Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_tai_giai_phap_tang_cuong_huy_dong_von_tai_chi_nhanh_ngan.doc
Nội dung text: Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An
- MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chon đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 1 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: 1 4. Bố cục đề tài 1 Phần I: Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ 3 1.1 Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ 3 1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển 3 1.1.2 Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh ngân hàng Công thương Bến Thuỷ. 3 1.2 Hoạt động kinh doanh những năm qua 6 1.2.1 Về huy động vốn 6 1.2.2 Về hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh 7 1.3 Một số hoạt động khác 8 1.3.1 Về kế toán, điện toán, kinh doanh đối ngoại 8 1.3.2 Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ 9 1.3.3 Công tác tổ chức điều hành 9 Phần II. Thực trạng và giải pháp tăng cường huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ 10 2.1 Thực trạng tăng cường huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy 10 2.1.1 Thực trạng huy động vốn chung 10 2.1.2 Tình hình huy động vốn ngắn hạn. 14 2.1.3 Tình hình huy động vốn trung - dài hạn. 15 2.2 Đánh giá chung về công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng công thương Bến Thuỷ trong những năm qua 17 2.2.1 Những kết quả đạt được 17 2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân 19 2.2.2.1 Hạn chế 19 2.2.2.2 Nguyên nhân. 19 2.3 Giải pháp tăng cường huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ 21 2.3.1 Mục tiêu của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ năm tới. 21 2.3.2 Các giải pháp để tăng cường huy động vốn cho ngân hàng. 21 2.3.2.1 Có định hướng, kế hoạch về phát triển nguồn vốn phù hợp. 22
- 2.3.2.2 Mở rộng mạng lưới huy động, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn23 2.3.2.3 Đơn giản hoá các thủ tục trong hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng 24 2.3.2.4 Phải có chính sách lãi suất phù hợp với từng thời kỳ 25 2.3.2.5 Thực hiện tốt chính sách khách hàng 26 2.3.2.6 Ngân hàng không ngừng hoàn thiện các tiện ích như thanh toán, thu chi hộ, 27 2.3.2.7 Hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả trong kinh doanh 28 2.3.2.8 Đào tạo đội ngũ cán bộ nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao, hết lòng phục vụ khách hàng 28 2.3.2.9 Tăng cường hoạt động Marketing trong ngân hàng 29 2.4 Một số kiến nghị 30 2.4.1 Đối với Ngân hàng Công thương Việt nam 30 2.4.2 Một số kiến nghị đối với Ngân hàng Trung ương. 32 PHẦN KẾT LUẬN 38 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức 3 Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn vốn huy động 2009-2011 6 Bảng 1.2: Cơ cấu dư nợ và đầu tư cho vay 2009-2011 7 Bảng 2.1: Kết cấu nguồn vốn huy động của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ từ 2009-2011 11 Bảng 2.2: Tình hình huy động tiền gửi dân cư của chi nhánh Bến Thủy qua các năm 2010-2011: 12 Bảng 2.3: Biến động nguồn vốn huy động từ 2009- 2011. 13 Bảng 2.4: Tình hình huy động tại chỗ và nhu cầu thực tế 13 Bảng 2.5: Biến động tiền gửi tiết kiệm theo kì hạn: 14 Bảng 2.6: Tình hình tăng trưởng nguồn vốn ngắn hạn: 15 Bảng 2.7: Tình hình huy động vốn trung và dài hạn 16 Bảng 2.8: Tình hình tăng trưởng vốn trung-dài hạn: 16
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chon đề tài Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta. Nó đóng vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, nước ta cần phải có các biện pháp, chính sách nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phát triển do vậy lượng vốn huy động được bằng con đường tài chính trực tiếp thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Do vậy quá trình nhận và truyền vốn trên thị trường chủ yếu được thực hiện thông qua các ngân hàng thương mại và thị trường tín dụng. Có thể nói ở Việt Nam hơn 80% lượng vốn trong nền kinh tế là do hệ thống ngân hàng cung cấp. Do đó vai trò của Ngân hàng trong hoạt động huy động vốn cho nền kinh tế là cực kỳ quan trọng. Như vậy công tác huy động vốn của ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của ngân hàng nói riêng. Trong thời gian học tập tại trường và thời gian thực tập chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An tôi đã cố gắng nghiên cứu và tìm hiểu kỹ về công tác huy động vốn và chọn đề tài thực tập: “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An” 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy nhằm tìm hiểu thực trạng hiện tại, trên cơ sở đó ứng dụng những vấn đề lý thuyết đã được học vào thực tế để đưa ra những giải pháp để cải biến thực tế thành có lợi hơn. Mặt khác, qua đó chúng ta có cơ hội được tìm hiểu những vấn đề trong huy động vốn, được so sánh giữa thực tế và lý thuyết, từ đó sẽ có nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích, phục vụ cho công việc sau này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Chuyên đề tập trung vào nghiên cứu các phương thức huy động vốn của ngân hàng thương mại, các nhân tố ảnh hưởng đến các phương thức đó. Thực trạng về công tác huy động vốn của ngân hàng công thương Bến Thuỷ (các phương thức huy động vốn mà ngân hàng áp dụng, các nhân tố ảnh hưởng tới nó), từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị. 4. Bố cục đề tài 1 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của báo cáo gồm 2 phần chính: Phần I. Tổng quan về chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ Phần II. Thực trạng và giải pháp tăng cường huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ. Do thời gian nghiên cứu lý luận và thực tập còn ngắn với trình độ hiểu biết còn hạn chế do vậy chuyên đề này còn có nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp và chỉ bảo của các thầy cô và các bạn đọc các cô chú, anh chị công tác ở phòng kinh doanh, phòng nguồn vốn, phòng kế toán và các cán bộ nhân viên khác trong ngân hàng đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Rất chân thành cảm ơn. 2 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Phần I: Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ 1.1 Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ 1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam có trụ sở chính nằm ở 229 đường Lê Duẩn- Thành phố Vinh - Tỉnh Nghệ An. Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ ra đời trên cơ sở nâng cấp phòng giao dịch Bến Thuỷ trực thuộc Ngân hàng Công thương Nghệ An (1/1/1995) rồi sau đó được nâng cấp lên trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ đã phải đối mặt với những thử thách lớn trong hoạt động kinh doanh của mình như tình hình kinh doanh còn lạc hậu, thiếu vốn đầu tư, cơ sở vật chất thiếu Tuy nhiên tập thể cán bộ công nhân viên của ngân hàng đã không ngừng phấn đấu vươn lên đem lại niềm tin cho khách hàng, củng cố khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới, từng bước củng cố và mở rộng phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Với phương châm đặt ra cho hoạt động trong thời gian qua là: Phát triển vững chắc- an toàn- hiệu quả chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến thuỷ đã chủ động tạo môi trường kinh doanh hợp lý giúp các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. 1.1.2 Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh ngân hàng Công thương Bến Thuỷ. Sau đây là bộ máy tổ chức của chi nhánh NHCT Bến Thủy: Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ với tổng số cán bộ công nhân viên là 106 người, được sắp xếp bố trí công việc căn cứ vào trình độ nghiệp vụ chuyên môn, hoàn cảnh gia đình một cách phù hợp. Lãnh đạo ngân hàng gồm có 1 giám đốc, 2 phó giám đốc và hệ thống các trưởng phòng, phó phòng. Sơ đồ 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức 3 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Nguồn: Kế toán Phòng kinh doanh Phòng có 13 cán bộ gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng. Phòng có chức năng trực tiếp cho vay đối với các tổ chức kinh tế trong và ngoài quốc doanh có nhu cầu vay vốn ngân hàng và đáp ứng được những điều kiện của ngân hàng đặt ra, xây dựng kế hoạch cân đối về nguồn vốn và sử dụng vốn. Thực hiện chế độ thông tin báo cáo tổng hợp, phân tích kế hoạch tài chính, lỗ lãi của ngân hàng. Trực tiếp thẩm định các dự án đầu tư, cho vay, bảo lãnh, thu nợ, Phòng kế toán Phòng gồm 14 cán bộ, và được chia làm 2 bộ phận: bộ phận thanh toán liên hàng và bộ phận thanh toán bù trừ. Chức năng chính của phòng kế toán là quản lý tài sản, tiền gửi, tiền vay của các cá nhân, đơn vị. Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán bù trừ, thanh toán liên hàng trong hệ thống và ngoài hệ 4 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh thống. Thực hiện cơ chế tài chính của ngành theo các văn bản chế độ hiện hành (thanh toán giao dịch với khách hàng khi khách hàng đến mở tài khoản, bộ phận chi tiêu, theo dõi các tài khoản khi đến hạn thì báo cho các phòng ban liên quan, thu lãi định kỳ đối với khách hàng). Bộ phận kinh doanh đối ngoại trực thuộc phòng Kế toán thực hiện các nghiệp vụ như mở L/C nhập, xuất cho khách hàng: thực hiện nhờ thu đi, nhờ thu đến, thu đổi ngoại tệ Phòng kinh doanh đối ngoại. Phòng kinh doanh đối ngoại được tách ra từ bộ phận thanh toán quốc tế của phòng Kế toán. Phòng có nhiệm vụ huy động vốn ngoại tệ của dân cư, của các tổ chức; mở L/C xuất nhập khẩu; thanh toán quốc tế. Phòng tổ chức - Hành chính Phòng gồm 20 cán bộ. Chức năng chính của phòng là quản lý nhân sự, lao động tiền lương, quản lý về hành chính, quản trị, đào tạo. Phòng Ngân quỹ Gồm 17 cán bộ công nhân viên. Phòng có chức năng cất giữ, bảo quản, kiểm đếm, kiểm soát tiền. Đồng thời là nơi bảo quản các giấy tờ có giá, các hồ sơ thế chấp của khách hàng. Phòng Nguồn vốn Phòng gồm 19 cán bộ công nhân viên, trong đó có 6 người trình độ đại học, 11 người trình độ trung cấp, 2 người sơ cấp. Phòng nguồn vốn có chức năng huy động các nguồn vốn bằng nội và ngoại tệ trong dân cư để tái đầu tư cho vay đối với nền kinh tế. Bao gồm: huy động các nguồn tiền gửi doanh nghiệp, các loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn. Thuộc cơ cấu phòng còn bao gồm các quy tiết kiệm số 1, số 2, số 3, số4, số5, số 7. Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ Phòng gồm 4 cán bộ công nhân viên. Chức năng chính của phòng là kiểm tra kiểm soát mọi nghiệp vụ ngân hàng theo văn bản hiện hành. Tham mưu cho giám đốc trong việc chỉ đạo hoạt động kinh doanh của chi nhánh để kịp thời khắc phục, chấn chỉnh hoạt động ngân hàng. Tham gia cùng bộ phận tín dụng của phòng Kinh doanh, phòng Giao dịch phòng giao dịch xử lý, thu hồi nợ, nợ quá hạn. Phòng giao dịch Trường thi Phòng gồm 19 cán bộ. Phòng thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của một chi nhánh ngân hàng thương mạinhư: tín dụng, nhận gửi, bảo lãnh, kế toán giao dịch và các nghiệp vụ khác của ngân hàng như thanh toán hộ, chuyển tiền 5 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Phòng bao gồm hội sở chính và Quỹ tiết kiêm trực thuộc số 6. Đây là phòng giao dịch ngoài chức năng chính là cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và thu nợ còn tiến hành cho vay các doanh nghiệp Nhà nước là các thành viên của Tổng công ty 90,91 như Công ty xây dựng công trình giao thông 423, 479, 473, 484, 492 là những đơn vị trực thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông IV. 1.2 Hoạt động kinh doanh những năm qua Để giải quyết những khó khăn còn vướng mắc và tiếp tục phát huy những điều kiện thuận lợi, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ với nỗ lực và quyết tâm cao đã đạt được kết quả tốt đẹp. 1.2.1 Về huy động vốn. Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ với tư cách là một ngân hàng thương mại hoạt động tương đối độc lập, tự chủ trong hạch toán kinh doanh, huy động vốn được coi là vấn đề chiến lược hàng đầu với mục tiêu mở rộng thị phần tín dụng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù nằm ở địa bàn không mấy thuận lợi, dân cư chủ yếu là công nhân, thợ thủ công, buôn bán nhỏ nên thu nhập thấp tích luỹ ít nhưng nhờ vào việc bố trí sắp xếp lao động, đổi mới phong cách thái độ phục vụ và gắn với các hình thức huy động vốn phong phú, đặc biệt là áp dụng thành công nghiệp vụ tiết kiệm gắn liền với dịch vụ thanh toán chuyển tiền nên đã tạo được sức thu hút khá lớn lượng khách hàng đến giao dịch. Tính đến ngày 31/12/2010 tổng số vốn huy động tại chỗ của ngân hàng đạt 1.049.859 tỷ đồng, tăng hơn 30% so với đầu năm. Cho đến 31/12/2011, tổng số vốn huy động tại chỗ đạt 1.785.481 đồng, tăng 70% so với năm 2010. Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn vốn huy động 2009-2011 Đơn vị : Triệu đồng Các chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 I/ Nguồn vốn huy 808.003 1.049.859 1.785.481 động - Tiền gửi các TCKT 180.920 203.627 192.187 - Tiền gửi tiết kiệm 562.407 821.455 1.035.157 - Phát hành các công 64.439 23.496 558.067 cụ nợ II/ Nguồn nhận điều hòa - Trong kế hoạch 6 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh - Khác Tổng nguồn vốn (Nguồn: Báo cáo tổng kết 2009,2010, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ và báo cáo tình hình thực tế năm 2009- 2011) Như vậy, nguồn vốn huy động được tiếp tục tăng trưởng vững chắc với lượng khách hàng đến với ngân hàng ngày càng nhiều. Cán bộ công nhân viên luôn có tinh thần cải tiến lề lối phục vụ, thực sự đổi mới tác phong, thái độ phục vụ, giữ chữ tín đối với khách hàng. Đồng thời với việc tích cực khai thác và huy động nguồn vốn tại chỗ, ngân hàng đã tranh thủ được sự hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả về nguồn vốn trong nội bộ Ngân hàng Công thương Việt Nam đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu hợp lý về vốn của khách hàng. 1.2.2 Về hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh Tổng dư nợ cho vay và đầu tư kinh doanh đến ngày 31/12/2010 đạt 1.333.937 tỷ đồng tăng 34.5% so với năm 2009. Trong đó: - Dư nợ ngắn hạn đạt 581.451 tỷ đồng chiếm gần 43,6% tổng dư nợ - Dư nợ trung, dài hạn đạt 752.486 tỷ đồng, chiếm trên 56,4% tổng dư nợ. Với sự nỗ lực không ngừng của toàn thể ngân hàng thì tổng dư nợ các khoản cho vay đến 31/12/2011 đạt 1.602.023 tỷ đồng. Trong đó: - Dư nợ ngắn hạn là 886.325 tỷ đồng, tăng 152% so với năm 2010. - Dư nợ cho vay trung dài hạn là 715.698 tỷ đồng, giảm 95% so với năm 2010 và chiếm gần 44.7% trong tổng dư nợ. Năm 2011 thì cơ cấu dư nợ đã có sự dịch chuyển , đó là tỷ trọng dư nợ cho vay trung dài hạn đã giảm, từ 56.4% tổng dư nợ năm 2010 lên 44.7% tổng dư nợ năm 2011. Tình hình cụ thể như sau: Bảng 1.2: Cơ cấu dư nợ và đầu tư cho vay 2009-2011 Các chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Dư nợ ngắn hạn 320.562 581.451 886.325 Dư nợ trung và 670.781 752.486 715.698 dài hạn Dư nợ cho vay TTCN 7 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Dư nợ tài trợ ủy thác Các khoản nợ chờ xử lý có TS gán nợ Nợ cho vay được khoanh Nợ liên quan vụ án Nợ tồn đọng Tổng 991.343 1.333.937 1.602.023 (Nguồn: Báo cáo tổng kết 2009, 2010, 2011 Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ và Báo cáo Tình hình thực tế năm 2009- 2011) 1.3 Một số hoạt động khác 1.3.1 Về kế toán, điện toán, kinh doanh đối ngoại Công việc hạch toán, thanh toán kịp thời, chính xác góp phần tham gia điều hoà vốn kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán nhanh, an toàn và hiệu quả. Công tác điện toán được chú trọng đầu tư. Đã hoàn thành việc cài đặt và sử dụng nhiều chương trình mới giúp cho việc xử lý và cung cấp một cách nhanh chóng kịp thời, chính xác, truyền và nhận thông tin thông suốt trong hệ thống Ngân hàng Công thương. Từ năm 2009, hoạt động kinh doanh đối ngoại đã có bước phát triển nhanh chóng. Công tác huy động vốn ngoại tệ, mua bán ngoại tệ và thanh toán quốc tế đều có sự tăng trưởng cao. Số dư tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ tại chi nhánh tăng gần 63% so với năm 2009, đạt trên 8,6 triệu USD. Năm 2011, doanh số thanh toán ước đạt 13,902 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2010.Bên cạnh đó đã tiến hành mở và thanh toán nhiều bộ L/C nhập khẩu trị giá gần 6,8 triệu USD tăng nhiều lần so với năm 2010. Các dịch vụ khác như chuyển tiền quốc tế, UNT, UNC, chi trả kiều hối cũng được chú trọng khai thác và mở rộng. Doanh thu từ nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại ngày một tăng cao. Đến nay có thể khẳng định Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ có khả năng đáp ứng tốt các nhu cầu về dịch vụ đối ngoại với các doanh nghiệp, dân cư và xã hội. Năm 2011, hoạt động dịch vụ đạt 1534 triệu đồng, chiếm 2% tổng thu nhập. Xác định rõ vị trí và tầm quan trọng của công việc mà mình đảm nhiệm, mỗi cán bộ phòng ngân quỹ đã tận tình, hoà nhã với khách hàng, thận trọng, chính xác trong khâu kiểm đếm tiền để loại ra những tờ tiền hư hỏng, tiền 8 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh không đủ tiêu chuẩn quy định, xác định tiền thật, tiền giả thực hiện quy chế của ngành và làm tăng niềm tin đối với khách hàng. Khối lượng tiền mặt qua ngân hàng ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Nếu như năm 2009 khối lượng thu tiền mặt đạt 663,7 tỷ đồng, chi tiền mặt đạt tỷ đồng thì đến năm 2010 tổng thu tiền mặt đạt 1145 tỷ đồng ; tổng chi tiền mặt đạt 426,3tỷ đồng tăng gấp một lần so với năm 2009. Năm 2011 thì tổng thu tiền mặt đạt 1823 tỷ đồng, tổng chi là 1025 tỷ đồng tăng . 1.3.2 Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ Chi nhánh đã thực hiện tốt việc lập chương trình kiểm tra, kiểm toán và xét khiếu tố theo các văn bản chỉ đạo của ngân hàng cấp trên. Tiến hành kiểm tra hồ sơ tín dụng, bảo lãnh, chứng từ kế toán, phát hiện kịp thời những tồn tại để đóng góp ý kiến với các bộ phận nghiệp vụ, giúp sự lãnh đạo, chỉ đạo sát thực hơn. Tích cực tham gia cùng cán bộ tín dụng đôn đốc khách hàng trả nợ, xử lý nợ quá hạn, nợ đọng, lãi treo 1.3.3 Công tác tổ chức điều hành Bộ máy tổ chức từng bước được kiện toàn. Quy chế quản lý điều hành từ ban giám đốc đến các phòng, ban, bộ phận và nhân viên được xây dựng và thực hiện một cách nghiêm túc. Cán bộ được sắp xếp, bố trí hợp lý đã góp phần tăng hiệu quả lao động, tăng hiệu quả kinh doanh Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tạo nên sự thống nhất cao, điều hành hoạt động của chi nhánh có kỷ luật, tạo nếp sống văn minh trong công việc và sinh hoạt hàng ngày. Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của người lao động trong đơn vị được nâng cao. 1.3.4. Kết quả kinh doanh Kế thừa và phát huy những kết quả của những năm trước, hiệu quả kinh doanh của chi nhánh đã đạt được thành công vượt bậc. Khắc phục các khó khăn tồn tại của nền kinh tế, của áp lực giảm lãi suất cho vay, môi trường cạnh tranh và những tồn tại . 9 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Phần II. Thực trạng và giải pháp tăng cường huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ 2.1 Thực trạng tăng cường huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy 2.1.1 Thực trạng huy động vốn chung Huy động vốn là một nghiệp vụ chính, không thể thiếu được trong hoạt động của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nói riêng và ngân hàng thương mại nói chung vì vốn hoạt động của ngân hàng chủ yếu được hình thành từ nguồn vốn huy động. Hoạt động huy động vốn không bao giờ tồn tại độc lập mà nó gắn liền với các nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Như vậy công tác huy động vốn của ngân hàng đóng vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ cũng như hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng đầu năm hoạt động sẽ xây dựng cho mình một chiến lược huy động vốn phù hợp dựa trên các dự đoán về tình hình sử dụng vốn trong năm đó. Nguồn vốn huy động được của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ tăng nhanh qua các năm. Trong 5 năm gần đây từ 2009 tổng nguồn vốn là 808,033 tỉ đồng; đến năm 2011 tổng nguồn vốn của ngân hàng là 1.785,481 tỉ đồng tăng gấp 2,2 lần so với năm 2009. Đây là sự tăng trưởng vượt bậc, là sự cố gắng nỗ lực lớn của tập thể cán bộ công nhân viên của ngân hàng. Nguyên nhân của sự tăng trưởng cao của nguồn vốn mà ngân hàng huy động là: - Đa dạng hoá các hình thức huy động. Tận dụng được nguồn vốn trong nội bộ Ngân hàng Công thương ngoài việc cố găng huy động nguồn vốn tại chỗ. - Ngân hàng ngày càng có uy tín với khách hàng . - Ngân hàng tích cực mở rộng mạng lưới các quỹ tiết kiệm, kết hợp quỹ tiết kiệm với các dịch vụ chuyển tiền, thanh toán phục vụ khách hàng (đây là vấn đề mới được áp dụng nhưng nhận được hiệu quả cao) . - Cán bộ công nhân viên được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. - Nền kinh tế phát triển ổn định. Người dân càng ngày càng tin tưởng và hiểu rõ lợi ích mà ngân hàng có thể đem lại. 10 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Trong 5 năm gần đây, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ đã có mức tăng trưởng nguồn vốn khá cao, dù sự tăng trưởng nguồn vốn chưa phản ánh được bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tốt hay xấu nhưng điều đó cho thấy rằng hoạt động huy động vốn của ngân hàng diễn ra tốt trong điều kiện phải cạnh tranh với những ngân hàng khác trên địa bàn. Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ đã và đang xâm nhập tốt và ngày càng có uy tín lớn với khách hàng, tạo đà cho từng bước phát triển trong hoạt động khai thác nguồn vốn , mở rộng hoạt động đầu tư, cho vay của ngân hàng. Hiện nay, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ đang thực hiện các phương thức huy động vốn như sau: + Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế : có kỳ hạn và không có kỳ hạn + Nhận tiền gửi tiết kiệm dân cư: có kỳ hạn và không có kỳ hạn. + Phát hành các giấy tờ có giá: kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng. + Nhận nguồn vốn điều hoà từ Ngân hàng Công thương Việt Nam: là nguồn huy động vốn trong nội bộ Ngân hàng Công thương. Để thấy được kết cấu nguồn vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ ta xem bảng sau: Bảng 2.1: Kết cấu nguồn vốn huy động của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ từ 2009-2011 Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2009 2010 2011 Chỉ tiêu 1. Tổng nguồn vốn huy 808.003 1.049.859 1.785.481 động. -Tiền gửi TCKT 180.920 203.627 192.187 -Tiền gửi tiết kiệm 562.407 821.455 1.035.157 - Phát hành các công cụ 64.439 23.496 558.067 nợ 2.Nguồn vốn nhận điều - - - hoà - Trong kế hoạch - - - - Ngoài kế hoạch - - - 3. Tổng nguồn huy vốn 808.003 1.049.859 1.785.481 11 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh động. ( Nguồn: Bảng cân đối kế toán các năm 2009-2011) Nhìn vào bảng 2.1 ta thấy tiền gửi của các tổ chức kinh tế là tiền gửi không kỳ hạn. Các doanh nghiệp gửi tiền vào Chi nhánh chủ yếu là để hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Do điều kiện khách quan là Chi nhánh đóng trên tỉnh Nghệ An còn nghèo, nền công nghiệp chưa phát triển nên số các doanh nghiệp còn ít, trong đó lại chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước nên tỷ trọng của loại hình tiền gửi này trong tổng nguồn vốn huy động còn nhỏ. Năm 2009 thì tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế là 22,4%,năm2010 là 19,4% năm 2011 là,7% Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn khách quan là những nhân tố chủ quan. Đó là ngân hàng chưa có những chính sách thu hút khách hàng là các doanh nghiệp, chưa có các kênh huy động vốn phù hợp, chưa thực sự tạo được uy tín trong lòng các doanh nghiệp Một loại hình huy động khác rất đáng lưu tâm, đó là tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Loại hình này đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn huy động tại chỗ. Năm 2009 tỷ trọng trong tổng nguồn là 4869,6%; năm 2010 là 78,2%; năm 2011 là 58 .Đây là loại hình huy động đã góp phần không nhỏ vào hoạt động huy động vốn của Chi nhánh. Từ năm 2009 đến năm 2011, Chi nhánh đã có mức tăng trưởng đáng kể từ 562,407 tỷ đồng lên 821,455 tỷ đồng năm 2010 và 1.035,157 tỷ đồng năm 2011. Đây là kết quả đáng khích lệ vì như thế ngân hàng đã tạo được uy tín đối với khách hàng dân cư, là sự ghi nhận những chính sách thu hút khách hàng của ngân hàng ngày càng có hiệu quả.Có thể xem qua bảng số liệu sau: Bảng 2.2: Tình hình huy động tiền gửi dân cư của chi nhánh Bến Thủy qua các năm 2010-2011: ĐVT: TRĐ Chỉ Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Chênh tiêu lệch Số tiền TT Số tiền TT Số tiền TT(%) Số +/- (%) (%) tiền (%) TGT 180.920 203.627 192.187 toán TGT 562.407 821.455 1.035.157 kiệm Tổng 808.003 1.049.859 1.785.481 nguồn 12 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh vốn Nguồn: Kế Toán Bên cạnh đó, Chi nhánh còn có những hình thức huy động vốn khác như: phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Những hình thức huy động vốn này chưa thực sự thu hút được khách hàng. Tỷ trọng của các hình thức huy động vốn này rất nhỏ so với tổng nguồn huy động. Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Chúng ta có thể thấy rõ được tình hình tăng trưởng huy động vốn qua bảng sau: Bảng 2.3: Biến động nguồn vốn huy động từ 2009- 2011. Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2009 2010 2011 Chỉ tiêu 1. Nguồn huy động tại chỗ 808.033 1.049.859 1.785.481 Tăng trưởng tuyệt đối 241.826 736.622 Tốc độ tăng trưởng 30 70 2. Nguồn nhận điều hoà Tăng trưởng tuyệt đối Tốc độ tăng trưởng 3.Tổng nguồn vốn huy 808.033 1.049.859 1.785.481 động Tăng trưởng tuyệt đối 241.826 736.622 Tốc độ tăng trưởng 30 70 (Nguồn: Phòng tổng hợp- Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ) Năm 2009 nguồn vốn huy động tại chỗ đạt 808.033 tỉ đồng . Năm 2010 nguồn vốn huy động tại chỗ của ngân hàng đạt 1.049,859 tỉ đồng. Năm 2011 nguồn vốn huy động tại chỗ của ngân hàng đạt 1.785,481 tỉ. Qua số liệu trên ta thấy, nhìn chung nguồn vốn huy động của ngân hàng tiếp tục tăng trưởng vững chắc và trong cơ cấu nguồn vốn huy động, mỗi nguồn có một đặc điểm riêng và biến động của nó ảnh hưởng trực tiếp đến tổng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được. 13 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Sau đây, chúng ta hãy xem xét tổng nguồn huy động tại chỗ so với nhu cầu thực tế tại Chi nhánh qua bảng sau: Bảng 2.4: Tình hình huy động tại chỗ và nhu cầu thực tế. Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Huy động vốn tại chỗ Huy động vốn tại chỗ Cho vay đầu tư Năm - cho vay đầu tư 2009 808,033 2010 1.049,859 2011 1.785,481 (Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 2009- 2011 Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ ) Từ những số liệu phân tích trên chúng ta thấy được rằng tổng nguồn vốn huy động tại chỗ chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư cho vay của Chi nhánh. Do vậy, Chi nhánh hàng năm phải nhận nguồn vốn điều hoà từ Ngân hàng Công thương Việt Nam. Kết quả trên là do những yếu tố chủ quan cũng như khách quan mà chi nhánh phải đối mặt và giải quyết trong những năm tới. 2.1.2 Tình hình huy động vốn ngắn hạn. Chi nhánh hiện nay đang huy động vốn ngắn hạn bằng những hình thức sau: - Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế không kỳ hạn (TG KKH) và có kỳ hạn dưới 12 tháng(TG CKH ). - Nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng (TGTK CKH). - Phát hành các giấy tờ có giá: kỳ phiếu thương mại kỳ hạn 1 tháng, 6 tháng. Chi nhánh đã coi nguồn vốn huy động tại chỗ góp phần hết sức quan trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư cho vay. Để “ phát huy nội lực” Ngân hàng đã thực hiện đa dạng hoá các hình thức, biện pháp, kênh huy động vốn khác nhau và đã đạt được những thành quả đáng kể. Tình hình cụ thể như sau: 14 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Bảng 2.5: Biến động tiền gửi tiết kiệm theo kì hạn: Kì hạn Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 TGTK ko kì hạn 46.821 63.875 69.124 TGTK kì hạn 12t 112.481 171.506 189.321 Tổng 562.407 821.455 1.035.157 Nhìn vào bảng 2.5 ta thấy tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn huy động tại chỗ và không tăng bao nhiêu qua các năm 2009- 2011. Năm 2009 là 46,821 tỷ đồng và tăng không đáng kể qua các năm 2009- 2011. Từ năm 2010 là 17,054 tỷ đồng và năm 2011 là 5,249 tỷ đồng. Bởi vì, thường thì tiền gửi tiết kiệm của dân cư là họ tiết kiệm để được hưởng lãi và dành dụm tiền để mua sắm trong tương lai. Do vậy ta thấy tỷ trọng nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng là khá lớn. Năm 2009 là 72%; năm 2010 là 71%; năm 2011 là 80%; năm 2001 là 75%; Lượng tăng tuyệt đối qua các năm là tương đối lớn, năm 2009-2010 là 183 tỷ đồng, 2010-2011 là 190,6 tỷ đồng,. Như vậy, khối lượng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dưới 12 tháng qua các năm có sự tăng trưởng ổn định và vững chắc, năm sau cao hơn năm trước. Chúng ta sẽ so sánh qua bảng sau: Bảng 2.6: Tình hình tăng trưởng nguồn vốn ngắn hạn: Chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Tổng số vốn 614.082 786.645 1.321.256 huy động Tăng trưởng 172.563 534.611 tuyệt đối Tốc độ tăng trưởng ( Nguồn: Phòng tổng hợp – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ ) Ta thấy, nguồn vốn ngắn hạn huy động được qua các năm đều có sự tăng trưởng. Từ năm 2010, Chi nhánh đã có sự gia tăng nhanh trong huy động vốn ngắn hạn. Năm 2010 tăng hơn 172 tỷ đồng so với năm 2009, tốc độ tăng trưởng là 28%. Đây là mốc đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ trong công tác huy động vốn, là nền tảng cho công tac huy động vốn những năm sau. 15 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Trên đây chúng ta đã xem xét thực trạng huy động vốn của Chi nhánh 3 năm qua. Nhìn chung, tình hình huy động đã có bước chuyển biến tích cực trong các năm, đó là tỷ lệ tăng trưởng tuyệt đối tăng đều qua các năm. Tuy nhiên, số lượng huy động vốn thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đầu tư cho vay của Chi nhánh. Cho nên hàng năm ngân hàng vẫn phải nhận nguồn vốn điều hoà từ Ngân hàng Công thương Việt nam. 2.1.3 Tình hình huy động vốn trung - dài hạn. Chi nhánh hiện nay đang sử dụng các hình thức huy động vốn trung- dài hạn bằng các hình thức sau đây: Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế có kỳ hạn 12 tháng và trên 12 tháng(TG CKH). Nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng. Phát hành trái phiếu có kỳ hạn 1 năm, 2 năm. Trong 5 năm qua, Chi nhánh tình hình huy động vốn trung-dài hạn thực tế như sau: Bảng 2.7: Tình hình huy động vốn trung và dài hạn Chỉ tiêu Năm 2009 2010 2011 Tiền gửi CKH 12.351 42.315 30.252 TG TK 235.137 138.689 232.672 Trái phiếu 46.433 80.210 201.301 Tổng số 293.921 261.214 464.225 (Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm2009-2011 Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ) Nhìn vào bảng 2.7 ta dễ dàng nhận thấy tổng số vốn huy động trung- dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ, cũng như con số tuyệt đối của nguồn vốn trung- dài hạn là khá nhỏ so với tổng nguồn vốn huy động. Điều này là hậu quả của nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân hết sức quan trọng là do Chi nhánh chưa có sự đa dạng trong nghiệp vụ huy động vốn trung- dài hạn. Tuy vậy, nguồn vốn huy động có sự tăng trưởng vững chắc qua các năm. Năm 2010 so với 2009 thì Chi nhánh huy động giảm 32.7 tỷ đồng. Năm 2011, ngân hàng huy động được 464 tỷ đồng,. Những kết quả trên là dựa chủ yếu vào hình thức huy động bằng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng. Còn hình thức huy động từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế không đáng kể 16 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rõ được tình hình tăng trưởng của nguồn vốn trung- dài hạn thông qua bảng sau: Bảng 2.8: Tình hình tăng trưởng vốn trung-dài hạn: Chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Tổng số vốn huy 293.921 261.214 464.225 động Tăng trưởng -32.707 203.011 tuyệt đối Tốc độ tăng trưởng ( Nguồn: Phòng tổng hợp – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến thuỷ) Cũng như nguồn vốn ngắn hạn, nguồn vốn trung – dài hạn có sự tăng trưởng khá vững chắc, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2010, Chi nhánh con số tăng trưởng tuyệt đối là -32.707 tỷ đồng so với năm 2009; Và cho đến năm 2011, Chi nhánh đã có sự tăng trưởng vượt bậc. So với năm 2010 tăng 203.011 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng là 77,7%. Nhìn chung thì nguồn vốn trung – dài hạn huy động được tăng trưởng qua các năm từ 2009- 2012. Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn trung – dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động tại chỗ là rất nhỏ. Chi nhánh cần phải khắc phục nhược điểm này nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn trung – dài hạn phục vụ nhu cầu của Chi nhánh. Từ những nhận xét trên, ta thấy Chi nhánh cần thúc đẩy việc huy động vốn trung- dài hạn cho phù hợp với nhu cầu của mình. Đó là, phải có nhiều hơn nữa các hình thức huy động vốn trung- dài hạn để thu hút vốn. 2.2 Đánh giá chung về công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng công thương Bến Thuỷ trong những năm qua. Hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ cũng như hoạt động của các ngân hàng khác đều chịu sự tác động của môi trường kinh doanh, chính sách pháp luật của Nhà nước và các yếu tố liên quan đến bản thân ngân hàng. Do vậy hoạt động huy động vốn cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nhiều nhân tố đó. Từ thực trạng huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ em rút ra được những thành tựu mà ngân hàng đã đạt được cũng như những khó khăn còn vướng mắc như sau: 2.2.1 Những kết quả đạt được 17 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Trong năm qua Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ đã chủ động xác định rõ chiến lược, phương châm hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích kỹ những khó khăn và thuận lợi, những thời cơ và thách thức của hoàn cảnh cụ thể cũng như dự đoán những vấn đề mới nảy sinh. Vì vậy trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng đều đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Sau đây là những thành tựu ngân hàng đạt được trong hoạt động huy động vốn - Công tác huy động vốn ngày càng phát triển, doanh số huy động vốn tại chỗ ngày càng tăng lên, đáp ứng khả năng sử dụng vốn của ngân hàng, giảm bớt các khoản vay từ bên ngoài( nguồn vốn huy động tăng nhanh từ 808,033 tỷ đồng năm 2009 lên 1.785,481 tỷ đồng năm 2002). - Các hình thức và nguồn huy động vốn càng ngày được đa dạng hoá. - Các kênh huy động vốn càng ngày được mở rộng. Ngân hàng đã áp dụng thành công nghiệp vụ quỹ tiết kiệm gắn với dịch vụ thanh toán chuyển tiền nên đã tạo được sức hút khá lớn lượng khách hàng đến giao dịch. - Cơ sở vật chất, công nghệ ngân hàng phục vụ hoạt động nghiệp vụ huy động vốn đã và đang được đổi mới, nâng cấp . - Trình độ cán bộ ngày càng được nâng cao. - Quan hệ của ngân hàng đối với các ngân hàng khác trong nước ngày một phát triển hỗ trợ đắc lực cho việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng - Tích cực khai thác và huy động nguồn vốn tại chỗ, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ đã tranh thủ được sự hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của nguồn vốn trong nội bộ Ngân hàng Công thương Việt Nam, đáp ứng thoả mãn kịp thời mọi nhu cầu hợp lý về vốn của khách hàng . Những thành tựu mà ngân hàng đạt được trong công tác huy động vốn là do: - Trạng thái phát triển của nền kinh tế tỉnh Nghệ An trong những năm qua. Những năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân đã thu được những thành tựu đáng kể. Nền kinh tế tiếp tục phát triển trên nhiều lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng được cải thiện, năng lực sản xuất được năng cao thúc đẩy tăng cường và chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, tạo điều kiện phát triển cho thời kỳ sau. Đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được nâng lên, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế của địa phương so với mức trung bình của cả nước. Những kết quả đạt được này đã góp phần thúc đẩy công tác huy động vốn của Chi nhánh. 18 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh - Ngân hàng đã sử dụng những hình thức huy động vốn phù hợp với tình hình thực tế của ngân hàng và tình hình phát triển của địa phương, địa bàn mà ngân hàng hoạt động. - Sự bố trí hợp lý các nhân viên ngân hàng vào công việc phù hợp của ban lãnh đạo ngân hàng. Thái độ phục vụ tận tình của nhân viên ngân hàng đối với khách hàng . - Nhà nước ta đã thành lập Công ty bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền, điều này làm tăng niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng, đối với đồng tiền . - Ngân hàng đã làm tốt công tác sử dụng vốn, hiệu quả kinh doanh cao. Do vậy uy tín ngân hàng được nâng lên trên thị trường. Từ số lượng doanh nghiệp và tổ chức kinh tế, cá nhân quan hệ với ngân hàng phát triển. Điều này có nghĩa là tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng lên. - Ngân hàng Công thương Việt Nam luôn dành cho Chi nhánh một hạn mức vốn điều hoà cần thiết dựa trên yêu cầu của chính ngân hàng . 2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân. 2.2.2.1 Hạn chế. - Cơ chế lãi suất chưa thực sự tạo ra được sự hấp dẫn với khách hàng, trong đó các hình thức dịch vụ cũng chưa được phát triển nhiều. - Chưa đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trung và dài hạn . - Chính sách khách hàng, công tác tuyên truyền quảng cáo chưa được chú trọng. - Các dịch vụ mới, công cụ mới, phương tiện mới cho hoạt động ngân hàng tuy có cố gắng cải thiện nhưng vẫn còn chậm. - Công tác thông tin trong hệ thống ngân hàng chưa được vi tính hoá toàn bộ, hạn chế trong các công tác xử lý nghiệp vụ, hạn chế việc tìm hiểu thị trường, tìm hiểu thông tin về khách hàng và đối thủ cạnh tranh. - Cơ sở vật chất còn hạn chế, công nghệ còn lạc hậu, nhiều quỹ tiết kiệm của Chi nhánh còn hoạt động thủ công. - Trong thời gian qua, Chi nhánh đã coi trọng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên, đội nghũ cán bộ còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm, trình độ chuyên môn còn bị hạn chế. - Tốc độ tăng trưởng của vốn huy động tại chỗ hiện nay thấp hơn nhu cầu sử dụng vốn. Do vậy đơn vị phải nhận một lượng vốn điều hoà nội bộ hàng năm. Điều này càng làm cho sự phụ thuộc của chi nhánh với Ngân hàng Công thương trung ương Việt Nam ngày càng tăng. 19 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh 2.2.2.2 Nguyên nhân. - Những khó khăn của tỉnh Nghệ An ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của Chi nhánh. Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và chưa vững chắc. Công tác tổ chức, sắp xếp lại, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn triển khai chậm. Do vậy hoạt động ngân hàng của Chi nhánh cũng bị ảnh hưởng không tốt của nhân tố này. - Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ phải chịu sự điều hoà trực tiếp của Ngân hàng Công thương Việt nam nên các phương thức huy động vốn mà ngân hàng Công thương Bến Thuỷ áp dụng phải tuân theo quy định của NHCTVN do vậy có những điều không phù hợp với tình hình thực tế của ngân hàng. Các hình thức huy động vốn của Chi nhánh còn bị hạn chế, do đó cần phải đa dạng hoá hơn nữa các hình thức huy động vốn nhằm tăng nguồn vốn huy động tại chỗ đáp ứng nhu cầu đầu tư cho vay. - Thời gian nhận tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh Việt nam hiện nay đều được quy định từ 7 giờ sáng cho đến 15 giờ 30 phút. Trong tình hình thức tế tỉnh Nghệ An, giờ làm việc là từ 7 giờ sáng cho đến 17 giờ. Như vậy, Chi nhánh bị hạn chế bởi nguồn tiền gửi có thể nhận được là số tiền bán hàng trong ngày của các đơn vị kinh tế, số tiền của cán bộ công nhân viên sau giờ làm việc mới gửi được, - Ngân hàng công thương Bến Thuỷ trước đây là chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Nghệ An. Năm 1995 mới được nâng cấp trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt nam. Do đó trong tiềm thức của người dân, các tổ chức kinh tế đều cho rằng Chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Nghệ An. Nên thay vì giao dịch với Chi nhánh thì họ lại giao dịch với Ngân hàng công thương Nghệ An. Do vậy đã ảnh hưởng rất nhiều tới số vốn huy động của Chi nhánh. - Chi nhánh ngân hàng Công thương Bến Thuỷ nằm trên địa bàn Bến Thuỷ-Trường Thi không mấy thuận lợi, dân cư chủ yếu là công nhân, thợ thủ công, buôn bán nhỏ với thu nhập thấp, tích luỹ ít ỏi. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới lượng tiền gửi tiết kiệm mà Chi nhánh có thể huy động. Đặc biệt đối với Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ trong tổng nguồn huy động tại chỗ thì tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm khá cao (>70%). Do vậy nó càng ảnh hưởng nhiều hơn tới công tác huy động vốn. - Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Tỉnh Nghệ An là một tỉnh nghèo, nền công nghiệp chưa phát triển, thu nhập dân cư thấp nhưng trên địa bàn tỉnh tồn tại trên 20 ngân hàng 20 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh và trên địa bàn thành phố Vinh có 6 ngân hàng trong đó có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 1 ngân hàng Trung ương và 1 ngân hàng cổ phần. Do đó đã ảnh hưởng trực tiếp tới công tác huy động vốn của Chi nhánh. - Tâm lý ưa dùng tiền mặt của dân chúng cũng ảnh hưởng rất nhiều tới công tác huy động vốn. - Các quy định chung liên quan đến hoạt động ngân hàng cũng ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của Chi nhánh. Như về tỷ lệ trữ bắt buộc được quy định đối với các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh là 5% trên tổng số dư tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng; tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với số dư tiền gửi ngoại tệ USD là 8%. Theo quy định (của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) này thì khả năng mở rộng tín dụng sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều vì hiện nay Chi nhánh huy động chủ yếu là vốn ngắn hạn. 2.3 Giải pháp tăng cường huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ Trong bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào thì việc huy động vốn trong nước thông qua hệ thống ngân hàng luôn có tầm quan trọng. Vì ngân hàng đóng vai trò thu gom vốn trong nền kinh tế từ những người có vốn sang người cần vốn. Điều này lại càng có ý nghĩa hơn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Muốn thu gom được nhiều vốn trong nền kinh tế thì ngân hàng phải tìm hiểu được những yêu cầu của công chúng khi đem tiền đến gửi ở ngân hàng là gì và đáp ứng tốt các nhu cầu đó. Sau đây là các giải pháp cho Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng nhằm huy động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế . 2.3.1 Mục tiêu của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ năm tới. Thực hiện sự chỉ đạo của Thủ Tướng Chính Phủ, Thống đốc NHNN, Chủ tịch Hội đồng Quản trị NHCT Việt nam và kết luận của Tổng giám đốc NHCT Việt nam tại hội nghị tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2011và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2012 của NHCT Việt nam. Căn cứ trên tình hình thực tế và kết quả hoạt động kinh doanh năm 2011, với mục tiêu “ phát triển, an toàn và hiệu quả”, Chi nhánh đặt ra nhiệm vụ cơ bản cho năm 2012, đó là: Tổng nguồn vốn huy động tại chỗ tăng 20-25%. Tăng khả năng chủ động về nguồn vốn lên 70-75% tổng vốn kinh doanh. Tổng dư nợ đầu tư, cho vay nền kinh tế tăng 22-25%. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu tín dụng nhằm đáp ứng đủ vốn cho các nhu cầu hợp lý. Trong đó: + Tỷ trọng đầu tư trung và dài hạn từ 35-40%. + Tỷ trọng cho vay các ngành sản xuất vật chất từ 80-85%. 21 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng. Xử lý nợ tồn đọng, giảm nợ quá hạn xuống dưới 4% tổng dư nợ. Phát triển và mở rộng các dịch vụ ngân hàng, phấn đấu tăng nguồn thu dịch vụ gấp 2 lần so với năm 2012 Kết quả kinh doanh có lãi trên 1 tỷ đồng. 2.3.2 Các giải pháp để tăng cường huy động vốn cho ngân hàng. Chiến lược huy động vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ hướng vào việc tăng trưởng nguồn vốn huy động tại chỗ là hợp lý, giúp cho ngân hàng ngày càng tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế do ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và khách quan. Để nâng cao lượng vốn huy động việc làm cần thiết nhất của ngân hàng là tìm những giải pháp có thể khắc phục những khó khăn và vướng mắc, từ đó đưa ra chiến lược huy động vốn thích hợp. Việc nâng cao lượng vốn huy động cho ngân hàng cần phải đảm bảo các yêu cầu: - Tạo tính chủ động cho ngân hàng trong việc điều chỉnh khối lượng và cơ cấu vốn từ đó chủ động trong đầu tư cho vay và thu nợ. - Phát triển nguồn vốn huy động đồng thời tiết kiệm chi phí. - Phát huy khả năng và hiệu quả của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trên cơ sở các yêu cầu đó Chi nhánh ngân hàng công thương Bến Thuỷ có thể sử dụng một số giải pháp sau đây: 2.3.2.1 Có định hướng, kế hoạch về phát triển nguồn vốn phù hợp. Đầu tiên, ngân hàng cần phải làm là đánh giá chi tiết, phân tích tỷ mỷ, xử lý các thông tin về tình hình tỷ trọng, kết cấu trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được cũng như đối thủ cạnh tranh Từ tình hình thực tế của đất nước của tỉnh Nghệ An (môi trường pháp lý, môi trường xã hội, tâm lý dân cư, môi trường cạnh tranh ) để thấy được những khó khăn vướng mắc mà ngân hàng gặp phải trong môi trường hoạt động khách quan hay chủ quan. Đồng thời ngân hàng phải dự kiến được nhu cầu vốn cần sử dụng cho hoạt động kinh doanh trong thời kỳ tới là bao nhiêu? Và từ số vốn thực tế hiện có, ngân hàng sẽ xác định được số vốn huy động cần thiết trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, ngân hàng lập chiến lược dài hạn, cụ thể về công tác huy động vốn trong thời kỳ tới để từ đó có những chiến lược huy động vốn phù hợp, đáp ứng nhu cầu vốn cho bản thân ngân hàng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung mà không bị động, phụ thuộc trong quá trình sử dụng vốn. 22 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Các kế hoạch về công tác huy động vốn phải được xuất phát từ những yêu cầu sau: - Công tác về nguồn vốn của ngân hàng phải quán triệt quan điểm phát huy tối đa những khả năng của bản thân ngân hàng. - Chú ý khai thác triệt để các nguồn vốn dưới mọi hình thức, theo nhiều kênh khác nhau đây chính là nhiệm vụ lâu dài và là yêu cầu mang tính giải pháp cho tình hình hiện nay. - Gắn chiến lược tạo nguồn với chiến lược sử dụng nguồn trong mối quan hệ đồng bộ, nhịp nhàng, mật thiết. - Phải có biện pháp nâng tỷ trọng nguồn vốn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp đồng thời tăng khối lượng tiền gửi từ các tầng lớp dân cư để tạo lập mặt bằng vốn luân chuyển vững chắc. 2.3.2.2 Mở rộng mạng lưới huy động, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn Trong thực tế, hình thức huy động vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ còn rất đơn điệu, chưa hấp dẫn người gửi, tỷ trọng nguồn trung và dài hạn rất nhỏ. Để có thể huy động vốn ngày càng nhiều hơn, Chi nhánh phải đa dạng hoá các hình thức huy động, cụ thể: * Đa dạng hoá các kỳ hạn gửi tiền tiết kiệm: Bên cạnh các kỳ hạn đang áp dụng(TGTK có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng), ngân hàng cần mở thêm các thời hạn gửi tiền như: 2 năm, 3 năm và thậm chí dài hơn. Việc áp dụng những hình thức tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với thời hạn khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn trung và dài hạn, tạo điều kiện đa dạng hóa cách thức sử dụng vốn tại ngân hàng. Với loại tiết kiệm có kỳ hạn này có thể dung hoà được lợi ích hai bên: ngân hàng và người gửi tiền. Cá nhân và các tổ chức ký gửi tại ngân hàng chủ động khi sử dụng vốn đột xuất, đồng thời ngân hàng tạo được nguồn vốn ổn định. * Phát triển, mở rộng tiết kiệm cá nhân, phát hành séc cá nhân: Hình thức này giúp ngân hàng thu hút những nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư với lãi suất thấp. Đồng thời phát triển tài khoản cá nhân góp phần hiện đại hoá quá trình thanh toán qua ngân hàng, giảm tiền mặt trong lưu thông. * Ngoài việc phát triển mở rộng các loại tiền gửi truyền thống đang thực hiện, ngân hàng cần quan tâm đến việc mở rộng thêm các loại tiền gửi khác để đáp ứng nhu cầu gửi tiền đa dạng của dân cư. Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ có thể áp dụng những hình thức huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích như sau: 23 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh + Hình thức tiết kiệm hưu trí bảo thọ: dành cho những người đang có thu nhập trong hiện tại, muốn để dành một phần thu nhập để tiêu dùng trong tương lai khi về già bằng cách hàng tháng trích thu nhập để gửi vào tài khoản này. Hình thức này giống như bảo hiểm xã hội dành cho người già. + Hình thức tiết kiệm học đường: Dành cho những cặp vợ chồng mới cưới chưa có con hoặc có con nhỏ, có thu nhập trong hiện tại, muốn tiết kiệm một khoản tiền để khi con lớn học đại học hoặc học nghề tốn chi phí rất lớn thì rút ra sử dụng. Đây là một hình thức giống như bảo hiểm học đường của các công ty bảo hiểm. + Hình thức tiết kiệm nhà ở: Dành cho những người có thu nhập thấp và trung bình mà chưa có nhà ở. Người gửi tiền để dành một khoản tiền ở ngân hàng. Đến khi họ có nhu cầu mua nhà ở mà số tiền trên số dư tài khoản tiền gửi chưa đủ thì ngân hàng có thể cho khách hàng vay khoản tiền còn thiếu với lãi suất hợp lý để giúp cho khách hàng đầu tư mua hoặc xây dựng nhà ở. * Ngân hàng mở rộng mạng lưới huy động, mạng lưới các quỹ tiết kiệm, phát triển các kênh huy động để tạo điều kiện tối đa cho khách hàng trong việc gửi tiền. * Song song với đa dạng hoá các hình thức gửi tiền tiết kiệm, mở rộng mạng lưới huy động, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nên mở rộng các hình thức huy động như phát hành kỳ phiếu có mục đích với các hình thức đa dạng như trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ với các kỳ hạn khác nhau; Lãi suất linh hoạt phụ thuộc vào môi trường cạnh tranh và cung cầu trên thị trường, tiến tới việc phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại nhiều hơn nữa để tạo nguồn vốn trung và dài hạn, vừa tạo nguồn vốn, vừa cung cấp hàng hoá cho thị trường vốn. Tuỳ theo từng điều kiện, tình hình cụ thể mà ngân hàng áp dụng từng hình thức huy động vốn phù hợp nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. * Ngân hàng nên sử dụng chiến lược đa năng trong kinh doanh, mở rộng các hoạt động dịch vụ của ngân hàng làm cho khách hàng ngày càng thoả mãn nhu cầu hơn và sẽ có nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Khách hàng sử dụng càng nhiều các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng thì ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong hoạt động huy động vốn bởi vì có một phần khách hàng gửi tiền với mục đích hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Những hoạt động này có ảnh hưởng nhiều đến công tác huy động vốn, nhờ đó khả năng huy động được nhiều vốn của ngân hàng ngày càng được nâng lên. 2.3.2.3 Đơn giản hoá các thủ tục trong hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng 24 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Hiện nay nếu một người gửi tiền vào ngân hàng thông thường phải mất từ 10- 20 phút trong một lần gửi hoặc rút. Đối với quá trình cho vay thủ tục còn kéo dài trong nhiều ngày. Điều này sẽ làm giảm đáng kể lượng khách hàng đến với ngân hàng vì sợ thủ tục phức tạp. Các thủ tục này của ngân hàng thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, của NHCT Việt Nam nhưng ngân hàng cần phải nghiên cứu biện pháp rút ngắn thời gian trong quá trình nhận tiền gửi hoặc cho vay của mình: chẳng hạn như trang bị máy vi tính cho các quỹ tiết kiệm, nối mạng giữa các máy ở các phòng trong ngân hàng, nối mạng giữa các máy của phòng kế toán với máy của kế toán trưởng và thủ quỹ, qua đó có thể kiểm tra lẫn nhau, đảm bảo tính chính xác, giảm bớt thời gian chờ đợi của khách hàng . Chi nhánh cần nghiên cứu và sử dụng hình thức gửi tiền một nơi rút tiền nhiều nơi bằng cách kiến nghị với NHCT Việt Nam để thực hiện trong hệ thống và ký hợp đồng với các ngân hàng khác ngoài hệ thống NHCT trong cả nước. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải có trang bị đầy đủ về máy móc, thực hiện nối mạng trên toàn hệ thống NHCT và các ngân hàng ngoài hệ thống trên toàn quốc, tuy nhiên cán bộ công nhân viên phải được đào tạo để có thể thực hiện được công việc của mình. Đối với Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung, hình thức này có ý nghĩa quan trọng trong việc từng bước nâng cao khả năng phục vụ khách hàng với chất lượng cao hơn, đối tượng rộng rãi hơn với các tầng lớp khác nhau trong nền kinh tế 2.3.2.4 Phải có chính sách lãi suất phù hợp với từng thời kỳ: Mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh riêng cho mình - trong đó chính sách về lãi suất là một yếu tố quan trọng. Lãi suất là yếu tố cấu thành phần lớn thu nhập và chi phí của ngân hàng vì vậy mọi biến động về lãi suất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do lãi suất có tầm quan trọng vì vậy xây dựng chiến lược lãi suất hợp lý là rất cần thiết đặc biệt là trong hoạt động huy động vốn. Lãi suất là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến lượng vốn huy động được của Chi nhánh bởi vì trong cơ cấu nguồn vốn thì tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng (lớn hơn 70%) của tổng nguồn vốn huy động tại chỗ mà mục đích của cá nhân và tổ chức khi gửi tiền theo hình thức tiết kiệm là nhằm tìm kiếm một khoản thu nhập. Mặt khác các cá nhân và tổ chức gửi tiền thanh toán vẫn mong muốn có thêm một khoản thu nhập. Do vậy lãi suất ngân hàng là yếu tố đầu tiên mà người gửi tiền quan tâm để có sự lựa chọn gửi tiền vào ngân hàng hay là đầu tư vào các tài sản khác. Hiện nay ở Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ khách hàng gửi tiền có kỳ hạn nếu như rút ra trước 2/3 thời hạn thì chỉ được hưởng lãi không kỳ hạn, còn nếu rút 25 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh ra từ 2/3 thời hạn thì được hưởng 75% lãi suất. Điều này chỉ có thể phù hợp với loại tiền gửi kỳ hạn 3 tháng còn đối với loại tiền gửi 6 tháng, 12 tháng hoặc kỳ hạn dài hơn thì không hợp lý, người gửi tiền bị thiệt thòi khi gửi tiền theo phương thức này nếu phải rút tiền trước hạn. Đây là nguyên nhân làm cho tỷ trọng tiền gửi 12 tháng và tiền gửi có thời hạn dài hơn còn thấp và nó ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng cần có chính sách trả lãi cho khách hàng theo mức lãi suất kỳ hạn trước đó. Ví dụ như người gửi rút tiền sau 5 tháng mà khoản tiền gửi tiền gửi theo kỳ hạn 6 tháng nên được hưởng lãi suất 3 tháng và 2 tháng còn lại theo lãi suất không kỳ hạn . Ngân hàng cần có chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp với cung cầu, chính sách lãi suất cạnh tranh của các ngân hàng khác trên thị trường. Hiện nay nguồn vốn huy động tại chỗ của Chi nhánh còn rất nhỏ so với các ngân hàng khác trên địa bàn. Do vậy, ngân hàng cần có biện pháp tăng cường nguồn vốn huy động. Nếu ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi thì phải tăng lãi suất cho vay. Điều đó sẽ gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp đang sử dụng vốn vay của ngân hàng và ngân hàng sẽ gặp khó khăn hơn trong hoạt động cho vay. Do vậy ngân hàng cần có chính sách lãi suất vừa hấp dẫn người gửi tiền vừa hạn chế gia tăng lãi suất đầu ra, cụ thể như: - Nâng lãi suất đối với tiền gửi trung và dài hạn, hạ thấp lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn ngắn. Đảm bảo lãi suất trung bình không tăng lên đối với toàn bộ nguồn vốn huy động. - Có biện pháp khuyến khích khách hàng duy trì số dư tài khoản với thời gian dài hơn thời hạn gửi ban đầu. Ví dụ: người gửi tiền với kỳ hạn 6 tháng nhưng qua 3 lần kỳ hạn gộp lãi mà người gửi vẫn chưa rút tiền thì ngân hàng nên có chính sách thưởng thêm một tỷ lệ % về lãi suất tiền gửi . - Lãi suất được xây dựng phù hợp với từng đối tượng gửi tiền, từng khu vực dân cư và trong từng thời kỳ cụ thể. Lãi suất phải xây dựng dựa trên tình hình tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, biến động tỷ giá - Tuy nhiên chiến lược lãi suất mà ngân hàng xây dựng thay đổi linh hoạt nhưng phải tuân theo lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước quy định và trong biên độ giao động cho phép. Điều này vừa đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng . 2.3.2.5 Thực hiện tốt chính sách khách hàng Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của mình ngân hàng cần phải hiểu rõ được lợi ích mà ngân hàng thu được phụ thuộc hoàn toàn vào lợi ích mà khách hàng của ngân hàng thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh, lợi ích của người gửi tiền. Trong khi đó, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ 26 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh vừa mới được nâng cấp, lại vừa bước qua thời kỳ khủng hoảng số lượng khách hàng giảm đáng kể. Hơn nữa trong tiềm thức của dân cư và các tổ chức sản xuất kinh doanh thì Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ vẫn là chi nhánh trực thuộc NHCT Nghệ An và lượng khách hàng mà NHCT Nghệ An có được dựa vào uy tín của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ khá lớn. Vì vậy, ngân hàng cần phải có chính sách khách hàng đúng đắn đó là duy trì khách hàng truyền thống, khuyến khích các khách hàng cũ quay lại giao dịch với ngân hàng, thu hút mở rộng khách hàng mới, đảm bảo lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng cần phải chủ động tham gia vào việc xem xét các kế hoạch, chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giúp đỡ doanh nghiệp trong việc khắc phục khó khăn, tạo mối quan hệ lâu dài. Ngân hàng có thể phân loại khách hàng để có cách đối xử phù hợp. Những khách hàng lâu năm, có số dư tiền gửi lớn, được ngân hàng tín nhiệm thì ngân hàng có chính sách ưu tiên về lãi suất, về kỳ hạn món vay, hạn mức tín dụng hay tài sản thế chấp Bên cạnh đó, ngân hàng cần phải tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, mở hội nghị khách hàng nhằm giới thiệu sự tồn tại của ngân hàng, làm cho khách hàng hiểu rõ được lợi ích của các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng cũng như tình hình hoạt động thực tế của ngân hàng Qua đó nắm bắt được yêu cầu của từng đối tượng, tâm lý khách hàng để có chiến lược phục vụ khách hàng để thoả mãn tối đa nhu cầu của họ. Mặt khác ngân hàng phải xác định được đối tượng khách hàng mà họ phục vụ và giao dịch. Ngân hàng cung cấp những sản phẩm của mình cho những đối tượng nào? ngân hàng có thể xâm nhập vào thị trường nào? Hiện nay Chi nhánh chủ yếu cho vay đối với các công ty thuỷ lợi và xây dựng. Nguồn vốn mà ngân hàng nhận được tại chỗ là tiền gửi tiết kiệm của cán bộ công chức, thợ thủ công là chủ yếu. Ngân hàng có thể xem xét mở rộng hoạt động huy động vốn của thương nhân ở khu vực các chợ Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. 2.3.2.6 Ngân hàng không ngừng hoàn thiện các tiện ích như thanh toán, thu chi hộ, Điều này có nghĩa rằng ngân hàng phải luôn luôn cải tiến, đổi mới công nghệ và quy trình nghiệp vụ để đảm bảo lợi ích và sự tiện dụng cho khách hàng mà ngân hàng phục vụ . Thứ nhất: Ngân hàng phải giữ chữ tín với khách hàng, đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi điều kiện, không được phép khất chi, hoãn chi với khách hàng vì lý do thiếu tiền mà còn phải làm nhanh công tác thanh toán cho khách hàng. Ngân hàng cần trang bị máy vi tính, máy đếm tiền, máy soi tiền và sử dụng các hình thức thanh toán hiện đại như: thanh toán điện tử, thanh 27 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh toán thẻ tín dụng quốc tế, séc du lịch Tham gia thanh toán bù trừ với tất cả cả các ngân hàng ngoài hệ thống trong cả nước và thanh toán liên hàng với các ngân hàng trong cùng hệ thống mà không cần hạn mức như hiện nay. Khi ngân hàng thực hiện được những yếu tố này thì uy tín của ngân hàng trên thị trường sẽ được tăng lên, vị thế cạnh tranh của ngân hàng sẽ được củng cố và khách hàng sẽ gửi tiền vào ngân hàng ngày càng nhiều hơn . Thứ hai: Để khách hàng có thể tìm hiểu được ngân hàng và lựa chọn cho mình một ngân hàng tốt để giao dịch, Ngân hàng cần phải thông báo kết quả kinh doanh cũng như năng lực tài chính thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tạo điều kiện cho mọi người tìm hiểu ngân hàng mình. Mặt khác, ngân hàng phải biết xây dựng mối quan hệ tốt với chính quyền địa phương và cấp uỷ đảng nơi mình hoạt động. Luôn hướng hoạt động của mình vào các mục tiêu kinh tế xã hội của địa phương, đồng thời qua đó tranh thủ được sự ủng hộ của các ngành, các cấp. Thứ ba: Cần mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm phục vụ khách hàng một cách tốt nhất để thu hút họ tới tham gia giao dịch tại ngân hàng. Đồng thời họ cũng được hưởng những tiện ích do ngân hàng mang lại. Cụ thể: Ngân hàng phục vụ dịch vụ ngân hàng tại nhà như nhận tiền gửi, cho vay tại nhà, cuối ngày đi thu gom tiền bán hàng trên các khu vực thương mại, các cửa hàng Mặt khác thời gian làm việc của ngân hàng còn chưa thật sự hợp lý với tất cả các đối tượng muốn gửi tiền. Do vậy, ngân hàng cần có giải pháp về làm việc ngoài giờ, tăng thời gian giao dịch với khách hàng nhằm thoả mãn được tối đa nhu cầu của khách hàng trong công tác huy động vốn. 2.3.2.7 Hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả trong kinh doanh Trong hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nói riêng, công tác huy động vốn và sử dụng vốn có mối quan hệ hết sức chặt chẽ, nghĩa là tình hình hoạt động sử dụng vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác huy động vốn. Nếu ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả, cho vay vốn không thu được lãi, hoặc nhận tiền gửi mà không thể cho vay được thì sẽ có tác động xấu đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Trong tương lai uy tín của ngân hàng sẽ giảm sút và ngược lại nếu ngân hàng kinh doanh có hiệu quả sẽ có nhiều khách hàng đến quan hệ với ngân hàng, nâng cao uy tín cho ngân hàng, tạo điều kiện cho công tác huy động vốn phát triển. 2.3.2.8 Đào tạo đội ngũ cán bộ nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao, hết lòng phục vụ khách hàng 28 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Ngân hàng không ngừng động viên, cử cán bộ công nhân viên tham dự những đợt tập huấn, hội thảo nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ do NHCT Việt Nam và ngân hàng Nhà nước mở. Chỉ có liên tục nâng cao trình độ cán bộ thì ngân hàng mới theo kịp sự đổi mới, tiến bộ của xã hội để ngân hàng ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn, nhân viên ngân hàng đặc biệt là nhân viên hàng ngày trực tiếp tiếp xúc, giao dịch với khách hàng cần phải có thái độ nhiệt tình, vui vẻ, lịch sự, cởi mở. Những nhân viên này đóng vai trò tạo nên bộ mặt của ngân hàng. Vì vậy ngân hàng phải bố trí khuyến khích nhân viên tiếp khách hàng như thế nào để cho khách hàng cảm thấy đang được đón tiếp nồng nhiệt, niềm nở. Nhân viên luôn nhiệt tình chỉ dẫn cho khách hàng vào làm việc ở phòng, ban nào, thủ tục mà khách hàng cần phải thực hiện để tiết kiệm thời gian cho khách hàng. Đây là một nghệ thuật trong giao tiếp với khách hàng, đánh vào tâm lý của khách hàng. Một khi khách hàng vui vẻ thoả mãn khi gửi tiền vào ngân hàng lần đầu tiên thì họ không những sẽ gửi tiếp vào lần sau mà còn tuyên truyền giới thiệu cho người khác đến gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng cần sắp xếp đội ngũ cán bộ một cách hợp lý, phù hợp với trình độ chuyên môn và điều kiện gia đình của mỗi cán bộ công nhân viên. Điều này khuyến khích được cán bộ ngân hàng phát huy tối đa khả năng của mình trong công việc. Mặt khác các nhà lãnh đạo ngân hàng cần quan tâm, động viên chăm sóc đến cán bộ công nhân viên trong ngân hàng, tạo cho họ môi trường làm việc thuận lợi với tâm lý thoải mái, tạo không khí sao cho cán bộ công nhân viên thấy được ngân hàng là một gia đình lớn. Điều này thúc đẩy cán bộ công nhân viên ngân hàng hết sức cố gắng, hết lòng làm việc để ngân hàng lớn mạnh, đạt kết quả kinh doanh cao. Công tác đào tạo tổ chức cán bộ phải coi việc phát triển nguồn nhân lực là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong hoạt động kinh doanh . 2.3.2.9 Tăng cường hoạt động Marketing trong ngân hàng Là một ngân hàng mới thành lập, đóng trên địa bàn không mấy thuận lợi, để mở rộng hoạt động của mình thì hoạt động Marketing là việc làm hết sức cần thiết. Ngân hàng phải làm thế nào cho người dân biết được hoạt động của mình và thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng. Hoạt động quảng cáo: Trong hoạt động huy động vốn, việc quảng cáo nên tập trung vào một số vấn đề như lãi suất tiền gửi, các hình thức huy động, lợi ích mà khách hàng có thể nhận được khi gửi tiền, việc khai trương các quỹ tiết kiệm mới. Những sản phẩm mà ngân hàng cung ứng Thực tế cho thấy 29 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh nhiều khi ngân hàng phát hành kỳ phiếu với lãi suất hấp dẫn để huy động vốn trong thời gian ngắn cho hoạt động kinh doanh nhưng vẫn không được người dân hưởng ứng. Nguyên nhân là phần lớn người dân không biết được thông tin này, ngoại trừ những khách hàng thường xuyên liên hệ với ngân hàng. Vì vậy, việc quảng cáo nên tiến hành thường xuyên trên một số phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài phát thanh, báo chí Đặc biệt, khi áp dụng hình thức huy động mới thì cần tuyên truyền một cách thường xuyên về lợi ích của nó. Tuy nhiên ngân hàng cũng không nên khi tới đợt huy động thì mới quảng cáo rầm rộ gây tốn kém mà nên có sự chuẩn bị từ trước nhằm tiết kiệm các chi phí không cần thiết. Một hình thức quảng cáo có chi phí thấp là dán các tờ áp phích tại các trụ sở, quầy giao dịch, quỹ tiết kiệm của ngân hàng. Song song với các hình thức quảng cáo là khuyến mại, giúp ngân hàng đẩy mạnh hoạt động quảng cáo thu hút vốn cho ngân hàng. Hình thức khuyến mại đa dạng sẽ tạo sức thu hút khách hàng của ngân hàng như trả lời các câu hỏi về ngân hàng, có thưởng, hình thức xổ số theo tài khoản, lãi suất ưu đãi đối với khách hàng thường xuyên giao dịch- đây cũng là một hình thức mới làm cho khách hàng, người dân biết và hiểu rõ về ngân hàng hơn. Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nói riêng và hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung cần phải thực hiện tốt các biện pháp để khắc phục những tồn tại trong công tác huy động vốn của ngân hàng nhằm tăng trưởng lượng vốn huy động, đạt hiệu quả trong kinh doanh, đưa Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ trở thành một tổ chức tài chính vững mạnh, có uy tín lớn trong thị trường cạnh tranh, trong thị trường liên ngân hàng, có vị trí then chốt trong việc phát triển kinh tế, góp phần chuyển dịch kinh tế trong tỉnh Nghệ An và địa bàn thành phố Vinh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên các giải pháp trên chỉ có thể thực hiện được và có hiệu quả trong một môi trường vĩ mô thuận lợi. Vì vậy, sau đây là một số kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước Việt Nam để hoàn thiện môi trường vĩ mô, tạo điều kiện cho công tác huy động vốn ngày càng có hiệu quả hơn 2.4 Một số kiến nghị . 2.4.1 Đối với Ngân hàng Công thương Việt nam. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến cải tiến đối với các loại tài khoản tiền gửi hiện nay: 30 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Cải tiến tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp. Chuyển sang cơ chế thị trường, để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế đồng thời tạo cho mình thế đứng vững chắc trong cạnh tranh. Như chúng ta đã biết, mọi chủ thể trong nền kinh tế thị trường đều có vị thế độc lập tự chủ, có quyền chủ động thiết lập quan hệ và tiến hành hoạt động kinh tế trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và hợp tác các bên cùng có lợi. Hiện nay, các ngân hàng nước ta hoàn toàn tách biệt nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán đối với các doanh nghiệp và áp dụng hai tài khoản: Tài khoản cho vay (theo món và chủ yếu là cho vay ngắn hạn ) và tài khoản tiền gửi thanh toán với điều kiện không được phép sử dụng quá số dư. Các tài khoản này có số lượng lớn, tỷ trọng cao mang lại cho ngân hàng nguồn vốn tiền gửi cơ bản và là nguồn mang lại hiệu quả cao nhất. Vì vậy ngân hàng cần quan tâm cải tiến sử dụng tài khoản này, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong điều kiện có thể nhằm thu hút khách hàng và nguồn vốn tiền gửi quan trọng này. Áp dụng tài khoản tiền gửi thấu chi (Tài khoản vãng lai). Chúng ta biết mục đích chủ yếu của doanh nghiệp mở tài khoản này để được ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thu hộ, chi hộ an toàn, thuận tiện, nhanh chóng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình chứ không nhằm mục đích kiếm lời. ở một số nước được ngân hàng cung cấp dịch vụ này thường doanh nghiệp không được trả lãi thậm chí phải trả lệ phí. ở một số nước trong đó có nước ta vừa miễn phí và trả lãi suất thấp cho khách hàng để khuyến khích họ mở tài khoản và sử dụng dịch vụ thanh toán. Nhưng đến nay còn một số hạn chế là không được phát hành quá số dư. Nếu vi phạm có thể bị phạt kể cả khi doanh nghiệp không cố tình hoặc chỉ do khó khăn về tài chính tạm thời doanh nghiệp chưa thu được các khoản doanh thu kịp thời làm nhịp độ kinh doanh bị chậm lại. Nên chăng chúng ta cần hợp nhất nghiệp vụ tiền gửi thanh toán với vay ngắn hạn vào một tài khoản tạo cho việc sử dụng linh hoạt tiền gửi và tiền vay. Khi đó khoản thấu chi được coi là khoản vay ngắn hạn với lãi suất cao (như vay nóng) so với lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh, vừa mang lại khoản tín dụng lãi suất cao cho ngân hàng. Loại tài khoản này ở các nước gọi là tài khoản vãng lai hay tài khoản séc được sử dụng rất phổ biến không chỉ cho doanh nghiệp mà cho cả người dân. Đặc điểm của tài khoản vãng lai là có lúc dư có, có lúc dư nợ. Nếu tài khoản dư có thì doanh nghiệp còn tiền gửi, còn dư nợ tức là doanh nghiệp vay ngân hàng. Tuy nhiên số dư nợ tức là thấu chi phải có hạn mức theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp (căn cứ vào khả năng nguồn vốn 31 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh của ngân hàng và khả năng trả nợ của khách hàng). Nếu vì nguyên nhân chủ quan hay khách quan vượt quá hạn mức trên thì áp dụng chế tài phạt quá hạn mức. *Ưu điểm các tài khoản vãng lai: Một là, đáp ứng nhu cầu vốn thanh toán kịp thời cho doanh nghiệp, đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh liên tục nhịp nhàng, không bị phạt do phát hành quá số dư hoặc làm thủ tục vay phức tạp như khoản vay thông thường. Hai là, lãi suất vay tính trên số dư nợ thực tế phát sinh và số này thường thấp hơn mức phạt. Các doanh nghiệp tích cực nộp tiền để giảm và tất toán dư nợ. Ba là, ngân hàng không phải áp dụng chỉ đạo phạt quá số dư dễ gây ra phản ứng bất bình của doanh nghiệp và vẫn cho vay một khoản tín dụng lãi suất nóng thường có khả năng dễ dàng thu hồi. Tuy nhiên ngân hàng phải có kế hoạch nguồn vốn cho thấu chi và khi doanh nghiệp không sử dụng hết hạn mức thì ngân hàng ứ đọng vốn. Cải tiến tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản cá nhân. Là tài khoản được mở và sử dụng cho mọi người dân muốn tiết kiệm để dành tiền an toàn, kiếm được lợi tức. Khi kinh tế phát triển, thu nhập của người dân cao, mức tiết kiệm tích luỹ để dành nhiều thì đây là một nguồn vốn lớn và ít khi biến đổi đột ngột trừ khi lạm phát phi mã. Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người ở nước ta thấp, nhưng họ thường có thói quen tiết kiệm dự phòng nhưng không phải tất cả mọi người đã gửi tiết kiệm. Đối với dân cư cần tạo cho họ 2 loại tài khoản cho 2 khoản tiết kiệm: tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn với mục đích tích luỹ để dành và kiếm lời. Thực tế, khi ngân hàng muốn huy động nguồn vốn có kỳ hạn của dân cư thường là kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng. Nhưng để thoả mãn nhu cầu tiết kiệm thường xuyên, tích luỹ dần nên chăng ngân hàng cần mở cho người dân một tài khoản tiết kiệm theo hợp đồng dài hạn để họ tiết kiệm nhằm mục đích tích luỹ mua tiện nghi đắt tiền như ô tô, nhà cửa. Khi họ đã để dành được khoảng 2/3 số tiền họ cần, có thể cho họ vay với lãi suất ưu đãi sẽ khuyến khích họ mở và sử dụng loại tài khoản này. Tài khoản này mang lại nguồn vốn ổn định vững chắc để ngân hàng có thể cho vay trung - dài hạn. Ngân hàng có thể mua lại sổ tiết kiệm khi khách hàng có nhu cầu. Còn khoản tiết kiệm không kỳ hạn thì nên mở cho khách hàng một tài khoản tiền gửi cá nhân. Người dân thường có tập quán sử dụng quá nhiều tiền mặt trong giao dịch. Một mặt vì các dịch vụ ngân hàng đang quá ít, thanh toán ngân hàng chưa đáp ứng kịp cho nên mọi nguồn tiền dự trữ trong dân rất 32 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh lớn, vẫn chưa tham gia vào chu trình ngân hàng được. Do đó cần phải xây dựng được mạng lưới tổ chức ngân hàng đến tận mọi tụ điểm kinh tế, mọi khu dân cư, thiết lập được hệ thống tin học nối mạng giữa các ngân hàng, hình thành hệ thống kế toán, thực sự có thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán. 2.4.2 Một số kiến nghị đối với Ngân hàng Trung ương. Điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại, không nên để lãng phí khoản dữ trữ bắt buộc đóng băng tại ngân hàng Nhà nước Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một trong những công cụ quan trọng điều hành chính sách tiền tệ. Tỷ lệ này cần được điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với tình hình phát triển đất nước của từng thời kỳ. Đối với ngân hàng thương mại, dự trữ bắt buộc là một khoản vốn của ngân hàng thương mại phải trả chi phí nhưng không được tham gia vào quá trình tạo lợi nhuận của ngân hàng. Khoản tiền này được “đóng băng”, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao thì lượng vốn dự trữ của ngân hàng càng tăng lên do chi phí đầu vào tăng trong tổng số tiền mà ngân hàng được phép cho vay. Hiện nay, ngân hàng Nhà nước đã thu được một khối lượng tiền dự trữ bắt buộc khá lớn từ các ngân hàng. Về mặt lí luận, công cụ dự trữ bắt buộc không chỉ là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ mà còn là một công cụ bảo đảm an toàn tiền gửi, chống lại các khủng hoảng xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng, phần nào hạn chế sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng. Chính vì vậy, tiền gửi dự trữ bắt buộc là nguồn vốn quan trọng để ngân hàng Nhà Nước thực hiện vai trò là ngân hàng của các ngân hàng và tái cấp vốn ngắn hạn đối với các ngân hàng thương mại khi có tình hình thiếu khả năng chi trả có thể dẫn tới việc rút tiền gửi ào ạt. Như vậy, thông qua tỷ lệ dữ trữ bắt buộc thì ngân hàng Nhà nước đã giúp các ngân hàng thương mại làm tốt hơn công tác dự trữ. Các ngân hàng thương mại rất dễ thiếu khả năng chi trả vì với nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển, chỉ cần một khoản tiền chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác lớn hàng tỷ là có thể giảm lượng tiền dự trữ quá mức dự trữ an toàn. Khi đó việc cho ngân hàng vay lại phải nhanh chóng. ở các nước phát triển, việc cho vay này chỉ cần tiến hành thông qua điện thoại là tiền được chuyển ngay đến nơi và đáp ứng ngay được nhu cầu rút tiền của khách hàng, thậm chí thủ tục vay bằng giấy tờ được làm sau khi nhận tiền. Nếu đóng băng tiền gửi dự trữ bắt buộc lại, không cho các ngân hàng thương mại vay khi họ tạm thời thiếu khả năng thanh toán, ngân hàng Nhà nước làm sao thực hiện được trọng trách đảm bảo, bảo vệ cho các 33 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh ngân hàng thương mại khi họ gặp khó khăn trong chi trả dẫn đến xảy ra việc rút tiền ào ạt và sự đổ vỡ của ngân hàng là không thể tránh khỏi. Trong khi nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu về vốn đang cấp bách, ngân hàng Nhà nước không thể để lãng phí hàng ngàn tỷ đồng dự trữ bắt buộc. Tất nhiên, ngân hàng Nhà nước không thể dùng dự trữ bắt buộc để cho vay như cho vay để tăng vốn đối với các ngân hàng thương mại, cho vay trong nền kinh tế Cho vay như vậy đến lúc cần tiền mặt để đảm bảo khả năng chi trả cho các ngân hàng thương mại thì ngân hàng Nhà nước sẽ không thu hồi được nợ vay về ngay do tính lỏng của tài sản quá thấp. Vì vậy cần có loại cho vay thích hợp để đảm bảo khả năng chi trả cho ngân hàng thương mại, nghĩa là chỉ cho vay khi tiền gửi tại các ngân hàng giảm sút mạnh, trong khi đó nhu cầu rút tiền của người gửi tăng nhanh. Các ngân hàng thương mại không được sử dụng khoản này để tạo tiền trong quá trình hoạt động của mình. Ngân hàng Nhà nước ta hiện nay trong khi thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia có 3 hình thức tái cấp vốn được quy định ở điều 17 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Ngân hàng Nhà nước nên bổ sung ngay loại cho vay khôi phục khả năng chi trả được phép vay cực nhanh bằng điện thoại. Nếu loại cho vay này được thực thi sẽ làm giảm tổng mức dự trữ an toàn chung của toàn hệ thống ngân hàng trong cả nước vì các khoản dự trữ ngoài dữ trữ bắt buộc của ngân hàng Nhà nước là khoản dự trữ để đảm bảo nhu cầu chi trả của ngân hàng cho khách hàng. Vì lượng khách hàng rút tiền không đều và dự đoán của ngân hàng về lượng tiền gửi nhận được chưa thực sự chính xác do vậy lượng dự trữ nhiều khi lại quá thừa khi lại quá thiếu. Do vậy, khi loại hình cho vay cực nhanh được áp dụng sẽ tạo khả năng để ngân hàng Nhà nước điều hoà dự trữ ở các ngân hàng thương mại. Từ tính chất hoạt động không đồng đều của các ngân hàng mà ngân hàng Nhà nước có thể điều hoà từ ngân hàng thừa dự trữ sang ngân hàng thiếu dự trữ do lượng tiền gửi biến động. Đồng thời hoạt động cho vay của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách tiền tệ quốc gia trong thời kỳ đó và lượng tiền trong lưu thông mà ngân hàng ước lượng. Như vậy, dựa vào dự trữ bắt buộc ngân hàng Nhà nước có thể thu hút làm giảm hoặc tăng lượng tiền trong lưu thông. Điều này làm giảm được khó khăn cho các ngân hàng thương mại. Phải có chính sách lãi suất phù hợp trong từng thời kỳ. 34 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh Để công cụ lãi suất phát huy vai trò của mình thì ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục có chính sách đúng đắn, cụ thể: - Đưa ra lãi suất cơ bản và biên độ dao động phù hợp cho từng giai đoạn phát triển kinh tế. Nghĩa là tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của tăng trưởng kinh tế, của hoạt động ngân hàng để định ra lãi suất cơ bản hợp lý, phù hợp với mối quan hệ cung cầu về vốn và đảm bảo cho các ngân hàng thương mại kinh doanh có lãi. - Theo dõi thường xuyên liên tục lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ lạm phát trên thị trường hàng hoá để điều chỉnh kịp thời linh hoạt sao cho lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực cộng tỷ lệ lạm phát và lãi suất huy động vốn danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát dự tính (nghĩa là đảm bảo lãi suất thực dương) - Về lâu dài, ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp, chính sách để hạ dần mức lãi suất để hoà nhập mặt bằng lãi suất trên thế giới. Điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nước ngoài vào trong nước. Tuy nhiên, trước mắt ngân hàng điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng xoá bỏ dần sự chênh lệch giữa lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ, chỉ để một mức chênh lệch hợp lý để cho dân chúng không đổi hết nội tệ sang ngoại tệ dẫn đến sức ép về tỷ giá. - Nhà nước cần tiến tới điều hành lãi suất bằng biện pháp tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở, bỏ mức lãi suất cơ bản và biên độ dao động cho phép. Phải điều chỉnh tỷ giá hợp lý khi có biến động. Ổn định tỷ giá là mục tiêu của chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. ổn định tỷ giá nội tệ so với ngoại tệ cũng là điều kiện quan trọng để huy động tối đa nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Khi tỷ giá biến động theo xu hướng giảm giá Việt Nam đồng, dân cư sẽ rút tiền gửi nội tệ ở ngân hàng để mua ngoại tệ mạnh. Điều này làm cho nguồn vốn nội tệ sụt giảm, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong chi trả. Lúc này nếu khách hàng sau khi mua ngoại tệ sẽ tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng thì tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng sẽ không đổi nhưng ngược lại nếu khách hàng sau khi mua ngoại tệ không gửi vào ngân hàng nữa thì nguồn vốn huy động của ngân hàng giảm xuống và ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác quản lý nguồn vốn huy động. Hiện nay tỷ giá của USD/ VNĐ tiếp tục tăng, tỷ giá chưa phản ánh đúng sức mua của đồng nội tệ. VNĐ được đánh giá cao hơn giá trị thực của nó nên gây ra khó khăn cho hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên việc phá giá sẽ gây tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế, làm mất lòng tin của dân chúng đối với đồng nội tệ. Trong tình hình hiện nay nền kinh tế phát triển khá ổn 35 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh định nếu có thể phá giá thì cần được tiến hành từ từ một cách hợp lý, không công khai. Như vậy sẽ làm giảm sự ảnh hưởng tới giá thành sản xuất, hệ thống giá cả và tâm lý lo ngại đối công chúng. - Tiếp tục vận hành cơ chế điều hành tỷ giá như hiện nay theo hướng ngày càng nới rộng kiểm soát, ngày càng khách quan, hướng tỷ giá chính thức sát với tỷ giá trên thị trường theo quan hệ cung cầu . - Tập trung quỹ ngoại tệ do ngân hàng Nhà nước quản lý, xây dựng nguyên tắc sử dụng và chuẩn bị một lượng ngoại tệ để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. - Hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối. - Phân tích tình hình, tập trung ngoại tệ và đào tạo cán bộ để tiến tới thành lập thị trường hối đoái. Đây là một kênh huy động vốn ngoại tệ sẽ nâng cao được giá trị đồng nội tệ. Hoàn thiện môi trường pháp lý, chính sách liên quan đến hoạt động ngân hàng. Hiện nay, hoạt động ngân hàng tuân theo sự điều chỉnh của Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ngoài ra còn có nhiều quy định khác thể hiện tính chất tiến bộ, phù hợp với tình hình mới, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong các văn bản quy phạm pháp luật này vẫn còn các quy định chưa rõ ràng, như quy định về vốn tự có của ngân hàng, quy định về các hoạt động huy động vốn, các quy định về chỉ tiêu hoạt động của ngân hàng bị thay đổi quá nhiều trong thời gian ngắn Điều đó cho thấy những yếu tố còn thiếu chặt chẽ trong luật và các văn bản dưới luật của ngân hàng Nhà nước ban hành. Điều này đòi hỏi các cơ quan ban hành văn bản quy phạm về lĩnh vực ngân hàng tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung các văn bản hiện hành cho phù hợp, tạo điều kiện phát triển cho các hoạt động của các tổ chức tín dụng. Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách về lãi suất, về hạn mức, về dự trữ hợp lý hơn, khoa học hơn trên cơ sở bảo vệ quyền lợi cho các ngân hàng và khách hàng. Việc hạ hoặc nâng lãi suất nhiều lần làm cho hoạt động của ngân hàng gặp nhiều khó khăn đặc biệt là huy động vốn. Khách hàng sẽ ở trong tâm trạng chờ đợi lãi suất cao hơn mà không gửi tiền ngay vào ngân hàng. Việc áp dụng lãi suất cơ bản với biên độ giao động cũng mang tính áp đặt về khung lãi suất như quy định lãi suất trần cho vay và sàn huy động của trước kia. Ngân hàng nên thay nó bằng cách chỉ công bố lãi suất tái chiết khấu mà ngân hàng áp dụng từ đó các ngân hàng thương mại sẽ đưa ra được mức lãi suất phù hợp. Điều này sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh với mức cao hơn giữa 36 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh các ngân hàng, tạo thêm sự chủ động linh hoạt và tự chủ trong kinh doanh của các ngân hàng. Mỗi ngân hàng có thể tuỳ thuộc vào vị thế trên thị trường để ấn định mức lãi suất phù hợp hay vì bị kiềm chế bởi khung lãi suất. Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh phát triển nghiệp vụ thị trường mở mà không trực tiếp tác động vào lãi suất, gây ra những biến động xấu về tình hình đầu tư. Các văn bản luật và dưới luật cần được ban hành một cách có hệ thống, chính xác đảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều sự được điều chỉnh của luật pháp, tạo nên một môi trường ổn định về pháp lý và chế độ chính sách của các ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy Công ty bảo hiểm tiền gửi phát huy vai trò của mình. Sự an toàn của ngân hàng thương mại luôn là mỗi quan tâm hàng đầu đối với các cổ đông (chủ ngân hàng), người ký thác, các giới chức điều hành và giám sát bởi những vụ phá sản ngân hàng có thể có ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hơn bất cứ các vụ phá sản ở bất cứ loại hình doanh nghiệp nào khác. Để đảm bảo an toàn (giảm thiểu rủi ro) cho các NHTM. Công ty bảo hiểm tiền gửi ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi cho người ký thác trong trường hợp rủi ro xẩy ra nghĩa là ngân hàng bị phá sản. Bảo hiểm tiền gửi ra đời với mục đích sẽ làm tăng niềm tin của quần chúng vào ngân hàng, nhằm huy động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đặc biệt là tiền gửi của dân cư. ở Việt Nam, ngày 19/08/2000 tổ chức bảo hiểm tiền gửi TP Hồ Chí Minh được thành lập và được áp dụng cho toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Công ty bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Ngân hàng Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ cho công ty bảo hiểm tiền gửi như bắt buộc các ngân hàng thương mại phải gửi các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của mình để công ty bảo hiểm tiền gửi có thể hiểu rõ được hoạt động của ngân hàng và có biện pháp cứu trợ kịp thời khi ngân hàng gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước giám sát hoạt động đóng phí bảo hiểm của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác có thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi. Trên đây là một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ. Các biện pháp trên cần được tiền hành một cách đồng bộ, nhất quán và tuỳ thuộc vào điều kiện tình hình thực tế của mình mà ngân hàng sẽ lựa chọn biện pháp nào cho hợp lý. Như vậy 37 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh công tác huy động vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nói riêng và NHTM nói chung sẽ đạt kết quả tốt. PHẦN KẾT LUẬN Ngày nay, sự tăng trưởng kinh tế đất nước luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo của mỗi quốc gia. Do vậy nhu cầu về vốn của nền kinh tế cũng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh tế, chính trị gia trên thế giới. Một trong các kênh truyền vốn quan trọng nhất, hiệu quả nhất là thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Trong khi đó, huy động vốn là một nghiệp vụ cơ bản và quan trọng của bất cứ ngân hàng thương mại nào. Quy mô, chất lượng huy động vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng do vậy ảnh hưởng đến sự cung ứng vốn cho nền kinh tế . ở Việt Nam hiện nay nhu cầu vốn cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là rất lớn, trong khi thị trường chứng khoán chưa phát triển. Trong tình hình như vậy, công tác huy động vốn ở NHTM rất cần được chấn chỉnh, mở rộng và tăng cường nhằm thu gom được tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế. Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ em đã tìm hiểu kỹ công tác huy động vốn cùng với sự tham khảo các tài liệu liên quan, em đã hoàn thành được chuyên đề này. Chuyên đề đã nêu lên được các hình thức huy động vốn của NHTM và những yếu tố ảnh hưởng tới công tác này. Từ lý thuyết, chuyên đề đã đi vào phân tích thực trạng huy động vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ, những thành quả đạt được, những khó khăn còn vướng mắc. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động vốn cho ngân hàng . Trên đây là toàn bộ chuyên đề của em trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ. Do trình độ thực tế còn bị hạn chế, thời gian thực tập không được dài nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô và những ai quan tâm đến vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ Chi 38 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này./. Vinh, tháng năm 2012 Sinh viên Trần Duy Thịnh 39 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH
- Báo cáo thực tập Trường Đại học Vinh DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng năm 1998. 2. Các văn bản dưới luật của ngân hàng nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam . 3. Báo cáo 3 năm xây dựng và trưởng thành Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ. 4. Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2009, 2010 , 2011 Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ. 5. Tạp chí ngân hàng các năm 2009, 2010, 2011. 6. Thời báo kinh tế các số năm 2009, 2010, 2011. 7. Thời báo ngân hàng. 8. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ. 40 SVTH: Trần Duy Thịnh Lớp: 49B2 - TCNH