thời là nơi sau này khi sản phẩm hoàn thành được đưa vào sử dụng và phát huy tác dụng. Những đặc điểm này có tác động lớn tới giá trị sản xuất ngành xây dựng. Quá trình từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao và đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc quy mô và tính chất phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn thi công lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc chủ yếu diễn ra ngoài trời chịu tác dộng rất lớn của các nhân tố môi trường xấu như mưa, nắng, lũ, lụt đòi hỏi các nhà xây dựng phải giám sát chặt chẽ những biến động này để hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng xấu của nó. Sản phẩm xây dựng là sản phẩm đơn chiếc và được tiêu thụ theo cách riêng. Các sản phẩm được coi như tiêu thụ trước khi được xây dựng theo giá trị dự toán hay giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu) do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không được thể hiện rõ bởi vì sản phẩm xây lắp là hàng hoá đặc biệt. 2. Chi phí sản xuất và các loại chi phí sản xuất trong KD xây lắp. a). Khái niệm Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp của ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động đồng thời cũng chính là quá trình tiêu hao của bản thân các yếu tố trên. Như vậy để tiến hành sản xuất hàng hoá nhà sản xuất phải bỏ ra các chi phí về thù lao lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động vật hoá và hao phí lao động sống mà doanh nghiệp xây lắp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp. Thực chất chi phí là quá trình chuyển dịch vốn, chuyển dịch các yếu tố sản xuất tạo ra các công trình, hạng mục công trình nhất định. Cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu: Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Tức là nó gắn liền với khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ. Còn chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần của các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng với mục đích gì. b). Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp. Trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp, các chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại có tính chất kinh tế khác nhau, do đó yêu cầu quản lý đối với từng loại chi phí cũng khác nhau. Việc quản lý chi phí không thể chỉ dựa vào số liệu phản ánh tổng hợp chi phí sản xuất mà còn phải căn cứ vào từng loại chi phí riêng biệt để phục vụ và phân tích toàn bộ chi phí sản xuất hoặc từng yếu tố kinh tế ban đầu của chúng theo từng công trình, hạng mục công trình, theo từng nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Do đó đòi hỏi phải có sự phân loại chi phí sản xuất. - 2 -
  3. Việc phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học có ý nghĩa rất lớn đối với công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành công trình xây lắp. Trên cơ sở phân loại chi phí sản xuất, căn cứ vào nội dung phát sinh chi phí, kế toán tiến hành tập hợp chi phí cho các đối tượng có liên quan. Bên cạnh đó việc phân loại còn giúp doanh nghiệp kiểm tra, phân tích chi phí sản xuất trên doanh thu của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm xây lắp. Tuỳ theo yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin, giác độ xem xét chi phí mà chi phí sản xuất được phân loại theo những cách sau: Phân loại chi phí theo dự toán. Trong xây dựng cơ bản giá trị dự toán công trình có ý nghĩa trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh. Để lập dự toán công trình người ta phân loại chi phí sản xuất thành các khoản sau: chi phí xây lắp, chi phí mua sắm, chi phí khác và chi phí dự phòng. Cách phân loại chi phí trên không những có ý nghĩa với kế toán mà còn cung cấp cho nhà quản lý những thông tin làm chuẩn mực kiểm tra tiến độ thi công. Và dựa vào đó người ta bóc tách ra những chi phí vật liệu, nhân công, chi phí máy thi công. Do đó chúng ta có cách phân loại thứ hai. Phân loại theo khoản mục chi phí. Cách phân loại này nhằm tính giá thành sản phẩm và phân tích cơ cấu chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm. Theo cách này chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành ba khoản mục chính: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Nhưng do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản có chi phí về máy thi công lớn và phức tạp nên ba khoản mục trên được thay bằng bốn khoản mục chi phí sau: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là tất cả những chi phí nguyên vật liệu để cấu thành nên thực thể công trình như vật liệu chính (xi măng, thép, gạch, cát, đá, sỏi ), vật liệu phụ (sơn, phụ gia, ốc vít ), vật kết cấu giá trị thiết bị kèm theo vật kiến trúc (quạt thông gió, thiết bị vệ sinh ) - Chi phí nhân công trực tiếp: Là toàn bộ tiền lương chính, phụ cấp và các khoản có tính chất lương của công nhân trực tiếp tham gia xây lắp công trình (cả công nhân trong và ngoài biên chế). Nó bao gồm tiền lương trả theo thời gian, trả theo sản phẩm, làm thêm giờ, tiền thưởng thường xuyên và vượt năng suất lao động. Khoản mục này không bao gồm khoản trích 19% BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất, lương và các khoản trích theo lương của công nhân gián tiếp (Ban chỉ huy công trình). - Chi phí sử dụng máy thi công: là các chi phí trực tiếp liên quan tới việc sử dụng máy để hoàn thành sản phẩm xây lắp gồm chi phí khấu hao máy móc thiết bị, tiền thuê máy, tiền lương công nhân điều khiển máy thi công, chi phí về nhiên liệu, động lực dùng cho máy thi công. - Chi phí sản xuất chung bao gồm: + Tiền lương nhân viên quản lý đội; Khoản trích theo lương như BHYT, BHXH, KPCĐ được tính theo tỷ lệ quy định (19%) trên tiền lương phải trả công nhân trực tiếp xây lắp và nhân viên quản lý đội (thuộc biên chế của Doanh nghiệp). + Chi phí nguyên vật liệu sử dụng cho việc quản lý sản xuất chung của đội. + Chi phí công cụ sản xuất phục vụ thi công và quản lý đội. + Chi phí khấu hao TSCĐ như nhà xưởng, thiết bị dùng cho quản lý đội. + Chi phí dịch vụ mua ngoài như điện, nước, điện thoại +Chi phí khác bằng tiền liên quan tới hoạt động của đội. Những chi phí trong các khoản mục chi phí trên đều thuộc phạm vi chi phí được tính trong hợp đồng xây dựng cụ thể. Phân loại theo yếu tố chi phí: Phân loại theo yếu tố chi phí giúp chúng ta giữ được tính nguyên vẹn của từng yếu tố cũng như từng khoản chi phí không kể nó được phát sinh từ đâu, có quan hệ như thế nào tới quá trình sản xuất. Vì vậy hạch toán chi phí sản xuất có tác dụng lớn đối với công tác kế toán cũng như công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu và những - 3 -
  4. loại chi phí nào, làm cơ sở cho việc lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh kỳ sau, lập kế hoạch tính toán nhu cầu vật tư, vốn lưu động (như tiền mặt). Theo cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố thì những chi phí có tính chất kinh tế chung được xếp chung vào một yếu tố, không tính đến nơi phát sinh chi phí và dùng vào mục đích gì trong quá trình sản xuất. Đối với doanh nghiệp xây dựng cơ bản, chi phí sản xuất gồm các yếu tố sau: yếu tố nguyên vật liệu, yếu tố công cụ, dụng cụ, yếu tố nhiên liệu động lực, yếu tố tiền lương và các khoản trích theo lương, yếu tố khấu hao TSCĐ, yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài, yếu tố khác bằng tiền. Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh Căn cứ vào việc tham gia của các chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí được chia làm ba loại: chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí hoạt động tài chính, chi phí bất thường. Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ cho việc tính giá thành, xác định chi phí và kết quả từng loại hoạt động kinh doanh đúng đắn cũng như việc lập báo cáo tài chính nhanh chóng, kịp thời Phân loại theo cách ứng xử của chi phí Nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu lập kế hoạch kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí của nhà quản trị doanh nghiệp, phân loại theo cách ứng xử nghĩa là khi mức độ hoạt động biến động thì chi phí sẽ biến động như thế nào. Khi mức hoạt động kinh doanh thay đổi, các nhà quản trị doanh nghiệp cần thấy trước chi phí sẽ biến động như thế nào, biến động bao nhiêu và loại nào biến động để tương ứng với biến động của mức hoạt động. Theo cách phân loại này tổng chi phí của doanh nghiệp bao gồm hai loại chi phí: biến phí và định phí. Ngoài hai cách phân loại trên người ta còn có một số cách phân loại khác như sau: - Chi phí sản xuất và ngoài sản xuất - Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp - Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được - Chi phí theo thời kỳ và chi phí sản phẩm Tóm lại, mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng phục vụ cho từng yêu cầu quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể. Nhưng chúng luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý hiệu quả nhất về toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong phạm vi toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. 3. Giá thành sản phẩm xây lắp và các loại giá thành sản phẩm xây lắp. a - Giá thành sản phẩm xây lắp. Để xây dựng một công trình hay một hạng mục công trình thì doanh nghiệp kinh doanh xây lắp phải đầu tư vào quá trình sản xuất thi công một lượng chi phí nhất định. Những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp chi ra trong một quá trình thi công đó sẽ tham gia cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành của quá trình đó. Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất (bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung) tính cho từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành đến giai đoạn qui ước đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao và được chấp nhận thanh toán. Khác với doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, người ta có thể tính toán giá thành cho một loạt sản phẩm được sản xuất ra trong thời kỳ và giá thành đơn vị của sản phẩm, đó là một trong những cơ sở quan trọng để xác định giá bán ở doanh nghiệp kinh doanh xây lắp, giá thành sản phẩm xây lắp mang tính chất cá biệt. Mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp sau khi đã hoàn thành đều có một giá thành riêng. Hơn nữa, khi nhận thầu một công trình xây dựng thì rõ ràng là giá bán (giá nhận thầu hoặc giá trúng thầu) đã có ngay trước khi thi công công trình. Như vậy, giá bán có trước khi xác định được giá thành thực tế của công trình. Do đó, giá thành thực tế của công - 4 -
  5. trình đó chỉ quyết định tới lợi nhuận của doanh nghiệp đạt được do thi công công trình đó mà thôi. Tuy vậy, trong điều kiện hiện nay, để đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh doanh, được sự cho phép của Nhà nước một số doanh nghiệp kinh doanh xây lắp đã linh hoạt, chủ động xây dựng một số công trình (chủ yếu là công trình như nhà ở, văn phòng, cửa hàng ) sau đó bán lại cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng với giá bán hợp lý thì giá thành sản phẩm xây lắp cũng là một nhân tố quan trọng để xác định giá bán. Trước đây người ta quan niệm rằng giá thành sản phẩm là toàn bộ giá trị chi phí sản xuất tính theo số lượng và loại sản phẩm đã hoàn thành. Như vậy, giá thành sẽ không phản ánh đúng đắn bản chất của nó và ít nhiều mang tính chất chủ quan bởi vì: - Tính vào giá thành một số khoản mục chi phí mà thực chất là thu nhập thuần tuý của xã hội như: BHXH, các khoản trích nộp cho cơ quan cấp trên, thuế vốn, thuế tài nguyên - Một số khoản mục chi phí gián tiếp được phân bổ vào giá thành của từng loại sản phẩm hay từng sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp. Việc phân bổ này mang tính chủ quan. b - Phân biệt khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp là hai mặt biểu hiện của quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng chúng lại khác nhau về phạm vi, giới hạn và nội dung. Chi phí sản xuất chỉ tính những chi phí sản xuất phát sinh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quí, năm) còn giá thành lại liên quan đến chi phí của khối lượng xây lắp dở dang kỳ trước chuyển sang nhưng lại không bao gồm chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ. - Chi phí sản xuất được tập hợp theo từng thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm xây lắp là chi phí sản xuất được tính cho một công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành. Tuy nhiên, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp lại có những điểm giống nhau: chúng đều là chi phí phản ánh lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra trong quá trình sản xuất. Giá thành sản phẩm xây lắp và chi phí sản xuất của công tác xây lắp chỉ thống nhất về mặt lượng trong trường hợp: khi đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là một công trình, hạng mục công trình được hoàn thành trong kỳ tính giá thành hoặc khối lượng xây lắp dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau. c - Bản chất, chức năng của giá thành sản phẩm xây lắp. Chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm xây lắp luôn được thể hiện ở mặt định tính và định lượng. Mặt định tính của chi phí đó là các yếu tố chi phí hiện vật hay bằng tiền tiêu hao trong quá trình sản xuất xây dựng công trình, hạng mục công trình. Mặt định lượng của chi phí thể hiện mức độ tiêu hao cụ thể của từng loại chi phí tham gia vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm xây lắp để cấu thành nên thực thể công trình hoàn thành, biểu hiện bằng thước đo tổng quát là thước đo giá trị. Mục đích sản xuất kinh doanh hay nói cách khác mục đích bỏ chi phí của Doanh nghiệp là tạo nên những giá trị sử dụng nhất định để đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp nói chung và các Doanh nghiệp xây lắp nói riêng luôn quan tâm tới hiệu quả chi phí bỏ ra, để với chi phí bỏ ra ít nhất nhưng thu được lợi nhuận tối đa. Trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác quản lý, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu thoả mãn đáp ứng được nội dung thông tin trên. Giá thành sản phẩm luôn luôn chứa hai mặt khác nhau vốn có bên trong của nó là chi phí sản xuất đã chi ra và lượng giá trị sử dụng thu hồi được cấu thành trong khối lượng sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành. Như vậy, bản chất của giá thành sản phẩm là kết quả sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí vào sản phẩm xây lắp, công việc lao vụ hoàn thành. - 5 -
  6. Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu là: Chức năng thước đo bù đắp chi phí và chức năng lập giá. Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp chi ra để hoàn thành một khối lượng công tác xây lắp, một công trình, hạng mục công trình phải được bù đắp bằng chính số tiền thu về do quyết toán công trình, hạng mục công trình và khối lượng công tác xây lắp đó. Việc bù đắp chi phí đầu vào đó chỉ có thể đảm bảo được quá trình tái sản xuất giản đơn. Mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải trang trải, bù đắp được chi phí đầu vào đồng thời có lợi nhuận. Trong điều kiện hiện nay, giá bán sản phẩm xây lắp là giá nhận thầu. Do đó giá nhận thầu xây lắp biểu hiện giá trị công trình, hạng mục công trình phải được dựa trên cơ sở giá thành dự toán. Thông qua giá bán sản phẩm xây lắp mà đánh giá mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả của chi phí. d - Các loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp. Để đáp ứng yêu cầu của quản lý trong quá trình sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm, xác định giá thành của sản phẩm là việc làm cần thiết và cũng có ý nghĩa thực tiễn cao. Tuy nhiên yêu cầu của quản lý tại những thời điểm và phạm vi khác nhau sẽ khác nhau. Do vậy, việc phân loại giá thành sẽ là cơ sở để các nhà quản trị doanh nghiệp xác định giá thành sản phẩm. Giá thành dự toán Sản phẩm của ngành xây dựng có đặc điểm là có giá trị lớn, thời gian thi công dài và mang tính chất đơn chiếc, kết cấu phức tạp, quy mô lớn. Do đó, mỗi giai đoạn thiết kế có một dự toán tương ứng với mức độ chính xác và cụ thể khác nhau phù hợp với nội dung của mỗi giai đoạn thiết kế. Căn cứ vào giá trị dự toán của từng công trình, hạng mục công trình, chúng ta có thể xác định được giá thành dự toán. Giá thành dự toán là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành một khối lượng sản phẩm xây lắp nhất định. Giá dự toán được xác định trên cơ sở các định mức chi phí theo thiết kế được duyệt và khung giá quy định áp dụng trong lĩnh vực XDCB do các cấp có thẩm quyền ban hành. Kể từ năm 1999 theo chế độ mới do có sự thay đổi của thuế GTGT nên giá thành dự toán được tính theo công thức: Z dự toán = T + C + TL Trong đó: - T: Chi phí trực tiếp (vật liệu, nhân công, máy) - C: chi phí chung - TL: Thu nhập chịu thuế tính trước Mặt khác, đơn giá về vật liệu, nhân công, máy của các cơ quan có thẩm quyền ban hành và dựa trên mặt bằng giá cả thị trường. Chính vì vậy Z dự toán không theo sát được sự biến động thực tế, không phản ánh được thực chất giá trị công trình. Do vậy Doanh nghiệp phải lập giá thành kế hoạch để dự kiến chỉ tiêu hạ giá thành. Giá thành kế hoạch: Là giá thành được xây dựng từ những điều kiện cụ thể của Doanh nghiệp trên cơ sở phấn đấu hạ giá thành dự toán bằng các biện pháp quản lý kỹ thuật và tổ chức thi công, các định mức và đơn giá áp dụng trong Doanh nghiệp xây lắp. Z kế hoạch = Z dự toán - Mức hạ Z dự toán Giá thành thực tế: Phản ánh toàn bộ các chi phí thực tế để hoàn thành, bàn giao khối lượng công tác xây lắp mà Doanh nghiệp đã nhận thầu. Giá thành này bao gồm các khoản chi phí theo định mức, vượt định mức và các khoản chi phí phát sinh không có định mức (như chi phí phát sinh do thiệt hại về sản phẩm hỏng, thiệt hại về ngừng sản xuất ). Nó được xác định theo số liệu kế toán cung cấp. Giá thành thực tế là các khoản chi phí thực tế theo khoản mục quy định thống nhất cho phép tính vào giá thành. Nó được xác định vào cuối kỳ kinh doanh. Việc so sánh giá thực tế với giá dự toán cho phép đánh giá trình độ quản lý và sử dụng chi phí của Doanh nghiệp xây lắp này so với Doanh nghiệp xây lắp khác. Nếu so sánh giá thực tế với giá kế - 6 -
  7. hoạch, ta có thể đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp xây lắp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất và trình độ quản lý. Từ đó đưa ra những ý kiến đóng góp cho các nhà quản trị Doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiện nay trong lĩnh vực kinh doanh xây lắp giá thành thực tế được báo cáo theo hai chỉ tiêu: - Giá thành thực tế khối lượng công tác xây lắp: là toàn bộ chi phí bỏ ra để tiến hành sản xuất một khối lượng công tác xây lắp nhất định trong một thời kỳ nhất định, thường là một quý. Chỉ tiêu này được xác định vào thời kỳ đó và có tác dụng phản ảnh kịp thời mức giá thành trong thi công để có biện pháp giảm chi phí, hạ giá thành. - Giá thành thực tế công trình, hạng mục công trình hoàn thành: Bao gồm toàn bộ chi phí thực tế bỏ ra để tiến hành thi công công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành, bàn giao cho đơn vị chủ đầu tư. Ngoài ra sản phẩm xây lắp còn có các loại giá thành sau: + Giá đấu thầu xây lắp: Là một loại giá thành dự toán mà chủ đầu tư đưa ra để các đơn vị xây lắp làm căn cứ xác định giá đấu thầu của mình với nguyên tắc giá đấu thầu công tác xây lắp nhỏ hơn hoặc bằng giá dự toán, đáp ứng mục đích tiết kiệm nguồn vốn đầu tư. + Giá hợp đồng xây lắp: Là loại giá thành dự toán xây lắp ghi trong hợp đồng kinh tế được ký kết giữa đơn vị xây lắp và chủ đầu tư sau khi thoả thuận giao nhận thầu. Về nguyên tắc giá hợp đồng xây lắp phải nhỏ hơn hoặc bằng giá đấu thầu công tác xây lắp. Về việc áp dụng hai loại giá nêu trên là yếu tố quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế trong xây dựng. Nó thể hiện tính cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị xây lắp trong cơ chế thị trường. Ngoài ra các đơn vị xây lắp còn có thể tạo thế chủ động trong việc định giá sản phẩm cũng như tổ chức sản xuất kinh doanh. Đó là yếu tố cơ bản để phát triển hoạt động của các đơn vị này. 4. Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành: Hoạt động xây lắp là sự thống nhất hai mặt của một quá trình. Như vậy có thể thấy chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ và có sự độc lập tương đối với nhau. Chi phí thể hiện hao phí sản xuất còn giá thành thể hiện kết quả của qúa trình sản xuất. Về mặt chất: Chúng đều bao gồm các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà Doanh nghiệp phải bỏ ra trong qúa trình thi công xây lắp. Về mặt lượng: Chi phí sản xuất phản ánh hao phí trong một thời kỳ nhất định, giá thành sản phẩm chỉ phản ánh những hao phí liên quan tới khối lượng công việc hoàn thành, được bàn giao, được nghiệm thu. Giá thành sản phẩm không bao gồm chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, chi phí không liên quan đến hoạt động sản xuất, chi phí thực tế phát sinh chờ phân bổ, nhưng lại bao gồm chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ, chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được tính trước trong kỳ và chi phí phát sinh trong kỳ trước nhưng phân bổ cho kỳ này. Trong kế toán tập hợp chi phí sản xuất tạo cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm. Đây là hai bước công việc liên tiếp gắn bó hữu cơ với nhau, nếu tạm tính giá thành xây lắp theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý được thể hiện qua sơ đồ sau: A B C D AB: Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ BD: Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ AC: Tổng giá thành sản phẩm CD: Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Tổng giá Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất dở thành sản phẩm = dở dang + phát sinh - dang cuối kỳ - 7 -
  8. xây lắp đầu kỳ trong kỳ Như vậy giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh giá trị thực của các khoản hao phí sản xuất. Mọi cách tính chủ quan, không phản ảnh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ mối quan hệ hàng hoá tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. 5 . Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính Z sản phẩm xây lắp: Do đặc thù ngành XDCB và của sản phẩm xây dựng cho nên việc quản lý về đầu tư và xây dựng là quá trình khó khăn, phức tạp, nhất là từ khi chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường. Việc quản lý thi công nói chung và quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm nói riêng phải hết sức chặt chẽ. Đối với sản phẩm xây lắp trước khi thi công nhất thiết phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Trong quá trình sản xuất phải thường xuyên đối chiếu với dự toán để kịp thời phát hiện những sai lệch. Có thể nói dự toán được dùng làm thước đo để đáng giá các hoạt động. Do phải thi công ngoài trời nên công tác quản lý việc sử dụng tài sản, vật tư, thiết bị rất phức tạp, hơn nữa do ảnh hưởng thời tiết nên việc hao hụt, mất mát là khó tránh khỏi. Điều này đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao của người sử dụng lao động và yêu cầu người quản lý phải có biện pháp quản lý thích hợp. Sản phẩm có giá trị lớn, nhu cầu về vốn lớn mà trong thi công không phải lúc nào cũng có sẵn, do đó phải sử dụng hợp lý và tiết kiệm trong khi vẫn bảo đảm chất lượng công trình theo đúng dự toán thiết kế, yêu cầu đảm bảo công trình. Tính chất phức tạp của hoạt động đòi hỏi công tác quản lý phải xác định rõ từng bước công việc tránh sự chồng chéo các chức năng gây tốn kém về người và của. Người quản lý cần phân định rõ chức năng trách nhiệm cho từng bộ phận, thậm chí từng cá nhân giúp cho hoạt động tiến hành trôi chảy. 6 - Nhiệm vụ hạch toán chi phí sản xuất và tính Z sản phẩm xây lắp: a - Vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng là một công cụ quản lý kinh tế, phục vụ cho hoạt động quản lý giám sát bằng việc thực hiện quan sát đo lường, tính toán ghi chép các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kế toán là phương pháp đo lường và thông tin của những người có liên quan, đặc biệt là các nhà quản lý. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cung cấp những thông tin sinh động về sự tuần hoàn của tài sản, toàn bộ bức tranh của quá trình sản xuất từ khâu đầu tiên cung cấp nguyên vật liệu (vật tư) cho đến khâu cuối là tập hợp chi phí và tính giá thành đều được phản ánh thật đầy đủ và sinh động qua thông tin kế toán. Thông tin kế toán mang tính chất hai mặt là chi phí và kết quả. Nhờ đó mà người ta xác định được hiệu quả của một thời kỳ kinh doanh và tình hình tài chính của Doanh nghiệp. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc ứng dụng hạch toán kinh doanh với nội dung cơ bản là độc lập về tài chính lấy thu bù chi. Hơn nữa thông tin kế toán có hai đặc trưng cơ bản là thông tin và kiểm tra. Thông tin về hoạt động đồng thời kiểm tra về tiến độ, đơn giá, định mức sử dụng lao động, vật tư hay dự toán chi phí. Ví dụ như: Thông tin kế toán trong sổ kế toán chi tiết vật tư cung cấp cho nhà quản lý mức vật tư đã tiêu hao đồng thời cho phép kiểm tra xem mức sử dụng như thế đã khớp với dự toán hay không? Hay nói cách khác việc sử dụng có lãng phí không? Một trong các bí quyết giúp các nhà quản lý kinh tế thành công trong việc lựa chọn và ra các quyết định kinh doanh chính xác là sử dụng thông tin do kế toán cung cấp. Theo quan điểm truyền thống xưa nay người ta thường so sánh giữa giá bán và giá thành của sản - 8 -
  9. phẩm. Trong đó nhân tố giá bán không do Doanh nghiệp định đoạt mà phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường (trừ mặt hàng độc quyền). Bởi vậy các hoạt động kinh doanh, các thương vụ nào đó có mức lợi nhuận cao theo cách so sánh trên thị trường không được tính đến, thậm chí còn bị loại bỏ. Các nhà quản lý do vậy thường ra quyết định trên cơ sở giá thành do kế toán cung cấp mà chi phí lại là cơ sở để tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Vì vậy việc hạch toán chính xác chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với Doanh nghiệp, nếu không được tính đúng tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành sẽ có thể dẫn đến các quyết định kinh doanh sai lầm làm Doanh nghiệp chẳng những bỏ lỡ mất thời cơ kinh doanh mà còn có thể đi đến phá sản. Đồng thời thực hiện tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn là cơ sở để thực hiện giám đốc các hoạt động, phát hiện và khắc phục kịp thời các tồn tại, phát hiện tiềm năng mới đảm bảo cho Doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế tự hạch toán kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Hơn nữa, XDCB là nghành sản xuất tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, hàng năm chiếm 30% vốn đầu tư của cả nước. Sản phẩm của ngành là những công trình có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài nên có ý nghĩa kinh tế quan trọng. Hiện nay khối lượng công việc XDCB của ngành tăng nhanh và song song với nó là vốn đầu tư XDCB cũng tăng nhanh. Vì vậy việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp càng trở nên có ý nghĩa quan trọng góp phần đắc lực vào việc quản lý, sử dụng vốn một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát vốn trong điều kiện sản xuất kinh doanh xây lắp qua nhiều khâu. Có thể nói hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vốn đã là một phần hành cơ bản trong công tác kế toán lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với Doanh nghiệp xây lắp và xã hội. Bên cạnh đó nó cũng là cơ sở để Nhà nước kiểm soát vốn đầu tư XDCB và thu thuế. b - Nhiệm vụ của công tác kế toán chi phí sản xuất và tính Z sản phẩm: Để thực hiện được mục tiêu phấn đấu tiết kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm thì đơn vị kinh doanh xây lắp phải sử dụng vào sản xuất nhiều biện pháp khác nhau. Đứng trên giác độ quản lý, cần phải biết nguồn gốc hay con đường hình thành của nó, nội dung cấu thành của giá thành, để từ đó biết được nguyên nhân cơ bản nào, những nhân tố cụ thể nào đã làm tăng hoặc giảm giá thành và chỉ có trên cơ sở đó, người quản lý mới đề ra được biện pháp cần thiết để hạn chế loại trừ ảnh hưởng của nhân tố tiêu cực tác động nên và phát huy được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tích cực, khai thác khả năng, tiềm năng trong việc quản lý, sử dụng nguồn vật tư, lao động và tiền vốn. Một trong những biện pháp quan trọng và không thể thiếu được, phải kể đến biện pháp quản lý công cụ kế toán. Bởi vậy phải tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành mới đảm bảo phát huy công dụng của công tác kế toán trong quản lý sản xuất. Do đó nhiệm vụ chủ yếu của công tác kế toán hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là: xác định chính xác đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành phù hợp với điều kiện thực tế của Doanh nghiệp, thoả mãn yêu cầu quản lý đặt ra, vận dụng phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành một cách khoa học, hợp lý. Đảm bảo cung cấp một cách kịp thời, chính xác, đầy đủ các số liệu cần thiết cho công tác quản lý cụ thể là: - Phản ảnh đầy đủ, chính xác, kịp thời toàn bộ chi phí thực tế phát sinh cho từng đối tượng. - Kiểm tra tình hình chi phí về vật tư, lao động, chi phí sử dụng máy thi công và các chi phí khác, phát hiện kịp thời các khoản chênh lệch so với định mức, các chi phí khác ngoài kế hoạch, các khoản thiệt hại mất mát hư hỏng trong sản xuất từ đó đề xuất các biện pháp ngăn chặn và khắc phục kịp thời. - Thực hiện phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất để có những kiến nghị cho các nhà quản trị Doanh nghiệp ra các quyết định phù hợp. - Tổ chức tập hợp phân bổ từng lọai chi phí sản xuất theo đúng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất đã xác định bằng phương pháp thích hợp, xác định đúng giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ. - 9 -
  10. - Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính giá thành theo đối tượng thích hợp, tính đúng theo các khoản mục đã quy định và kỳ tính giá thành đã xác định. - Thực hiện phân tích tình hình thực hiện giá thành và kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, kịp thời có những biện pháp tích cực để phấn đấu không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. II. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất trong Doanh nghiệp kinh doanh xây lắp: 1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và căn cứ xác định đối tượng hạch toán: Trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có thể nói xác định đúng đắn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất vừa là công việc đầu tiên vừa là công việc có tính chất định lượng cho toàn bộ khâu kế toán này. Bởi vì, căn cứ vào đối tượng hạch toán chi phí sản xuất đã xác định, kế toán tiến hành hạch toán chi phí sản xuất cho các đối tượng có liên quan, xác định phương pháp hạch toán chi phí sản xuất một cách hợp lý, đồng thời cung cấp số liệu để tính giá thành sản phẩm chính xác, kịp thời. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất trong kinh doanh xây lắp là phạm vi giới hạn trong công tác tập hợp chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp, nhằm phục vụ cho việc thông tin kiểm tra chi phí và tính giá thành sản phẩm. Giới hạn tập hợp chi phí có thể là nơi phát sinh chi phí, có thể là đối tượng chịu chi phí. Thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Căn cứ để xác định đối tượng chịu chi phí: - Đặc điểm qui trình công nghệ sản xuất: sản xuất giản đơn hay phức tạp, liên tục hay song song. Trong sản xuất giản đơn, sản phẩm cuối cùng nhận được do quá trình chế biến liên tục vật liệu. Đối tượng tập hợp chi phí có thể là sản phẩm hoàn thành hay toàn bộ quá trình sản xuất. Nếu tính chất sản xuất phức tạp, sản phẩm đạt được qua nhiều bước chế biến, đối tượng hạch toán chi phí có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm hoặc các giai đoạn công nghệ Loại hình sản xuất đơn chiếc, sản xuất hàng loạt: Đối với loại hình sản xuất đơn chiếc đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng sản phẩm còn với sản xuất hàng loạt được tập hợp riêng theo từng lô sản phẩm. - Đặc điểm tổ chức sản xuất: Nếu quá trình sản xuất được tổ chức theo từng đơn vị thi công (các đội xây dựng, tổ xây dựng) chi phí sản xuất có thể được hạch toán theo từng đơn vị. Nếu không có việc phân chia các bộ phận thi công, đối tượng hạch toán chi phí có thể là đối tượng chịu phí. - Yêu cầu hạch toán chi phí và trình độ tổ chức hạch toán chi phí. Dựa trên cơ sở trình độ và yêu cầu quản lý, kế toán tiến hành xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.Với trình độ quản lý cao đối tượng hạch toán chi phí được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Do đó có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí và nâng cao chất lượng thông tin kế toán. Ngược lại, với trình độ quản lý thấp hơn, đối tượng hạch toán có thể bị hạn chế và thu hẹp. Điều đó ảnh hưởng không tốt tới vấn đề cung cấp thông tin kế toán. Trong sản xuất kinh doanh xây lắp, với tính chất phức tạp của qui trình công nghệ và loại hình sản xuất đơn chiếc quá trình sản xuất thường được phân chia thành khu vực, bộ phận thi công các hạng mục khác nhau. Trong đó mỗi bộ phận có phương án tổ chức khác nhau, mỗi hạng mục công trình có thiết kế, cấu tạo vật chất và giá thành dự toán riêng. Do vậy, tuỳ vào từng công trình cụ thể, trình độ quản lý của từng doanh nghiệp nhất định, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp có thể là hạng mục công trình, đơn đặt hàng, giai đoạn công việc hoàn thành, bộ phận thi công. Thực tế ở các đơn vị xây lắp chủ yếu tập hợp chi phí theo công trình, hạng mục công trình, đơn đặt hàng. Xác định đúng đối tượng hạch toán chi phí phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của đơn vị có ý nghĩa rất lớn giúp kế toán chi phí tổ chức hợp lý từ khâu hạch toán ban đầu, tổ chức tài khoản và sổ sách chi tiết, tổ chức hạch toán theo đúng đối tượng xác định. Các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất. - 10 -
  11. Khái niệm: Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một hoặc một hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất phát sinh trong giới hạn đối tượng hạch toán chi phí. Nói cách khác, phương pháp hạch toán chi phí được hình thành trong sự phụ thuộc với đối tượng hạch toán chi phí. Với mỗi đối tượng cụ thể, kế toán sẽ xác định phương pháp hạch toán thích hợp. Trong đơn vị xây dựng các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất thường được sử dụng bao gồm: - Phương pháp hạch toán theo công trình và hạng mục công trình: Phương pháp này được sử dụng khi đối tượng hạch toán chi phí của doanh nghiệp là toàn bộ công trình hay từng hạng mục công trình. Hàng tháng chi phí sản xuất phát sinh liên quan tới công trình nào, kế toán tập hợp chi phí phát sinh cho công trình, hạng mục công trình đó theo phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp. - Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng: Trường hợp doanh nghiệp xác định đối tượng tập hợp chi phí là đơn đặt hàng riêng biệt, các chi phí phát sinh liên quan tới đơn đặt hàng nào sẽ được phân bổ cho đơn đặt hàng đó. Khi đơn đặt hàng hoàn thành tổng số chi phí phát sinh theo đơn đặt hàng kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó. - Phương pháp hạch toán chi phí theo khối lượng công việc hoàn thành: Theo phương pháp này toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ được tập hợp cho đối tượng chịu phí. Giá thành thực tế của khối lượng công tác xây lắp hoàn thành là toàn bộ chi phí bỏ ra trong giai đoạn thi công khối lượng công tác xây lắp đó. - Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo đơn vị hoặc theo khu vực thi công: Phương pháp này được áp dụng khi đối tượng hạch toán chi phí của Doanh nghiệp xây lắp là các bộ phận, khu vực thi công. Theo phương pháp này, các chi phí phát sinh trong phạm vi các bộ phận, khu vực thi công được tập hợp cho các đối tượng chịu phí như công trình, hạng mục công trình Cuối tháng tổng số chi phí phát sinh ở từng đơn vị chỉ được so sánh với dự toán để xác định kết quả hạch toán kinh tế nội bộ. Khi các công trình, hạng mục công trình hoàn thành, kế toán tiến hành tính giá bằng các phương pháp thích hợp. Cho dù các doanh nghiệp xây lắp áp dụng các phương pháp hạch toán chi phí nào, trên thực tế, có một số chi phí phát sinh có liên quan đến nhiều đối tượng. Do vậy, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất không chỉ là tập hợp trực tiếp chi phí liên quan đến một đối tượng mà phải phân bổ các khoản chi phí này một cách chính xác và hợp lý. Có thể sử dụng các phương pháp phân bổ sau: Việc phân bổ này được áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến nhiều đối tượng mà không thể tổ chức hạch toán ban đầu một cách riêng lẻ. Để thực hiện phương pháp này, kế toán cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ cho các đối tượng chịu phí. Yêu cầu đối với tiêu thức là phải xác định mức độ ảnh hưởng tới các đối tượng một cách rõ rệt. Các tiêu thức thường được sử dụng là: khối lượng công việc thực hiện, chi phí nhân công trực tiếp, số giờ lao động, định mức chi phí.v.v. Dựa vào các tiêu thức, quá trình phân bổ được tiến hành theo CT sau: Ti Ci = T *C Trong đó: Ci: Chi phí phân bổ cho đối tượng i C: Tổng chi phí tập hợp cần phân bổ Ti: Tiêu thức phân bổ của đối tượng i T: Tổng tiêu thức phân bổ Trong một số trường hợp chi phí cần phân bổ nhỏ không ảnh hưởng đáng kể mà việc xác định tiêu thức lại phức tạp người ta có thể áp dụng phương pháp chia đều để tiết kiệm thời gian và công sức. Theo đó: C Ci = n n: Tổng số đối tượng cần phân bổ 2. Hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung khác nhau, phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành cũng khác nhau. Việc - 11 -
  12. tập hợp chi phí được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời.Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và trong và trong doanh nghiệp xây lắp nói riêng, trình tự tổng hợp chi phí sản xuất bao gồm các bước sau: Bước 1: Tập hợp các chi phí sản xuất có liên quan đến từng đối tượng sử dụng. Bước 2: Tính toán, phân bổ lao vụ của ngành sản xuất có liên quan cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ phục vụ. Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng có liên quan theo tiêu thức phù hợp. Bước 4: Xác định thiệt hại thực trong sản xuất (thiệt hại sản phẩm hỏng, ngừng sản xuất) tính vào chi phí sản xuất trong kỳ. Trong chế độ kế toán hiện hành có hai phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên và phương pháp kiểm kê định kỳ. Tuỳ theo đặc điểm, qui mô sản xuất kinh doanh của đơn vị mà kế toán có thể áp dụng một trong hai phương pháp trên. Trong giới hạn của luận văn tốt nghiệp này, nếu hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX) thì chu trình hạch toán như sau: 2.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (công trình, hạng mục công trình ) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan tới nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là: phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, khối lượng sản phẩm Công thức phân bổ như sau: Chi phí vật Tiêu thức phân Tổng chi phí vật liệu liệu phân bổ bổ cần phân bổ = cho từng của từng x Tổng tiêu thức đối tượng đối tượng phân bổ Tài khoản sử dụng: Để tập hợp và phân bổ chi phí NVL trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621 "Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp" TK này được mở chi tiết cho từng đối tượng và có kết cấu như sau: Bên Nợ: - Trị giá thực tế nguyên liệu, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho hoạt động xây lắp trong kỳ hạch toán. Bên Có: - Trị giá NVL trực tiếp sử dụng không hết được nhập lại kho. - Kết chuyển hoặc phân bổ trị giá nguyên liệu, vật liệu thực tế sử dụng cho hoạt động xây lắp trong kỳ vào TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” và chi tiết cho các đối tượng để tính giá thành công trình xây lắp. TK 621 cuối kỳ không có số dư. - 12 -
  13. sơ đồ số 1.1 Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (Theo phương pháp KKTX và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ) TK 152 TK 621 TK 152 Xuất vật liệu vào sản Trị giá NVL sử dụng không xuất sản phẩm xây lắp hết nhập lại kho TK 331,111,112 TK 154 Mua NVL sử dụng ngay Cuối kỳ kết chuyển trị giá (không qua kho) NVL sử dụng cho xây lắp TK 141 (1413) Hoàn tạm ứng 2.2.Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp là khoản tiền lương, tiền công trả cho công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng công tác xây lắp và công nhân phục vụ công tác xây lắp. Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền lương, lương phụ, phụ cấp, thưởng, ngoài ra nó còn bao gồm tiền lương nghỉ phép, tiền lương trong thời gian ngừng việc hoặc huy động làm nghĩa vụ xã hội như tập quân sự, học tập. Khoản chi này không bao gồm tiền lương nhân công điều khiển máy thi công, tiền lương nhân viên quản lý đội và các khoản trích BHXH, BHYT, KFCĐ của công nhân trực tiếp xây lắp. Chi phí nhân công trực tiếp được tính vào giá thành công trình, hạng mục công trình chủ yếu theo phương pháp trực tiếp. Trong trường hợp khoản chi phí này liên quan tới nhiều đối tượng chịu phí, kế toán có thể phân bổ cho các đối tượng theo tiêu thức như định mức hao phí nhân công tỷ lệ với khối lượng xây lắp hoàn thành. Trong XDCB, có 2 cách tính lương chủ yếu đó là tính lương theo thời gian và tính lương theo công việc giao khoán. Để tập hợp và phân bổ chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”. Kết cấu của TK này như sau: Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp tham gia quá trình xây lắp bao gồm tiền lương, thưởng, phụ cấp Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào bên Nợ TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang". TK 622 cuối kỳ không có số dư. - 13 -
  14. Sơ đồ số 1.2 Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp TK 334,111 TK 622 TK 154 Tiền lương phải trả cho Kết chuyển (phân bổ ) chi công nhân trực tiếp sản xuất phí nhân công trực tiếp TK 335 Trích trước tiền lương nghỉ phép TK: 1413 Tạm ứng chi phí nhân công để thực hiện giá trị khoán 2.3. Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công Chi phí máy thi công là loại chi phí đặc thù của sản xuất kinh doanh xây lắp. Nó bao gồm toàn bộ chi phí về nguyên liêụ, máy móc, lao động và chi phí bằng tiền khác phục vụ cho quá trình sử dụng máy thi công của doanh nghiệp. Do đặc điểm hoạt động của máy thi công trong công tác xây lắp mà chi phí máy thi công được chia làm 2 loại: - Chi phí tạm thời: là những chi phí có liên quan đến việc lắp đặt, chạy thử, di chuyển máy thi công. Các khoản này được phân bổ dần trong thời gian sử dụng máy. - Chi phí thường xuyên: là những chi phí phát sinh thường xuyên, phục vụ cho hoạt động của máy thi công như: khấu hao máy, tiền lương công nhân điều khiển máy, nhiên liệu động lực chạy máy, chi phí sửa chữa thường xuyên và chi phí khác. Trong chi phí sử dụng máy thi công không bao gồm tiền lương nhân viên vận chuyển máy, chi phí trong thời gian ngừng sản xuất. Việc hạch toán chi phí máy thi công phụ thuộc rất nhiều vào hình thức tổ chức sử dụng máy. Thông thường, các doanh nghiệp sử dụng các hình thức sau đây: - Nếu tổ chức đội máy thi công riêng biệt và có phân cấp hạch toán cho đội máy có tổ chức hạch toán kế toán riêng, thì việc hạch toán được tiến hành tương tự như một đội xây lắp và sử dụng các TK 621, 622, 627 và TK 154. - Nếu không tổ chức đội máy thi công riêng biệt; hoặc có tổ chức đội máy thi công riêng biệt nhưng không tổ chức kế toán riêng cho đội máy thi công thì toàn bộ chi phí sử dụng máy (kể cả chi phí thường xuyên và tạm thời như phụ cấp lương, phụ cấp lưu động của xe, máy thi công) sẽ sử dụng TK 623 "Chi phí sử dụng máy thi công" để hạch toán. Kết cấu và nội dung phản ánh của TK này như sau: Bên Nợ: Các chi phí liên quan đến máy thi công (chi phí NVL cho máy hoạt động, chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương, tiền công của công nhân trực tiếp điều khiển máy, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy thi công ) Bên Có: Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào bên Nợ TK 154. Tài khoản 623 không có số dư cuối kỳ. TK 623 có 6 TK cấp 2. - 14 -
  15. TK 6231: Chi phí nhân công (không có trích BHXH, BHYT, KFCĐ) TK 6232: chi phí vật liệu TK 6233 Chi phí dụng cụ sản xuất TK 6234: Chi phí khấu hao máy móc thi công TK 6237: Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6238: Chi phí bằng tiền khác Sơ đồ số 1.3 Sơ đồ hạch toán chi phí sử dụng máy thi công (Trường hợp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt, thi công hỗn hợp vừa bằng máy, vừa thủ công) TK 141 (1413) TK 623 TK 154 Tạm ứng chi phí máy thi Căn cứ vào bảng phân bổ chi công để thực hiện giá trị khoán phí sử dụng máy thi công tính cho từng CT, hạng mục CT TK 111,334 Tiền công phải trả cho công nhân điều khiển máy Khi xuất mua vật liệu phụ cho máy thi công TK 152,153,141,111 Chi phí khấu haomáy thi công TK 111,112,331 TK 214 Chi phí dịch vụ mua ngoài chi phí bằng tiền khác 2.4. Hạch toán chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung là những khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất của đội xây dựng nhưng không trực tiếp cấu thành thực thể công trình. Chi phí sản xuất chung bao gồm: lương nhân viên quản lý đội, khấu hao TSCĐ, công cụ, dụng cụ phục vụ cho sản xuất, dịch vụ mua ngoài, trích BHXH, BHYT, KFCĐ trên tiền lương phải trả của công nhân xây lắp, nhân viên quản lý đội và nhân viên sử dụng máy thi công. Để hạch toán khoản chi phí này, kế toán sử dụng TK 627 "Chi phí sản xuất chung" Kết cấu và nội dung của TK 627 Bên Nợ: Các khoản chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ như lương nhân viên quản lý đội, trích BHXH, BHYT, KFCĐ trên lương nhân viên quản lý đội, nhân viên sử dụng máy thi công và công nhân xây lắp; khấu hao TSCĐ dùng cho cho đội và các chi phí khác có liên quan tới hoạt động của đội. Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung. - Kết chuyển chi phí sản xuất chung vào bên Nợ TK 154. TK 627 không có số dư cuối kỳ và có 6 TK cấp 2. TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng - 15 -
  16. TK 6272: Chi phí vật liệu TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ TK 6278: Chi phí dịch vụ mua ngoài Sơ đồ số 1.4 Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung (Đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ) TK 141 (1413) TK 627 TK 111,112,138 Các khoản ghi giảm Tạm ứng chi phí để thực hiện chi phí sản xuất chung giá trị khoán xây lắp TK 334, 338 Tiền công và các khoản trích Kết chuyển chi phí BHXH, BHYT, KFCĐ của đội sản xuất chung TK 154 Xuất dùng NVL cho đội xây dựng TK 153, 142, 335 Xuất CCLĐ và sữa chữa TS CĐ thuộc đội xây dựng TK 214 Trích khấu hao TSCĐ dùng cho đội xây dựng TK 111,112,331 Chi phí dịch vụ mua ngoài chi phí bằng tiền khác 2.5. Tổng hợp chi phí toàn công trình: Tổng hợp chi phí sản xuất là công tác quan trọng phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm. Như vậy, quá trình tổng hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo từng đối tượng tập hợp chi phí là các công trình, các hạng mục công trình. Để tổng hợp chi phí sản xuất kế toán sử dụng TK 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang". TK này được mở cho tiết cho từng đối tượng và có kết cấu như sau: Bên Nợ: Các chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ liên quan đến giá thành sản phẩm xây lắp công trình. Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất - Giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao. Dư Nợ: Chi phí sản xuất kinh doanh còn dở dang cuối kỳ. - 16 -
  17. Sơ đồ số 1.5 Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất TK 621 TK 154 TK 152,111,138 Kết chuyển chi phí NVL Các khoản ghi giảm chi trực tiếp phí sản xuất TK 622 TK 632 Kết chuyển chi phí nhân Giá thành xây lắp hoàn công trực tiếp thành bàn giao TK 623 Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công TK 627 Kết chuyển chi phí sản xuất chung xuất chung III. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp: 1. Đối tượng tính giá thành và căn cứ xác định đối tượng tính giá thành a - Đối tượng tính giá thành Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm của kế toán. Kế toán phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, tính chất sản xuất và yêu cầu quản lý để xác định đối tượng tính giá thành một cách hợp lý. Trong kinh doanh xây lắp do tính chất sản xuất đơn chiếc mỗi sản phẩm có lập dự toán riêng nên đối tượng tính giá thành thông thường là: hạng mục công trình, toàn bộ công trình, hay khối lượng công tác xây lắp hoàn thành. Xác định đối tượng tính giá thành là cơ sở để kế toán lập phiếu tính giá thành sản phẩm, tổ chức tính giá thành theo đối tượng phục vụ cho việc kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh để có kế hoạch, biện pháp phấn đấu hạ giá thành sản phẩm. Trong kinh doanh xây lắp thời gian sản xuất sản phẩm kéo dài. Do vậy xét về mặt lượng thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thường không bằng nhau. Chúng chỉ thực sự bằng nhau khi không có giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ. b - Căn cứ để xác định đối tượng tính giá thành Việc xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm cũng dựa trên các cơ sở như xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cụ thể như sau: - Dựa vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất. - 17 -
  18. Với sản xuất đơn chiếc đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. Còn với sản xuất phức tạp đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở các bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. - Dựa vào loại hình sản xuất. Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Còn đối với sản xuất hàng loạt lớn phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất mà đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm. - Dựa vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh. Cũng giống như khi xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Việc xác định đối tượng tính giá thành còn cần phải dựa vào yêu cầu trình độ và tổ chức quản lý. Với trình độ cao có thể chi tiết đối tượng tính giá thành ở các góc độ khác nhau, ngược lại nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. 2. Kỳ tính giá thành Kỳ tính giá thành là thời gian tính giá thành thực tế cho từng đối tượng tính giá thành nhất định. Kỳ tính giá thành là mốc thời gian mà bộ phận kế toán giá thành tổng hợp số liệu thực tế cho các đối tượng. Việc xác định kỳ tính giá thành phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chu kỳ sản xuất và hình thức bàn giao công trình. - Với công trình nhỏ, thời gian thi công ngắn (nhỏ hơn 12 tháng) kỳ tính giá thành là từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình. - Với những công trình lớn, thời gian thi công dài (hơn 12 tháng) khi nào có một bộ phận hạng mục hoàn thành, có giá trị sử dụng và được nghiệm thu, kế toán tiến hành tính giá bộ phận, hạng mục đó. - Với những công trình có thời gian kéo dài nhiều năm, những bộ phận không tách ra để đưa vào sử dụng được, khi từng phần việc lắp đặt đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý theo thiết kế tính toán sẽ tính giá thành cho khối lượng công tác được hoàn thành bàn giao. Kỳ tính giá thành này là từ khi bắt đầu thi công cho đến khi đạt điểm dừng kỹ thuật. 3. Kiểm kê trị giá sản phẩm dở dang cuối kỳ Sản phẩm làm dở trong các doanh nghiệp xây lắp có thể là công trình, hạng mục công trình dở dang, chưa hoàn thành hay khối lượng công tác xây lắp dở dang trong kỳ chưa được chủ đầu tư nghiệm thu, chấp nhận thanh toán. Để xác định giá trị sản phẩm dở dang một cách chính xác sản phẩm làm dở cuối kỳ, tức là xác định số chi phí sản xuất tính cho sản phẩm cuối kỳ phải chịu. Muốn vậy phải tổ chức kiểm kê là khối lượng công tác xây lắp dở dang trong kỳ đồng thời xác định đúng đắn mức độ hoàn thành theo quy ước của từng giai đoạn thi công. Chất lượng của công tác kiểm kê là khối lượng xây lắp dở dang có ảnh hưởng đến tính chính xác của công việc đánh giá sản phẩm làm dở và tính giá thành ở các doanh nghiệp xây dựng. Do đặc điểm của sản phẩm xây dựng là có kết cấu phức tạp, công tác xác định mức độ hoàn thành của nó là rất khó khăn nên khi đánh giá sản phẩm làm dở, kế toán cần kết hợp chặt chẽ với bộ phận kỹ thuật và bộ phận tổ chức lao động. Trên cơ sở kết quả kiểm kê sản phẩm làm dở đã tổng hợp được, kế toán tiến hành đánh giá sản phẩm làm dở. Đối với doanh nghiệp xây lắp, thường áp dụng một trong những phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở như sau: a - Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí dự toán Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành trùng nhau. Theo phương pháp này chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ được xác định theo công thức sau: - 18 -
  19. Chi phí thực tế của Chi phí thực tế của Chi phí thực khối lượng xây lắp + khối lượng xây lắp Chi phí của tế của khối dở dang đầu kỳ thực hiện trong kỳ khối lượng xây lượng xây lắp Chi phí của khối Chi phí của khối lắp dở dang dở dang cuối lượng xây lắp hoàn + lượng xây lắp dở cuối kỳ theo kỳ = thành bàn giao thời dang cuối kỳ theo dự dự toán kỳ theo dự toán toán x b - Phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở theo tỷ lệ hoàn thành tương đương Theo phương pháp này, chi phí thực tế của khối lượng lắp đặt dở dang cuối kỳ được xác định như sau: Chi phí thực tế của Chi phí thực tế Giá trị dự toán của Chi phí thực khối lượng xây lắp + của khối lượng khối lượng xây lắp tế của khối dở dang đầu kỳ xây lắp thực dở dang cuối kỳ lượng xây lắp hiện trong kỳ tính theo mức độ dở dang cuối Tổng giá trị dự toán của các giai đoạn xây hoàn thành kỳ dựng theo mức độ hoàn thành x = Ngoài ra đối với một số công việc như: nâng cấp, sửa chữa, hoàn thiện hoặc xây dựng các công trình có giá trị nhỏ, thời gian thi công ngắn, theo hợp đồng bên chủ đầu tư thanh toán sau khi hoàn thành toàn bộ thì giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ chính là chi phí thực tế phát sinh từ khi khởi công thi công đến khi đánh giá, kiểm kê. 4. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp Phương pháp tính giá thành là một hay một hệ thống các phương pháp được sử dụng để tính giá thành sản phẩm, khối lượng công tác xây lắp hoàn thành. Nó mang tính thuần tuý kỹ thuật, tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Trong kinh doanh xây lắp, đối tượng tính giá thành thường là hạng mục công trình, toàn bộ công trình hoặc khối lượng xây lắp hoàn thành. Tuỳ theo đặc điểm của từng đối tượng tính giá thành và mối quan hệ giữa các đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà kế toán phải lựa chọn sử dụng một hoặc kết hợp nhiều phương pháp thích hợp để tính giá thành cho từng đối tượng. Trong các doanh nghiệp xây lắp, thường áp dụng các phương pháp tính giá thành sau: 4.1. Phương pháp tính giá thành giản đơn (phương pháp tính giá thành trực tiếp) Phương pháp này là phương pháp tính giá thành được sử dụng phổ biến trong các doanh nghiệp xây lắp hiện nay vì sản xuất thi công mang tính chất đơn chiếc, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với đối tượng tính giá thành. Hơn nữa, áp dụng phương pháp này cho phép cung cấp kịp thời số liệu giá thành trong mỗi kỳ báo cáo và cách tính đơn giản, dễ dàng thực hiện. Theo phương pháp này, tập hợp tất cả các chi phí sản xuất phát sinh trực tiếp cho một công trình hoặc hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình đó. Trường hợp công trình, hạng mục công trình chưa hoàn thành toàn bộ mà có khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao thì: - 19 -
  20. Giá thành thực tế khối Chi phí thực tế Chi phí thực Chi phí thực tế lượng xây lắp hoàn = dở dang đầu kỳ + tế phát sinh - dở dang cuối kỳ thành bàn giao trong kỳ Trong trường hợp chi phí sản xuất tập hợp theo công trường hoặc cả công trình nhưng giá thành thực tế phải tính riêng cho từng hạng mục công trình. Kế toán có thể căn cứ vào chi phí sản xuất của cả nhóm hoặc hệ số kinh tế kỹ thuật đã quy định cho từng hạng mục công trình để tính giá thành thực tế cho hạng mục công trình đó. Nếu các hạng mục công trình có thiết kế khác nhau, dự toán khác nhau nhưng cùng thi công trên một địa điểm do một công trình sản xuất đảm nhận nhưng không có điều kiện quản lý theo dõi việc sử dụng các loại chi phí khác nhau cho từng hạng mục công trình thì từng loại chi phí đã được tập hợp trên toàn công trình đều phải tiến hành phân bổ cho từng hạng mục công trình. Khi đó giá thành thực tế của từng hạng mục công trình sẽ là:  C =  Gdt x H Trong đó: H là tỷ lệ phân bổ giá thành thực tế  C x 100 H =  Gdt C : Tổng chi phí thực tế của các công trình  Gdt : Tổng dự toán của tất cả các công trình  Gdti : Giá trị dự toán của hạng mục công trình 4.2. Phương pháp tỷ lệ: Trong trường hợp chi phí sản xuất được tập hợp theo đơn vị thi công, kế toán có thể căn cứ vào hệ số kinh tế kỹ thuật quy định cho từng hạng mục công trình và chi phí sản xuất cho cả nhóm để tính giá thành thực tế cho hạng mục công trình đó. 4.3. Phương pháp tổng cộng chi phí: Phương pháp này đươc áp dụng trong trường hợp các doanh nghiệp xây lắp thi công các công trình lớn và phức tạp, quá trình xây lắp được chia ra các bộ phận sản xuất khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí là từng đội sản xuất còn đối tượng tính giá thành là toàn bộ công trình hoàn thành. Theo phương pháp này giá thành công trình được xác định bằng cách tổng cộng chi phí sản xuất phát sinh tại từng đội, cộng với giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và trừ đi giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ. Z = DĐK + C1 + C2 + + Cn - DCK Trong đó C1, C2, , Cn là chi phí sản xuất phát sinh tại từng đội sản xuất hoặc từng hạng mục công trình. 4.4. Phương pháp tính giá thành theo định mức Phương pháp này có mục đích kịp thời phát hiện ra mọi chi phí sản xuất và phát sinh vượt quá định mức, từ đó tăng cường phân tích và kiểm tra kế hoạch giá thành. Nội dung của phương pháp này cụ thể như sau: Căn cứ vào định mức chi phí hiện hành, kết hợp với dự toán chi phí được duyệt, kế toán tiến hành tính giá thành sản phẩm theo định mức. So sánh chi phí phát sinh với định mức để xác định số chênh lệch. Tập hợp thường xuyên và phân tích những chênh lệch đó để kịp thời tìm ra những biện pháp khắc phục nhằm hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở tính giá thành định mức, số chênh lệch do thay đổi định mức, kết hợp với việc theo dõi chính xác số chênh lệch so với định mức, kế toán tiến hành xác định giá thực tế của sản phẩm xây lắp theo công thức. - 20 -
  21. Giá thành thực tế Giá thành Chênh lệch do Chênh lệch so với của sản phẩm = định mức sản +(-) thay đổi định +(-) định mức phẩm mức Phương pháp này rất phù hợp với đặc điểm của ngành xây lắp. Tuy nhiên để phương pháp này thực sự phát huy tác dụng, kế toán cần tổ chức được hệ thống định mức tương đối chính xác và cụ thể, công tác hạch toán ban đầu cần chính xác và chặt chẽ. IV. Các hình thức sổ kế toán quy định áp dụng thống nhất đối với doanh nghiệp xây lắp Hình thức sổ kế toán Nhật ký chung Hình thức sổ kế toán Nhật ký - Sổ cái Hình thức sổ kế toán Nhật ký - Chứng từ. Hình thức sổ kế toán Chứng từ ghi sổ (CTGS). Trong 4 hình thức sổ kế toán trên doanh nghiệp có thể lựa chọn 1 trong 4 hình thức sổ kế toán để áp dụng cho phù hợp với quy mô, đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp mình. Nếu theo hình thức sổ kế toán Chứng từ ghi sổ thì quy trình hạch toán như sau: Sơ đồ số 1.6 Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức CTGS Chứng từ gốc Bảng tổng hợp Sổ thẻ kế Sổ quỹ chứng từ gốc toán chi tiết Sổ dăng ký Chứng từ ghi sổ Bảng tổng chứng từ ghi sổ hợp chi tiết Sổ cái Bảng cân đối số phát sinh Báo cáo tài chính Ghi chú: Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu, kiểm tra - 21 -
  22. Phần iI Thực trạng hạch toán chí phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty xây lắp và vật tư xây dựng 8 I - Khái quát chung đặc điểm Công ty Xây lắp và vật tư xây dựng 8 1 - Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng 8 Công ty Xây lắp và Vật tư Xây dựng 8 là một Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực Xây dựng dân dụng và sản xuất vật liệu. Công ty là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập trực thuộc Tổng công ty Xây dựng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn. Công ty được thành lập theo quyết định số 208 NN-TCCB/QĐ ngày 24 tháng 03 năm 1993 của Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn) Giấy phép đăng ký kinh doanh số 111523 ngày 06 tháng 03 năm 1997 do Sở kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp. Ngành nghề kinh doanh chính bao gồm: Xây dựng các công trình dân dụng và phần bao che các công trình Công nghiệp thuộc nhóm B; Xây dựng các Công trình Thuỷ lợi nhỏ, kênh mương, công trình Thuỷ lợi có qui mô vừa ( không làm đập và hồ chứa nước ); Xây dựng đường bộ cấp V, VI, cầu nhỏ, cống, kè; Sản xuất vật liệu xây dựng và kinh doanh bất động sản. Tiền thân của Công ty trước đây là Xí nghiệp xây lắp và Vật tư Xây dựng 4, sau khi sát nhập với Xí nghiệp xây lắp và phát triển Nông thôn 4 tại Chương mỹ - Hà tây (ngày 12/10/1991) gọi là Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng 4, sau đó được đổi tên là Công ty Xây lắp và Vật tư Xây dựng 8 theo quyết định số 244 NN- TCCB/QĐ ngày 13/ 02/ 1997 của bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn. Sau khi sát nhập, tổng mức vốn ban đầu là 1.134.000.000 đ (Một tỷ, một trăm ba mươi tư triệu đồng) Là một Công ty thuộc Công ty lớn trong Tổng công ty Xây dựng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với ngành nghề kinh doanh chủ yếu là Xây lắp các công trình dân dụng và sản xuất vật liệu phục vụ cho xây lắp bao gồm gạch đặc, gạch rỗng, đá xây dựng. Các Công trình do Công ty đã và đang tham gia xây dựng được đưa vào sử dụng với chất lượng cao như công trình Phủ Chủ Tịch, hệ thống Kho bạc và Cục đầu tư các tỉnh, thành trong cả nước, Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, công trình trường học, trại chăn nuôi và Công ty thêu ren hàng tơ tằm liên doanh với Pháp, Các Công trình do Công ty đảm nhận thi công đều có kiến trúc đẹp, chất lượng cao và giá thành hợp lý nên uy tín của Công ty ngày càng cao trên lĩnh vực Xây lắp. Trong những năm gần đây do nắm bắt được nhu cầu thị trường, thị hiếu của khách hàng và chủ trương của Nhà nước trong lĩnh vực Đầu tư Xây dựng cơ sở hạ tầng lớn mạnh đáp ứng yêu cầu của công cuộc hiện đại hoá, Công nghiệp hoá, Công ty đã chuyển đổi chiến lược kinh doanh của mình từ xây lắp sang sản xuất vật liệu. Giữa năm 1996 thực hiện nhiệm vụ của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, Tổng Công ty Xây dựng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn giao cho Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng 8 thực hiện dự án “ Đầu tư, khai thác và sản xuất đá xây dựng tại Lương Sơn - Hoà Bình” theo quyết định số 271 NN - ĐTXD/QĐ ngày 21/6/1996 của Bộ NN và Phát triển Nông Thôn với tổng dự toán là 10.840.313.000 đồng, trong đó nhập thiết bị nghiền sàng của Nhật công suất 110 tấn / giờ giá trị 459.300 USD (tương đương 5.052.300.000 đồng) Sau gần ba năm dự án đi vào sản xuất do tình hình khủng hoảng kinh tế khu vực làm cho việc đầu tư XDCB ở Việt nam giảm, làm mất thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án, dự án chỉ phát huy đạt 10% công suất thiết kế dẫn đến tình hình tài chính của Công ty gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy Công ty phải tạm ngừng sản xuất đá, kiến nghị với các cơ quan hữu quan của Nhà nước trình chính phủ cho khoanh nợ vốn vay trung hạn của dự án. - 22 -
  23. Với tổng số 240 cán bộ công nhân viên, một vấn đề được ban lãnh đạo Công ty đặc biệt quan tâm là đảm bảo ổn định đời sống cho CBCNV. Với những nỗ lực, cố gắng của Ban giám đốc và của toàn thể CBCNV trong Công ty, trong những năm qua thu nhập bình quân đầu người của công ty luôn đạt mức tương đối so với các đơn vị khác cùng ngành. Cụ thể thu nhập bình quân đầu người năm 1998 là 450.000 đồng/người, năm 1999 là 500.000 đồng/người, dự kiến năm 2000 là 550.000 đồng/người. Bên cạnh đó Công ty luôn quan tâm đến việc đào tạo nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân kỹ thuật, tạo điều kiện cho CBCNV của Công ty tiếp cận với những kiến thức mới (như học nâng cao tay nghề, trình độ ngoại ngữ, tin học, ) đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Tuy vậy trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, cũng như phần lớn các Doanh nghiệp khác, Công ty XL và VTXD 8 cũng gặp phải những khó khăn nhất định như đầu tư quá lớn, thiếu vốn lưu động dùng để sản xuất kinh doanh. Nhưng với sự nỗ lực cùng với những thuận lợi về mảng kinh doanh xây lắp đồng thời với sự đoàn kết nhất trí cao trong tập thể, CBCNV Công ty đã và sẽ vượt qua đưọc những khó khăn tạm thời để trở thành một đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đứng vững trên thương trường. Biểu số 2.1 Tổng giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản năm 1999 Đơn vị tính: triệu đồng Tài sản Tiền Nguồn hình thành TS Tiền Tài sản lưu động 6.330 Nợ phải trả 22.275 Tài sản cố định 7.645 Nguồn vốn chủ sở hữu (8.300) Biểu số 2.2 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Đơn vị tính: triệu đồng Stt Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 01 Doanh thu thuần 18.756 20.202 18.013 7.683 5.021 02 Giá vốn hàng bán 17.183 17.745 12.191 8929 5.422 03 Lợi tức gộp 1.573 2.457 5.822 (1.246) (401) 04 CPBH và CPQLDN 708 970 5.810 2374 410 05 Lợi tức thuần từ HĐ KD 865 1.487 12 (3.620) (811) 06 Lợi tức HĐ tài chính 39 13 - 151 (1.872) 07 Lợi tứcHĐ bất thường 21 2 - (317) (1.711) 08 Tổng lợi tức trước thuế 925 1.502 12 (3.786) (4.394) 09 Thuế lợi tức phải nộp 231 376 3 - - 10 Lợi tức sau thuế 694 1.126 9 - - 11 Vốn kinh doanh 3.656 4.397 4.397 4.397 4.397 2 - Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý ở Công ty Xây lắp và Vật tư Xây dựng 8 2.1 - Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh Với ngành nghề kinh doanh chính là xây lắp nên đặc điểm nổi bật trong công tác tổ chức sản xuất kinh doanh ở Công ty là hình thức tổ chức sản xuất phân tán. Hiện nay Công ty có địa bàn hoạt động xây lắp trên cả nước từ Tuyên quang, Lai châu (phía Bắc) đến Cà mau (phía Nam). Đối với mảng Xây lắp: - 23 -
  24. Đặc điểm quy trình tổ chức sản xuất ở Công ty xây lắp và vật tư xây dựng 8 theo đúng quy trình chung trong ngành xây dựng. Sơ đồ số 2.1 Công tác lập hồ sơ, tổ chức thi công được thực hiện qua các bước sau: Chuẩn bị hồ sơ kỹ thuật Lập mặt bằng tổ chức thi công Lập biện pháp thi công và biện pháp ATLĐ Tổ chức thi công Nghiệm thu Thanh quyết toán - Chuẩn bị hồ sơ kỹ thuật: Hồ sơ kỹ thuật bao gồm: Dự toán, bản vẽ thiết kế do bên chủ đầu tư ( bên A) cung cấp Dự toán thi công do bên trúng thầu (bên B) tính toán lập ra và được bên A chấp nhận. - Sau khi lập dự toán thi công được bên A chấp nhận, Bên B sẽ khảo sát mặt bằng thi công phục vụ cho công tác thiết kế mặt bằng, tổ chức thi công phù hợp với mặt bằng thực tế công trình. - Lập biện pháp thi công, biện pháp an toàn lao động là công việc tiếp theo. Biện pháp thi công và biện pháp an toàn lao động được lập sao cho công trình được thi công nhanh, đúng tiến độ, đảm bảo kỹ thuật, chất lượng và an toàn lao động. Mỗi công trình sẽ có biện pháp thi công và biện pháp an toàn lao động cụ thể riêng phù hợp. Việc thiết kế mặt bằng, lập biện pháp thi công và biện pháp an toàn lao động chủ yếu thuyết minh bằng bản vẽ còn những phần không thể hiện được trên bản vẽ thì được thuyết minh bằng lời. - Công tác tổ chức thi công được thực hiện sau khi bên A chấp nhận hồ sơ thiết kế mặt bằng tổ chức thi công, biện pháp thi công và biện pháp an toàn lao động. Quá trình thi công được tổ chức theo các biện pháp đã lập. - Sau khi công trình hay hạng mục công trình hoàn thành, hai bên A và B tiến hành tổ chức nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng. Thành phần nghiệm thu bao gồm: Chủ đầu tư (Bên A), tư vấn (nếu có), đơn vị thi công (Bên B) và các thành phần có liên quan. - Hai bên tiến hành thanh quyết toán công trình hoàn thành sau khi đã nghiệm thu bàn giao công trình. Khi quyết toán công trình đã được cấp có thẩm quyền duyệt, bên A sẽ thanh toán nốt số còn lại cho bên B. - 24 -
  25. - Do các đặc điểm sản xuất của ngành và của sản phẩm xây dựng nói chung cũng như đặc điểm quy trình sản xuất nói trên và các đặc điểm riêng của Công ty nên việc tổ chức bộ máy kinh doanh của Công ty có nét đặc trưng riêng. Công ty chia thành bốn đội Xây lắp. Một đội có địa bàn hoạt động tại các tỉnh phía Nam, ba đội còn lại có địa bàn hoạt động tại Hà nội và các tỉnh phía Bắc. Công việc chính của các đội Xây lắp là chuyên xây dựng các công trình dân dụng, nhà cửa, bệnh viện, trường học và các công trình kè, mương, tưới tiêu phục vụ sản xuất Nông nghiệp, đã và đang được đưa vào sử dụng. Qua chất lượng và uy tín, Công ty đang ngày càng có xu hướng đổi mới hơn nữa về Công nghệ, máy móc cơ giới hoá để đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Đối với các đội xây lắp, hai năm trở lại đây đã được Công ty áp dụng hình thức khoán gọn, áp dụng nhiều cơ chế mở trong khai thác nguồn vật tư sẵn có trên địa bàn và giao quyền chủ động trong vấn đề tài chính cho các đội sản xuất, nó đã kích thích nhiều phương án sáng tạo trong đội ngũ sản xuất, giúp công việc tiến triển tốt hơn, giá thành giảm hơn. Hình thức khoán được mô tả cụ thể như sau: - Công ty tham gia đấu thầu và ký các hợp đồng xây lắp với chủ đầu tư Công trình (gọi tắt là bên A) sau đó tuỳ theo yêu cầu từng địa điểm thi công công trình, tuỳ theo yêu cầu của bên A, Công ty sẽ tiến hành giao khoán chi phí lại toàn bộ công trình hay giao khoán một phần công việc cho đội sản xuất đảm nhận thi công. Đối với công việc đội tự tìm kiếm sẽ được ưu tiên thi công và giảm tỷ lệ thu nộp cho Công ty. Còn nếu đội đó không nhận thi công thì Công ty sẽ giao lại cho đội khác và đội đó được hưởng chi phí dẫn việc theo tỷ lệ đã định. Đối với việc giao khoán chi phí, Công ty căn cứ váo giá trị hợp đồng, giao khoán toàn bộ cho đội trưởng đội xây lắp trên cơ sở cân đối năng lực theo yêu cầu công việc đồng thời thống nhất tỷ lệ khoán. Đội trưởng đội Xây lắp đó tự lo liệu về tiền vốn thi công, chịu trách nhiệm toàn bộ về tình trạng kỹ thuật của công trình. Nhưng mặt khác, đội trưởng đội thi công có trách nhiệm báo cáo, đề xuất những giải pháp và khó khăn mà đội không giải quyết được với Công ty, phải có trách nhiệm báo cáo số liệu phát sinh trong quá trình thi công các hạng mục về phòng kế toán Công ty bao gồm báo cáo tiền mặt, báo cáo nhập - xuất - tồn vật tư, báo cáo tình hình chi trả lương, báo cáo sản lượng đúng, đầy đủ, kịp thời và chính xác. Khi được bên A ứng vốn thi công phải chuyển vào tài khoản của Công ty đã ký với bên A và thực hiện đúng cam kết của Công ty với Chủ đầu tư đảm bảo chữ tín của Công ty đối với khách hàng, nhằm mở rộng thị trường, đáp ứng mục tiêu cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp là lợi nhuận. - Đối với hình thức giao khoán một phần, Công ty căn cứ vào giá trị dự toán của hợp đồng đã ký, giao khoán cho đội thi công nhưng chỉ giao khoán phần nhân công và phần kỹ thuật thi công, còn Công ty trực tiếp cung cấp vật tư, tiền vốn, đầu tư máy móc thi công, thiết bị sản xuất theo tiến độ thi công của đội sản xuất đề nghị và đồng thời chịu trách nhiệm thanh toán khối lượng với bên A. Tỷ lệ giao khoán cho đội sản xuất được thoả thuận dựa trên dự toán thi công do phòng kinh tế kỹ thuật của Công ty tính theo định mức xây dựng cơ bản của Nhà nước ban hành. Khi đã nhận khoán thi công hạng mục công trình, đội sản xuất phải lập tiến độ thi công và tiến hành thi công theo tiến độ đã đề ra được Công ty phê duyệt. Hàng tháng, hàng quý đội sản xuất phải có báo cáo tiến độ xây lắp và những yêu cầu về vật tư tiền vốn cho những tháng, quí tiếp theo. Đông thời đội cũng phải báo cáo những khó khăn vướng mắc mà đội không thể giải quyết được cần có sự hỗ trợ của Công ty. Khi Công trình kết thúc, hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng đội sản xuất phải có trách nhiệm hoàn tất mọi thủ tục hồ sơ hoàn công và các giấy tờ liên quan gửi về Công ty để các phòng chức năng của Công ty giúp đội sản xuất tiến hành thanh lý hợp đồng. Hình thức khoán một phần này thường chỉ áp dụng đối với hợp đồng lớn, cần tập trung hoàn thành nhanh gọn hợp đồng và các hợp đồng thuộc địa bàn thành phố Hà nội thuận lợi cho việc cung ứng vật tư của Công ty và giám sát kỹ thuật nhằm đáp ứng chất lượng công trình, tiết kiệm chi phí, gián tiếp hạ giá thành của công trình, tăng lợi nhuận sau thuế của Công ty. - 25 -
  26. Đối với mảng sản xuất vật liệu Xây dựng: Công ty đã đầu tư dây chuyền nghiền sàng đá xây dựng của Nhật bản với công suất 235.000 m3/ năm được sử dụng nguyên vật liệu chính khai thác tại núi đá vôi cách khu nghiền sàng khoảng 700 m tại huyện Lương Sơn - Tỉnh Hoà Bình. Dây chuyền nghiền sàng đá này được đầu tư với quy mô lớn. Nguồn vốn hình thành tài sản chủ yếu là vốn vay (cả nội tệ và ngoại tệ). Hiện nay, sản phẩm của Công ty chủ yếu cung cấp dài hạn cho các nhà máy bê tông và các Công trình xây lắp trong toàn Tổng công ty. Năm đầu mới sản xuất sản phẩm của Công ty được thị trường chấp nhận rộng rãi nhưng vài năm trở lại đây do tình hình khủng hoảng kinh tế khu vực làm cho việc đầu tư XDCB ở Việt nam giảm, làm mất thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án. Dự án chỉ phát huy được 10% công suất thiết kế. Công ty gặp rất nhiều khó khăn không có khả năng trả nợ vốn và lãi vay. Công ty phải tạm dừng sản xuất, kiến nghị với các cơ quan chức năng của Nhà nước, trình Chính phủ cho khoanh nợ vốn vay trung hạn của dự án bởi vì càng sản xuất thì càng lỗ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Đối Với mảng kinh doanh vật tư xây dựng và kinh doanh bất động sản: Đây là một lĩnh vực kinh doanh mang tính trừu tượng, đòi hỏi người kinh doanh phải có đầu óc tính toán và ngoại giao tốt, nắm bắt nhanh yêu cầu của thị trường thì công việc kinh doanh mới đạt hiệu quả. Nhận thức được vấn đề đó nên Công ty đã bố trí sắp xếp một tổ chuyên thực hiện các hợp đồng kinh doanh vật tư, nhà cửa bao gồm các cán bộ nhanh nhẹn, tháo vát có khả năng thích ứng với thị trường và có hiểu biết về lĩnh vực kinh doanh. Tuy là ba mảng trong một nhưng hiện nay chỉ còn lại hai mảng (xây lắp, sản xuất vật liệu) hoạt động thống nhất và hỗ trợ lẫn nhau, bổ xung cho nhau và đáp ứng được yêu cầu sản xuất trong toàn Công ty. 2.2 - Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý ở Công ty XL và VTXD 8 Công ty xây lắp và vật tư xây dựng 8 tổ chức bộ máy quản lý theo kiểu tham mưu trực tuyến chức năng, nghĩa là các phòng ban tham mưu trực tuyến cho Giám đốc theo chức năng nhiệm vụ của mình, giúp Giám đốc đưa ra các quyết định quản lý phù hợp với tình hình thực tế và đem lại lợi nhuận cao nhất. Ban Giám đốc: Gồm 3 người Giám đốc: Là người đứng đầu Công ty, chịu trách nhiệm cao nhất, giám sát và quản lý tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, là người đại diện cho Công ty ký kết các hợp đồng kinh tế và là chủ tài khoản đăng ký tại ngân hàng. Phó Giám đốc thường trực: Phụ trách về tổ chức và nhân sự, tham mưu cho Giám đốc và thay quyền khi Giám đốc đi vắng. Phó Giám đốc: Phụ trách mảng xây lắp và kinh doanh vật tư, tài sản, tham mưu cho giám đốc về mặt kỹ thuật công nghệ, tìm kiếm thị trường, tiêu thụ sản phẩm và thực hiện hợp đồng xây lắp có hiệu quả cao. Các phòng ban chức năng: Phòng Tài chính - Kế toán: Tham mưu cho Giám đốc về mảng tài chính, kế toán, thực hiện hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, thực hiện thanh quyết toán với Nhà nước, cấp trên quản lý và các các đối tác có liên quan. Phòng tổ chức hành chính: Giúp Giám đốc thực hiện đúng các chính sách chế độ của Nhà nước đối với người lao động trong Công ty, phối hợp với tổ chức Công đoàn bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Ngoài ra chịu sự quản lý của phòng tổ chức hành chính còn ba bộ phận nhỏ là văn thư, lái xe và bảo vệ. Phòng kế hoạch, kinh tế kỹ thuật: Chịu trách nhiệm quản lý về các vấn đề kỹ thuật trong sản xuất và thi công, xây dựng định mức sản xuất, lập kế hoạch sửa chữa TSCĐ, lập dự toán thi công các công trình xây lắp, hồ sơ đấu thầu và hoàn công. Phòng cung ứng vật tư vận tải: Có nhiệm vụ ký kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kế hoạch cung tiêu các sản phẩm và vật tư kinh doanh, thực hiện các chiến lược Marketing, tìm kiếm thị trường xây lắp và tiêu thụ sản phẩm. Các đội sản xuất trực thuộc: - 26 -
  27. Đối với mỗi khu vực hoạt động Công ty luôn bố trí song song hai loại hình hoạt động đó là sản xuất và kinh doanh. Đi kèm với nó hình thành nên các đội sản xuất trực thuộc, bao gồm: - Các đội xây lắp bao gồm từ đội I đến đội IV: Được bố trí từ khu vực Xuân Mai tới khu vực Hà Nội và các tỉnh phía Bắc (Đội I, II, III), khu vực phía Nam (Đội IV). Các đội xây lắp này có nhiệm vụ thực hiện các hợp đồng xây lắp mà Công ty đã ký kết trên địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh của mình dựa trên cơ sở khoán chi phí hay khoán từng phần nhân công. Nhà máy sản xuất đá: Có nhiệm vụ khai thác và nghiền sàng đá theo hợp đồng mà Công ty đã ký kết, cung ứng vật tư vận tải tới chân công trình cho các đội xây lắp đúng tiến độ và chất lượng yêu cầu. Đội sản xuất phụ: Sản xuất gạch chỉ và đá ốp lát chủ yếu phục vụ cho công tác xây lắp của Công ty. Sơ đồ số 2.2 Sơ đồ Bộ MáY QUảN Lý CủA Công ty bGĐ CÔNG TY Phòng kế Phòng T/C Phòng K/H- Phòng CƯ- toán hành chính K/T-K/T VT-VT Chi nhánh Khu vực Chi nhánh Xuân Mai Phía Bắc MiềnNam Khối Khối Khối Khối Khối Khối Khối Xây Lắp K.D SXVLiệu KD Xây lắp KD Xây lắp s s s Đội Khối N/ Máy Đội Đội Đội Đội Đội Xây SX SX SX đá Xây lắp Xây lắp Xây lắp Xây lắp Lắp I Gạch Đá ốp lát I II III IV 3 - Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán ở Công ty XL & VTXD 8: Một đặc điểm nổi bật tại Công ty là địa bàn hoạt động sản xuất phân tán. Công ty đăng ký giấy phép kinh doanh trên toàn quốc, các công trình trải khắp từ Bắc vào Nam. Công ty có trụ sở chính đóng tại Hà Nội. Để đảm bảo cho sự lãnh đạo tập trung của BGĐ Công ty cũng như sự chỉ đạo thống nhất và kịp thời của hệ thống kế toán. Công ty áp dụng hệ thống kế toán tập trung. Toàn bộ hoạt động kế toán, hạch toán các nghiệp vụ phát sinh - 27 -
  28. đều được giải quyết tại phòng kế toán của Công ty. Tại các bộ phận của Công ty như Chi nhánh, Đội Xây lắp, Nhà máy không tổ chức bộ phận kế toán riêng mà chỉ bố trí một nhân viên kinh tế có nhiệm vụ theo dõi sổ sách thu, chi, thu thập chứng từ, hoá đơn và làm báo cáo thu chi gửi phòng kế toán Công ty. Các thông tin, số liệu ban đầu sẽ được tập hợp gửi về phòng kế toán định kỳ từ 5 - 10 hàng tháng đối với khu vực phía Bắc, còn đối với khu vực phía Nam, do một số công trình ở tận cùng tổ quốc như Cần Thơ, Cà Mau nên công ty áp dụng chế độ nộp chứng từ theo quý và vào ngày 10 tháng đầu quý sau. Trong trường hợp đột xuất nhân viên kinh tế tại cơ sở sẽ lập giải trình để có kế hoạch bổ xung kịp thời đáp ứng được yêu cầu sản xuất của đơn vị cơ sở. 3.1 - Nhiệm vụ của phòng Kế toán : - Hướng dẫn, đôn đốc các bộ phận trong Công ty thu thập đầy đủ, kịp thời chính xác các chứng từ hóa đơn ban đầu. - Phản ánh ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất theo đúng qui định của Nhà nước - Xây dựng, giám sát việc thực hiện kế hoạch giá thành và giá bán. - Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tài chính. - Thực hiện lập báo cáo kế toán định kỳ gửi lên Giám đốc, Tổng Công ty, Bộ và các cơ quan của Nhà nước có liên quan (Cơ quan thuế, Ngân hàng, Cục thống kê Doanh nghiệp ). - Tổ chức bảo quản, lưu trữ hồ sơ tài liệu kế toán theo qui định hiện hành của Bộ tài chính. 3.2 - Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán của Công ty: Phòng kế toán bao gồm 5 người, trong đó 3 người có trình độ đại học và 2 người có trình độ trung cấp. Tại Công ty, mọi thành viên trong bộ máy kế toán sẽ phụ trách một phần hành kế toán nhất định. Mỗi người đều có chức năng, nhiệm vụ riêng của mình. Việc phân công trong phòng kế toán được tiến hành theo kế hoạch năm. Cụ thể như sau: - Kế toán trưởng: Phụ trách chung phòng kế toán, chịu trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra công việc của kế toán viên trong phòng. Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc, chịu trách nhiệm tính toán các hợp đồng kinh tế đồng thời tham mưu cho Giám đốc trong các hợp đồng giao khoán trong nội bộ Công ty. Ngoài ra Kế toán trưởng còn cùng với Giám đốc tham gia đối ngoại. - Kế toán tổng hợp: Là người chịu trách nhiệm về các loại hoá đơn chứng từ, về tính pháp lý của chứng từ, hoá đơn, có nhiệm vụ lên chứng từ ghi sổ, vào sổ đăng ký CTGS, vào sổ cái, sổ chi tiết có liên quan. Đồng thời hạch toán và phân bổ các khoản mục giá thành, theo dõi phần tiền vốn đã tạm ứng cho các đơn vị sản xuất và thanh toán nội bộ, hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh. - Kế toán Vật tư, tài sản cố định và đầu tư: Hạch toán chi tiết và tổng hợp nhập - xuất - tồn nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ xuất dùng, thanh toán với người bán, theo dõi tình hình tăng giảm và hiện có của tài sản cố định trong Công ty, trích và phân bổ khấu hao cho các đối tượng sử dụng.Theo dõi các khoản đầu tư dài hạn và tính giá thành sản xuất vật liệu. Khác với các nhân viên kinh tế tổ đội thì kế toán các phần hành tự lên chứng từ ghi sổ liên quan đến tài khoản mà mình phụ trách chuyển cho kế toán tổng hợp vào ngày 5 đến 10 tháng sau để vào sổ đăng ký CTGS và sổ chi tiết có liên quan. - Kế toán thanh toán, Ngân hàng: Chuyên theo dõi tình hình thu, chi và tồn quỹ tiền mặt, thanh toán với CBCNV về lương và BHXH, thanh toán với cơ quan thuế, chịu trách nhiệm giao dịch với ngân hàng, thanh toán với người mua đồng thời tính giá thành của sản phẩm xây lắp. Cũng như kế toán vật tư, TSCĐ thì kế toán thanh toán cuối tháng lập CTGS liên quan đến TK mình phụ trách chuyển cho kế toán tổng hợp vào sổ đăng ký CTGS và sổ chi tiết có liên quan. - Thủ quỹ: là người thu và chi tiền mặt khi có các nghiệp vụ liên quan tới tiền mặt phát sinh. Thủ quỹ ghi và theo dõi sổ tiền mặt đồng thời đối chiếu tiền mặt tồn quỹ với kế toán thanh toán vào các ngày cuối tháng. - 28 -
  29. - Nhân viên kinh tế tại các đội: Có nhiệm vụ theo dõi chấm công hàng ngày, cuối tháng tổng hợp và lên bảng thanh toán lương của đội sản xuất. Cập nhật các số liệu vật tư, nguyên vật liệu nhập - xuất hàng ngày tại đội sản xuất, lên báo cáo nhập - xuất - tồn nguyên vật liệu và báo cáo thu chi tồn quĩ tiền mặt tại tổ đội. Hàng tháng gửi báo cáo tổng hợp về phòng kế toán Công ty bao gồm báo các thu chi tồn quĩ tiền mặt, báo cáo nhập - xuất - tồn nguyên vật liệu, báo cáo tình hình tăng giảm tài sản cố định báo các tình hình thực hiện sản lượng và tiêu thụ sản phẩm, bảng lương của toàn tổ đội sản xuất. Sơ đồ số 2.3 Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán và công tác kế toán tại Công ty Kế toán trưởng Thủ Kế toán NH K.Tvật tư K.T Quỹ Thanh toán TSCĐ và đầu tư tổng hợp Nhân viên Kinh tế đội sản xuất Quan hệ chỉ đạo: Quan hệ cung cấp số liệu : Quan hệ đối chiếu: 3.3 - Trình tự luân chuyển số liệu : Hiện nay Công ty đang áp dụng hình thức sổ kế toán chừng từ ghi sổ, hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các đội xây lắp. Còn đối tượng tính giá thánh là từng công trình hay hạng mục công trình, các giai đoạn công việc, khối lượng xây lắp có tính dự toán riêng và tính giá thành theo phương pháp trực tiếp. Việc áp dụng hình thức kế toán này phù hợp với mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty và phù hợp với tính chất của hoạt động xây lắp khối lượng sản phẩm dở dang được luân chuyển qua rất nhiều kỳ khác nhau, có khi tới một vài năm, đồng thời hình thức kế toán chứng từ ghi sổ còn tạo điều kiện cho các công trình đang tiến hành thi công ở xa trong việc gửi báo cáo định kỳ. Nhưng hình thức này cũng còn những điểm hạn chế là việc ghi chép trùng lắp phải có nhiều sổ theo dõi khác nhau. Việc theo dõi không được chi tiết và chính xác, số liệu báo cáo chưa có tính kịp thời cao, mỗi khi có sai sót thì việc chỉnh lại sổ sách rất phức tạp. - 29 -
  30. Hiện nay Công ty đang áp dụng hệ thống tài khoản kế toán và báo cáo tổng hợp áp dụng cho các Doanh nghiệp xây lắp (Ban hành theo quyết định số 1864 /1998 /QĐ - BTC ngày 16/12/1998 của Bộ Tài chính). Theo hình thức kế toán này hệ thống sổ sách tại Công ty gồm những sổ sách sau: Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ Sổ cái tài khoản. Sổ chi tiết kế toán các tài khoản liên quan như sổ chi tiết tạm ứng cá nhân, sổ chi tiết vay khác, sổ chi tiết phải thu khách hàng, sổ chi tiết chi phí quản lý, sổ chi tiết tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Các loại bảng kê (bảng kê chứng từ phát sinh, bảng kê theo tài khoản đối ứng). Các bảng phân bổ (phân bổ tiền lương, bảo hiểm xã hội, hao mòn tài sản cố định, chi phí quản lý doanh nghiệp.) Các phiếu thu - chi, nhập - xuất - tồn vật tư, thành phẩm. Riêng trong công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành. Công ty sử dụng sổ đăng ký chứng từ ghi sổ, sổ cái, bảng kê chứng từ phát sinh, tờ kê chi tiết các tài khoản liên quan, bảng phân bổ chi phí quản lý, bảng trích khấu hao, sổ tập hợp chi phí sản xuất TK 1541, sổ chi tiết TK 152, 153, 334, 338, 131, 1362, 642, và một số tài khoản có liên quan khác. Ngoài ra ở công ty chưa tiến hành vào sổ chi tiết TK 621, 622, 623, 627 mà chỉ chi tiết trên từng CTGS bởi vì chứng từ phát sinh cho công trình nào được tập hợp và kết chuyển luôn cho công trình đó đồng thời kế toán giá thành tập hợp vào bảng tổng hợp giá thành theo khoản mục của từng công trình. ở Công ty không tổ chức đội máy thi công riêng biệt và xây lắp công trình theo phương thức thi công hỗn hợp, vừa thủ công, vừa kết hợp bằng máy. Tại Công ty sử dụng kết cấu của sổ cái tài khoản có đặc điểm riêng khác với các Doanh nghiệp khác là sử dụng sổ cái loại 1 bên, kết cấu bao gồm hai trang. Trang số 1 phản ánh các chứng từ phát sinh bên nợ của tài khoản đối ứng với bên có các tài khoản có liên quan. Trang số 2 phản ánh các chứng từ phát sinh bên có và kết chuyển của tài khoản đối ứng với bên nợ các tài khoản liên quan. Việc sử dụng sổ cái theo kiểu này phù hợp cho công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành tại Công ty. - 30 -
  31. Sơ đồ số 2.4 Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức CTGS tại Công ty XL & VTXD 8 Bảng tổng hợp Chứng từ Sổ thẻ kế toán chứng từ gốc Gốc chi tiết Chứng từ ghi sổ Bảng tổng hợp Sổ cái số liệu chi tiết Sổ đăng ký Bảng cân đối chứng từ ghi sổ Số phát sinh Báo cáo Tài chính Ghi hàng ngày : Đối chiếu kiểm tra : Ghi cuối tháng cuối kỳ : II. Phương pháp hạch toán kế toán chi phí sản xuất tại Công ty xây lắp và vật tư xây dựng 8 1. Đối tượng tập hợp và phân loại chi phí sản xuất Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên và đặc biệt quan trọng trong toàn bộ công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở mỗi doanh nghiệp sản xuất nói chung và ở doanh nghiệp xây lắp nói riêng. Việc tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã được quy định hợp lý có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý chi phí sản xuất và phục vụ cho công tác tính giá thành được đúng đắn, kịp thời. Để xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cần phải xem xét đến đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất, yêu cầu hạch toán kinh doanh và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - 31 -
  32. Thực tế hiện nay, Công ty xây lắp và vật tư xây dựng 8 thực hiện tổ chức sản xuất theo đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất dài, quy trình sản xuất phức tạp, hoạt động sản xuất tiến hành ngoài trời và xuất phát từ đặc điểm của ngành xây dựng, của sản phẩm xây dựng cơ bản để đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là từng công trình, hạng mục công trình. Chi phí phát sinh tại công trình nào sẽ tập hợp trực tiếp tại công trình đó, các chi phí sản xuất chung sẽ lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp. Để phục vụ cho công tác hạch toán kế toán chi phí sản xuất được thuận lợi, nhanh chóng và chính xác đáp ứng yêu cầu của Công ty, chi phí sản xuất ở Công ty XL và VTXD 8 được chia thành 4 khoản mục chi phí: - Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp: bao gồm xi măng, gạch, thép, cát, đá, sỏi - Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương và các khoản có tính chất theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất. - Chi phí máy thi công: bao gồm nhiên liệu, tiền lương, chi phí khấu hao, bảo dưỡng máy thi công. - Chi phí sản xuất chung: Bao gồm lương nhân viên quản lý đội; khoản trích BHYT, BHXH, KPCĐ được tính theo tỷ lệ quy định ( 19%) trên tiền lương phải trả công nhân trực tiếp xây lắp và nhân viên quản lý đội ( thuộc biên chế Doanh nghiệp); khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt động của đội và những chi phí khác có liên quan tới hoạt động của đội Cuối công trình, căn cứ vào các bảng kê chi phí của từng tháng, làm cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành. 2. Công tác hạch toán chi phí sản xuất Thực tế tại Công ty XL và vật tư xây dựng 8 có 3 mảng sản xuất đó là xây lắp, sản xuất vật liệu và kinh doanh vật tư. Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp này, em xin đi sâu nghiên cứu về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công trình Ngân hàng Nông nghiệp Mường lay – Lai châu. Tại Công ty XL và VTXD 8 tổ chức thi công theo hình thức khoán một phần chi phí. Bộ máy kế toán tập trung. Toàn bộ việc cập nhật chứng từ phát sinh hàng ngày do nhân viên kinh tế đội đảm nhận. Cuối tháng nhân viên kinh tế đội lập các bảng kê thu – chi - tồn quỹ tiền mặt, bảng kê nhập – xuất – tồn vật tư gửi về phòng kế toán công ty để hạch toán. Căn cứ các chứng từ hoàn mà nhân viên kinh tế đội gửi về, kế toán công ty chỉ lập CTGS, vào sổ đăng ký CTGS, vào sổ cái, sổ chi tiết các TK có liên quan. 2.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nguyên vật liệu là một khoản mục chi phí trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành công trình xây dựng thường chiếm từ 65  67% trong giá thành,vì vậy việc hạch toán chính xác và đầy đủ chi phí nguyên vật liệu có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xác định lượng tiêu hao vật liệu trong sản xuất thi công và đảm bảo tính chính xác của giá thành công trình xây dựng. Cũng chính vì lẽ đó đòi hỏi công tác hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phải hạch toán trực tiếp các chi phí vật liệu vào từng đối tượng sử dụng (các công trình, các hạng mục công trình) theo giá thực tế của từng loại vật liệu như giá mua, chi phí thu mua, chi phí vận chuyển đến chân công trình. Việc mua vật tư cho một công trình thường do một người trong ban chỉ huy công trình đảm nhận tự khai thác nguồn hàng tại địa phương nơi công trường đang thi công. Tuy nhiên, đối với những loại vật liệu quý, khó mua Công ty sẽ đứng ra đặt hàng cho các công trình. Do đó phần lớn vật tư thường được đáp ứng theo giá cả thị trường nên không ổn định. Để tránh lãng phí thất thoát, kế toán phải thường xuyên đối chiếu với dự toán và theo dõi trên các sổ sách thích hợp. Thường vật liệu mua được sử dụng ngay trong thi công. Khi đó kế toán sử dụng giá thực tế đích danh để hạch toán. Tuy nhiên với những trường hợp vật liệu sử dụng không hết nhập vào kho thì khi xuất kho tính theo giá bình quân gia quyền. Ngoài ra công ty tổ chức kho vật liệu tại chân công trình. - 32 -
  33. Để hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán sử dụng TK 621 "Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp" và một số Tk khác như Tk 152, 1362 . TK 621 có kết cấu như sau: - Bên Nợ: Phản ánh giá trị vật liệu thực tế xuất dùng cho thi công công trình, hạng mục công trình. - Bên Có: + Trị giá nguyên liệu, vật liệu sử dụng không hết nhập kho. + Kết chuyển trị giá nguyên liệu, vật liệu thực sử dụng cho xây dựng trong kỳ vào TK 1541 để tính giá thành sản phẩm xây lắp. TK 621 cuối kỳ không có số dư. Cụ thể, việc hạch toán chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp ở Công ty được hạch toán như sau: Các đội xây lắp căn cứ vào dự toán và kế hoạch thi công để tính toán lượng vật tư cần thiết phục vụ cho sản xuất có xác nhận của chỉ huy trưởng và kỹ thuật viên để lập kế hoạch mua vật tư cho công trình. Vật tư mua về được chuyển thẳng tới chân công trình. Chỉ huy trưởng công trình và thủ kho sẽ kiểm tra chất lượng, số lượng cũng như chủng loại vật tư và tiến hành đưa vật tư vào phục vụ cho sản xuất thi công. Căn cứ vào lượng vật tư thực nhập và phiếu lĩnh vật tư theo hạn mức xuất NVL vào sử dụng của công trình, nhân viên kinh tế đội tiến hành lập phiếu nhập kho và phiếu xuất kho cho các loại vật tư. Cuối tháng hoặc cuối công trình ( đối với công trình thi công ngắn, địa bàn xa công ty) nhân viên kinh tế lập báo cáo xuất vật tư đồng thời gửi về phòng kế toán công ty. Căn cứ vào chứng từ hoàn NVL của từng công trình, kế toán tổng hợp lập CTGS chi tiết theo từng công trình. Chi phí NVL tập hợp đến đâu được kết chuyển ngay vào TK 1541. Trình tự hạch toán chi phí NVL trực tiếp tại Công ty XL và VTXD 8 được khái quát qua sơ đồ sau: - 33 -
  34. Sơ đồ số 2.5 Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí NVL trực tiếp ( Theo phương pháp kê khai thường xuyên và tính thuế GTGT theo phương khấu trừ) TK111 TK1362 TK152 TK621 TK152 Công ty cấp Nhập vật tư tự Xuất vật tư tự mua NVL dùng không Tiền mặt mua tại CT vào CPNVLTT hết nhập lại kho TK152 TK1362 TK1541 Xuất vật tư ghi nợ Hoàn vật tư vào KC chi phí NVL Công trình thi công TT vào Z CT Cụ thể, tại công trình Ngân hàng nông nghiệp Mường Lay - Lai Châu trong tháng 1 - 5/2000 có phiếu lĩnh vật tư theo hạn mức. Biểu số 2.3 Phiếu lĩnh vật tư theo hạn mức - Họ tên người nhận: Ngô Xuân Thiều - Hạng mục công trình: Ngân hàng nông nghiệp Mường Lay - Lai Châu - Lý do sử dụng: Xây lắp phần thô - Vật tư xin cấp: 1. XM Bỉm Sơn : 21.600 kg 2. Cát bê tông : 40 m3 3. Cát xây : 60 m3 4. Gạch chỉ A : 83.200 V 5. Cót TH : 236 m2 6. Đá 1 x 2 : 32 m3 7. Vôi cục : 6.00 kg 8. Tre cây : 200 cây 9. Gỗ cốp pha : 2,4 m3 10. Thép  8 : 1.620 kg 11. Thép  12 : 360 kg 12. Thép  16 : 60 0kg 13. Thép  18 : 1.700 kg 14. Thép 1 ly : 40 kg 14 khoản Chủ nhiệm CT CB kỹ thuật CT Ngày 8 tháng 3 năm 2000 Người nhận Doãn Khắc Trấn Nguyễn Văn Thành Ngô Xuân Thiều Căn cứ vào phiếu lĩnh vật tư theo hạn mức(biểu số 2.3), nhân viên kinh tế lập phiếu xuất kho. - 34 -
  35. Biểu số 2.4 Đơn vị: Phiếu xuất kho Mẫu số 02-VT -QĐ số 1141-TC/CĐKT NHNN Mường Lay Ngày 8 tháng 3 năm 2000 Ngày 1 tháng 11 năm 1995 của Bộ Tài chính Quyển số: 01 Họ tên người nhận hàng: Ngô Xuân Thiều Số: 36 Lý do xuất: xây lắp phần thô Nợ: 621 Xuất tại kho: NHNN Mường Lay- Lai Ch Có: 152 Tên nhãn hiệu quy cách Mã số Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền phẩm chất vật tư (sản tính TT Yêu Thực phẩm, hàng hoá) cầu xuất 1 Xi măng Bỉm Sơn kg 21.600 21.600 1.015 21.924.000 2 Cát bê tông m3 40 40 60.000 2.400.000 3 Cát xây " 60 60 40.000 2.400.000 4 Gạch chỉ A viên 83.200 83.200 280 23.296000 5 Cót TH m2 236 236 2.000 472.000 6 Đá 1 x 2 m3 32 32 150.000 4.800.000 7 Vôi cục kg 6.000 6.000 400 2.400.000 8 Tre cây cây 200 200 3.000 600.000 9 Gỗ cốp pha m3 2,4 2,4 620.000 1.488.000 10 Thép  8 kg 1.620 1.620 5.200 8.424.000 11 Thép  12 " 360 360 5.000 1.800.000 12 Thép  16 " 600 600 5.000 3.000.000 13 Thép  18 " 1.700 1.700 4.900 8.330.000 14 Thép 1 ly " 40 40 7.200 288.000 Cộng 81.622.000 (Bằng chữ: Tám mươi mốt triệu sáu trăm hai mươi hai ngàn đồng) Cuối tháng căn cứ vào các phiếu xuất kho nhân viên kinh tế lập Báo cáo xuất vật tư tháng 1 - 5/2000. - 35 -
  36. Biểu số 2.5 Báo cáo xuất vật tư T1 - 5/2000 Công trình: Ngân hàng Nông nghiệp Mường Lay - Lai Châu Đơn vị tính: đồng STT Tên vật tư ĐVT Số lượng Thành tiền Ghi chú 1 Xi măng Bỉm Sơn PC 30 kg 85.000 86.275.000 2 Thép  25 " 4.330 16.887.000 3 Thép  18 " 4.170 20.433.000 4 Thép  16 " 3.180 15.900.000 83 Gạch chỉ A viên 110.000 30.800.000 84 Bình nóng lạnh ý 30 L bộ 02 2.840.000 85 Cát xây m3 130 5.200.000 86 Gạch lát nền 300 x 300 " 250 13.863.750 87 Đá 1 x 2 " 145 21.750.000 88 Đèn tuýp đôi 1,2m có chao bộ 15 1.950.000 Cộng 438.210.051 (Bằng chữ: Bốn trăm ba mươi tám triệu, hai trăm mười ngàn, không trăm năm mươi mốt đồng). Ngày 30 tháng 5 năm 2000 Chỉ huy trưởng Người lập Căn cứ vào báo cáo xuất vật tư T1 – T5 /2000 (Biểu số 2.5) của công trình Ngân hàng Nông nghiệp Mường Lay - Lai Châu gửi về phòng kế toán công ty, kế toán tổng hợp hạch toán xuất vật liệu trực tiếp vào giá thành công trình và lập chứng từ ghi sổ. - 36 -