Đề tài Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt nam sang thị trường Mỹ

doc 56 trang nguyendu 3780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt nam sang thị trường Mỹ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_hiep_dinh_thuong_mai_viet_my_va_cac_giai_phap_thuc_da.doc

Nội dung text: Đề tài Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt nam sang thị trường Mỹ

  1. Lời nói đầu Nền kinh tế Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới thông qua con đường xuất khẩu để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả của sự phát triển với phương châm“đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối quan hệ kinh tế ”.Một trong những thị trường có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế khu vực nói riêng đó là Mỹ. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này chẳng những tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập, mà còn gia tăng sự và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam Hiệp định thương mại Việt Nam– Hoa Kỳ ký ngày 13/7/2000 và chính thức có hiệu lực từ ngày 11/12/2001 đã mở ra triển vọng thương mại mới giữa hai nước,phá bỏ phân biệt đối xử về thuế quan tạo cơ hội cho hàng hoá Việt Nam được xuất khẩu nhiều hơn nữa vào thị trường Hoa Kỳ.Tuy nhiên ,để thực hiện được việc này thì hàng hoá của Việt Nam phải vượt qua rất nhiều khó khăn , thách thức nhất là về khả năng cạnh tranh , năng xuất , chất lượng sản phẩm , thị trường tiêu thụ và khả năng vận dụng marketing vào kinh doanh. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này , trong điều kiện mà nền kinh tế Việt Nam còn đang ở mức thấp , tính cạnh tranh kém hiệu quả thì cần phải nghiên cứu kỹ thị trường này ; Đánh giá được chính xác khả năng thực tế của hàng hoá Việt nam thâm nhập thị trường đó để đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ . Để góp phần tìm hiểu vấn đề này . Do đó tôi chọn đề tài “Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt nam sang thị trường Mỹ ” . Đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến khả năng xuất khẩu hàng hữu hình sang thị trường Mỹ. nghiên cứu các cơ chế chính sách ảnh hưởng tới khả năng xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Tài liệu thống kê lấy hết đến năm 2000 và lấy 1
  2. thêm một số dữ liệu của năm 2001 . Để hoàn thành luận văn này ngoài sự cố gắng của bản thân , em coàn nhận được sự giúp đỡ của thầy hướng dẫn Ts. Ngô Xuân Bình và các thầy cô giáo của khoa Thương Mại . 2
  3. Chương I Tổng quan về hiệp định thương mại Việt - Mỹ I . bối cảnh đàm phán : 1. Chính sách thương mại của Mỹ với ASEAN và Việt nam trong những năm gần đây : Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia Mỹ cho thế kỷ 21 đã xác định ,lợi ích chiến lược của Mỹ ở Đông Nam á là phát triển hợp tác khu vực và song phương cùng các quan hệ kinh tế nhằm ngăn chặn và giải quyết các xung đột, nâng cao mức độ tham gia của Mỹ trong nền kinh tế khu vực từ những mục tiêu cụ thể sau : * dùng sức ép kinh tế và chính trị để buộc các bạn hàng phải mở cửa thị trường của mình cho hàng hoá Mỹ , qua đó giảm thâm hụt cán cân thương mại với nước ngoài * Tăng cường mối quan hệ kinh tế với các thị trường mới nổi và các khu vực kinh tế có trọng điểm như NAFTA, APEC trong đó có ASEAN , dùng WTO như là một tổ chức để thực hiện chiến lược thương mại Mỹ ; * Với thị trường trong nước , chính phủ Mỹ chủ chương tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào điều tiết nền kinh tế , tăng đầu tư cho cơ sở hạ tầng và cho khu vực tư nhân . Từ những mục tiêu cơ bản đó , Mỹ đã đề ra 5 giải pháp cơ bản sau : 1 . Thúc đẩy đàm phán đa phương nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa thị trường hàng hoá Mỹ mà trọng điểm ở đây là các Hiệp định của Mỹ trong NAFTA , APEC và diễn đàn các nước châu Mỹ trừ Cuba . 3
  4. 2 . Sử dụng đàm phán song phương gây sức ép để mở cửa các “thị trường không tự nguyện ” như Nhật Bản , Trung Quốc , Hàn Quốc 3 . Sử dụng các thiết chế bảo hộ mậu dịch đơn phương ( điều khoản bổ xung Super 301 , điều khoản bổ xung Special 301 trong luật thương mại Mỹ cho phép Mỹ đơn phương duy trì hàng rào thuế quan hoặc trả đũa những hoạt động buôn bán bất bình đẳng , luật chống phá giá ( AD) , điều khoản 337 về quyền sở hữu trí tuệ ) khi cần thiết để chống lại những hoạt động buôn bán không trung thực như bán phá giá , trợ cấp xuất khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu qua Mỹ . 4 . Cần viện trợ với việc mở rộng hoạt động kinh tế và thành lập các quỹ tài trợ cho xuất khẩu chứ không chỉ là các khoản viện trợ đơn thuần dành cho các nước kém phát triển . Bên cạnh đó,thông qua các cơ quan hỗ trợ xuất khẩu và đầu tư như: Tổ chức phát triển Quốc tế (USAID) và ngân hàng EXIMBANK, Quỹ đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC) để lập các quỹ với lãi suất thấp tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư của Mỹ tại các “ thị trường nóng ” như thị trường hàng hoá , thông tin liên lạc , giao thông , năng lượng thiết bị xây dựng ở các nước Châu á như Inđônêxia, Philippin, Thái Lan và Pakistan, nơi Nhật Bản và các nước Tây Âu đã và đang sử dụng kết hợp các khoản tín dụng ưu đãi để trợ giúp các nhà xuất khẩu của họ . 5 . ủng hộ việc mở rộng quyền điều hành kinh tế đối ngoại cho các bang. Còn chính quyền liên bang chỉ giải quyết những vấn đề mang tính chiến lược gắn với việc bảo vệ lợi ích quốc gia,duy trì và phát triển tiềm năng khoa học kỹ thuật của các tổ hợp công nghiệp Mỹ;bảo vệ lợi ích của các công ty,các ngành và nhóm xã hội khỏi sự cạnh tranh không chính đáng của nước ngoài . ASEAN có tiềm năng phát triển thành một thị trường lớn.năng động trong khu vực.Theo dự báo,khu vực này đến năm 2010 sẽ bao gồm 686 triệu dân,tổng sản phẩm lên đến 1,1 ngàn tỷ USD và thu nhập từ các dự án hạ tầng cơ sở bao gồm cả các nước ASEAN lên đến 1000 tỷ USD.Chính vì vậy việc duy trì và tăng cường các quan hệ 4
  5. kinh tế ngày càng có hiệu quả với ASEAN là một định hướng ưu tiên trong chính sách của Mỹ ở trên,trong giai đoạn hiện nay.Mỹ đã mở rộng danh sách“các thị trường mới nổi”sang cả các nước thành viên khối ASEAN.Danh sách này đã thể hiện sự đánh giá lại của Mỹ đối với các thị trường bên ngoài và xem đây là điều kiện hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Mỹ.Do đó,việc Mỹ chủ chương cộng tác chặt chẽ với các nước ASEAN không phải là ngẫu nhiên khi tính đến tiềm năng của khu vực này ngày càng tăng.Năm 1997,ASEAN chiếm 48 tỷ USD trong xuất khẩu hàng hoá của Mỹ,ngang bằng với Trung Quốc và Đài Loan và Hồng Kông gộp lại. Trong báo cáo chiếm lược an ninh quốc gia Mỹ cho thế kỷ21 Mỹ xem việc duy trì ASEAN mạnh,đoàn kết,có khả năng bảo đảm ổn định và thịnh vượng trong khu vực là một trong những chính sách cuả Mỹ ở đông nam á . Định hướng này được thể hiện rõ qua những nhận thức và hành động của Mỹ trước cuộc khủng hoảng tài chính ở châu á vốn bắt đầu chính từ khu vực đông nam á . Mỹ hiểu rằng giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính châu á là việc của dân chúng,Chính phủ và khu vực tư nhân ở các nước bị tác động như Thái Lan , Inđônêxia , Malayxia nhưng Mỹ cũng có trách nhiệm và đã chấp nhập trách nhiệm đó. Bên cạch việc để ngỏ cửa thị trường Mỹ , bác bỏ mọi phản ứng mang tính bảo hộ mậu dịch , chấp nhận thâm hụt thương mại gia tăng. Mỹ đã hỗ trợ cải cách và ổn định cả gói thông qua IMF cho Thái LAN, Inđônêxia và những nước bị tác động mạnh mẽ nhất. Chính quyền Mỹ,với sự cộng tác của cộng đồng kinh doanh Mỹ đã trợ giúp về tài chính cho các sinh viên Thái Lan và Inđônêxia ở Mỹ. Mỹ còn viện trợ cả gói cho Inđonêxia.Và Mỹ đã kêu gọi Ngân hàng thế giới (WB) tăng gấp đôi sự ủng hộ đối với việc tìm kiếm việc làm,các nhu cầu cơ bản,giúp trẻ em và giúp người già ở các nước đang bị khủng hoảng.Tuy nhiên , như chính giới Mỹ xác nhận , khi thực hiện các biện pháp để giúp giải quyết khủng hoảng tài chính châu á nói chung và khu vực ASEAN 5
  6. nói riêng,Mỹ đang tự bảo vệ lợi ích của chính Mỹ. Bởi vì ASIAN đã , đang là đối tác quan trọng của Mỹ . II Việt nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . Từ trước năm 1986 là một quốc gia có nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp,vận hành theo cơ chế mệnh lệnh , hành chính . Điều này cũng chính là nguyên nhân khiến cho nền kinh tế trì trệ , kém hiệu quả , kém linh hoạt , kém năng động.Tuy nhiên trong những năm gần đây Chính phủ đã thay đổi cơ chế quản lý cùng với xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng , sự ra đời của các liên minh kinh tế,các khu vực mậu dịch tự do( NAFTA , AFTA) . Việt nam cũng đang dần đổi mới để phù hợp với xu thế của thời đại bằng chính sách mở cửa nền kinh tế thu hút sự đầu tư nước ngoài và với chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu , hàng hoá của Việt nam đã có mặt trên nhiều thị trường nước ngoài . Ví dụ như : EU , Nhật Bản , Hàn Quốc , ASEAN , NICS Mỹ là một thị trường lớn nhất thế giới với kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới trên 1300 tỷ USD và hứa hẹn là thị trường cung cấp các sản phẩm máy móc , công nghệ phục vụ công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở Việt nam . Do đó việc ký kết và thông qua hiệp định thương mại giữa hai nước là điều cần kiện thiết cho cả Việt nam và Mỹ thúc đẩy mở rộng quan hệ kinh tế , thương mại song phương . III nội dung hiệp định : Việc ký kết hiệp định thương mại Việt nam – Hoa Kỳ là một quá trình dài mà ở đó cả hai bên đã cùng nhẫn nại xích lại gần nhau để tìm ra tiếng nói chung . Quá trình này bắt đầu từ tháng 10 năm 1995 khi Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại 6
  7. giao Việt nam và Đại diện thương mại Mỹ thoả thuận , tập trung thúc đẩy quan hệ kinh tế –thương mại và chuẩn bị đàm phán qua các vòng : - Vòng 1 : từ 2/9/1996 tại Hà nội . - Vòng 2 : từ 9/12/1996 tại Hà nội . - Vòng 3 : từ 12/4/1997 đến 17/4/1997 trao cho Việt nam“văn bản dự thảo Hiệp định” đề cập đến các vấn đề như ; 1. Quy định về giá và điều tiết giá . 2. Hệ thống thuế . 3. Các trợ cấp đối với nền kinh tế nhất là đối với nông nghiệp. 4. Chế độ đầu tư . 5. Cán cân thanh toán . 6. Thuế quan nhập khẩu , bao gồm cả thuế quan ưu đãi,phí hải quan, miễn thuế . 7. Các biện pháp tự vệ và các đền bù khác. (Chống bán phá giá , thuế đối kháng). 8. Giấy phép nhập khẩu . 9. Các Công ty,Doanh nghiệp nhà nước . 10.Tiêu chuẩn và chứng nhận hàng hoá nhập khẩu , các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ khác . 11.Hoạt động kinh tế đối ngoại . 12.Hệ thống, thống kê và phát hành các ấn phẩm ngoại thương . 13.Hệ thống bảo vệ quyền tác giả . 14.Các bước tự do hoá thương mại trong tương lai được thể hiện trong các quy định và các bộ luật quốc gia - Vòng 4 : từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington - Vòng 5 : từ 16/9/1998 đến 22/5/1998 tại Hà nội 7
  8. - Vòng 6 : từ 15/9/1999 đến 19/3/1999 tại Hà nội các vòng đàm phán 5,6,7 hai bên tập chung trao đổi về thương mại dịch vụ và đầu tư - Vòng 8 : từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington - Vòng 9 : từ 23/7/1999 đến 25/7/1999 tại Hà nội , gặp mặt cấp Bộ trưởng , Hiệp định đã được thoả thuận về nguyên tắc . - Vòng 10: từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington , xử lý các vấn đề về kĩ thuật - Vòng 11: từ 3/7/2000 tại Washington , hoàn tất hiệp định Qua các vòng đàm phán,hai bên đều thể hiện sự thúc đẩy nhanh quá trình đàm phán ký kết Hiệp định thương mại.Không chỉ là lợi ích trước mắt mà còn vì lợi ích lâu dài của cả hai bên.Vào tháng 9/2001 Hiệp định thương mại Việt –Mỹ đã được Hạ viện Mỹ thông qua và Thượng viện thông qua.Hiệp định dài gần 120 trang,gồm 7 chương, 72 điều và 9 phụ lục,đề cập đến 4 nội dung chủ yếu:Thương mại hàng hóa,Thương mại dịch vụ , Sở hữu trí tuệ , Quan hệ đầu tư . Đồng thời quan hệ Thương mại ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là tiêu chuẩn của WTO và có tính đến đặc điểm kinh tế của mỗi nước để quy định khác nhau về khung thời gian thực hiện các điều khoản của Hiệp định . Do Việt nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên kèm theo bản Hiệp định là 9 bản phụ lục có quy định lộ trình thực hiện thích hợp cho Việt nam . Hiệp định dược xây dựng trên hai khái niệm quan trọng.Khái niệm Tối huệ quốc (đồng nghĩa với quan hệ thương mại bình thường) mang ý nghĩa hai bên đối xử hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước kia không kém phần thuận lợi hơn so với cách đối xử với hàng hoá, dịch vụ , đầu tư của nước thứ ba(đương nhiên không kể đến các nước nằm trong Liên minh thuế quan hoặc Khu vực mậu dịch tự do mà hai bên tham gia,ví dụ Mỹ sẽ không được hưởng những ưu đãi của ta dành cho các nước tham gia khu vực mậu dịch ASEAN (AFTA) và ta cũng không được hưởng những ưu đãi mà Mỹ dành 8
  9. cho các nước trong Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ(NAFTA) . Còn khái niệm Đối xử quốc gia–thì nâng mức này lên như đối xử với Công ty trong nước . Hai khái niệm này quan trọng vì chúng được đề cập đến hầu hết ở các chương của bản hiệp định . Ngoài ra , các phụ lục được dùng để liệt kê các trường hợp loại trừ , chưa hoặc vĩnh viễn không áp dụng các khái niệm trên . Chương I : Thương mại hàng hoá gồm 9 điều . Chương II : Quyền sở hữu trí tuệ gồm 18 điều . Chương III : Thương mại dịch vụ gồm 11 điều . Chương IV : Phát triển quan hệ đầu tư gồm 15 điều . Chương V : Những điêù kiện cho doanh nghiệp hoạt động bình Thường . Chương VI : Những điều khoản minh bạch và quyền được kháng Cáo . ChươngVII. Những điều khoản chung . Nội dung chủ yếu của hiệp định : 1 . Thương mại hàng hoá : * Những quyền về thương mại : Cả hai bên cam kết thực hiện theo tiêu chuẩn của WTO về quyền thương mại.Tuy nhiên,đây là lần đầu tiên Việt nam đồng ý thực hiện quyền về xuất nhập khẩu hàng hoá một cách cởi mở,tuân theo những quy định chặt 9
  10. chẽ của WTO.Do vậy,quyền đối với các doanh nghiệp Việt nam và các Công ty do Mỹ đầu tư và các cá nhân,Công ty Mỹ hoạt động tại Việt nam theo hiệp định này sẽ được tiến hành trong từng giai đoạn từ 3-6 năm (được áp dụng với một số mặt hàng nhạy cảm ). * Quy chế tối huệ quốc :Việt nam và Mỹ cam kết thực hiện đối xử thuế quan tối huệ quốc đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào mỗi nước.(với các nước không được nhận MFN là 50% thuế suất). * Cắt giảm thuế quan :Việt nam đồng ý cắt giảm thuế quan ( mức cắt giảm thuế quan phổ biến từ 1/3 đến 1/2 đối với một loạt các sản phẩm được các nhà xuất khẩu Mỹ quan tâm như các sản phẩm vệ sinh,phim,máy điều hoà nhiệt độ,tủ lạnh,xe gắn máy,điện thoại di động,video,game,thịt cừu,bơ,khoai tây,cà chua,hành tỏi,các loại rau khác,nho,táo,các loại hoa quả tươi khác,bột mỳ,đậu tương, dầu thực vật,thịt cá đã được chế biến,các loại nước hoa quả.Việc cắt giảm các mặt hàng này sẽ được thực hiện trong 3 năm.phía Mỹ cắt giảm ngay theo Hiệp định song phương . * Những biện pháp phi thuế quan:Phía Mỹ,theo quy định của WTO sẽ không có những biện pháp phi thuế quan (trừ hạn ngạch đối với hàng dệt may);trong khi đó,Việt Nam đồng ý loại bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp (các linh kiện lắp ráp, thịt bò,các sản phẩm cam quýt ) * Cấp giấy phép nhập khẩu:Việt nam sẽ loại bỏ tất cả các thủ tục cấp giấy phép một cách tuỳ ý,và sẽ tuân theo các quy định của WTO. Về việc xác định giá trị hải quan và các chi phí hải quan đánh vào các dịch vụ được thanh toán trong vòng hai năm.Về phía Mỹ và theo luật Thương mại Mỹ,các công ty Việt nam và các nước khác sẽ được cấp giấy phép khi có yêu cầu. * Những thước đo về tiêu chuẩn kĩ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm:Hai bên cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn của WTO;các quy định về kĩ thuật và những thước đo vệ sinh an toàn thực phẩm phải được áp dụng trên cơ sở đối xử quốc gia,và chỉ được áp 10
  11. dụng trong chừng mực cần thiết để giải quyết những mục đích chính đáng(bảo vệ con người,bảo vệ cuộc sống của động vật,sinh vật) * Mậu dịch quốc doanh:Cần phải được thực thi theo các quy định của WTO . 2 . Thương mại dịch vụ : Thương mại dịch vụ được đề cập trong chương III của bản hiệp định , gồm các vấn đề cơ bản sau đây : * Các cam kết chung bao gồm: các quy định của khuôn khổ hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS) bao gồm Tối huệ quốc, Đãi ngộ quốc gia và Pháp luật quốc gia. * Về các lĩnh vực và ngành cụ thể : + Các dịch vụ pháp lý;Các nhà dịch vụ Mỹ có thể cung cấp dịch vụ dưới hình thức chi nhánh, công ty 100% vốn của Mỹ;các chi nhánh này có thể được cấp giấy phép hoạt động là 5 năm và có thể được gia hạn mỗi lần không quá 5 năm. + Các dịch vụ kế toán,kiểm toán:cho phép công ty 100% vốn Mỹ được hoạt động trong lĩnh vực này. giấy phép được cấp trên cơ sở từng trường hợp, có hiệu lực trong 3 năm,không có giới hạn sau đó. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, không có giới hạn sau đó. + Các dịch vụ quảng cáo:Chỉ các liên doanh với các đối tác Việt nam mới được phép kinh doanh hợp pháp các dịch vụ quảng cáo. phần góp vốn của Mỹ không được phép vượt qua 49% vốn pháp định của liên doanh.5 năm sau khi hiệp định có hiệu lực, hạn chế này là 51% và 7 năm sau sẽ không hạn chế về tỷ lệ góp vốn từ phía Mỹ trong các liên doanh. + Các dịch vụ viễn thông : * Các dịch vụ viễn thông có giá trị gia tăng:liên doanh với Việt nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 2 năm(3 năm đối với dịch vụ Internet), vốn pháp định của Mỹ không được quá 50 % vốn pháp định của liên doanh. 11
  12. * Các dịch vụ viễn thông cơ bản(bao gồm mobile, cellular và vệ tinh): liên doanh với Việt nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 4năm, vốn đống góp phía Mỹ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh. * Dịch vụ điện thoại cố định: Liên doanh với đối tác Việt nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 6 năm, vốn đóng góp của phía Mỹ không được quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Phía Việt nam có thể xem xét yêu cầu tăng vốn đóng góp từ phía Mỹ khi hiệp định được xem xét lại sau 3 năm. + Các dịch vụ phân phối:(bán buôn và bán lẻ).được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, vốn đóng góp từ phía Mỹ không quá 49%.Sau 6 năm Hiệp định có hiệu lực hạn chế này sẽ được bãi bỏ. + Các dịch vụ tài chính: * Các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và các bảo hiểm không bắt buộc : Được phép thành lập liên doanh sau 3 năm hiệp định có hiệu lực, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 50%. Sau 5 năm được phép 100% vốn Mỹ. * Các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc ( bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trong xây dựng ) : Được phép lập liên doanh sau 3 năm hiệp định có hiệu lực, không giới hạn vốn góp phía Mỹ, sau 6 năm được phép 100% vốn Mỹ. + Các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính liên quan khác. * Các nhà cung cấp, Công ty thuê mua tài chính và ngoài ngân hàng: Được phép thành lập Công ty liên doanh trong vòng 3 năm ( kể từ khi hiệp định có hiệu lực ,cho phép 100% vốn Mỹ ). * Ngân hàng: Sau 9 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Mỹ được phép thành lập ngân hàng 100% vốn Mỹ tại Việt nam. Trong thời gian 9 năm đó, các ngân hàng Mỹ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với Việt nam, trong đó phần vốn góp của Mỹ không quá 49% và không kém 30%. * Các dịch vụ chứng khoán: Các nhà kinh doanh chứng khoán Mỹ chỉ lập văn phòng đại diện tại Việt nam. 12
  13. + Các dịch vụ như : - Các dịch vụ kiến trúc. - Các dịch vụ kỹ thuật . - Các dịch vụ vi tính và các dịch vụ liên quan. - Các dịch vụ tư vấn quản lý . - Các dịch vụ nghe nhìn. - Các dịch vụ xây dựng và kỹ thuật đồng bộ có liên quan. - Các dịch vụ giáo giục. - Các dịch vụ y tế. - Các dịch vụ du lịch và lữ hành 3 Quan hệ đầu tư. * Các cam kết chung bao gồm : Các hoạt động đầu tư của mỗi nước đều được đối tác cam kết bảo hộ . Việt nam đảm bảo việc bảo hộ các công ty Mỹ không bị sung công các khoản đầu tư của họ tại Việt nam. * Các chuyển khoản tài chính: Cho phép các nhà đầu tư Mỹ được đem về nước các khoản lợi nhuận và các chuyển khoản tài chính khác trên cơ sơ đãi ngộ quốc gia. * Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại(TRIMS): Phía Mỹ cam kết thực hiện ngay từ đầu, Việt nam sẽ huỷ bỏ các TRIMS không phù hợp với các biệnpháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong 5 năm như những quy định về số lượng hoặc giá trị sản xuất) trong nước. * Đối xử quốc gia: Việt nam cam kết thực hiện chế độ đối xử quốc gia với một số ngoại lệ. Việc thẩm tra giám sát đầu tư sẽ được loại bỏ dần đối với hầu hết các khu vực trong giai đoạn 2,6,9 năm( tuỳthuộc vào loại khu vực đầu tư, ví dụ đầu tư trong khu Công nghiệp hay trong khu vực sản xuất ) tuy nhiên Việt nam vẫn dành quyền kiểm tra giám sát trong những khu vực ngoại lệ nhất định * Loại bỏ việc giới hạn đóng góp vốn trong các liên doanh: Quy định hiện nay đối với phần vốn góp phía Mỹ trong các Công ty liên doanh ít nhất phải 30% vốn pháp 13
  14. định; loại bỏ những quy định bán cổ phần của Mỹ cho các đối tác Việt nam. Phía Mỹ chưa được thành lập Công ty cổ phần và chưa được phát hành cổ phiếu ra công chúng, chưa đựơc mua quá 30% vốn của một công ty cổ phần. Những ràng buộc này sẽ được duy trì trong vòng 3 năm sau khi hiệp định có hiệu lực. * Bộ máy nhân sự của liên doanh: Trong vòng 3 năm huỷ bỏ quy định về số thành viên nhất định người Việt nam trong Ban Giám Đốc; giới hạn mạnh mẽ các vấn đề trong đó sự nhất trí của Ban Giám Đốc phải được (vi dụ, trong vấn đề đó các thành viên Việt nam có quyền phủ quyết ); cho phép các nhà đầu tư Mỹ được quyền tuyển chọn các nhân viên quản lý không phụ thuộc vào quốc tịch. Phía Việt nam cũng cam kết ngay sau khi hiệp định có hiệu hực sẽ loại bỏ dần tất cả các đối xử bất công về giá đối với các Công ty và cá nhân Mỹ như phí lắp đặt điện thoại và các dịch vụ viễn thông khác, cácphí vận tải, thuê mướn nhà xưởng, trang thiết bị , giá nước và dịch vụ du lịch. Trong vòng 2năm sẽ bỏ chế độ 2 giá đối với đăng kí ôtô, dịch vụ cảng và đăng kí điện thoại. Trong vòng 4 năm sẽ loại bỏ chế độ 2 giái đối với mọi hàng hoá, dịch vụ kể cả giá điện hay giá máy bay. 4 . Quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ được đề cập trong Chương 2 của Hiệp định. Việt nam nhất trí tuân thủ hoàn toàn các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại(TRIPS) trong tất cả các lĩnh vực trong một khuôn khổ thời gian ngắn bao gồm: Việc bảo hộ bản quyền tác giả và nhãn hiệu hàng hoá trên cơ sở TRIPS được thực thi trong vòng 12 tháng; bảo hộ các bí mật thương mại và bản quyền trên cơ sở TRIPS được thực thi trong vòng 18 tháng. Việt nam đồng ý thực hiện những biện pháp bảo hộ mạnh mẽ hơn trong một số lĩnh vực khác như tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, bảo hộ bản quyền đối với động vật và thực vật, bảo hộ những dữ liệu kiểm tra bí mật được trình cho các Chính phủ . Đối với trường hợp bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hoá sẽ được thực hiện trong giai đoạn là 30 tháng 14
  15. Theo hiệp định thương mại song phương, phía Mỹ cam kết thực thi quyền sở hữu trí tuệ được kí kết từ ngày Hiệp định này có hiệu lực trừ các nghĩa vụ quy định tại điều 8 và điều 3.1 liên quan đến việc bảo hộ thiết kế bố trí( topography)mạch tích hợp được thi hành sau 24 tháng kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định cũng quy định trường hợp có xung đột giữacác quy địmh của Hiệp định này và Hiệp định giưa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa kỳ về thiết lập quan hệ và quyền tác giả ký tại Hà nội ngày 27/6/97 thì các quy định này được áp dụng trrong phạm vi xung đột. Với nội dung như vậy , hiệp định thương mại Việt–Mỹ có thể mang lại những lợi ích gì : Theo nhiều nhà nghiên cứu thì việc thực thi Hiệp Định Thương Mại sẽ mang lại những lợi ích to lớn sau đây : 1 . HĐTM được kí kết đã cho phép dành quy chế Tối huệ quốc cho nhau mà quan trọng hơn là hàng hoá VN sẽ dễ dàng thâm nhập vào thị trường Mỹ nhiều hơn, làmtăng khả năng cạnh tranh với mức thuế suất chỉ còn 3% trong khi hiện nay phải chịu từ 40% đến 80%. 2 . HĐTM Việt - Mỹ sẽ mở ra một cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư Mỹ tại VN, họ sẽ nhận được sự trợ giúp nhiều hơn nữa của Chính Phủ Mỹ thông qua các tổ chức tài chính, tín dụng. 3 . HĐTM Việt – Mỹ sẽ tạo điều kiện để Mỹ có thể nhập khẩu những mặt hàng VN có lợi thế như : dầu thô, dệt may, giầy dép mà trước đây Mỹ mua ở VN không nhiều . 4 . Để thực thi được HĐTM, hệ thống pháp luật của VN cần phải thay đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều đó sẽ làm cho môi trường đầu tư của VN hấp dẫn hơn, chẳng những đối với các nhà đầu tư Mỹ mà còn đối với các nhà đầu tư nước khác. 15
  16. 5 . HĐTM Việt – Mỹ tạo ra cơ hội lớn để VN ra nhập WTO vì nguyên tắc của tổ chức này đã được hai bên lấy làm nền tảng cho quá trình đàm phán. 6 . HĐTM được kí kết góp phần nâng cao vị thế của VN trong khu vực và trên thế giới vì giờ đây VN đã có đủ điều kiện để thâm nhập vào một thị trường lớn nhất mà hệ thống luật lệ, cung cách làm ăn hết sức chặt chẽ, tinh vi. 7 . HĐTM Việt –Mỹ mở ra một cơ hội để các doanh nghiệp VN phải nỗ lực phấn đấu không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh học tập một cách làm ăn bài bản, phù hợp với luật lệ kinh doanh quốc tế. 8 . HĐTM có hiệu lực sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào VN nhiều hơn từ đó VN có thể tiếp thu công nghệ tiên tiến, kĩ thuật hiện đại, góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐHđất nước. 9 . HĐTM sẽ tạo điều kiện để hoàn chỉnh hệ thống lĩnh vực hoạt động dịch vụ như viễn thông, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng Vì một trong những nội dung quan trọng của hiệp định là sau một năm khi hiệp định có hiệu lực, các nhà đầu tư Mỹ sẽ khai thác tối đa hoạt động dịch vụ ở VN, một lĩnh vực được xem là yếu trong cơ cấu kinh tế. Trong khi đó ở Mỹ, dịch vụ chiếm đến 60-70 % GDP và phát triển rất mạnh nhờ đó mà người dân VN sẽ được hưởng các dịch vụ tốt hơn cho các nhà đầu tư Mỹ cung cấp. 10 . Để có một lượng hàng lớn xuất khẩu vào thị trường Mỹ, nhất là những mặt hàng sử dụng nhiều lao động cũng như các nhà đầu tư Mỹ sẽ vào VN nhiều hơn tất cả sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn một khi Hiệp định thương mại có hiệu lực, góp phần giải quyết vấn đề dân số và việc làm ở VN. 11 . HĐTM mở ra một cơ hội lực lượng Việt Kiều đang làm ăn sinh sống ở Mỹ, phát huy những lợi thế và tiềm năng của họ để xây dựng quê hương. 12 . HĐTM có hiệu lực, mối quan hệ Việt –Mỹ theo đó sẽ có những bước phát triển toàn diện về mọi mặt: Người Mỹ sẽ đến VN nhiều hơn nhờ đó mà ngành du lịch sẽ phát triển. Trái lại, người VN cũng sẽ đến Mỹ nhiều hơn để quan sát, học tập, tiếp 16
  17. thu những tiến bộ khoa học mà Mỹ đạt được Tất cả sẽ làm cho mối quan hệ Việt – Mỹ phát triển lên một tầm cao mới. IV cơ chế quản lý của Mỹ đối với hàng nhập khẩu : Hoạt động nhập khẩu vào Mỹ chịu sự quản lý bằng một hệ thống luật chặt chẽ , chi tiết thồng qua 5 cơ quan cơ bản để điều tiết nền ngoại thương Mỹ . Việc nắm chắc cơ chế quản lý hàng nhâp khẩu của Mỹ cho phép đề xuất những giải phấp thâm nhập thị trường Mỹ có hiệu quả . 1 . Một số luật cơ bản điều tiết hàng nhập khẩu vào Mỹ : luật thuế suất năm 1930 ra đời nhằm điều tiết hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ , bảo vệ chống lại việc nhập khẩu hàng hoá giả và quy định mức thuế rất cao đối với hàng nhập khẩu . luật buôn bán năm 1974 định hướng cho các hoạt động buôn bán , đạo luạt này gây ra nhiều bất lợi cho hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ vì hàng hoá của Mỹ đã được Chính phủ Mỹ bảo hộ sau lưng . hiệp định buôn bán năm 1979 bao gồm các điều khoản về sự bảo trợ của Chính phủ đối với các chướng ngại kỹ thuật trong buôn bán , các sửa đổi thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa ế . Hiệp định này được thông qua tại vòng đàm phán Tokyo của GATT. Luật tổng hợp về buôn bán và cạnh tranh năm 1988 Tổng thống Mỹ tham gia tại vòng đàm phán Uruguay đồng thời thiết lập các thủ tục đặc biệt ( Super 301 ) cho phép Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quyết định không chịu mở cửa cho hàng hoá Mỹ vào và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ . 2 . Một số tổ chức liên quan tới luật thương mại của Mỹ : Luật thương mại của Mỹ được thi hành bởi nhiều tổ chức , cơ quan nhưng chủ yếu là 5 cơ quan sau ; 17
  18. Uỷ ban thương mại quốc tế (ITC) và phòng thương mại quốc tế (ITA) đây là cơ quan có liên quan đén việc quy định có đánh thuế hàng thừa ế hay không . Đại diện thương mại Mỹ (USTR) là nơi tiếp xúc của người muốn điều tra về các vi phạm Hiệp định thương mại . Cơ quan quản lý thực phẩm và thuốc men (FDA) . Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) là cơ quan thiết lập và giám sát các tiêu chuẩn chất lượng không khí , nước , ban hành các quy định về chất thải Cục hải quan Mỹ (USCD) là cơ quan thuộc bộ ngân khố có nhiệm vụ tính thuế và thu lệ phí đánh vào thuế nhập khâủ . 3 . Thuế nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ : Biểu thuế nhập khẩu ; [4;25] là nội dung quan trọng nhất trong luật thuế của Mỹ . Biểu thuế này có hơn 1600 trang , liệt kê chi tiết các loại hàng hoá và thuế suất nhập khẩu vào Mỹ , trong đó có cột thuế suất dành cho hàng hoá nhập khẩu từ những nước không có quy chế thương mại Hạn ngạch thuế quan ; Mỹ áp dụng hạn ngạch để kiểm soát về khối lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định . Phần lớn hạn ngạch nhập khẩu do Cục Hải quan quản lý và chia làm hai loại . Hạn ngạch thuế quan và hạn ngạch tuyệt đối : Một số mặt hàng khi nhập khẩu vào Mỹ phải có hạn ngạch như ; sữa , kem và các loại cam ,quýt , ô liu , xi rô , đường mật , hạn ngạch tuyệt đối áp dụng cho các loại thức ăn gia súc , sản phẩm thay thế bơ , sản phẩm có chứa 45% bơ trở lên , pho mát được làm từ sữa chua diệt khuẩn cồn etylen và hỗn hợp của nó dùng làm nguyên liệu . áp mã thuế nhập khẩu ; luật pháp Mỹ cho phép chủ hàng được phép xếp hạn ngạch thuế cho các mặt hàng nhập khẩu và nộp thuế theo kê khai , do đó người nhập hàng cần phải hiểu nguyên tắc xếp loại . 18
  19. Định giá tính thuế hàng nhập khẩu ; nguyên tắc chung là đánh thuế theo giá giao dịch ở đây không phải là giá theo hoá đơn mà phải cộng thêm nhiều thứ khác , như tiền đóng gói , tiền hoa hồng cho trung gian Ngoài ra giá giao dịch để đánh thuế không tính phí vận chuyển và phí bảo hiểm lô hàng 4 . Quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu đưa vào Mỹ : Việc xuất xứ rất quan trọng vì hàng nhập khẩu ở những nước đang phát triển hoặc những nước đã ký hiệp định thương mại với Mỹ sẽ được hưởng thuế suất thấp hơn . Xuất xứ của mặt hàng được xác định theo nguyên tắc biến đổi phần lớn về giá trị , và được định nghĩa như sau : “ Sản phẩm được xác định thuộc nước gốc là nước cuối cùng sản xuất ra sản phẩm với du lịch sản phẩm đã biến dạng để mang tên mới và có đặc tính sử dụng mới ” . Khi xuất khẩu vào Mỹ , muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo nước xuất xứ , luật Mỹ quy định trên sản phẩm phải ghi nhãn của nước xuất xứ và chỉ bắt buộc với sản phẩm hoàn chỉnh , khi nhập vào Mỹ có thể bán thẳng cho người tiêu dùng , đồng thời hàng hoá gốc từ Mỹ khi chuyển sang nước khác để gia công , sắp xếp lại và đóng gói khi nhập khẩu trở lại Mỹ sẽ không phải đóng thuế nhập khẩu cho phần nguyên liệu có nguồn gốc từ Mỹ . 5 . Quy định vê nhãn hiệu nhập khẩu vào Mỹ : Mọi hàng hoá khi nhập khẩu vào Mỹ phải có nhãn mác rõ ràng , có xuất xứ ngoại quốc , không tẩy xoá và phải được đăng ký tại Cục hải quan Mỹ , đựơc lưu giữ theo quy định , hàng hoá có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công . Xử lý vi phạm : hàng nhập khẩu vào Mỹ phải tuân thủ theo quy định nếu không sẽ bị phạt mức 10% giá trị lô hàng (Advalorem) và phải thực hiện thêm một số yêu cầu nữa . Hàng nhập khẩu không ghi tên nhãn mác sẽ bị tịch thu tại trạm hải quan Mỹ cho đến klhi người nhập khẩu thu xếp tái xuất trở lại , nếu cố tình vi phạm sẽ bị phạt tiền 5000 USD hoặc bỏ tù dưới 1 năm . 19
  20. 6 . Các quy định đối với một số mặt hàng khi nhập khẩu vào Mỹ : Cục hải quan Mỹ kiểm soát hàng Dệt may nhập khẩu vào Mỹ yêu cầu phải ghi rõ tem , mác theo quy định , các thành phần sợi được sử dụng có tỷ trọng trên 5% sản phẩm phải ghi rõ tên , các loại nhỏ hơn 5% phải ghi là “ các loại sợi khác ” . phải ghi tên hãng sản xuất , số đăng ký do Cục hải quan Mỹ cấp . Hàng nông sản khi nhập khẩu vào Mỹ phải tuân theo những quy định của bộ nông nghiệp Mỹ , qua cơ quan giám định về vệ sinh an toàn thực phẩm trước khi làm thủ tục hải quan . Các sản phẩm sau khi qua cơ quan giám định còn phải qua giám định của cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) . Rau, quả, hạt, củ các loại khi nhập khẩu vào Mỹ phải được đảm bảo các yêu cầu về chủng loại , kích cỡ , độ chín . Các mặt hàng này phải qua cơ quan giám định an toàn thực phẩm thuộc USDA để có xác nhận là phù hợp với các tiêu chuẩn nhập khẩu . Hải sản khi nhập khẩu vào Mỹ phải theo các quy định của National Fisheries Servies thuộc Cục quản lý môi trường không gian và biển thuộc bộ thương mại Mỹ . Kết luận chương I Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất toàn cầu , chi phối rất mạnh nền kinh tế thế giới , đẩy mạnh xuất khẩu sang nước Mỹ chẳng những giúp tăng kim ngạch xuất khẩu của Viêt nam , mà còn giúp chúng ta hội nhập nhanh trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu hoá . Mỹ là một thị trường rộng lớn và có nhu cầu đa dạng cũng như tính cạnh tranh quyết liệt , cho nên muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ các doanh nghiệp Việt nam không chỉ dựa vào quy chế tối huệ quốc trong Hiệp định thương mại Việt –Mỹ đã ký kết mà các doanh nghiệp Việt nam còn phải nghiên cứu kinh nghiệm thâm nhập thành 20
  21. công vào thị trường Mỹ của các nước . Trong đó có những kinh nghiệm như : Nâng cao tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu vào Mỹ , sử dụng ngoại kiều để thâm nhập , đầu tư vào các nước gần Mỹ , thu hút vốn đầu tư Đồng thời phải nắm vững và thường xuyên cập nhật về quy chế nhập khẩu hàng hóa của Mỹ , đặc biệt là hệ thống thuế nhập khẩu ; quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu ; quyền sở hữu trí tuệ của hàng hoá ; các tiêu chuẩn kỹ thuật quy định đối với hàng nhập khẩu vào Mỹ . Chương Ii : cơ hội và thách thức đối với việc XK hàng hoá vn sang mỹ I. tính hình xuất khẩu hàng hoá vn sang mỹ 1. Giai đoạn trước khi Mỹ bỏ cấm vận chống việt nam Nhìn từ góc độ lịch sử , quan hệ thương mại Việt – Mỹ đã bắt đầu cách đây hơn 150 năm , với những thương vụ lẻ tẻ . Thậm chí ngay trong thời kì Hoa kì đơn phương áp đặt lệnh cấm vận đối với việt nam ( Từ 5/ 64 – 2/94 ) thông qua con đường gián tiếp , Việt nam có thể xuất khẩu sang Mỹ tuy rằng không đáng kể . Thời kỳ 1986 – 1989 xuất khẩu của Việt nam sang Hoa kì gần như bằng không . Nhưng đến năm 1990 , Việt nam xuất sang Hoa kì một lượng hàng trị giá khoảng 5000USD , năm 1991 tăng lên 9000USD , năm 1992 tăng lên 11000USD và năm 1993 là 58000USD 2. Giai đoạn sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam Ngày 3/2/1994 . Tổng thống Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với việt nam . Tiếp đó Bộ thương mại Mỹ chuyển Việt nam từ nhóm Z ( gồm Bắc Triều Tiên , Việt Nam , Cuba ) lên nhóm Y – là nhóm ít hạn chế về thương mại hơn 21
  22. ( gồm Mông Cổ , Lào , Campuchia , Việt Nam , cùng một số nước Đông Âu và Liên Xô cũ ) . Bộ vân tải và Thương mại Mỹ cũng bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam được nhập cảnh Mỹ . Trong năm này thì Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ lượng hàng hoá trị giá 50,5 triệuUSD ( Trong đó hàng nông nghiệp chiếm 38,3 triệu USD tức 76% giá trị suất khẩu sang hoa kỳ ) và hàng phi nông nghiệp chiếm 12,15 triệu USD (24%) Ngày 11/7/1995 Hoa kỳ tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam . Năm 1995 , Việt nam xuất khẩu sang hoa kỳ 200 triệu USD ( gấp 4 lần năm 1994 ) trong đó hàng nông nghiệp là 152USD ( chiềm 76% giá trị xuất khẩu sang Hoa kỳ ) hàng phi nông nghiệp chiếm 48 triệu USD(24%) Năm 1996 là năm hai nước bắt đầu quá trình đàm phán Hiệp định thương mại song phương . Xuất khẩu đạt 306 triệu USD trong năm này . Năm 1997 , Đại sứ Mỹ và Đại sứ Việt Nam nhậm chức tại Thủ Đô mỗi nước , đồng thời hai nước thoả thuận thiết lập quan hệ song phương về bản quyền để tạo điều kiện cho sản phẩm trí tuệ có mặt tại thị trường Việt Nam . Xuất khẩu của Việt Nam trong năm này sang Mỹ đạt 372 triệu USD . Hàng nông nghiệp chiếm 46% ( 106,5 triệu USD ) hàng phi nông nghiệp đạt 54% ( 126,203triệu USD ). Năm 1998 và 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ tiếp tục tăng đạt 519,5 triệu USD và 601,9 triệu USD . Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 827,4 triệu USD, tăng 37,4% so với năm 1999. Riêng quý I năm 2001xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 74,4 triệu USD ( so với 46,4 triệu USD cùng kỳ năm 2000 ) THựC TRạNG XUấT KHẩU MộT Số MặT HàNG CHủ LựC CủA VIệT NAM SANG HOA Kỳ 22
  23. THUỷ SảN Mỹ là nước nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản Các loại thuỷ sản nhập khẩu nhiều là : Tôm , tôm hùm, sò , cua ,trong đó tôm có giá trị lớn nhất ( trên 2 tỷ USD/năm ).Năm 1992 Mỹ nhập 4,8 tỷ USD thuỷ sản các loại . Năm 1998 con số này đã tăng lên 6,7 tỷ USD tăng 40% so với năm 1992 . Năm 1999 nhập khẩu thuỷ sản vào Mỹ tăng lên mức kỷ lục 9,3 tỷ USD . Việt Nam bắt đầu xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ năm1994 , nhưng với kim ngạch rất nhỏ bé là 6 triệu USD . Tuy nhiên , đây là mặt hàng có tốc độ xuất khẩu tăng nhanh nhất trong cácmặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹbởi vì việt nam chưa được hưởng chế độ MFN của Mỹ nhưng mức chênh lệch giữa mức thuế phi MFN và mức MFN là không lớn lắm . ( bảng 1 ) Bảng 1 : Mức thuế nhập khẩu của Mỹ đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ Thuế suất phi Tên hàng Thuế suất MFN MFN Cá sống 0% 0% Tôm các loại 0% 0% Nghêu , sò 0% 0% Cá tươi, ướp lạnh , ướp đông 0% 0-5,5cents/kg Cá sau khi cắt bỏ phi-lê, ướp đông 0% 2,2-4,4cents/kg Thịt cua 7,5% 15% ốc 5% 20% Cá khô , ướp muối , xông khói 4-7% 25-30% Nguồn : Bộ Thương mại 23
  24. Nếu giá trị xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản sang Mỹ năm 1995 mới là 16,8 triệu USD thì năm 1996 đã tăng lên 28,5 triệu USD vào năm 1997 là 46,3 triệu USD . Giá trị xuất khẩu năm 1998 là 80,6 triệu USD tăng 89% so với năm 1997 . Trong giai đoạn 1995-1999 kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Mỹ tăng 6,5lần , từ 16,8 triệu USD lên 108,1 triệu USD .Năm 2000 mặt hàng này vẫn dữ vị trí hàng đầu trong danh sách hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ với kim ngạch 242,9 triệu USD chiếm 29,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ . ( bảng 2 ) Trong các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ thì tôm và cua vẫn là các mặt hàng chủ lực đặc biệt là tôm . năm 1997 Việt Nam xuất khẩu được 3074 tấn tôm trị giá 31,32 triệu USD chiếm 73,69% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ .Năm 1998 trị giá này lên tới 66,89 triệu USD tương đương 6125,7 tấn , nâng tỷ trọng tôm lên 83% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ trong năm . Năm 1999 tỷ trọng trên vẫn được giữ vững với 9100 tấn tôm , trị giá 96,5 triệu USD . Như vậy tuy đến với thị truờng Mỹ hơi muộn nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản không ngừng tăng trong mấy năm qua . Theo FAO : Năm 1998 Việt Nam đứng thứ 10 trong 130 nước xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ và tới tháng 4 năm 2000 Việt Nam đứng ở vị trí thứ 8 . Cà PHÊ Mặc dù châu Mỹ là nơi trồng cà phê nhiều nhất trên thế giới trong đó Braxin và Colobia chiếm vị trí hàng đầu , tiếp theo các là nước Nam Mỹ khác nhưng Mỹ cũng là nước nhập khẩu cà phê nhiều nhất trên thế giới ( chiếm 25-30% số lượng cà phê nhập khẩn trên thế giới ) cho lên ngoài nguồn từ Châu Mỹ , Mỹ còn nhập khẩu từ một số châu lục khác và nhiều nhất từ Châu á . Hàng năm kim ngạch nhập khẩu của Mỹ về cà phê lên tới 3 tỷ USD . 24
  25. Cà phê luôn là mặt hàng có giá trị xuất khẩu khá cao của Việt Nam sang thị trường Mỹ . Sở dĩ là cà phê nằm trong nhóm hàng mang mã số : 09-0111 ( cà phê , chè , gia vị ) là nhóm được Mỹ khuyến khích nhập khẩu nên mức thuế nhập khẩu vào là 0% kể cả đối với hàng của Việt Nam ( chưa được hưởng MFN ) . Năm 1994 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cà phê sang Mỹ và đạt ngay 30 triệu USD . Trong 2 năm sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận 1994và 1995 cà phê luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ ; Năm 1994 chiếm 59,4% năm 1995 chiếm 72,6% Năm 1996 , tỷ trọng này không còn cao như 2 năm trước ,chỉ còn 34,4% mà nguyên nhân một mặt là do giá cà phê trên thế giới trong năm 96 giảm mạnh so với năm 95 , mặt khác là do trong năm 1996 , tỷ trọng nhóm nhiên liệu khoáng và dầu thô của Việt Nam xuất khẩu xang Mỹ tăng mạnh . Tuy nhiên , kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ còn phụ thuộc nhiều vào giá cà phê . Năm 1999 giá cà phê giảm nhiều so với năm 1998 , cùng với chè và một số gia vị , nhóm hàng này năm 1998 đạt 147,9triệu USD , nhưng năm 1999 chỉ còn 117,7 triệu USD . Đến liên vụ 1999-2000 kim ngạch nhập khẩu cà phê Việt Nam của Mỹ là khoảng 132,9triệu USD , vươn lên vị trí hàng đầu trên 50 nước nhập khẩu cà phê từ Việt Nam ( xem bản 2 ) giầy dép Trong những năm gần đây hàng giầy dép Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Bắt đấu từ năm 1993 khi được xếp vào 10 mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam , mặt hàng giầy dép ngày càng khẳng định được vị trí của mình . Năm 1996 giầy dép đã là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 5 của Việt Nam . Xuất khẩu giầy dép sang thị trường Mỹ cũng có những thành tích cao không kém so với tình hình xuất khẩu chung . Là mặt hàng có triển vọng cao ở thị trường có mức sống cao , mặt hàng giầy dép đã khẳng định được chỗ đướng của mình trên thị 25
  26. trường Mỹ. Từ những năm đầu với kim ngạch rất thấp :0,069 triệu USD nhưng sau đó năm 1994 : Đạt 3,3triệu USD , từ năm 1995 giá trị xuất khẩu giầy dép đã tăng vọt lên tới 39,1triệu USD năm 1996 , gấp 11lần so với năm 1995 và gấp 47 lần năm 1994 . Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong năm 1997 là 97,6 triệu USD chiếm 26,23% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ . Xuất khẩu giầy dép vẫn tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo . Năm 1998 , kim ngạch giầy dép tăng 17,3USD so với năm 1997, tương đương 17,7 % và đạt được đỉnh cao trong năm 1999 khi giá trị hàng giầy dép xuất khẩ sang Mỹ lên tới 145,7triệu USD , xếp thứ nhất về kim ngạch trong tất cả mặt hàng Việt Nam xuất khẩu trên thị trường Mỹ ( xem bảng 2 ) . Năm 2000 măth hàng giầy dép chỉ chiếm vị trị thứ 3 sau thuỷ sản và nhóm hàng cà phê , chè , gia vị , trong các mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ , với kim ngạch 124,5 triệu USD . dầu thô : Mặc dù trong năm 1996 , Việt Nam mới xuất khẩu dầu thô sang thị trường Mỹ nhưng ngay trong năm đầu tiên này đã đạt kim ngạch là 80,6 triệu USD . Tuy nhiên , giá trị xuất khẩu dầu thô trong những năm tiếp theo lại không ổn định . Trong năm 1997 dầu thô chỉ chiếm 8,9% trong kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ , tương đương con số 36,6 triệu USD giảm 54,4% so với năm 1996 . Xuất khẩu dầu thô đạt đỉnh cao vào năm tiếp theo ở mức 107,4triệu USD , đướng thứ 3 về kim ngạch trong các mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ . Trong năm 1999 tỷ trong dầu thô trong tổng kim ngạch hàng xuất khẩu lại giảm 4,5% còn 16,1% ; tương đương 83,8triệu USD . Năm 2000 xuất khẩu dầu thô tăng 8,2 % so với năm 1999 , chiếm 10,9% trong tổng kim ngạch mà Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ , tương đương 90,7 triệu USD ( bảng 3 ) Bảng 3: Tình hình xuất khấu dầu thô sang thị trường mỹ Năm 1996 1997 1998 1999 2000 26
  27. Kim ngạch 80,6 36,6 107,4 83,8 90,7 Tỷ trọng trong tổng kim ngạch 26,1 9,8 20,6 16,1 10,9 hàng xuất khẩu Tốc độ tăng trưởng ( % năm ) - -54,4 293,4 -21,9 8,2 Nguồn : UsiTC trade Database dệt may Mỹ là nước luôn đướng đấu thế giới về nhập khẩu dệt may . Nhóm hàng dệt may cũng là một trong những nhóm mặt hàng nhập khẩu lớn nhấy của Mỹ với mẫu mã hết sức đa dạng . Mỗi năm mỹ nhập khẩu tới hàng chục tỷ USD hàng dệt may với sức mua ngày càng tăng : Năm 1994 là 43tỷ USD , năm 1995 là 50 tỷ USD , dến năm 1998-1999 con số này lên tới gần 60 tỷ USD , chiếm gần 6,6% hàng nhập khẩu vào Mỹ . Ngành hàng dệt may phát triển rất mạnh ở Việt Nam vì có lợi thế là lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công rẻ . Hàng năm Việt Nam xuất khẩu gần 1,5 tỷ USD hàng dệt may ra nước ngơài . Tuy nhiên , hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ còn rất thấp , chưa tương xứng với tiềm năng thị trường mỹ và khả năng sản xuất của Việt nam . Trong 2 năm đầu sau khi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam ( Năm 1994 , 1995) tổng giá trị xuất khẩu của hàng dệt may còn rất nhỏ bé tương ứng là 2,56 triệu USD và 16,78 triệu USD . Sang năm 1996 kim ngạch hàng xuất khẩu may mặc tăng 32,6% và giá trị xuất khẩu hàng dệt cũng tăng lên 2 lần so với năm 1995làm cho tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này là 23,6triệu USD . Trong những năm tiếp theo kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng và lần lượt là 25,92triệu USD trong năm 1997 và 28,44triệu USD trong năm 1998 cho cả hàng dệt và hàng may . Nếu đem so sánh kim ngạch năm 1999 so với năm 1994 thì sau 5 năm hàng dệt may đã tăng 14,2lần , lên tới 36,4triệu USD chiếm 6% trong tổng kim ngạch hàng xuất khẩu sang 27
  28. mỹ năm 1999 . Năm 2000 kim ngạch hàng dệt may tiết tục tăng đến 46,7 triệu USD tăng 28,29%so với năm 1999 . Bảng 4 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ ( Đơn vị : triệu USD ) Mặt hàng 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Hàng dệt 0,11 1,78 3,59 5,32 7,10 11,30 16,80 Hàng may 2,45 15,09 20,01 20,60 21,34 25,20 29,90 Tổng cộng 2,56 16,87 23,60 25,92 28,44 36,40 46,70 Nguồn : USITC trade Database Hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua chủ yếu là do các công ty Việt Nam làm gia công cho các Công ty nước ngoài đưa vào bởi vì VN chưa sản xuất được nguyên phụ liệu hay chất lượng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước kém, lấy công làm lãi. Mặt khác, khả năng quản lý của doanh nghiệp Việt Nam trong các khâu như thiết kế mẫu mã, tiếp thị, phân phối để có thể xuất khẩu hàng thành phẩm là rất hạn chế. Như vậy, tốc độ xuất khẩu hàng hoá VN sang Hoa Kỳ tăng rất mạnh kể từ khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam, đưa Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu quan trọng thứ 7 của VN vào năm 1998 (so với thứ 9 vào năm 1997). Hiện nay, VN đang đứng thứ 71 trong số 229 nước xuất khẩu vào Mỹ, và mặc dù Hiệp định Thương mại đã được ký kết và được thông qua ở Hạ viện và Thượng viện Mỹ nhưng chưa có hiệu lực và vì vậy , thời gian này Việt nam vẫn chưa được hưởng MFN của Mỹ. 3. Những yếu kém của việc xuất khẩu hàng hoá VN sang Hoa Kỳ. 28
  29. * Tăng trưởng xuất khẩu trong 8 tháng qua của năm 2001 mới ở mức 12,4% (so với yêu cầu là 16,5 tỷ USD). * Về cơ cấu hàng xuất khẩu, nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của VN là nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản. Nhóm hàng của VN sang Hoa Kỳ.( Xem bảng 5 ) Bảng 5 : Kim ngạch xuất khẩu một số nhóm hàng cuă Việt Nam sang Hoa Kỳ (Đơn vị: Triệu USD) Nhóm hàng 1999 2000 00/99 1-4/00 1-4/01 01/00 01/00 Tổng XK 601,9 827,4 225,5 238,2 254,7 16,5 6,9% Cá, hải sản 108,1 242,9 134,8 46,4 74,4 28,0 60,3% Cà phê, chè 117,7 132,9 15,2 60,9 37,9 - 23,0 -37,8% Giày dép 145,8 124,5 - 21,3 47,1 41,5 - 5,6 -11,9% Nhiên liệu 83,8 90,7 6,9 32,7 32,5 - 0,2 -0,6% Hoa quả 23,7 51,1 26,4 10,0 12,6 2,6 20,6% Thịt và chế phẩm 31,5 57,7 26,2 2,4 17,2 14,8 61,6% SP may mặc 61-62 36,4 81,0 44,6 16,2 17,8 1,6 9,9% Tác phẩm nghệ thuật, sưu tầm và đồ 06 12,9 12,3 0,9 0,2 - 0,7 -77,7% cổ Nguồn: Bảng được xây dựng trên cơ sở dữ liệu của Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (USITC). Nhìn vào bảng trên ta thấy một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu bất ổn định, ví dụ như cà phê: Năm 1999, xuất khẩu cà phê đạt 117,7 triệu USD; năm 2000 đạt 132,9 triệu USD. Nhưng tính đến tháng 4 năm 2001 thì lại giảm 23,0 triệu USD. Tương tự là mặt hàng giày dép, tác phẩm nghệ thuật 29
  30. * Khả năng cạnh tranh của hàng hoá VN còn kém: - Do mẫu mã còn nghèo nàn, đơn điệu. - Giá cả thiếu sức cạnh tranh do giá nguyên phụ liệu cao, khâu tiếp thị yếu. - Tỷ lệ tăng giảm không ổn định. II. Cơ hội thâm nhập thị trường Mỹ của hàng hoá VN: 1. Cơ hội xuất khẩu các mặt hàng chủ lực: Dân số hiện nay của Mỹ là 271,8 triệu người với sức mua hàng năm lên tới 7000 tỷ USD/năm và GDP năm 1999 là 9.256 tỷ USD (gấp 300 lần VN). Năm 1999, tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ là 1230 tỷ USD, trong đó hàng dệt may là 40 tỷ USD, hải sản là 7,341 tỷ USD, cà phê là 2,820 tỷ USD, dầu thô là 35,192 tỷ USD và giày dép là 14 tỷ USD. Cho đến năm 2000 thì tổng kim ngạch xuất khẩu của VN sang Mỹ mới là 827,4 triệu USD trong đó tỷ trọng cao nhất là mặt hàng hải sản: 242,9 triệu USD, như vậy là còn rất nhỏ bé so với thị trường Mỹ. Hiện tại VN đã tranh thủ xuất khẩu sang thị trường Mỹ những mặt hàng có thuế suất nhập khẩu bằng 0 như cà phê, tôm đông lạnh, quế và cao su tự nhiên ngày càng nhiều (trung bình tăng 10%), ngoài ra Việt Nam còn xuất khẩu một số mặt hàng mà ta có lợi thế như: Giày dép, dệt may, dầu mỏ, gạo, dứa, mật ong ; tuy rằng các mặt hàng này chịu một sự phân biệt đối xử về thuế suất rất lớn. Khi Hiệp định Thương mại có hiệu lực thì thuế suất hàng gia dày sẽ giảm 1,5 đến 2 lần, hàng may mặc giảm từ 2,5 đến 10 lần, dầu mỏ giảm 4 lần, gạo giảm 3 lần, dừa và mật ong giảm 10 lần. Nếu tính trung bình thì hàng Việt Nam vào Mỹ sẽ chịu thuế giảm từ 40% xuống còn 3%, dây thực sự là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp VN . Sau đây là cơ hội xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang Mỹ. 30
  31. Hàng nông sản Khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (HĐTM) có hiệu lực, ta sẽ thuận lợi hơn trong việc xuất khẩu nông sản sang Mỹ. Mặt hàng gạo tẻ có chênh lệch giữa thuế phi MFN và thuế MFN là 6,5% và 1,7%, sản phẩm thịt (đặc biệt là thịt ướp lạnh) là 23,1% và 4,7%, gạo chế biến là 24% và 5,8% (xem bảng 6) Với mức chênh lệch thuế như vậy thì có thể dự báo rằng trong tương lai ta có thể xuất khẩu hàng chục triệu USD rau quả tươi sang Mỹ, riêng hạt điều có thể tăng gấp đôi (từ 30 triệu USD lên 60 triệu USD/năm). Mặt hàng cà phê vẫn sẽ tăng trong những năm tới do ta đã có kinh nghiệm về mặt hàng này trên thị trường Mỹ. Hàng dệt may Hàng dệt may VN xuất khẩu vào Mỹ phải chịu mức thuế nhập khẩu rất cao, chênh lệch giữa mức phi MFN và mức MFN là từ 30% đến 40% (xem bảng 6). Có thể thấy thuế đối với quần áo có đan móc, bằng len hoặc lông động vật được hưởng MFN là 16%; thuế này áp dụng cho Mêhico, Canada, Israel là 0% trong khi đó áp dụng đối với Việt Nam là 54,5%. Mức thuế này đã làm triệt tiêu gần như hoàn toàn khả năng cạnh tranh của hàng dệt may VN vốn không có ưu thế chất lượng. Tuy vậy, hiện tại hàng dệt may VN càng chịu thiệt thòi bao nhiêu thì khi HĐTM có hiệu lực nó lại càng có cơ hội bấy nhiêu. Theo dự đoán, hàng dệt may Việt Nam có thể đạt 1 tỷ USD ngay trong năm đầu được hưởng MFN. Khả năng gia tăng kim ngạch cũng có nhiều triển vọng do giá lao động thấp, các Công ty Mỹ sẽ tìm nguồn hàng rẻ với số lượng lớn để tiêu thụ ở Mỹ. Hàng may mặc VN đã có chỗ đứng ở EU, Nhật Bản thì cũng có nhiều khả năng có được thị phần tương xứng với khả năng của mình. Tuy nhiên, hàng dệt may là mặt hàng được bảo hộ cao bằng thuế quan và hạn ngạch nên trong quan hệ song phương là một vấn đề nóng bỏng. Hàng giày dép 31
  32. Năm 2000, VN xuất khẩu giày dép sang Mỹ khoảng 124,5 triệu USD chiếm gần 0,1% thị phần hàng giày dép của Mỹ. Điều này có thể lý giải là do sự chênh lệch về mức thuế có và không có MFN của Mỹ với hàng giày dép là khá cao (20% và 35%) (xem bảng 6). Theo ông Phan Đình Độ, Chủ tịch Hiệp hội Da giầy Việt Nam, khi HĐTM có hiệu lực, tức là thuế suất đối với hàng giày dép sẽ giảm hơn 10% so với trước. Và khi đó, Việt Nam có thể dành được 10% thị phần hàng giày dép ở Mỹ. Hiện tại VN có giày dép xuất khẩu sang 40 nước trên thế giới, chủ yếu là EU, Nhật Bản, Mỹ. Việt Nam cũng là một trong 5 nước có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất EU. Theo bà Châu Cẩm Huệ, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp thì hàng giày dép VN có thể tham gia vào thị trường “thượng lưu” ở Mỹ nếu đi kèm với các mác nổi tiếng như Adidas, Reebok. Còn với phân khúc “hạ lưu” thì phải cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Tuy vậy, thị trường Mỹ không khó tính, nếu đã vào được là trụ lại không quá khó khăn. Hàng thuỷ Hải - Sản Thời gian vừa qua, Mỹ luôn là một trong những trường lớn nhất nhập khẩu các mặt hàng thuỷ, hải sản của VN như tôm sú, điệp, nghêu, cá tra, cá đồng, cá basa đông lạnh và chỉ đứng thứ 2 sau Nhật trong danh sách 10 thị trường có thị phần cao nhất của hàng thuỷ, hải sản VN, song hàng thuỷ, hải sản VN chỉ chiếm 0,5% thị phần mặt hàng này của Mỹ, vì vậy tiềm năng xuất khẩu thuỷ hải sản của VN còn rất lớn dù cho lợi ích của việc HĐTM có hiệu lực mang lại là không đáng kể (chênh lệch giữa thuế MFN là thuế phi MFN là không đáng kể) 3. Dự báo kim ngạch xuất khẩu của VN vào Hoa Kỳ đến năm 2010: 32
  33. Các nhà dự báo Việt nam cho rằng , kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ sẽ tăng lớn trong vòng 10 năm tới , mà cụ thể là : * Thời kỳ 2000 - 2005 là thời kỳ có sự tăng trưởng đột biến về xuất khẩu (tăng 6 lần), đặc biệt là: Giầy dép, may mặc, điện tử, đồ gỗ, đồ chơi, nông sản chế biến, đây là thời kỳ chuyển hướng thị trường và thay đổi cơ cấu kinh tế. Thời kỳ này Việt nam chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có ưu thế về thủ công và lao động rẻ như: Giày dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ truyền thống và bước đầu phát triển máy móc và hàng chế biến cao chuẩn bị cho thời kỳ tiếp theo. * Thời kỳ 2005 - 2010 xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng chậm lại nhưng cũng phải gấp đôi trong 5 năm. Hàng nguyên liệu thô và nông sản thô tăng chậm lại hay giữ nguyên thị phần. * Đến 2010, thị phần của Việt Nam trong nhập khẩu vào Mỹ chiếm 0,96% là một chỉ tiêu cao. Việt nam chỉ có thể đạt được quy mô trên khi đẩy mạnh công nghiệp hoá, thu hút mạnh mẽ đầu tư Hoa Kỳ, chủ yếu của các Công ty xuyên quốc gia, đồng thời sử dụng tốt lao động người VN tại Hoa Kỳ, vào các ngành công nghiệp với quy mô lớn làm hàng xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ như máy móc thiết bị, điện tử, viễn thông, điện đồng thời tận dụng cả các mặt hàng tốn nhiều sức lao động như: Dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, thủ công mỹ nghệ, văn hoá phẩm. 33
  34. III. Thách thức đối với việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ. 1. Những quy định của Mỹ về hàng hoá nhập khẩu: Luật Pháp Mỹ quy định, tất cả mọi vấn đề liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào đều thuộc thẩm quyền của Chinhs phủ Liên Bang, Bộ Thương mại, Văn phòng đại diện thương mại, Uỷ ban thương mại quốc tế và cụ thể nhất là Hải quan Mỹ là cơ quan có trách nhiệm với vấn đề này. Các giấy tờ cần xuất trình khi nhập khẩu vào Mỹ là: Giấy nhập khẩu hải quan; Hoá đơn thương mại; Danh mục kiện hàng; Giấy tờ khác theo yêu cầu của Chính quyền Liên bang hoặc địa phương. Nhìn chung, luật Pháp Mỹ vô cùng phức tạp, rối rắm và sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp làm ăn tại thị trường Mỹ nếu không hiểu về luật pháp của Mỹ. Sau đây là những quy định của Mỹ về hàng nhập khẩu: Thuế quan Mỹ dùng hệ thống biểu thuế quan điều hoà (HTS) dựa trên hệ thống điều hoà HS để quản lý hàng hoá nhập khẩu. Trong biểu thuế có mô tả cả phần thuế suất chung và phần thuế suất đặc biệt. Phần thuế suất chung quy định thế suất hoặc miễn thuế cho hàng hoá được hưởng quy chế tối huệ quốc MFN. Phần đặc biệt quy định mức thuế ưu đãi hoặc miễn thuế có điều kiện theo quy chế thuế quan riêng. Ngoài ra còn nhiều ưu đãi thuế quan khác như: Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, Hiệp định thương mại tự do Mỹ - Canađa. Nếu một sản phẩm được hưởng nhiều mức ưu đãi thì mức ưu đãi thấp nhất sẽ được áp dụng. Các mức thuế trong 2 cột chênh nhau rất lớn thể hiện sự phân biệt đối xử. Ví dụ mặt hàng vải bông thuế MFN là 33% thì thuế phi MFN là 68,3%; Mặt hàng túi xắch bằng mây tre thuế MFN 0%, thuế phi MFN từ 50 đến 80%; Váy dài nữ bằng vải bông: MFN 0 - 8,8%, thuế phi MFN 90%. 34
  35. Đối với ưu đãi thuế quan phổ cập GSP, sẽ miễn thuế hoàn toàn cho một số mặt hàng nhập từ những nước được hưởng ưu đãi. Những mặt hàng đó phải đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn sau: 1. Mặt hàng phải từ nước được Mỹ cho hưởng GSP. 2. Mặt hàng nằm trong danh sách được hưởng GSP. 3. Nước xuất khẩu đủ tiêu chuẩn được hưởng GSP đối với một sản phẩm nhất định. 4. Các yêu cầu về giá trị gia tăng được đáp ứng. 5. Mặt hàng được nhập trực tiếp vào Mỹ từ nước hoặc nhóm nước được hưởng. 6. Có một giấy chứng nhận xuất xứ (mẫu A). 7. Người nhập khẩu yêu cầu được hưởng quy chế GSP. Quy chế này không được áp dụng cho các nước mà Mỹ đã liệt kê trong mục 502b của Luật thương mại 1974. Mặt khác, một nước sẽ bị mất quyền hưởng GSP đối với một sản phẩm nếu vượt quá giới hạn nhu cầu cạnh tranh: + Chiếm tới 50% hoặc hơn nữa toàn bộ giá trị nhập khẩu mặt hàng đó của Mỹ. + Vượt quá một mức trị giá tính bằng đôla nhất định. Mức này được điều chỉnh hàng năm theo tỷ lệ GNP của Mỹ mỗi năm, vì thế con số chính xác phải đầu năm sau mới có thể biết. Ngoài thuế, Mỹ còn dùng biện pháp phi quan thuế để quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu. Các biện pháp thường dùng là hạn ngạch (hạn ngạch tuyệt đối và hạn ngạch thuế suất), các quy định mang tính kỹ thuật. Các quy định của Hải quan: Mỹ ban hành “Luật thuế quan 1930” (Tariff Act of 1930), các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu phải thực hiện đúng và đầy đủ các luật lệ, quy định này. 35
  36. + Đối với đóng gói: Hàng hoá đóng gói sao cho nhân viên Hải quan có thể kiểm tra, cân đo, giải toả dễ dàng và nhanh chóng. Đóng gói phải đảm bảo tính hệ thống, nếu không Hải quan có thể yêu cầu kiểm tra toàn bộ chuyến hàng. Trường hợp đóng gói chung hoặc lẫn lộn các hàng có thuế suất khác nhau khiến cho không thể xác định chắc chắn số lượng và giá trị thì lô hàng phải chịu thuế suất cao nhất, trừ khi người nhận hoặc đại lý của người nhận tách riêng hàng hoá dưới sự giám sát của nhân viên Hải quan, với phí tổn rủi ro của người nhận. Muốn không phải chịu thuế suất cao nhất thì người nhận hoặc đại lý phải cung cấp đầy đủ bằng chứng . (1). Phần hàng này không đáng giá bao nhiêu về thương mại, hoặc kém hơn giá trị các loại hàng hoá khi tách riêng. (2). Không có khả năng tách riêng và quá tốn phí trước khi đưa vào quá trình sản xuất hoặc vì lý do khác. (3). Việc trộn lẫn không phải để trốn thuế hợp pháp. Nếu đáp ứng được những bằng chứng này, lô hàng sẽ được coi như một phần của hàng chịu thuế suất thấp nhất trong lô hàng, hoặc chịu mức thuế suất áp dụng cho loại hàng có số lượng lớn nhất trong các loại hàng. + Đối với các quy định về ký mã hiệu: Luật Mỹ không có quy định gì đặc biệt so với ký mã hiệu thông thường. Vì vậy người xuất khẩu chỉ cần ghi đầy đủ theo thông lệ quốc tế gồm: + Thông tin: Tên người gửi, tên người nhận, trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì, số hợp đồng, số hiệu chuyến hàng, số hiệu kiện hàng. + Ký hiệu cần thiết cho việc vận chuyển: Tên nước và địa chỉ hàng đến - đi, hành trình chuyên chở, số vận đơn, tên tàu + Những ký hiệu hướng dẫn bốc xếp bảo quản. + Các thông tin về xuất xứ hàng hoá : Phải được ghi bằng tiếng Anh ở chỗ dễ thấy, dễ đọc, không phai. Ký hiệu phải được ghi trên mặt hàng hoặc mặt bao bì của 36
  37. hàng hoá và phải tồn tại cho đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Hàng hoá nhập vào Mỹ nếu không tuân thủ những quy định sẽ bị phạt 10% trị giá lô hàng, trừ khi hàng tái xuất, bị phá huỷ hoặc được ghi ký hiệu đúng cách trước sự giám sát của nhân viên Hải quan trước khi khai báo thủ tục Hải quan. Người mua cuối cùng có thể được hiểu là người nhập khẩu cuối cùng, hàng được nhập kèm theo một mặt hàng khác sau đó nhưng trước khi giao cho người mua cuối cùng, việc ghi ký mã hiệu phải thể hiện rõ sự kết hợp này. Tức là, ngoài tên nước xuất xứ phải có từ ngữ hoặc ký hiệu chỉ rõ nguồn gốc này là chỉ của mặt hàng nhập khẩu trước chứ không phải của sự kết hợp. Trường hợp các mặt hàng đóng gói tại Mỹ, khi khai báo Hải quan, người nhập khẩu phải chứng thực rằng sẽ không bị che khuất các ký hiệu trên mặt hàng hoặc sẽ ghi các ký hiệu trên bao bì mới. Nếu người nhập khẩu không đóng gói mà người bán đóng gói thì người nhập khẩu phải báo cho người đóng gói các yêu cầu của việc ghi ký mã hiệu. Không tuân theo yêu cầu này, người nhập khẩu có thể phải chịu phạt và/ hoặc nộp thêm thuế ghi ký hiệu. + Mục 42 “Luật về nhãn hiệu 1946” quy định: Nếu mặt hàng nhập khẩu nào mang tên hoặc ký hiệu nhằm làm công chúng tưởng nó được sản xuất tại Mỹ hoặc tại một nước khác với nơi nó sản xuất thì mặt hàng đó sẽ không được khai báo làm thủ tục tại bất kỳ một cơ quan Hải quan nào của Mỹ và có thể bị tịch thu. Tuy nhiên, trước khi xử lý cuối cùng, nếu người nhập khẩu nộp đề nghị, giám đốc Hải quan có thể cho giải toả lô hàng với điều kiện phải thay đổi hoặc xoá bỏ ký hiệu bị cấm và ghi lại ký hiệu đúng cách. Giám đốc Hải quan cũng có thể cho tái xuất hoặc phá huỷ hàng dưới sự giám sát của Hải quan và không phải nộp tiền cho Chính phủ. + Một số hàng hoá được điều chỉnh bởi luật riêng: Ví dụ tất cả các sản phẩm dệt nhập khẩu vào Mỹ sẽ phải ghi ký hiệu, có thẻ ghi giá, dán nhãn hiệu hoặc ghi ký mã hiệu với các thông tin dưới đây, theo yêu cầu của Luật về định dạng các sản phẩm dệt (trừ khi được miễn trừ theo mục 12 của Luật): 37
  38. * Các tên đặc trưng chung và tỷ lệ % trọng lượng của các loại sợi trong sợi dệt với số lượng trên % trọng lượng các loại sợi chủ yếu. * Tên người sản xuất hoặc tên/ số định dạng đã đăng ký với Uỷ ban Thương mại Liên bang. Hoặc có thể sử dụng nhãn hiệu thương mại đã đăng ký với Văn phòng cấp bằng sáng chế Mỹ, nếu người chủ sở nhãn hiệu Thương mại cung cấp một bản sao của bản đăng ký cho Uỷ ban Thương mại Liên bang. Tên nước xuất xứ Các mặt hàng mang nhãn hiệu thương mại giả, những nhãn hiệu sao chép giả mạo một nhãn hiệu thương mại đã đăng ký của Công ty Mỹ hoặc nước ngoài bị cấm nhập khẩu. Việc nhập khẩu hàng mang nhãn đúng hiệu thương mại đã đăng ký với Hải quan thuộc sở hữu của một công dân hay một Công ty Mỹ mà không được phép của chủ sở hữu là trái phép. Theo luật về đơn giản hoá và cải cách Hải quan 1978, một nhãn hiệu thương mại giả mạo là một nhãn hiệu giống y hệt, hoặc rất khó phân biệt với một nhãn hiệu thương mại đã đăng ký. Những hàng vi phạm sẽ bị bắt giữ, tịch thu rồi gửi tặng hoặc đem bán. Phần 602 (a), “Luật sửa đổi về bản quyền nhãn hiệu 1976” quy định việc nhập khẩu vào Mỹ sao chép những tác phẩm hoặc công trình mà không được phép của chủ bản quyền là trái phép. Hàng hoá sẽ bị tịch thu hoặc sung công, tiêu huỷ, gửi trả lại nước xuất khẩu nếu không có biểu hiện cố ý vi phạm. Ghi hoá đơn Đi đôi với những quy định nhập khẩu hàng hoá, Mỹ cũng áp dụng chế độ hạn ngạch để kiểm soát nhập khẩu do Cục Hải quan quản lý. Có 2 loại hạn ngạch: Hạn ngạch thuế quan (HNTQ) và hạn ngạch tuyệt đối (HNTĐ). Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng đối với loại hàng nào đó được nhập khẩu vào Mỹ được hưởng mức thuế giảm trong một thời gian nhất định, nếu vượt sẽ bị đánh thuế cao. Hạn ngạch tuyệt đối là hạn ngạch về số lượng cho một chủng loại hàng hoá nào đó được nhập khẩu 38
  39. vào Mỹ trong một thời gian nhất định, nếu vượt quá sẽ không được nhập khẩu. Có hạn ngạch tuyệt đối mang tính toàn cầu, có hạn ngạch tuyệt đối chỉ áp dụng cho từng nước riêng biệt. Một số mặt hàng chịu hạn ngạch: + HNTQ: Sữa và kem các loại, cam, quýt, ôliu, xirô, đường, mật wiskroom chế toàn bộ hoặc một phần từ thân cây ngô. + HNTĐ: Thức ăn gia súc, sản phẩm thay thế bơ, sản phẩm có chứa 45% bơ béo trở lên, pho mát làm từ sữa chua diệt khuẩn, sôcôla có chứa 5,5% trọng lượng là bơ béo, cồn êtylen và hỗn hợp của nó dùng làm nhiên liệu. Ngoài ra Cục Hải quan Mỹ còn kiểm soát nhập khẩu với: Bông, len, sợi nhân tạo, hàng pha tơ lụa, hàng làm từ sợi thiên nhiên được sản xuất tại một số nước theo quy định trong Hiệp định hàng dệt Mỹ ký với các nước. Điều kiện giao hàng Mỹ không dùng Incoterms mà sử dụng Foreign Trade Term Definitions với những điều kiện hết sức khác biệt (chẳng hạn như FOB Mỹ rất khác với FOB theo Incoterms). Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển được điều chỉnh luật quốc gia như “Luật chuyên chở hàng hoá bằng đường biển 1936” (Carriage of Goods by Sea Act 1936). Sau đây là quy định đặc biệt cần lưu tâm đối với một số hàng xuất khẩu chủ yếu của VN sang thị trường Mỹ. Hàng dệt Các sản phẩm dệt nhập khẩu vào Mỹ phải ghi rõ tem, mác quy định, các thành phần sợi được sử dụng có tỷ trọng trên 5% sản phẩm phải ghi rõ tên, các loại nhỏ hơn 5% phải ghi là “các loại sợi khác”. Phải ghi tên hãng sản xuất, sổ đăng ký do Federal Trade Commission (FTC) của Mỹ cấp. 39
  40. Pho mát, sữa và các sản phẩm từ sữa Mặt hàng này phải tuân theo yêu cầu của Cơ quan quản lý thực phẩm và Dược phẩm (FDA) và của Bộ nông nghiệp Mỹ, và hầu hết phải xin giấy phép nhập khẩu và quota của Vụ quản lý đối ngoại (FAS) thuộc Bộ nông nghiệp Mỹ. Nhập khẩu sữa và kem phải theo các điều luật về thực phẩm, và điều luật về nhập khẩu sửa. Các sản phẩm này chỉ được nhập khẩu bởi những người có giấy phép nhập khẩu cấp bởi: Bộ y tế, FDA, Trung tâm an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, Văn phòng nhãn hiệu thực phẩm và Bộ nông nghiệp Mỹ cấp. Thịt và các sản phẩm thịt Thịt và các sản phẩm thịt nhập khẩu vào Mỹ phải tuân theo các quy định của Bộ nông nghiệp Mỹ và phải qua giám định của Cơ quan giám định Y tế về động vật, thực vật (APHIS) và của cơ quan giám định về an toàn thực phẩm trước khi làm thủ tục Hải quan. Các sản phẩm thịt sau khi đã qua giám định của APHIS còn phải qua giám định của FDA. Động vật sống Động vật sống khi nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện về kiểm dịch và giám định của APHIS” ngoài ra còn phải kèm theo giấy chứng nhận về sức khoẻ của chúng và chỉ được đưa vào Mỹ qua một số cảng nhất định. Gia cầm và các sản phẩm gia cầm Gia cầm sống, lạnh đông, đóng hộp, trứng và các sản phẩm từ trứng khi nhập khẩu vào Mỹ phải theo quy định của APHIS và của cơ quan giám định an toàn thực phẩm thuộc USDA. Cây và sản phẩm từ trái cây Cây và các sản phẩm từ trái cây phải tuân theo các quy định của Bộ nông nghiệp, có thể bị hạn chế hoặc cấm. Các sản phẩm này bao gồm cả trái cây, rau, cây 40
  41. trồng, rễ cây, hạt, sợi từ cây kể cả bông và các cây làm chổi, hoa đã cắt, một số loại ngũ cốc, gỗ cây, gỗ sẻ, đều cần có giấy phép nhập khẩu. Hoa quả, rau và hạt các loại Khi nhập khẩu vào Mỹ phải đảm bảo các yêu cầu về chủng loại, kích cỡ, chất lượng, độ chín. Các mặt hàng này phải qua Cơ quan giám định an toàn thực phẩm thuộc USDA để có xác nhận là phù họp với các tiêu chuẩn nhập khẩu. Đồ điện gia dụng Khi nhập khẩu vào Mỹ phải ghi trên nhãn mác các tiêu chuẩn về điện, chỉ tiêu về tiêu thụ điện theo quy định của Bộ năng lượng. Hội đồng Thương mại Liên bang, cụ thể là đối với tủ lạnh, tủ cấp đông, máy rửa bát, máy sấy quần áo, thiết bị đun nước, thiết bị lò sưởi, điều hoà không khí, lò nướng, máy hút bụi, máy hút ẩm. Thực phẩm, thuốc chữa bệnh, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế Thuốc chữa bệnh, mỹ phẩm, trang thiết bị y tế khi nhập khẩu vào Mỹ phải theo các quy định của Federal Drug and Cosmetic Act. Theo đó, những mặt hàng kém chất lượng hoặc không đảm bảo vệ sinh an toàn cho người sử dụng sẽ bị cấm nhập khẩu hoặc phải huỷ hoặc đưa về nước xuất xứ. Nhiều mặt hàng thực phẩm như bánh kẹo, sản phẩm sữa, thịt, trứng, trái cây, rau còn phải tuân theo các quy định như đã nêu trên. Hải sản khi nhập khẩu vào Mỹ phải tuân theo các quy định của National Fisheries Service thuộc Cục quản lý Môi trường không gian và biển và Bộ thương mại Mỹ. Luật thuế bù giá (CVD) 41
  42. Quy định một khoản bồi thường dưới dạng thuế NK phụ thu để bù vào phần trị giá của sản phẩm nước ngoài mà việc bán sản phẩm đó ở Mỹ gây thiệt hại cho các nhà sản xuất những hàng hoá tương tự của Mỹ. Trong hầu hết các trường hợp, phần trị giá phải bù lại có thể do Chính phủ nước ngoài trực tiếp trả. Có hình thức trị giá gián tiếp được áp dụng sau khi điều tra phát hiện theo luật thuế bù giá. Việc điều tra này được điều tra khi có đơn khiếu nại của các ngành sản xuất trong nước Mỹ trình lên Bộ Thương mại nước này và Uỷ ban Thương mại quốc tế. Luật chống phá giá Được sử dụng rộng rãi hơn luật CVD. Luật này được áp dụng với hàng nhập khẩu khi xác định được hàng hoá nước ngoài đã bán phá giá hoặc thấp hơn giá trị thông thường tại thị trường Mỹ. Cũng giống như CVD, các thủ tục chống phá giá được tiến hành khi có khiếu nại của một ngành sản xuất Mỹ. Có những điều khoản của Luật này gọi là điều khoản “điều chỉnh nhập khẩu” quy định “những trường hợp khẩn cấp” cho phép người khiếu nại có thể yêu cầu một hành động khẩn cấp ngăn chặn làn sóng NK đang đe doạ nền sản xuất trong nước. Đó là khi một sản phẩm NK vào Mỹ với số lượng lớn gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất đó trong nước của Mỹ. Một trong những biện pháp được áp dụng trong “trường hợp khẩn cấp” là cắt giảm NK tạm thời. Việc cắt giảm có thể kéo dài tới vài năm. Trong thời gian cắt giảm NK, ngành sản xuất được hưởng lợi phải đệ trình báo cáo về tình hình phát triển của ngành lên Uỷ ban Thương mại quốc tế và lên Quốc hội Mỹ. Ngành được hưởng lợi có thể yêu cầu gia hạn việc cắt giảm NK tạm thời. Như vậy, những quy định ngặt nghèo của Mỹ về hàng nhập khẩu là hàng rào phi thuế quan mà hàng Việt Nam không dễ vượt qua, thêm nữa hàng VN xuất khẩu sang Mỹ lại nằm trong danh mục xuất khẩu của hàng ASEAN, nên sự cạnh tranh là hết sức gay gắt ngay cả khi VN được hưởng MFN và GSP của Mỹ. (xem bảng 8). 42
  43. Hiện nay, một số mặt hàng của VN có chất lượng kém hơn nhưng giá cả lại cao hơn các nước ASEAN khác, ví dụ hàng dệt may VN có giá cao hơn từ 15% đến 20% so với hàng dệt may của các nước ASEAN khác. Chính vì vậy việc hạ giá thành cũng là một thách thức đối với các mặt hàng xuất khẩu của VN. Đây chính là yếu tố quyết định cho sức cạnh tranh của hàng hoá VN. 2. Vấn đề gian lận thương mại Đây cũng là một trong những thách thức đối với VN sau khi được hưởng NTR. Khi đó nếu được Mỹ áp dụng GSP đối với hàng hoá VN xuất khẩu sang Mỹ thì sẽ xảy ra tình trạng hàng hoá một số nước mạo danh là hàng hoá của VN để được hưởng ưu đãi. Trong khi giá thành sản xuất của các nước này thấp hơn nhiều, có khi chỉ bằng một nửa so với VN, lại được hưởng thuế suất ưu đãi (thông thường dưới 5%), thì hàng của nước này sẽ đánh bật hàng VN ra khỏi thị trường Mỹ. Để chống gian lận thương mại, cả hai bên phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu như EU và VN đã từng làm để hình thành cơ chế kiểm tra kép đối với mặt hàng giày dép trên cơ sở giấy chứng nhận xuất xứ. 3. Công tác xúc tiến thuơng mại còn nhiều hạn chế. Bên cạnh những tác động tích cực mà công tác xúc tiến thương mại đem lại cho VN . Vấn đề khó khăn nhất hiện nay vẫn là việc cung cấp thông tin chưa đầy đủ, cập nhật, chưa hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận thị trường nướcngoài nói chung và thị trường Mỹ nói riêng. Do chưa hiểu đầy đủ, cụ thể về một ngành nào hoặc một doanh nghiệp cụ thể nào và nhu cầu của doanh nghiệp nên thông tin hỗ trợ còn chung chung, chưa cụ thể và kịp thời. Trong khi doanh nghiệp rất cần thông tin cụ thể về thị trường mặt hàng 43
  44. Do trình độ của nhân viên hạn chế, việc tiếp cận và xử lý thông tin còn yếu nên nhiều khi chương trình xúc tiến không nhằm đúng đối tượng, lĩnh vực kinh doanh làm cho hiệu quả thấp. Do không được hỗ trợ về mặt kinh tế nên đa số các tổ chức xúc tiến thương mại hoạt động theo nguyên tắc “lấy thu bù chi”, do vậy họ hướng vào lợi nhuận hơn là vào lợi ích quốc gia, lợi ích của các doanh nghiệp. Muốn làm ăn với Mỹ, chúng ta phải có hệ thống thông tin hiện đại, trong đó phương tiện hữu ích nhất là Internet. Tuy nhiên giá truy cập của ta là khá cao (o,5-1 USD/giờ) trong khi ở Mỹ là 1 USD/ngày). Vì vậy Nhà nước cần tính đến lợi ích của toàn xã hội chứ không nên vì lợi ích của một số ngành mà mất đi lợi thế có tính toàn cầu này. 44
  45. Chương III:các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá việt nam sang mỹ I. các giải pháp từ phía nhà nước 1. các biện pháp tăng cường xuất khẩu các ngành hàng chủ lực: Để hưởng lợi trực tiếp từ Hiệp định thương mại ta cần chú ý tới các mặt hàng mà VN có lợi thế(xen bảng 11) Bảng 11: Chỉ số lợi thế so sánh(so với thế giới) trong ngành các công nghiệp nhẹ của ASEAN 45
  46. Ngành mã Việt nam Xingapo Thái lan Mailaixia Inđônêxia Philippin Dụng cụ thể 6,74 0,16 3,11 0,22 0,57 1,75 thao(831 Quần 3,94 0,00 3,02 0,99 2,42 1,93 áo(841) Giày (851) 7,60 0,11 3,78 0,21 5,18 1,39 Nguồn: Lê Quốc Phương “Nguyễn Đức Thọ” T .Bandara(1966) Cụ thể, một số giải pháp đối với một số ngành hàng chủ lực như sau: Đối với ngàng dệt may: Lằm ăn với thị trường Mỹ đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may VN phải tiếp cận với phương thức sản xuất và xuất khẩu FOB. Vì lẽ, hàng dệt may bị ràng buộc bởi điều kiện xuất xứ và tỷ lệ nội địa hoá trên sản phẩm khi xuất khẩu vào thị trường này. Vi vậy, trong thời gian tới, ngành dệt may cần tích cực tìm kiếm thị trường bán thành phẩm FOB và đặc biệt lưu ý đến các hàng hoá với chất lượng bình dân, giá rẻ. Đây là cơ hội xâm nhập vào thị trường Mỹ. đến năm 2005, theo hiệp định về về hàng dệt may ATC, hạn ngạch hàng dệt may sẽ được bãi bỏ. Tuy nhiên, trong chương một điều một mục bốn lại quy định: Các quy định tại mục 1.F của điều này không được áp dụng đối với thương mại hàng dệt. Tức là Mỹ vẫn áp dụng hạn ngạch hàng việt nam nhập khẩu vào Mỹ. Điều này nghĩa là một mặt hàng dệt may của ta phải tự cạnh chanh với các nước khác, mạt khác hàng dệt may của ta vẫn bị hạn chế. Vì vậy, nếu không có sự điều chỉnh theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thì việc mất thị trường, đơn hàng, mất việc làm là rất có khả năng xảy ra. Trước thách thức đó, ngành dệt may cần tập trung giải quyết bốn vấn đề lớn sau đây: 46
  47. Một là, xây dựng chương trình đầu tư phát triển cho toàn ngành từ nay đến năm 2010; trong đó tập trung đầu tư cho ngành dệt dưới dạng các cụm công nghiệp nhằm tạo ra nguồn nguyên phụ liệu chất lượng cao cung cấp cho ngành may xuất khẩu. Hai là, kết hợp đầu tư chiều sâu đối với các doanh nghiệp hiện có với chương trình cổ phần hoá, sắp xếp các doanh nghiệp dệt may nhằm từng bước hình thành doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ chuyên sâu, phù hợp với trình độ quản lý hiện nay. Ba là, đối với nghành may, do đặc thù vốn đầu tư thấp, công nghệ và lao động không quá phức tạp nên có thể phát triên rộng khắp cá vùng nômg thôn, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở củng cố bốn tung tâm làm hàng chất lượng cao, đó là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, T.p Hồ Chí Minh. Bốn là, đổi mới hệ thống quản lý, phương thức làm việc nhằm nâng cao hiệu quả của các thương vụ với doanh nghiệp Mỹ trên cơ sở đúng thời hạn giao hàng va ổn định về số lượng, chất lượng sản thẩm. Đối với hàng giày giép: Hiện nay, ngành da giày VN đang đứng trước thách thức lớn, đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu giày; trong đó đáng chú ý là Trung Quốc. Trình độ kĩ thuật, quản ly sản xuất chưa cao, chi thí lớn làm cho giá thành cao, điều này là bất lợi khi xuất khẩu vào thị trường coi trọng giá cả như Mỹ. Phần lớn ta còn phụ thuộc vào các đối tác gia công nên việc thâm nhập thị trường Mỹ chưa chủ động. Nếu các doanh nghiệp giày da không nhanh có kế hoạch đầu tư chiều sâu, cải tiến mẫu mã, xây dựng công nghệ khuôn đúc cho riêng mình thì e rằng khó xâm nhập thị trường Mỹ khó tính nhưng có triển vọng này. Vì vậy, về lâu dài, đối với sản xuất trong nước cần đẩy mạnh việc chuyển dần từ nhận gia công sang chủ động mua nguyên liệu trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu. Nhà nước càn đầu tư xây dựng một Khu Công Nghiệp liên hoàn về thực thẩm và da 47
  48. giày để hỗ trợ nhau và tạo hiệu quả kinh tế tối ưu, bao gồm: Nhà máy giết mổ, chế biến thức ăn sẵn, chế biến đồ hộp, thuộc da, chế biến sản phẩm da và thiế kế mẫu mốt. Liên doanh với các đối tác nước ngoài nhưng yêu cầu họ phải từng bước chuyển giao công nghệ Tổng công ty Da giày Việt nam đã thành lập và hoạt động một thời gian; bởi vậy, cần đúc rút kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và đề ra phương hướng kinh doanh trong thời gian tới. Tổng công ty Da giày đã và đang đàu tư xây dựng mới từ 2 đến 3nhà máy sản xuất mũ giày phục vụ sản xuất dầy xuất khẩu. Các trường hợp đầu tư mở rộng ngành dày nên được ưu đãi . Đối với hàng thuỷ sản: Các mặt hàng thuỷ sản ngoài việc phải qua khâu kiểm tra chất lượng rất chặt chẽ của cơ quan kiểm soát chất lượng thực phẩm và dược phẩm Mỹ(FDA) . Riêng đối với hàng thuỷ sản,Mỹ chỉ áp dụng tiêu chuẩn kỉêm soát HACCP(chương trình kiểm soát vệ sinh an toàn của riêng nước này)chứ không chấp nhận bất cứ một tiêu chuẩn nào khác , kể cả tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng được coi là khắt khe của liên minh Châu Âu(EU).Chính vì vậy,hiện chỉ có 25 doanh nghiệp Việt nam xây dựng được tiêu chuẩn chế biến thuỷ,hải sản theo chương trình HACCP có thể xuất sang Mỹ,trong khi đó có rất nhiều doanh nghiệp khác mặc dù đã được EU đưa vào danh sách nhóm 1(được xuất khẩu thuỷ,hải sản sang toàn bộ 15 nước EU mà không cần kiểm tra)nhưng vẫn không được thị trường Mỹ chấp nhận.Ngay cả khi đặt chân sang thị trường Mỹ,hàng Việt nam vẫn phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm của các nước khác như Thái Lan và các nước ASEAN có mặt trên thị trường này.Có thể nói rằng , chất lượng hàng thuỷ,hải sản Việt nam hoàn toàn không thua kém các nước khác , 48
  49. song do phải chịu thuế đầu vào cao(20%- 40%)nên giá thành bị đội lên quá cao khiến sức cạnh tranh hàng Việt nam giảm đáng kể.Vì vậy,các doanh nghiệp VN phải xây dựng cho được hệ thống kiểm soát chất lượng theo HACCP đồng thời tìm ra những sản phẩm vừa có lợi thế so sánh với các nước khác và lại phù hợp với thị hiếu của dân Mỹ. Ngành thuỷ sản phải sớm đi đầu trong việc xây dựng và áp dụng các hệ thống mới về quản lý chất lượng sản phẩm.(hệ thống ISO).Từ năm 1991,thuỷ sản VN đã tiếp cận với hệ thống quản lý chất lượng của Mỹ đối với hàng thuỷ sản và coi đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ.Cụ thể,Bộ Thuỷ Sản đã có quy định là từ ngày 1/1/2000,tất cả các cơ quan chế biến thuỷ sản trong nước phải bắt buộc áp dụng tiêu chuẩn này. Ngoài các mặt hàng truyền thống như đã nêu trên,khả năng xuất khẩu phần mềm máy tính hay những phần mềm cho thương mại điện tử cũng là mặt hàng có nhiều triển vọng mà ta với Mỹ có nhiều tương đồng phù hợp với lợi ích của cả hai bên.Nhà nước cũng cần có những biện pháp khuyến khích các công ty VN sang tìm hiểu thị trường Mỹ trên lĩnh vực này. 2.cải cách hệ thống ngân hàng : Trong quan hệ làm ăn với Mỹ thì hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng,nó có thể làm các công việc như:Cho vay ngoại tệ,xác nhận L/C,điều tra khách hàng và trong phương thức thanh toán bằng L/C thì vai trò của ngân hàng là không thể thiếu. Đối với hệ thống ngân hàng VN,chúng ta cần hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, từng bước nâng dần tỷ lệ tín dụng so với GDP lên ngang bằng với các nước trong khu vực(tỷ lệ này của VN là hơn 30%,các nước là 50%).Hạ thấp chỉ tiêu về chi phí nghiệp vụ trên tài sản có xuống tương đương mức bình quân của khu vực(tỷ lệ này 49
  50. của các ngân hàng thương mại VN là 9%trong khi của các nước trong khu vực là 2,5- 3%). Các ngân hàng VN cũng cần phải có cơ cấu lại,tăng cường tiềm lực tài chính,khả năng cạnh tranh và sức đề kháng của ngân hàng trước những biến động của thị trường trong nước và quốc tế. 3.tăng cường quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại: Để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ thì vai trò hỗ trợ của nhà nước là không thể thiếu,đặc biệt là công tác xúc tiến thương mại.Việc này cần phải làm vì lợi ích chung của doanh nghiệp chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận cụ thể , gồm các giải pháp sau: * Đưa vào các Website những thông tin có giá trị thương mại để quảng cáo cho các doanh nghiệp và hàng hoá VN xuất khẩu sang Mỹ * Tổ chức hội chợ triển lãm theo nhu cầu của các doanh nghiệp VN và Mỹ muốn thâm nhập thị trường của nhau và chuẩn bị các phương án làm ăn lâu dài sau khi có MFN. * Tổ chức mạng lưới du lịch VN-Mỹ để phục vụ nhu cầu của giới kinh doanh và của du khách,trong đó có tổ chức các chuyến đi khảo sát thị trường cho các doanh nghiệp. * Thành lập quỹ xúc tiến thương mại do cả nhà nước và doanh nghiệp cùng đóng góp . Quỹ này lập tài khoản riêng không nằm trong ngân sách Bộ tài chính,chuyên phục vụ xúc tiến thương mại. * Lập một số trung tâm thương mại tại một số thành phố lớn như NewYork , Los Angeles , San Francisco , Chicago Để tạo cầu nối và giảm chi phí giao dịch cho các công ty VN.Các trung tâm này có thể do Nhà nước bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt Kiều,hoặc kết hợp giữa một số doanh nghiệp mạnh trong nước sang mở các phòng trưng bày,giao dịch giới thiệu và ký hợp đồng. 50
  51. * Về vai trò của Đại diện thương mại ở nước ngoài , họ là đầu mối quan trọng tạo điều kiện cho các cơ sở xuất khẩu tiếp cận với những thông tin thương mại.VN cần tăng cường hệ thống đó.Việc bố trí đội ngũ tuỳ viên thương mại là một hình thức đầu tư tốn kém nhưng không thể không có và chúng ta cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho các Ban Đại Diện thương mại của mình ở nước ngoài . 4. thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu(HTXK): Mục tiêu chính của quỹ HTXK là trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu nhưng không có điều kiện tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng do không có tài sản thế chấp.Quỹ HTXK sẽ đứng ra bảo lãnh các khoản vay , cung cấp các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu để các doanh nghiệp đầu tư công nghệ hiện đại và đảm bảo vốn lưu động. II.giải pháp từ phía doanh nghiệp: 1. giải pháp về vốn : Thực tiễn cho thấy Mỹ thường không đặt hàng đơn lẻ,mà một đơn đặt hàng của Mỹ có thể lên tới hàng trăm triệu sản phẩm mà thời gian cung ứng lại nhanh.Do vậy để đáp ứng được thị trường Mỹ thì doanh nghiệp phải có năng lực sản xuất lớn,nhưng trên thực tế hiện nay quy mô sdản xuát của các doanh nghiệp VN còn quá nhỏ,sản xuất còn phân tán theo vùng và sản xuất thủ công là chính nên giá thành còn cao,chất lượng còn chưa đồng đều và sức cạnh tranh kém. Để có năng lực sản xuất lớn thì phải có vốn,điều này có thể thực hiện được thông qua việc thành lập các tập đoàn công ty lớn hoặc liên kết các công ty nhỏ lại.Mặt khác có thể dựa vào vốn của các ngân hàng trong và ngoài nước,các tổ chức tài chính,các nguồn viện trợ,các khoản vay ngắn,trung và dài hạn,các nguồn vốn đầu tư 51
  52. trực tiếp nước ngoài hoặc tiếp cận thị trường chứng khoán.Kinh doanh càng phát triển sẽ tích luỹ được nhiều vốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng đầu tư chiều sâu,mở rộng sản xuất kinh doanh. 2. nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá : *Một trong những điểm yếu cảu hàng hoá VN hiện nay là hàm lượng chế biến thấp , chẳng hạn như hàng nông sản dưói dạng thô của VN hiện nay chiếm 70-80% hàng xuất khẩu, trong khi đó tỷ lệ này ở các nước ASEAN là 50%.Chính vì vậy, đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ chế biến là yêu cầu cấp thiết hiện nay,nó chẳng những làm giá trị gia tăng,thuận tiện vận chuyển đường xa đáp ứng nhu cầu khách hàng mà còn góp phần tăng khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu vào Mỹ vốn đa phần được chế biến tốt. *Mỹ là một thị trường rộng lớn nhưng có vị thế đại lý xa hơn VN,do vậy muốn đưa hàng VN vào Mỹ,đặc biệt là hàng nông ,thuỷ sản thì cần đầu tư vào công tác bảo quản và vận chuyển hàng,chẳng hạn như ; Các loại tàu và kho lạnh,container chuyên dụng Các biện pháp để giảm cước phí như: sơ chế, xây dựng cảng trung tuyển Ngoài ra,những biện pháp như: Đa dạng mẫu mã,cải tiến bao bì cũng không kém phần quan trọng làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá VN xuất khẩu sang Mỹ. 3. chủ động cộng tác thi trường,thông tin ,tiếp thị: Các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác thông tin,trực tiếp tiếp xúc với thị trường thông qua Hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm,đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt nhu cầu của thị trường. Việc tham gia các hội chợ triển lãm, nhất là ở nước ngoài có thể gặp khó khăn về kinh tế do giá thuê gian hàng đắt.Vì vậy doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt thông tin của Thương vụ VN tại nước sở tại hoặc Cục Xúc tiến thương mại thuộc Bộ 52
  53. thương mại hoặc mạng Iternet để từ đó có thể có được các thông tin cập nhật và cần thiết. Hiện nay xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ có thể thông qua con đường trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đại lý ở Mỹ. Lời khuyên đối với các doanh nghiệp VN là nên sử dụng cách thứ hai vì xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh,có hiểu biết cặn kẽ về thị trường Mỹ, hơn nữa sẽ phải có trách nhiệm rất lớn với người tiêu dùng.Việc sử dụng đại lý sẽ khắc phục được những vấn đề trên nhưng về lâu về dài, nếu ta muốn kiểm soát toàn bộ quá trình xuất khẩu, thiết lập được quan hệ trực tiếp với mạng lưới tiêu thụ và người tiêu dùng thì bắt buộc phải xuất khẩu trực tiếp. 4. nâng cao trình độ quản lý,chuyên môn cho đội ngũ cán bộ của các doanh nghiệp VN: Đây là vấn đề chẳng mới mẻ gì.Đội ngũ cán bộ của ta vừa thiếu lại vừa yếu,cả về kiến thức,kinh nghiệm,ngoại ngữ. Do vậy khi hợp tác với Mỹ cần chú trọng vào : *Đào tạo cán bộ có đủ năng lực hoạch định và thực hiện chính sách . *Đào tạo cán bộ trình độ đàm phán quốc tế . *Đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn cán bộ nắm bắt kịp thời các Hiệp Ước quốc tế, luật lệ và chính sách thương mại Mỹ, vận dụng chúng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh quốc tế. *Đào tạo về ngoại ngữ nhất là tiếng Anh để cán bộ có đủ khả năng giao dịch quốc tế. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải thường xuyên đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề để có thể sử dụng công nghệ hiện đại, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ để có thể cạnh tranh tốt trên thị trường Mỹ. Tóm lại, để chuẩn bị thực hiện HĐTM Việt-Mỹ đồi hỏi sự quan tâm của tất cả các bên liên quan, từ các Bộ, ngành cho đến các doanh nghiệp và càng chẩn bị kỹ càng bao 53
  54. nhiêu thì ta càng chủ động bấy nhiêu trong đó nhận những cơ hội và thách thức khi Hiệp định có hiệu lực. 54
  55. Kết luận Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ là một kết quả khách quan tất yếu phù hợp với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay. Đó là kết quả của một quá trình đàm phán lâu dài và kiên trì trong quá trình đó VN nhận được lợi ích và nhận thấy sự cần thiết phải áp dụng hệ thốngd thương mại dựa vào WTO, Mỹ nhận thức được là VN cần có thời gian để đáp dụng hệ thống đó. Với nội dung rất đầy đủ và chi tiết, HĐTM thực sự là một công cụ để điều hành quá trình kinh doanh giữa hai bên trên cơ sở luật định quốc tế. HĐTM có hiệu lực sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước, nhất là đối với VN, một nước có nhiều tiềm năng xuất khẩu vào thị trường rộng lớn này mà mấy năm qua ta không có cơ hội để thực hiện được. Tuy nhiên, làm thế nào để thâm nhập được một cách có hiệu quả thì đó lầ cả một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi sự cố gắng từ cả hai phía. Chính Phủ và các pdoanh nghiệp cần có những tính toán kỹ lưỡng, có sự chuẩn bị chu đáo thì mới thành công. Trong thời gian này các doanh nghiệp VN cần cố gắng tiếp tục tìm hiểu , chuẩn bị thật kỹ để bước vào một cuộc đọ sức mới mà các đối thủ nặng ký hơn ta nhiều cả về kinh tế lẫn kinh nghiệm trong xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ như Trung Quốc, các nước Nam Mỹ, NICS, ASEAN. 55