Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm

doc 68 trang nguyendu 4250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_giai_phap_phat_trien_hoat_dong_thanh_toan_quoc_te_tai.doc

Nội dung text: Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm

  1. Lời nói đầu Trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để đạt đựơc vị trí thuận lợi trong sự phân công lao động quốc tế và trao đổi thương mại quốc tế. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phải phát triển mạnh mẽ lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Đối với nước ta phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta vẫn đang trong qúa trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chỉ có thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại chúng ta mới tạo đựơc nguồn ngoại tệ cần thiết để phục vụ nhập khẩu kỹ thuật hiện đại, công nghệ thiết bị, đồng thời phát huy tiềm năng của đất nước, tận dụng nguồn vốn và công nghệ nước ngoài để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế đất nước từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Như một mắt xích không thể thiếu được trong hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng có vị trí và vai trò quan trong, nó được xem là công cụ, là cầu nối trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ kinh tế và thương mại giữa các nước trên thế giới. Hoạt động thanh toán quốc tế là một trong những mặt hoạt động quan trọng của Ngân hàng, nó có liên quan đến nhiều mặt hoạt động khác của Ngân hàng. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm mới tham gia hoạt động thanh toán nhưng đã đạt được một số thành quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm với quy mô nhỏ và còn gặp nhiều khó khăn. Việc tìm ra giải pháp để phát triển là hết sức cần thiết và cấp bách, nó không những tạo điều kiện cho phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động kinh tế đối ngoại, góp phần vào việc thực hiện đường lối đổi
  2. mới của Đảng và Nhà nước mà còn là một tất yếu quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng trong cơ chế thị trường, giúp cho Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm sớm hội nhập với hệ thồng Ngân hàng trong nước và thế giới. Thanh toán quốc tế thực sự là phức tập và còn nhiều tồn tại trong cơ chế nghiệp vụ cũng như trong công tác tổ chức và thực hiện. Chính vì vậy, chúng ta cần phải quan tâm nghiên cứu, tìm ra biện pháp khắc phục. Xuất phát từ những vấn đề trên, em đã nghiên cứu đề tài: “ Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm”. Bố cục của chuyên đề gồm có ba chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Do còn có những hạn chế về kiến thức chuyên môn và thời gian thực tập nên đề tài không thể không có những hạn chế thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. Hà Nội tháng 9 năm 2003 Sinh viên Hoàng Đức Vinh. 2
  3. Chương I: Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại. I- Sự cần thiết của hoạt động thanh toán quốc tế qua Ngân hàng. 1. Khái niệm về thanh toán quốc tế. “ Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghiệp vụ và yêu cầu về tiền tệ, phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức tài chính quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các quốc gia khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại Ngân hàng”. 2. Sự cần thiết của thanh toán quốc tế qua Ngân hàng thương mại. Khi đề cập đến hoạt động ngoại thương là đề cập đến quan hệ buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nước. Về cơ bản thanh toán quốc tế phát sinh dựa trên cơ sở hoạt động ngoại thương. Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng của một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy, nếu công tác thanh toán quốc tế được tổ chức tốt thì giá trị của hàng hoá xuất khẩu mới được thực hiện, góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển. Thanh toán quốc tế trở thành một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhưng trong hoạt động mua bán luôn gắn liền với lợi ích của các bên tham gia. Công tác thanh toán trong nội địa từng nước đã khó khăn phức tạp nhưng thanh toán quốc tế càng khó khăn phức tạp hơn nhiều (các bên tham gia hợp đồng khác nhau ở nhiều lĩnh vực: Chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, ). Trong mối quan hệ này mỗi bên tham gia ngoài việc chấp hành luật pháp trong nước còn phải tuân thủ các hiệp định, hiệp ước cũng như các tập quán thương mại khác. 4
  4. Trong mua bán quyền lợi của các bên tham gia thường mâu thuẫn với nhau, bên nào cũng muốn dành về mình phần thuận lợi hơn. Để giải quyết mâu thuẫn này cần có sự tham gia của Ngân hàng, lúc này Ngân hàng đóng vai trò trung gian, tạo sự tin tưởng, thuận lợi cho cả hai bên. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại hiện đại đã góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế giữa các nước diễn ra nhanh chóng, thuận lợi chính xác và đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia thanh toán quốc tế. Ngân hàng là một tổ chúc trung gian tài chính, có bề dày kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đồng thời Ngân hàng có mạng lưới và quan hệ đại lý với các Ngân hàng khác rất rộng. Ngoài ra, Ngân hàng là tổ chức tiếp cận và ứng dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến bậc nhất nên có thể sử dụng vào các hoạt dộng thanh toán một cách nhanh chóng, chính xác. Chính những điều trên mà hầu hết mọi hoạt động thanh toán quốc tế đều diễn ra cần có sự tham gia của các Ngân hàng. 3.Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng. - Đối với nền kinh tế mà đặc biệt là đối với hoạt động kinh tế đối ngoại: Thanh toán quốc tế có vị trí quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt kinh tế đối ngoại lên vị trí hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có hoạt động thanh toán quốc tế thì không có hoạt động kinh tế đối ngoại. Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi thiết lập mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại với các nước thì điều kiện quan trọng không thể thiếu đựơc là phải thiết lập quan hệ thanh toán quốc tế. 5
  5. Thanh toan quốc tế thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển, nếu việc tổ chức thanh toán quốc tế được tiến hành nhanh chóng, an toàn chính xác sẽ làm cho các nhà sản xuất kinh doanh sẽ yên tâm và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của mình, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển, đặc biệt là hoạt động ngoại thương. Thanh toán quốc tế hạn chế rủi ro trong qúa trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại: Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý của bạn hàng cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng thanh toán của người mua, của con nợ, đồng thời trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động, khả năng thanh toán của con nợ là rất bấp bênh, hơn nữa trong cơ chế thị trường tình trạng lừa đảo ngày càng nhiều vì vậy rủi trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại ngày càng lớn. Nếu tổ chức tốt hoạt động thanh toán quốc tế sẽ giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển. - Đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng: Việc hoàn thiện để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế có một ý nghĩa hết sức thiết thực, hoạt động thanh toán quốc tế là một dịch vụ thuần tuý làm tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác của Ngân hàng. Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng thu hút thêm nhiều khách hàng, trên cơ sở đó Ngân hàng tăng được quy mô hoạt động của mình, giúp cho Ngân hàng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó tạo được niền tin cho khách hàng và nâng cao uy tín của mình. Từ đó mà có thể khai thác được nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng nước ngoài về nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng phát triển được nghiệp vụ bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ và các dịch vụ khác. Nếu hoạt động thanh toán quốc tế được đẩy mạnh thì sẽ đẩy mạnh được hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời 6
  6. quản lý được nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanh toán quốc tế qua Ngân hàng. Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó giúp cho hoạt động Ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với hệ thống Ngân hàng thế giới. II- Các phương thức thanh toán quốc tế. Phương thức chuyển tiền. “ Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu Ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương thức chuyển tiền do khách hàng yêu cầu”. Phương thức này có thể mô tả khái quát theo sơ đồ sau: Người chuyển tiền Người nhận chuyển tiền (1) (3) Ngân hàng nước Ngân hàng nước nhận người chuyển tiền chuyển tiền (2) (1). Người chuyển tiền yêu cầu Ngân hàng nước mình chuyển một số tiền nhất định cho người được hưởng ở nước ngoài. (2). Ngân hàng phục vụ người chuyển tiền nhận thực hiện yêu cầu của người chuyển tiền, làm thủ tục chuyển tiền ra nứơc ngoài. (3). Ngân hàng nước ngoài nhận đựơc chuyển tiền sau khi đã nhận tiền chuyển đến, thực hiện trả tiền cho người nhận. 7
  7. Thanh toán chuyển tiền bao gồm các loại: - Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer – T/T). Chuyển tiền bằng điện tốc độ nhanh, nhưng chi phí cao. Ngày nay khi tham gia mạng SWITF thì hầu hết chuyển tiền được thực hiện trên mạng SWITF. - Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – M/T). Chuyển tiền bằng thư chi phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện, song tốc độ lại chậm hơn. Chuyển tiền bằng điện thì người chuyển tiền không bị động vốn lâu ngày, nhưng tỷ giá ngoại tệ áp dụng trong điện hối cao hơn tỷ giá ngoại tệ trong thư hối. Chuyển tiền là một phương thức thanh toán trực tiếp giữa hai bên. Phương thức này rất đơn giản, ở đây Ngân hàng chỉ là người trung gian thực hiện việc thanh toán theo uỷ nhiệm hưởng hoa hồng, không bị ràng buộc gì về tránh nhiệm. Khi áp dụng phương thức này thì giữa hai bên mua bán phải có tín nhiệm rất cao, việc thanh toán phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Vì vậy chuyển tiền ít được sử dụng trong thánh toán hàng hoá ngoại thương mà thường được sử dụng trong quan hệ trả nợ, tiền đặt cọc, tiền ứng trước, trả tiền thừa, thanh toán những khoản chi phí phi mậu dịch hay tiền bồi thường. Phương thức ghi sổ (Open account). “ Là phương thức thanh toán mà người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng hoá hay dịch vụ, đến từng định kỳ (tháng, quý, nửa năm) người mua trả tiền cho người bán”. Đặc điểm của phương thức này là một phương thức thanh toán không có sự tham gia của Ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán. Chỉ mở tài khoản đặc biệt, không mở tài khoản song biên. Nếu người mua mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị quyết toán giữa hai bên, chỉ có hai bên tham gia thanh toán: người bán và người mua. Trình tự tiến hành: 8
  8. (1). Giao hàng hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá. (2). Báo nợ trực tiếp. (3). Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi đến định kỳ thanh toán. (3) Ngân hàng bên bán Ngân hàng bên mua (3) (3) Người bán (2) Người mua (1) Phương thức này thường được dùng cho thanh toán nội địa, hai bên mua bán phải thực sự tin cậy lẫn nhau. Dùng cho thanh toán tiền gửi bán hàng ở nước ngoài, hay dùng trong thanh toán phi mậu dịch như: tiền cước phí vận tải, tiền phí bảo hiểm, tiền hoa hồng trong nghiệp vụ môi giới, uỷ thác, tiền lãi cho vay và đầu tư. Dùng cho phương thức hàng đổi hàng, nhiều lần thường xuyên trong một thời kỳ nhất định. Phương thức này chỉ có lợi cho người mua. Phương thức thanh toán nhờ thu( Collection of payment). “ Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương thức thanh toán quốc tế trong đó người xuất khẩu (người bán) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho người nhập khẩu (người mua), uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu nước ngoài, trên cơ sở hối phiếu do người xuất khẩu ký phát”. Trong thanh toán quốc tế, khi sử dụng phương thức này các nước thường vận dụng “ Bản quy tắc thông nhất về nhờ thu chứng từ thương mại – ICC 522” do phòng thương mại quốc tế Paris ban hành, bản sửa đổi năm 1995. 9
  9. * Quy trình thanh toán uỷ thác thu: Khi việc chi trả được tiến hành theo phương thức uỷ thác thu, thì có thể mô tả khái quát quy trình đó như sau: (1). Căn cứ vào hợp đông mua bán ngoại thương, người xuất khẩu tiến hành gửi hàng cho người nhập. (2). Ngay sau khi đã gửi hàng ra nước ngoài, người xuất khẩu lập bộ chứng từ, phát hành hối phiếu và gửi cho Ngân hàng phục vụ mình để nhờ Ngân hàng thu hộ tiền. (3). Nhận đựơc bộ chứng từ hàng hoá, hối phiếu do người xuất khẩu gửi tới, Ngân hàng xuất khẩu tiến hành kiểm tra chứng từ và lập thư uỷ nhiệm, rồi gửi các chứng từ ấy cho Ngân hàng nước người nhập khẩu. (4). Nhận được các chứng từ từ Ngân hàng xuất khẩu, Ngân hàng nhập khẩu phải kiểm tra những nội dung trên các chứng từ đó, rồi thông báo cho người nhập khẩu biết. (5). Sau khi đựơc thông báo về bộ chứng từ do người xuất khẩu gửi tới. Nếu nhất trí, thì người nhập khẩu phải chấp nhận trả tiền hối phiếu hoặc trả tiền ngay bộ chứng từ đó. (6). Sau khi đã được người nhập khẩu trả tiền, Ngân hàng nhập khẩu làm thủ tục chuyển trả số tiền ấy cho người xuất khẩu thông qua Ngân hàng xuất khẩu. (7). Khi đã nhận được tiền do Ngân hàng nhập khẩu chuyển tiền đến, Ngân hàng xuất khẩu trả số tiền đó cho người xuất khẩu. Người xuất khẩu (1) Người nhập khẩu (2) (7) (4) (5) Ngân hàng nước Ngân hàng nước nhập xuất khẩu khẩu 10
  10. (3) (6) Trong thanh toán uỷ thác thu, nếu người xuất khẩu không thực hiện trọn vẹn và đầy đủ các cam kết với người nhập khẩu trong hợp đồng mua bán ngoại thương thì người nhập khẩu có quyền từ chối thanh toán (một phần hay toàn bộ) số tiền trên giấy đòi tiền của người xuất khẩu. Trong thanh toán uỷ thác thu, người xuất khẩu thông qua Ngân hàng chỉ khống chế được quyền định đoạt hàng hoá, mà chưa khống chế được việc trả tiền của người nhập khẩu. Người nhập khẩu có thể bằng cách chưa nhận bộ chứng từ hàng hoá, để kéo dài việc trả tiền cho người xuất khẩu, hoặc có thể không trả tiền khi tình hình thị trường bất lợi cho họ. Đối với hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu, Ngân hàng chỉ là người trung gian thu hộ tiền cho người xuất khẩu, còn không có trách nhiệm với việc trả tiền của người nhập khẩu. Hình thức này tuy về thủ tục có phần đơn giản song việc trả tiền còn chậm. Trong thanh toán ngoại thương, nhờ thu được chia làm hai loại: a. Nhờ thu phiếu trơn (nhờ thu không kèm chứng từ – Clean collection): Khi việc đòi tiền chỉ dựa trên chứng từ đòi tiền là hối phiếu do người xuất khẩu ký phát, mà không kèm theo các chứng từ hàng hoá, thì được gọi là nhờ thu phiếu trơn. Loại này thường được dùng trong thanh toán tiền chi trả về dịch vụ, cước phí bảo hiểm, tiền phạt, tiền bồi thường, b. Uỷ thác thu kèm chứng từ (Documentary collectttion). Khi việc đòi tiền, ngoài hối phiếu do người xuất khẩu ký phát, còn phải kèm theo các chứng từ về hàng hoá, gọi là uỷ thác thu kèm chứng từ. Tuỳ theo cách thức trả tiền của người nhập khẩu, mà uỷ thác thu kèm chứng từ có thể là chấp nhận trả tiền trao chứng từ (Documents against 11
  11. acceptance – D/A) hoặc trả tiền trao chứng từ (Documents against payment – D/P). Nếu là D/A thì người nhập khẩu phải ký tên chấp nhận trả tiền trên hối phiếu do người xuất khẩu ký phát, thì mới được nhận hàng trao cho bộ chứng từ hàng hoá. Nếu là D/P thì người nhập khẩu phải trả ngay số tiền theo tờ phiếu trả tiền ngay do người xuất khẩu lập, thì mới đuợc quyền lấy bộ chứng từ hàng hoá từ Ngân hàng. Phương thức tín dụng chứng từ (Letter of credit – L/C). Trong thanh toán quốc tế nói chung, đặc biệt trong thanh toán ngoại thương hình thức thanh toán bằng L/C được sử dụng rất phổ biến. Khi vận dụng vào hình thức thanh toán này, các nước dựa vào “ Bản điều lệ và cách thức thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ – UCP 500” do phòng thương mại quốc tế Paris ban hành năm 1993. Theo “ Bản điều lệ và cách thức thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” thì tín dụng chứng từ được hiểu như sau: “ Thư tín dụng (L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó một Ngân hàng (Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu cầu của người nhập khẩu tiến hành mở và chuyển đến chi nhánh hay đại lý của ngân hàng này ở nước ngoài (Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) một L/C cho người được hưởng (Người xuất khẩu) một số tiền nhất định trong thời hạn qui định, với điều kiện người được hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với những nội dung, điều kiện ghi trong thư tín dụng “. Tham gia nghịệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng có thể gồm nhiều bên, thông thường có các bên sau: - Người yêu cầu mở thư tín dụng (The applicant for the credit) là người nhập khẩu (Người mua). - Người hưởng thư tín dụng (The benifitciary) là người xuất khẩu (Người bán). 12
  12. Các ngân hàng liên quan: ít nhất có hai Ngân hàng tham gia: Ngân hàng mở L/C còn gọi là Ngân hàng phát hành L/C (The issuing bank), Ngân hàng này có trách nhiệm trích trả tiền cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với L/C; Ngân hàng thông báo L/C (Advising Bank) là Chi nhánh Ngân hàng hoặc đại lý của Ngân hàng phát hành L/C hoặc Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu. Tuỳ theo từng L/C cụ thể, mà còn có các Ngân hàng khác tham gia như: - Ngân hàng thanh toán, chiết khấu (The Negotiating Bank) : Ngân hàng này trực tiếp trả tiền cho L/C. Trên thực tế Ngân hàng thanh toán L/C chính là Ngân hàng L/C hoặc Ngân hành thông báo, hoặc một ngân hàng nào đó do Ngân hàng phát hành L/C chỉ định. - Ngân hàng xác nhận L/C (The confirming Bank). Theo yêu cầu của người hưởng lợi, một Ngân hàng đứng ra xác nhân L/C sẽ cùng với Ngân hàng phát hành L/C có trách nhiệm trả tiền đối với L/C. * Qui trình thanh toán L/C: (1). Người nhập khẩu dựa vào hợp đồng mua bán ngoại thương ký với người xuất khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình, yêu cầu Ngân hàng này mở L/C cho người xuất khẩu hưởng. (2). Theo đơn xin mở L/C, Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu mở một L/C (phát hành L/C) cho người xuất khẩu hưởng. Ngân hàng này chuyển bản chính L/C cho người xuất khẩu (Ngân hàng thông báo). (3). Ngân hàng xuất khẩu xác nhận L/C bằng văn bản và gửi bản chính L/C cho người xuất khẩu. (4). Căn cứ vào nội dung của L/C, Người xuất khẩu thực hiện giao hàng cho người nhập khẩu. (5). Sau khi hoàn tất việc giao hàng, người xuất khẩu phải hoàn chỉnh ngay bộ các chứng từ hàng hoá và hối phiếu gửi về ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu ngân hàng này trả tiền cho bộ chứng từ đó. 13
  13. (6). Ngân hàng thông báo nhận được bộ chứng từ. Kiểm tra kỹ nội dung các chứng từ đó nếu thấy phù hợp thì ngân hàng thanh toán (hoặc chấp nhận chiết khấu theo những điều khoản của L/C). (7). Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ thanh toán cho Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu. (8). Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (Ngân hàng phát hành L/C) sau khi nhận đựơc bộ các chứng từ từ Ngân hàng thông báo chuyển đến, tiến hành kiểm tra kỹ các chứng từ này, nếu thấy đáp ứng được những yêu cầu của L/C, thì chuyển tiền trả cho Ngân hàng thông báo. (9). Ngân hàng phát hành L/C thông báo cho người nhập khẩu biết đã trả tiền cho người xuất khẩu, đồng thời yêu cầu người nhập khẩu hoàn lại số tiền này, sau đó Ngân hàng phát hành L/C trao người nhập khẩu bộ chứng từ để làm căn cứ nhận hàng. (2) Ngân hàng xuất Ngân hàng nhập khẩu khẩu(Ngân hàng thông (7) (Ngân hàng mở L/C) báo L/C) (8) (3) (5) (6) (1) (9) Người nhập khẩu Người xuất khẩu (4) Nét đặc thù trong thanh toán L/C là việc trả tiền của Ngân hàng chỉ căn cứ vào sự phù hợp của các chứng từ hàng hoá với những điều kiện nêu trong thư tín dụng mà không trực tiếp dựa vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Do vây, Ngân hàng không bị ràng buộc bởi những điều khoản trong hợp đồng mua bán ngoại thương, mà chỉ bị ràng buộc các điều kiện trong nội dung của L/C khi nó đã được mở. 14
  14. Thanh toán bằng L/C tuy có phức tạp về mặt thủ tục, song các nguyên tắc thanh toán rất chặt chẽ, rõ ràng, nên việc nhận hàng và trả tiền luôn luôn được đảm bảo. Vì thế, hình thức này được sử dụng rất rộng rãi trong thương mại quốc tế. Hiện nay trong thanh toán quốc tế có nhiều loại thư tín dụng được sử dụng: - Thư tín dụng có thể huỷ bỏ (Revocable L/C): Với loại này, sau khi L/C được mở, thì nội dung của L/C có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào, không cần có sự đồng ý của người được hưởng và người yêu cầu mở L/C. Như vậy, thư tín dụng này chưa phải là văn bản cam kết trả tiền thực sự, mà mới chỉ là một thư hẹn sẽ trả tiền. Do vậy, loại L/C này ít được sử dụng. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (Irrevocable L/C): Khi loại L/C này được mở thì người yêu cầu mở L/C sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ những nội dung của nó, nếu không có sự đồng ý của người được hưởng L/C. Như vậy, tính đảm bảo của L/C này rất cao, nên nó được dùng khá phổ biến trong thanh toán thương mại quốc tế. Loại L/C này là cơ sở của các loại L/C khác. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (Irevocable confirmed L/C): Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, đồng thời lại có sự xác nhận trả tiền của một Ngân hàng nhất định. Dùng thư tín dụng loại này thì việc nhận tiền của người xuất khẩu là vô cùng chắc chắn. Đối với người nhập khẩu khi phải mở loại L/C này thì ngoài việc phải ký vốn mở L/C tại Ngân hàng, trả thủ tục phí mở L/C, còn phải chịu thêm phí xác nhận và đặt cọc tiền xác nhận cho Ngân hàng xác nhận L/C. Đó là những bất lợi cho người nhập khẩu. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi (Irrevocable without recuorse L/C): Khi sử dụng loại L/C này, thì người xuất khẩu (người hưởng lợi L/C) phải phát hành một hối phiếu ghi “ không được truy đòi người phát 15
  15. phiếu”. Như vậy, sau khi đã thanh toán cho người huởng, Ngân hàng mở L/C mất quyền truy đòi lại số tiền của L/C bất kỳ trong trường hợp nào. Loại L/C này được dùng rất phổ biến trong các hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có thể chuyển nhượng đựơc (Irrevocable Transferable L/C): Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó quy định quyền của Ngân hàng trả tiền được trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người khác, theo lệnh của người được hưởng lợi đầu tiên. Loại L/C này chỉ được chuyển nhượng một lần, chi phí cho việc chuyển nhượng do người hưởng lợi đầu tiên chịu. - Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): Thông thường khi tiến hành mua bán qua trung gian thì người ta dùng loại thư tín dụng này. Sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình, thì người xuất khẩu dùng L/C này để mở một L/C khác cho người khác hưởng với những nội dung gần giống như L/C ban đầu (L/C gốc), như vậy L/C sau gọi là L/C giáp lưng. - Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): Loại L/C này thường được dùng trong phương thức mua bán quốc tế hàng đổi hàng hoặc trong gia công quốc tế. Thư tín dụng đối ứng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi một thư tín dụng đối ứng nới nó đã được mở. - Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): Là loại thư tín dụng được dùng để trả tiền nhiều lần, trong khuôn khổ thời hạn do hợp đồng mua bán ngoại thương quy định. Sau khi thư tín dụng truớc đã được trả tiền song, thì thư tín dụng kế tiếp tự động có hiệu lực. Khi khối lượng hàng hoá lớn được giao đều đặn làm nhiều lần thì dùng loại L/C này sẽ rất thuận tiện. - Thư tín dụng dự phòng (Stand-by L/C): Đây là loại thư tín dụng mà Ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm trước người nhập khẩu về mặt tài chính khi L/C tuy đã được mở, nhưng người xuất khẩu không thực hiện được nghĩa vụ của mình đối với L/C. Loại L/C này được dùng phổ biến ở Mỹ. 16
  16. III- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc của Ngân hàng thương mại. 1. Nhân tố chủ quan. Một trong những nhân tố để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của một Ngân hàng thương mại là đối với bản thân Ngân hàng phải có tiềm lực, phải có khả năng để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Chất lượng thanh toán quốc tế phụ thuộc vào trình độ, khả năng xử lý công việc của cán bộ thanh toán, phụ thuộc vào trang thiết bị máy móc phục vụ cho việc trao đổi thông tin, phụ thuộc vào nguồn ngoại tệ của Ngân hàng có đủ đáp ứng kịp thời cho việc thanh toán và một điều quan trọng là phải có sự lãnh đạo, phương hướng hoạt động đúng đắn của ban lanh đạo. Để hoạt động thanh toán quốc tế của một Ngân hàng thương mại ngày càng phát triển thì phải không ngừng chú trọng nâng cao trình độ của cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ thanh toán nói riêng, đầu tư và nâng cao trang thiết bị máy móc cho các phòng nghiệp vụ. Ngân hàng phải tạo được uy tín, nâng cao được chất lượng của các dịch vụ Ngân hàng để thu hút đựơc nhiều khách hàng về giao dịch từ đó có thể khai thác được nguồn ngoại tệ cần thiết phục vụ cho nghiệp vụ cho vay ngoại tệ tạo điều kiện mở L/C. Bên cạnh đấy cũng phải thấy rằng kiến thức của khách hàng về lĩnh vực ngoại thương nói chung cũng như hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của quá trình thanh toán. Thiện chí của các bên tham gia trong khi mua bán cũng ảnh hưởng tới quá trình thanh toán. Và một điều quan trọng là khách hàng của Ngân hàng phải có khă năng thanh toán. Chính vì vây mà cán bộ thanh toán cần phải tư vấn kỹ cho khách hàng, xem xét khả năng tài chính của khách hàng và Ngân hàng phải có các biện pháp thu hút được nhiều khách hàng hơn. 17
  17. 2. Nhân tố khách quan. Các nhân tố khách quan ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng thương mại như: Tình hình kinh tế xã hội của đất nước nói chung và hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu. Các chính sách kinh tế đối ngoai, chính sách tài chính quốc gia của đất nước tạo bước phát triển về hoạt động kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, khuyến khích vốn đầu tư nước ngoài, cải tổ lại hệ thống Ngân hàng .v.v từ đó thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế phát triển. Bên cạnh đấy hệ thống thanh toán của hệ thông Ngân hàng, quy trình các nghiệp vụ thanh toán cần phải được hoàn thiện để thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế được nhanh chóng hơn, chính xác hơn. 18
  18. Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. I- Khái quát chung về chi nhánh Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm. 1. Giới thiệu khái quát về Chi nhánh. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có trụ sở tại 37 Hàng Bồ – Hà Nội. Là một doanh nghiệp nhà nước, được hình thành trên cở sở cũ là Ngân hàng Nhà nước chi nhánh quận Hoàn Kiếm vào thời kỳ hệ thống ngân hàng một cấp. Lúc đó Ngân hàng chủ yếu phục vụ cho sự phát triển kinh tế quận Hoàn Kiếm, doanh thu hoạt động của Ngân hàng lúc đó chỉ hơn 1 tỷ. Năm 1985 thay đổi cơ chế quy mô hoạt động của ngân hàng, từ hệ thống ngân hàng một cấp chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp cho nên vào ngày 1/7/1988 Ngân hàng Nhà nước Hoàn Kiếm trở thành Ngân hàng Công Thương khu vực Hoàn Kiếm, trực thuộc Ngân hàng thành phố Hà Nội. Năm 1985 - 1986 dư nợ của ngân hàng hơn 200 tỷ, nguồn vốn chủ yếu là các quỹ tiết kiệm, các luồng tiền gửi của dân cư. Do đặc thù hoạt động phục vụ kinh tế quận cho nên doanh thu không lớn, mức độ rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Cho nên năm 1997 Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm quyết định chuyển hướng, thay thế đội ngũ khách hàng, mở rộng cơ cấu nguồn vốn, hoạt động phục vụ chủ yếu các doanh nghiệp lớn có tình hình tài chính lành mạnh, có thị phần hàng hoá và biết sử dụng vốn của ngân hàng một cách có hiệu quả. Nguồn vốn khoảng từ 300 tỷ đă lên 1600 tỷ vào cuối năm 1988 và dư nợ từ 170 tỷ lên từ 600 tỷ dến 700 tỷ. Doanh số cho vay năm 2000 đạt 1690 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 1999. Năm 2001 dự nợ tăng 17% so với năm 2000, trong năm không có phát 19
  19. sinh nợ quá hạn. Năm 2002, tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh đạt 808 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2001. Đến nay tổng cán bộ công nhân viên của Ngân hàng hơn 230 người, trong đó có một giám đốc và ba phó giám đốc. Là một đơn vị trực thuộc Ngân hàng công thương Việt Nam. Hiện nay ngân hàng có 10 phòng ban, mỗi phòng ban thực hiện các chức năng và mảng công việc riêng, cụ thể có: Phòng nguồn vốn, Phòng kinh doanh, Phòng kế toán, Phòng kinh doanh đối ngoại, Phòng ngân quỹ, Phòng vi tính, Phòng kiểm soát, Phòng thu nợ, Phòng tổ chức hành chính nhân sự, Phòng giao dịch Đồng Xuân, Phòng dịch vụ chuyển tiền cá nhân, Tổ dịch vụ Sài Đồng. Riêng phòng nguồn vốn có 11 quỹ tiết kiệm nằm rải rác trên địa bàn quận. Các hoạt động dịch vụ của ngân hàng ngày càng được phát triển thêm, hiện nay Ngân hàng sẵn sàng đáp ứng các dịch vụ ngân hàng – tài chính như: Mở tài khoản tiền gửi doanh nghiệp và cá nhân, nhận tiền gửi tài khoản bằng đồng VNĐ và ngoại tệ, tín dụng, bảo lãnh, thanh toán trong nước và quốc tế, chuyển kiều hối, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế - séc du lịch, mua bán ngoại tệ, dịch vụ chuyển tiền nhanh, dich vụ chi trả tiền lương, dịch vụ kho quỹ. Đặc biệt, phục vụ tận doanh nghiệp: Dịch vụ Bảo hiểm, dịch vụ thẻ ATM, dịch vụ tư vấn quản lý tài chính,.v.v 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh mấy năm gần đây. Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế và của ngành ngân hàng, nhưng Ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã cố gắng vưon lên về nhiều mặt và đã đạt được những kết quả tốt đẹp, đáng khích lệ. Kết quả đó củng cố được vị thế của Ngân hàng, cải thiện một bước đời sống cán bộ công nhân viên, đồng thời góp phần vào sự nghiệp phát triển của nền kinh tế. Với phương châm “ổn định - an toàn - hiệu quả và phát triển” ngay từ đầu năm 1998, Chi nhánh đã xác định cho mình một hướng đi đúng đắn. Cùng với mục tiêu tăng trưởng dư nợ đối với khách hàng chiến lược Chi nhánh đã đa 20
  20. dạng hoá sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, phát triển các hình thức cho vay nội tệ, ngoại tệ, trung và dài hạn, nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế và chuyển tiền nhanh qua mang vi tính, dich vụ thẻ ATM. Lịch sử phát triển của Chi nhánh là huy động tiền gửi của dân cư từ các quỹ tiết kiệm, trong đó VNĐ chiếm gần 100% với lãi suất đầu vào rất lớn. Việc cho vay tập trung chủ yếu ở các hợp tác xã, hợp tác tiểu thủ công nghiệp thuộc kinh tế quận cùng các khách hàng tư nhân, cá thể. Từ đầu năm 1997 với một tập thể ban lãnh đạo và lãnh đạo các phòng ban mới kiện toàn, có tâm huyết, nhiệt tình, tận tâm với nghề, đoàn kết một lòng với sự chỉ đạo của Ngân hàng công thương Viêt Nam và xu thế phát triển kinh tế của đất nứơc. Khởi đầu là sự thay đổi trong cách đánh giá, nhìn nhận về cơ cấu chiến lược khách hàng, chi nhánh đã tìm hiểu, tiếp cận thuyết phục được để đầu tư cho những khách hàng có tiềm lực kinh tế dồi dào, có thế mạnh trong cạnh tranh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Với nền kinh tế đang ngày càng tiến gần ngữơng cửa hội nhập : Mở cửa và hội nhập đang tạo ra cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt Nam và những người bạn đồng hành với nó - các ngân hàng. Nhận thức rõ cơ hội và thách thức, bám sát chỉ đạo của Ngân hàng công thương Việt Nam, cấp uỷ chính quyền, tranh thủ sự hợp tác giúp đỡ của bạn hàng, Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã nỗ lực phấn đấu vươn lên phát triển kinh doanh và đã đạt được: 1. Công tác huy động vốn: Mạng lưới quỹ tiết kiệm của Chi nhánh nằm rải rác khắp địa bàn quận, tận thu nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tốc độ nguồn vốn huy động tăng trưởng cao trong bối cảnh hầu hết các Ngân hàng thương mại đều tăng lãi suất huy động để thu hút nguồn vốn. Năm 2000 thu được 530 tỷ đồng tăng 12% so với năm 1999 đưa tổng nguồn vốn của Chi nhánh lên đến hơn 2182 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 1999. 21
  21. Năm 2001, tổng nguồn vốn huy động là 4200 tỷ đồng, tăng 2027 tỷ đồng, vượt 93% so với năm 2000. Năm 2002, đạt 4700 tỷ đồng (tăng 12,6% và vượt 5,2 % so với kế hoạch đặt ra). Có thể nói, sự tăng trưởng lớn về nguồn vốn không chỉ là kết quả của phong cách phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình chu đáo, mà còn khẳng định về uy tín và vị thế của Chi nhánh trên thương trường. Với tổng nguồn vốn lớn và ổn định, Chi nhánh có đủ khả nằng để đáp ứng mọi nhu cầu về vốn đối với khách hàng, đồng thời chuyển vốn về Ngân hàng công thương Việt Nam, góp phần điều hoà toàn bộ hệ thống và tham gia thị trường vốn. 2. Hoạt động tín dụng: Là hoạt động cơ bản, quan trọng của Chi nhánh. Vì vậy đây không chỉ là nhiệm vụ của ngành cán bộ kinh doanh, mà là lĩnh vực lôi cuốn tất cả các phòng ban, các hoạt động hướng về phục vụ một cách tốt nhất đối với khách hàng. Mục tiêu cơ bản được đặt ra là nâng cao chất lượng tín dụng, hoạt động tín dụng chủ yếu đi vào chiều sâu. Chính vì vậy Chi nhánh đã liên tục rà soát, đáng giá chất lượng tín dụng sàng lọc và nâng cao chất lượng dư nợ đối với những khách hàng truyền thống, đồng thời không ngừng nghiên cứu, tìm kiếm và tiếp thị các khách hàng mới là các tổng công ty 90, 91 và các doanh nghịêp có vốn đầu tư nước ngoài có uy tín và khả năng tài chính lành mạnh, tiếp cận các dự án có tính khả thi cao, đặt nền móng cho việc mở rộng công tác tín dụng một cách vững chãi. Vốn tín dụng được đầu tư an toàn, hiêu quả cho các ngành kinh tế trọng điểm như: Than, Điện, Dầu khí, Lương thực, Lắp máy, chế biến nông sản xuất khẩu, Xây dựng v.v Các doanh nghiệp dân doanh và hộ gia đình có nhu cầu cũng được chú ý nhiều hơn. Doanh số cho vay năm 2000 đạt 1690 tỷ đồng tăng 18% so với năm 1999. Doanh số thu nợ đạt 1713 tỷ tăng 13% so với năm 1999. 22
  22. Dư nợ cho vay bình quân đạt 330 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay nội tệ chiếm 82%, dư nợ cho vay ngoại tệ chiếm 18%, dư nợ ngắn hạn chiếm 72%, dư nợ trung dài hạn chiếm 28% tổng dư nợ. Năm 2001 dư nợ đạt 641 tỷ đồng, tằng 17,3% so với năm 2000. Trong năm không phát sinh nợ quá hạn. Dư nợ ngắn hạn chiếm 62%, dư nợ trung dài hạn chiếm 38%. Doanh số cho vay đạt 1933 tỷ đồng, tăng so với năm 2000 là 14%, trong đó doanh số cho vay xuất nhập khẩu đạt 1291 tỷ đồng. Năm 2002 tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh đạt 808 tỷ đồng tăng 26% so với năm 2001, ngắn hạn chiếm 44%, trung dài hạn chiếm 56%, dư nợ cho vay ngoài quốc doanh chiếm 29%, tập trug chủ yếu vào các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên thế giới. Sở dĩ dư nợ ngày càng tăng vì Ngân hàng đã xác định qui mô dư nợ phù hợp với trình độ, khả năng và kinh nghiệm quản lý của cán bộ, lấy an toàn, hịêu quả làm mục tiêu hàng đầu, phát triển đúng hướng, phù hợp chủ trương của Ngân hàng công thương Việt Nam. 3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế . Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế của Chi nhánh bắt đầu phát triển mạnh từ cuối năm 1997 và đến năm 1998 trở thành hiện tượng quan trọng đóng góp lớn vào hiệu quả của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Năm 2000 đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của Chi nhánh. Với tinh thần cố gắng làm việc phấn đấu vươn lên, với nghiệp vụ vững vàng và phong cách giao dịch được hoàn thiện một cách rõ nét của từng cán bộ kinh doanh đối ngoại, sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các phòng ban nên dù gặp muôn vàn khó khăn do sự khan hiếm ngoại tệ mang lại . Nhưng với thời gian hoạt động chưa bằng một nửa các chi nhánh khác, Chi nhánh đựơc đánh giá là 1 trong 6 đơn vị có hoạt động thanh toán quốc tế phát triển nhất trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam. 23
  23. Năm 2000 Chi nhánh đă đạt được doanh số thanh toán hàng xuất là 60 triệu USD, chiếm 20% tổng doanh số hàng xuất của hệ thống Ngân hàng công thương, mở được 440 L/C với doanh số 40 triệu USD, đáp ứng yêu cầu nhập khẩu của khách hàng. Đối với nghiệp vụ nhờ thu, TTR Chi nhánh cũng đã làm rất tốt, doanh só nhờ thu đạt 12 triệu 741 ngàn USD, doanh số TTR đạt 52 triệu USD, đưa doanh số thanh toán hàng nhập khẩu lên 104 triệu USD (quy đổi). Doanh số mua bán ngoại tệ đạt 95 triệu USD, thu phí về hoạt động thanh toán quốc tế là 2,4 tỷ đồng. Năm 2001, doanh số kinh doanh ngoại tệ đạt 190 triệu USD (trong đó doanh số mua 96 triệu USD, bán 94 triệu USD) tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 170 triệu USD, tăng 4% so với năm 2000, trong đó doanh số xuất khẩu đạt 55 triệu USD. Tổng thu phí dich vụ kinh doanh đối ngoại và thanh toán quốc tế đạt 3,5 tỷ đồng, tăng 46% so với năm 2000, trong đó thu phí từ kinh doanh ngoại tệ là 1,1 tỷ đồng. Năm 2002, tổng thu phí hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế đạt 3,3 tỷ đồng, trong đó thu từ kinh doanh ngoại tệ là 1 tỷ đồng tăng 27% so với năm 2001. 4. Công tác kế toán và lợi nhuận. Cùng với các phòng ban khác, phòng kế toán đã có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng dich vụ, củng cố thêm nguồn tiền gửi kỳ hạn ổn định, tăng khối lượng thanh toán qua ngân hàng, chuyển tiền điện tử, tạo ra nguồn thu nhập không nhỏ từ thu phí dich vụ. Công tác kế toán đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước, đảm bảo chính xác, trung thực, hợp lệ, hợp pháp. Đặt biệt từ tháng 8/2000 Ngân hàng đã thành lập thêm Tổ dich vụ chuyển tiền và tài khoản cá nhân ở 39 Hàng Bồ và Tổ dịch vụ thanh toán khu công nghiệp Sài Đồng tạo nên một bứơc đột phá, nhằm đa dạng hoá hoạt động dich vụ để phục vụ khách hàng đựơc tốt hơn. 24
  24. Năm 2000, Chi nhánh đã có đựơc gần 22 tỷ đồng lợi nhuận hạch toán. Năm 2001 vẫn đạt 17,5 tỷ đồng, vượt 16% so với kế hoạch Ngân hàng công thưong Việt Nam giao. Đặc biệt, năm 2002 Chi nhánh đa tham gia mạng thanh toán điện tử liên ngân hàng và phát triển thêm dịch vu thẻ ATM. Trong năm, tổng thu dich vụ là 6865 triệu đồng, tăng 65% so với năm 2001, chiếm 11% lợi nhuận hạch toán. 5. Công tác đào tạo, tổ chức nhân sự và các công tác khác: - Công tác đào tạo luôn được quan tâm và coi trọng. Trong năm 2002, Chi nhánh đã liên tục cử cán bộ tham gia các khoá học bồi dưỡng nghiệp vụ của Ngân hàng công thương Việt Nam. Đặt biệt đã tổ chức lớp học kỹ năng bán hàng cho 30 cán bộ thuộc các phòng ban khác nhau nhằm cung cấp kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng lắng nghe, gợi mở nhu cầu, theo phương pháp bán hàng hiện đại. Lớp học đựơc anh chị em rất hoan nghênh và nhiệt tình phổ biến những kiến thức đã học tới toàn thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh. - Công tác ngân quỹ luôn được cải tiến, đảm bảo thực hiện thu chi tiền mặt nhanh chóng chính xác, hiệu quả. - Công tác thông tin điện toán được Chi nhánh rất chú trọng tới việc ứng dụng tin học vào công tác quản lý, đã xây dựng thành công các chương trình quản lý nhân sự và quản lý dữ liệu nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho ban lãnh đạo. - Công tác kiểm tra nội bộ thường xuyên, liên tục, theo định kỳ hoặc đột xuất nhằm phát hiện kịp thời những thiếu sót trong tất cả các nghiệp vụ. - Công tác thu hồi nợ đọng cũng được đẩy mạnh, giảm được một phần những khoản nợ đọng do lịch sử để lại. - Năm qua, Chi nhánh đã triển khai thực hiện tốt, có sáng tạo quy chế dân chủ tại cơ sở. Qua kiểm tra, Chi nhánh đã được chủ tịch Công đoàn ngành và Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đánh giá cao. 25
  25. - Ngoài ra, Chi nhánh ta đã duy trì được các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể thao, thường xuyên tổ chức giao lưu với các đơn vị, khách hàng và ngân hàng bạn làm phong phú đời sống tinh thần của cán bộ nhân viên và củng cố thêm niềm tin, mối quan hệ tốt đẹp giữa Chi nhánh với bạn hàng. II- Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế ở Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. 1. Sự ra đời và phát triển. Kể từ năm 1990, do sự biến động về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước cũng như trên thế giới đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước thay đổi nhiều mặt. Trước tiên, do nền kinh tế trong nước bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, nên các giao dịch ngoại thương không còn bị bó buộc bởi Nhà nước nên đã bùng nổ theo sự chỉ đạo của “ bàn tay vô hình” dẫn đến kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên. Đặc biệt, từ khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Trước tình hình đó, nếu vẫn để một mình Ngân hàng ngoại thương độc quyền trong thanh toán quốc tế thì chắc chắn Ngân hàng ngoại thương không thể kham nổi. Chính vì vậy, ngày 24-5-1992 Hội đồng Nhà nước đã ký pháp lệnh số 38/CCT - HĐNN cho phép các Ngân hàng thương mại tham gia vào các quan hệ tín dụng và thanh toán quốc tế. Kể từ đó, Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã được phép tham gia vào nghiệp vụ thanh toán quốc tế, song tự xét thấy chưa đủ khả năng cũng như chưa có nhu cầu từ phía khách hàng nên Chi Nhánh vẫn chưa thực sự tham gia vào hoạt động này. Nhưng cùng với quá trình đi lên của nền kinh tế, đứng trước thực trạng là khách hàng có quan hệ tín dụng với Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, có tài khoản ở Chi nhánh song nếu có quan hệ thanh toán quốc tế lại phải thực hiện thông qua Ngân hàng ngoại thương, điều đó kéo theo nhiều thủ tục rườm rà. Tại sao trong khi Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm 26
  26. được phép tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế mà khách hàng của mình lại phải thông qua Ngân hàng Ngoại thương. Để giải quyết vấn đề này, năm 1996 Tổ thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại được nâng cấp lên thành phòng Kinh doanh đối ngoại. Ban đầu Chi nhánh gặp rất nhiều khó khăn do chưa có kinh nghiệm trong nghiệp vụ này, nhưng được sự chỉ đạo của Ngân hàng công thương Việt Nam, cùng với trình độ chuyên môn và sức sáng tạo của đội ngũ nhân viên làm công tác kinh doanh đối ngoại, Chi nhánh đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong hoạt động kinh doanh hết sức mới mẻ này. Nghiệp vụ bắt đầu phát triển mạnh từ cuối năm 1997 và đến năm 1998 đã trở thành hoạt động quan trọng đóng góp lớn vào kết quả của Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Phòng kinh doanh đối ngoại hiện nay có 15 người, các nghiệp vụ chính của phòng như: Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu, thanh toán L/C xuất khẩu, thanh toán chuyển tiền, kinh doanh ngoại tệ, dich vụ thẻ ATM, ngoài ra còn có các dịch vụ như chi trả kiều hối, thanh toán séc du lịch,.v.v 2. Quy trình một số nghiệp vụ thanh toán quốc tế chủ yếu ở Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Trước đây hoạt động thanh toán quốc tế của hệ thống Ngân hàng công thương Viêt Nam được thông qua hai đầu mối là hội sở Ngân hàng công thương Việt Nam (đối với các chi nhánh phía bắc) và Chi nhánh Ngân hàng công thương thành phố Hồ Chí Minh (đối với các Chi nhánh phía nam). Từ năm 1995 để đảm bảo sử dụng nguồn ngoại tệ một cách tiết kiệm, có hiệu quả nhất, đồng thời để phát huy được sức mạnh của cả hệ thống và đảm bảo vai trò kiểm soát của Ngân hàng công thương Viêt Nam hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng công thương Việt Nam được tập trung một đầu mối là Ngân hàng công thương Viêt Nam. Ngân hàng công thương Viêt Nam là đầu mối duy nhất của cả hệ thống thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các chi nhánh trực thuộc Ngân hàng công thương Việt Nam có đủ điều kiện tham gia thanh toán quốc tế đều thực hiện qua đầu mối duy nhất là Ngân hàng công thương Việt Nam. Chỉ có Ngân 27
  27. hàng công thương Việt nam mới được phép đặt quan hệ đại lý và mở tài khoản NOSTRO tại Ngân hàng đại lý ở nước ngoài, các tài khoản tiền gửi tiền vay tại Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại khác trên lãnh thổ Việt Nam. Ngân hàng công thương Việ Nam mở tài khoản điều chuyển vốn ngoại tệ, tiền gửi dữ trữ bắt buộc, cho các Chi nhánh theo từng loại ngoại tệ và thực hiện tính lãi cho các Chi nhánh. Các Chi nhánh được yêu cầu Ngân hàng công thương Việt Nam chuyển đổi từ loại ngoại tệ này sang loại ngoại tệ khác. Hàng quý, Ngân hàng công thương Việt Nam thông báo hạn mức sử dụng ngoại tệ cho từng Chi nhánh Ngân hàng công thương (bao gồm hạn mức tối thiểu và hạn mức gia tăng) để Chi nhánh chủ động trong việc giải quyết các mối quan hệ với khách hàng. Nếu Chi nhánh có nhu cầu tăng thêm phải báo ngay về Ngân hàng công thương Việt Nam. Việc thanh toán ngoại tệ trong nội bộ hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam, giữa hệ thống Ngân hàng công thương với các ngân hàng khác hệ thống và các Ngân hàng nước ngoài, việc mở L/C và thông báo L/C đều được thực hiện trên máy vi tính theo một chương trình phần mềm thống nhất. Hiện nay, quy trình tổ chức theo dõi thanh toán L/C xuất nhập khẩu, quy trình thanh toán nhờ thu ngoại tệ được thực hiện theo quyết định số 26/NHCT ngày 1/03/1996 của thống đốc Ngân hàng công thương Việt Nam. 2.1. Quy trình tổ chức và theo dõi thanh toán L/C nhập khẩu. Chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là Chi nhánh loại một được NGân hàng công thương Việt Nam chấp nhận trực tiếp mở L/C, kiểm soát và chịu trách nhiệm về toàn bộ nội dung, tính chính xác của L/C và khả năng thanh toán của khách hàng. 2.1.1. Tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ. Chi nhánh chỉ được phép trực tiếp nhận hồ sơ thanh toán L/C hàng nhập khẩu cho khách hàng khi còn hạn mức sử dụng hoặc phạm vi mức gia tăng (nếu có) theo quy định của Ngân hàng công thương Việt Nam tong mối quan 28
  28. hệ điều chuyển vốn ngoại tệ nội bộ, chấp hành mức phán quyết trong cho vay hoặc bảo lãnh theo quy định thực hiện hành của Tổng giám đốc Ngân hàng công thương Việt Nam. Khách hàng có nhu cầu nhập khẩu thanh toán bằng phương thức L/C nếu không có ký quỹ hoặc mức ký quỹ dưới 100%, trước khi làm thủ tục mở L/C đều phải làm thủ tục cam kết thanh toán hoặc vay vốn thông qua phòng kinh doanh, cam kết thanh toán hoặc khế ước vay phải được lãnh đạo Chi nhánh phê chuẩn. Để nâng cao trách nhiệm của Ngân hàng, giảm bớt thủ tục phiền hà, Chi nhánh có thể tiến hành phân loại, cấp hạn mức tín dụng mở L/C cho các khách hàng có quan hệ giao dịch thường xuyên, quan hệ vay trả sòng phẳng, xác định mức ký quỹ tối thiểu cho từng đơn vị có quan hệ giao dịch khi mở L/C thanh toán bằng vốn tự có. Hạn mức tín dụng mở L/C, tỷ lệ ký quỹ khi mở L/C bằng vốn tự có hoặc cam kết thanh toán do giám đốc Chi nhánh quyết định và chịu trách nhiệm trên cơ sở đề xuất của phòng kinh doanh tuỳ theo hạn mức tín nhiệm, khả năng tài chính hoặc tài sản thế chấp và hiệu quả kinh doanh của các hàng hoá nhập khẩu, Và thông báo cho bộ phận thanh toán quốc tế vào đầu quý khi có nhu cầu bổ xung hoặc thay đổi thải thông báo bằng văn bản. Cán bộ thanh toán L/C khi tiếp nhận hồ sơ xin mở L/C của khách hàng phải kiểm tra xác minh và đảm bảo hồ sơ có đủ các điều kiện sau: - Đảm bảo tính pháp lý. - Nội dung của các tài liệu trong hồ sơ không mâu thuẫn nhau. - Có cơ sở đảm bảo thanh toán (mức ký quỹ, vốn vay, hạn mức mở L/C hoặc cam kết thanh toán có sự bảo lãnh của Ngân hàng). 2.1.2. Mở và phát hành L/C. Khi hồ sơ thanh toán của khách hàng đã đủ các điều kiện thanh toán viên tiến hành mở và phát hành L/C theo yêu cầu của khách hàng trên cơ sở đơn xin mở thư tín dụng trên máy vi tính trên tập tin MT 700. Sau khi hoàn thiện 29
  29. việc nhập lại dữ liệu, tập tin đựơc kiểm soát lại và được tính ký hiệu mật và chuyển về phòng thanh toán quốc tế sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt Nam để kiểm tra và chuyển ra Ngân hàng nước ngoài. 2.1.3. Việc tu chỉnh và tra soát. Sau khi L/C được phát hành, khi có nhu cầu tu chỉnh khách hàng phải lập giấy yêu cầu tu chỉnh gửi Chi nhánh, Chi nhánh tiến hành nhập dữ kliệu tu chỉnh trên tập tin MT 707 và mã hoá chuyển về hội sở Ngân hàng công thương Việt Nam theo như quy trình mở và phát hành L/C. Các tra soát với Ngân hàng nước ngoài được nhập và chuyển tiếp về hội sở trên tập tin MT N99. 2.1.4. Nhận, kiểm tra chứng từ và thanh toán. Sau khi nhận đựoc L/C và các sửa đổi có liên quan, người bán sẽ tiến hành giao hàng và lập bộ chứng từ thanh toán để gửi đến cho Chi nhánh thông qua Ngân hàng của họ. Chi nhánh có trách nhiệm nhận, kiểm tra, thanh toán và giao chứng từ cho khách hàng theo quy định. * Trường hợp thanh toán khi nhận chứng từ. Ngay sau khi nhận được bộ chứng từ từ bưu điện, Chi nhánh phải vào sổ theo dõi đồng thời kiểm tra nội dung của bộ chứng từ. Chi nhánh có khoảng thời gian tối đa 5 ngày làm việc để kiểm tra từ khi nhận chứng từ, ngoài khoảng thời gian này mọi khiếu nại liên quan không có giá trị hiệu lực. Trong khoảng thời gian cho phép nếu kiểm tra thấy có sự sai sót về số lượng hoặc nội dung chứng từ phải lập tức thông báo cho Ngân hàng nước ngoài thông qua hội sở Ngân hàng công thương Việt Nam, đồng thời thông báo với khách hàng của mình để xin ý kiến về việc chấp nhận thanh toán. Nếu bộ chứng từ hoàn hảo hoặc có sai sót nhưng được khách hàng chấp nhận thanh toán thì Chi nhánh phải: - Thực hiện thanh toán ngay theo chỉ dẫn trong thư đòi tiền của Ngân hàng nước ngoài nếu là thanh toán ngay. 30
  30. - Thông báo chấp nhận thanh toán và ngày đến hạn thanh toán nếu L/C thanh toán có kỳ hạn hoặc thanh toán chậm, theo dõi trả tiền đúng hạn như đã chấp nhận và chỉ dẫn trong thư đòi tiền của Ngân hàng gửi chứng từ. - Giao bộ chứng từ cho khách hàng sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết để khách hàng đi nhận hàng. Việc thông báo sai sót và chấp nhận thanh toán được thực hiện trên máy vi tính thông qua tập tin MT N99. * Trường hợp thanh toán khi nhận được điện đòi tiền. Khi nhận được điện đòi tiền theo chỉ dẫn của L/C Chi nhánh phải tiến hành kiểm tra nội dung bức điện theo đúng nội dung quy định trong L/C, đồng thời phải xác thực bức điện thông qua hội sở hoặc Ngân hàng có liên quan trong bức điện. Dựa trên nội dung và chỉ dẫn của điện đòi tiền đã đựơc xác thực, lập bảng kê thanh toán cho Ngân hàng gửi điện như trường hợp thanh toán khi nhận được bộ chứng từ. Khi nhận được chừng từ, trứơc khi giao cho khách hàng Chi nhánh cần phảỉ tiến hành kiểm tra, liên hệ với khách hàng, thông báo sai sót cho Ngân hàng gửi chứng từ như trường hợp trên hoặc có thể đòi hoàn tiền trong trường hợp chứng từ bị từ chối thanh toán. * Khách hàng từ chối khi bộ chứng từ sai sót trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải gữi lại chứng từ như khi nhận được để thông báo và chờ các chỉ dẫn từ Ngân hàng gửi chứng từ hoặc chỉ dẫn từ hội sở Ngân hàng công thương Việt Nam. * Ngân hàng chỉ ký hậu vận đơn hoặc bảo lãnh cho khách hàng nhận hàng khi chưa nhận được bộ chứng từ nếu có văn bản chấp nhận thanh toán vô điều kiện của khách hàng, kể từ khi bộ chứng từ có sai sót. 2.2. Quy trình thanh toán L/C hàng xuất khẩu. 2.2.1. Nhận, thông báo và xác nhận L/C xuất khẩu. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm nhận, thông báo L/C và các tu chỉnh có liên quan cho khách hàng của mình khi nhận được thông báo L/C từ hội sở 31
  31. Ngân hàng công thương Việt Nam hoặc khi nhận được L/C thông báo đã được xác thực từ các Ngân hàng khác trong nước. Trước khi thông báo cho khách hàng, L/C và các tu chỉnh có liên quan đến L/C phải đảm bảo tính xác thực thông qua ký hiệu mật đã thoả thuận hoặc chữ ký, mẫu dấu đã đăng ký của Ngân hàng thông báo đầu tiên. Việc xác nhận các L/C chỉ được thực hiện qua hội sở Ngân hàng công thương Viêt Nam. 2.2.2. Hoàn thiện, gửi chứng từ đòi tiền. Chi nhánh được phép nhận, kiểm tra và sử lý trong phạm vi 7 ngày làm việc, nhưng phải đảm bảo khi chứng từ gửi đến Ngân hàng nhận chứng từ theo chỉ dẫn trong thời hạn hiệu lực của L/C. Nếu kiểm tra nếu thấy sự khác biệt hoặc sai sót của chứng từ cần phảỉ sử lý: - Sai sót có thể thay thế hoặc sửa chữa, đề nghị khách hàng thay thế hoặc sửa chữa. - Sai sót không thể thay thế hoặc sửa chữa được, đề nghị khách hàng tu chỉnh L/C ( nếu có thể ) hoặc thông báo cho Ngân hàng phát hành nêu rõ các sai sót, xin chấp nhận thanh toán. - Sai sót không được chấp nhận đề nghị khách hàng chuyển sang hình thức thanh toán nhờ thu hoặc trả lại chứng từ cho họ. Nếu chứng từ kiểm tra phù hợp với L/C hoặc có sai sót nhưng đã có sự chấp nhận của Ngân hàng phát hành cần phải được hoàn thiện để Ngân hàng nhận chứng từ theo chỉ dẫn của L/C kèm theo chỉ thị hoàn tiền. Nếu chứng từ gửi đi sau 15 ngày mà không nhận được sự hồi âm, Chi nhánh phải có trách nhiệm tra soát Ngân hàng nước ngoài. 2.3. Quy trình thanh toán nhờ thu đến. 2.3.1. Tiếp nhận và kiểm tra chứng từ. 32
  32. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm tiếp nhận bộ chứng từ nhờ thu (kể cả nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ) do Ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong nước gửi đến, trường hợp đặc biệt có thể do khách hàng uỷ thác gửi đến trực tiếp với mục đích nhờ thu số tiền liên quan đến chứng từ. Sau khi nhận được bộ chứng từ nhờ thu đến Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có trách nhiệm. - Kiểm tra lệnh nhờ thu của người gửi chứng từ, lệnh nhờ thu phải đảm bảo cung cấp các chỉ dẫn một cách chính xác, đầy đủ và toàn diện như tên, địa chỉ của người thanh toán, người gửi chứng từ, chỉ dẫn và hướng dẫn thanh toán phải rõ ràng. - Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm chỉ được phép thực hiện theo đúng những hướng dẫn được đưa ra trong lệnh nhờ thu. - Nếu chi dẫn không rõ ràng hoặc vì một lý do nào đó không thể thực hiện được các chỉ dẫn đưa ra trong lệnh nhờ thu thì Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm phải tìm cách báo ngay cho bên gửi chứng từ nhờ thu cho Chi nhánh. - Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm không có trách nhiệm kiểm tra nội dung của bất cứ chứng từ nào có liên quan đến chứng từ nhờ thu, tuy nhiên trước khi thông báo hoặc gửi chứng từ cho người trả tiền cán bộ thanh toán phải đối chiếu số lượng và loại chứng từ thực tế nhận được với bảng liệt kê chứng từ của người lập lệnh nhờ thu, nếu phát hiện sự khác biệt hoặc thiếu mất chứng từ so với liệt kê phải lập tức báo ngay cho bên gửi chứng từ cho Chi nhánh. 2.3.2. Thông báo nhờ thu và sử lý chứng từ: Sau khi nhận được và kiểm tra số lượng, loại chứng từ như quy định trên, Chi nhánh tiến hành lập thông báo nhờ thu gửi cho khách hàng, người có trách nhiệm thanh toán hay chấp nhận thanh toán như chỉ dẫn trong lệnh nhờ thu. Chi nhánh chỉ giao chứng từ cho khách hàng khi nhận đủ số tiền phải thanh toán cho người hưởng (đối với chứng từ nhờ thu thanh toán ngay (D/P)) 33
  33. hoặc nhận được sự chấp nhận thanh toán (đối với chứng từ nhờ thu chấp nhận (D/A)). Quá trình nhận thông báo nhờ thu và nhận tiền thanh toán, nếu có những vướng mắc cần trao đổi, Chi nhánh trực tiếp liên lạc với người gửi chứng từ cho mình và lựa chọn phương thức thông tin thích hợp như bằng thư, telex, cable hoặc thông qua tập tin NT99 trên mạng thanh toán nội bộ của Ngân hàng công thương Việt Nam. 2.3.3. Thanh toán, chấp nhận. Khi nhận được tiền thanh toán, Chi nhánh phải thanh toán ngay cho người hưởng theo đúng chỉ dẫn của lệnh nhờ thu trên cơ sở trích tài khoản, điều chuyển vốn của Chi nhánh tại hội sở chính thông qua bảng kê MT 100 theo đúng quy trình thanh toán chuyển tiền hiện hành của Ngân hàng công thương Việt Nam. Khi nhận được sự chấp nhận thanh toán của người trả tiền, Chi nhánh phải thông báo cho người gửi chứng từ từ sự chấp nhận trả tiền thông qua Telex hoặc thông qua tập tin MT N99 trong mạng thanh toán quốc tế nội bộ của Ngân hàng công thương Việt Nam. 2.4. Quy trình thanh toán nhờ thu đi. 2.4.1. Tiếp nhận và sử lý chứng rừ. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm được trực tiếp nhận chứng từ nhờ thu của khách hàng uỷ thác, sau khi kiểm tra thì gửi bộ chứng từ kèm theo chỉ dẫn thanh toán đến Ngân hàng của người trả tiền theo thông lệ quốc tế theo phương thức chuyển tiền phát nhanh qua bưu điện. Chỉ dẫn đòi tiền đựơc chuyển vào tài khoản NOSTRO của Ngân hàng công thương Việt Nam tại nước ngoài. 2.4.2. Xử lý thông tin trong quá trình thanh toán. Quá trình chờ thanh toán nếu nhận được bất cứ thông tin nào về tình trạng bộ chứng từ đều phải xem xét kỹ lưỡng các thông tin, đối chiếu với hồ sơ lưu hoặc liên hệ với người hưởng để có những biện pháp xử lý thích hợp, 34
  34. nếu cần phải thông tin tra soát trực tiếp qua telex hoặc qua tập tin MT N99 nhờ Ngân hàng công thương Việt Nam chuyển tiếp đến Ngân hàng nhận chứng từ. 2.4.3 Thông báo và chấp nhận thanh toán : Khi nhận được báo có từ Ngân hàng công thương Việt Nam hoặc chấp nhận thanh toán từ Ngân hàng nhận chứng từ, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có trách nhiệm thông báo cho người hưỏng số tiền được thanh toán, chấp nhận và các khoản chi phí dịch vụ liên quan đến nghiệp vụ nhờ thu tại nước ngoài hay phí dịch vụ thanh toán trong nước cần thu tiếp. 2.5. Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền. 2.5.1. Nghiệp vụ chuyển tiền đến. Đối với nghiệp vụ này, hiên nay Ngân hàng công thưong Hoàn Kiếm đã hoàn toàn thực hiện thông qua mạng máy tính. Khi nhận được lệnh chuyển tiền đến từ Ngân hàng nước ngoài (bằng điện hay bằng thư ). Ngân hàng công thưong Hoàn Kiếm xem xét nội dung, tính chất hợp pháp của lệnh đó trên các mặt: Ngân hàng nào chuyển tiền đến, ai là người thụ hưởng, loại tiền gì, bao nhiêu, ai là người trả tiền, Sau đó làm thủ tục chi trả nếu lệnh chuyển tiền là chính xác. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm không có trách nhiệm gì giữa các bên liên quan mà chỉ làm trung gian chuyển tiền và có trách nhiệm pháp lý với Ngân hàng phát hành lệnh chuyển tiền. 2.5.2. Nghiệp vụ chuyển tiền đi. Thực hiện nghiệp vụ này, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là Ngân hàng phát hành lệnh chuyển tiền. Để có thể phát hành lệnh chuyển tiền, khách hàng trong nước phải xuất trình cho Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm lệnh chi trả (payment order) với nội dung như: ai là người thụ hưởng, số tiền bao nhiêu, loại tiền gì, lý do chuyển tiền, kèm theo đó là các chứng từ chứng minh khoản chi này cùng với sự phê duyệt của cơ quan chủ quản. 35
  35. Sau khi kiểm tra tính pháp lý của lệnh chuyển tiền, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có trách nhiệm chuyển đúng số lượng, loại tiền, địa chỉ theo yêu cầu của lệnh chuyển tiền. 3. Khối lượng thanh toán quốc tế ở Ngân hàng trong thời gian qua. Trước hết là việc thanh toán đòi tiền bộ chứng từ hàng xuất khẩu, đối với Chi nhánh đây là một nghiệp vụ mới mẻ Chi nhánh chưa có nhiều kinh nghiệm, nhưng với sự nỗ lực vươn lên vượt khó của những cán bộ kinh doanh đối ngoại, nên năm 2000 Chi nhánh đã đạt được doanh số thanh toán hàng xuất là 60 triệu USD, chiếm 20% tổng doanh số hàng xuất của hệ thống Ngân hàng công thương. Đây là một thành tích đặc biệt đáng ghi nhận. Đồng thời, Chi nhánh đã mở được 440 L/C với doanh số 40 triệu USD, đáp ứng đựơc yêu cầu nhập khẩu của khách hàng. Đối với nghiệp vụ nhờ thu, TTR Chi nhánh cũng đã làm rất tốt, cụ thể doanh số nhờ thu đạt 12 triệu 741 ngàn USD; doanh số TTR đạt 52 triệu USD, đưa doanh số thanh toán hàng nhập khẩu lên 104 triệu USD (quy đổi), thu phí về hoạt động thanh toán quốc tế là 2,4 triệu đồng. Năm 2001, trong bối cảnh giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu liên tục giảm nên mặc dù khối lượng xuất khẩu vẫn tăng lên, nhưng ngoại tệ “vào” ngân hàng vẫn giảm đáng kể. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 170 triệu USD tăng 4% so với năm 2000, trong đó, doanh số xuất khẩu đạt 55 triệu USD. Tổng thu phí dịch vụ từ kinh doanh đối ngoại và thanh toán quốc tế đạt 3,5 tỷ đồng, tăng 46% so với năm 2000. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu năm 2002 đạt 148 triệu USD, trong đó doanh số thanh toán xuất khẩu đạt 42 triệu USD và doanh số thanh toán nhập khẩu đạt 106 triệu USD. Doanh số dịch vụ thanh toán thẻ và séc đạt 1 triệu USD. Tổng thu phí hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế đạt 3,3 tỷ đồng. 36
  36. III- Đánh giá về hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. 1. Kết quả đạt được. Phòng kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm chính thức được nâng cấp lên phòng là năm 1996, nhưng khi đó Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm vẫn chỉ là Ngân hàng loại hai và năm 1997 thì mới trở thành Ngân hàng loại một. Lúc đó hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng và hoạt động của phòng kinh doanh đối ngoại nói chung mới phát triển và bắt đầu từ năm 1998 trở đi đã đạt đựơc kết quả khả quan. Qua khối lượng thanh toán quốc tế của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm ta cũng thấy được điều đó. Trong tổng số lợi nhuận của phòng kinh doanh đối ngoại thu được thì phần lợi nhuận thu được từ nghiệp vụ mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu chiếm phần lớn. Trước đây, khi nghiệp vụ thanh toán quốc tế còn do Ngân hàng ngoại thương độc quyền thì mặc dù nhiều doanh nghiệp có tài khoản tại Chi nhánh nhưng lại phải tiến hành thanh toán quốc tế qua Ngân hàng ngoại thương. Chính vì vậy khi Ngân hàng trở thành Ngân hàng loại một và nghiệp vụ thanh toán quốc tế được tiến hành tại Chi nhánh thì hầu hết các khách hàng đều thực hiện việc thanh toán của mình qua Chi nhánh. Hơn thế nữa, một điều cần khẳng định là nền kinh tế nước ta còn trong tình trạng nhập siêu nên các L/C nhập khẩu được mở nhiều. Hiện nay, trong số những khách hàng quen thuộc và thường xuyên có quan hệ với Chi nhánh có nhiều khách hàng là những doanh nghiệp lớn như: Tổng công ty lắp máy, Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật toàn bộ, Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì, Công ty vật tư và xuất nhập khẩu, Công ty hoá chất mỏ, Tổng công ty than Việt Nam, v.v Điều này cho thấy uy tín cũng như chất lượng dịch vụ của Chi nhánh ngày càng được nâng cao. 37
  37. Trong những năm đầu hoạt động nghiệp vụ thanh toán L/C hàng xuất khẩu không có một món nào nhưng thời gian gần đây nghiệp vụ này đã phát triển điều này chứng tỏ sự cố gắng rất nhiều của phòng kinh doanh đối ngoại. Cả hai nghiệp vụ nhờ thu và chuyển tiền của Chi nhánh cũng phát triển một cách đáng kể, góp phần vào lợi nhuận chung của hoạt động thanh toán quốc tế và nâng cao uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng. Có thể khẳng định được là thời gian qua hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh ngày càng phát triển mạnh mẽ. Chính vì vậy mà với thời gian hoạt động kinh doanh chưa bằng1/2 thời gian của các chi nhánh khác, nhưng Chi nhánh vẫn vươn lên đứng vị trị hàng đầu và là 1 trong số 6 đơn vị xuất sắc trong kinh doanh đối ngoại của hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam. 2. Hạn chế và nguyên nhân. Qua thực tế cho thấy hoạt động thanh toán quốc tế ở Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã đạt được những kết quả khả quan, góp phần thúc đẩy mọi mặt hoạt động kinh doanh của Chi Nhánh. Song bên cạnh đấy không còn ít hạn chế tồn tại khách quan và chủ quan cần đựơc từng bứơc khắc phục hoàn thiện nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh : - Mặc dù so với những năm trước hoạt động nghiệp vụ thanh toán L/C hàng xuất khẩu đã có nhưng vẫn phát triển chậm, do nhiều nguyên nhân: cần khẳng định là nền kinh tế nước ta vẫn còn nhập siêu, các doanh nghiệp có quan hệ với Ngân hàng chủ yếu là các doanh ngiệp nhập khẩu. Ngân hàng ngoại thương do thực hiện nghiệp vụ này từ lâu nên các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đều thanh toán L/C xuất khẩu qua Ngân hàng ngoại thương. - Khối lượng thanh toán nghiệp vụ nhờ thu và chuyển tiền tuy có phát triển nhưng so với các Ngân hàng thương mại khác là vẫn chưa cao. - Công nghệ thanh toán chưa được đáp ứng được yêu cầu thực tiễn: Hệ thống thanh toán ngoại tệ và thanh toán quốc tế của các Chi nhánh trong nội bộ hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam tuy đã đựơc thực hiện trên máy 38
  38. vi tính nhưng chương trình phền mềm chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, mức độ tự động chưa cao, việc truyền tin vẫn do con người thực hiện qua hệ thống truyền tin. Vì vậy, việc truyền tin chậm trễ, dễ mất mát tập tin làm ảnh hưởng đến uy tín của Ngân hàng. - Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu chưa được đẩy mạnh: Nguồn ngoại tệ của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm vẫn còn thấp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay ngoại tệ của khách hàng cho việc thanh toán. - Hình thức dịch vụ chưa đa dạng: Hiện nay Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có các dịch vụ như chi trả kiều hối, thanh toán séc du lịch, rút tiền tự động Luợng L/C thanh toán hàng xuất khẩu của Ngân hàng chưa cao, gây khó khăn cho Chi nhánh trong việc tự cân đối nhu cầu mua bán ngoại tệ. Chi nhánh nằm ngay trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của thủ đô, nơi thu hút số lượng rất lớn khách du lịch, tuy nhiên dịch vụ thanh toán thẻ của Chi nhánh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. - Trình độ cán bộ của Ngân hàng làm công tác thanh toán quốc tế tuy có đảm bảo yêu cầu song kinh nghiêm thực tế chưa nhiều dẫn đến tốc độ và độ chính xác trong việc xử lý các tình huống, đặc biệt nhiều khi còn mắc khiếm khuyết. - Về phía khách hàng có những khó khăn như việc bên cạnh những doanh nghiệp lâu năm có kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán quốc tế thì cũng có không ít những đơn vị chưa có kinh nghiệm. Do đó dẫn đến nảy sinh nhưng sai sót gây tổn hại không những đến chính doanh nghiệp mà còn gây tổn hại đến uy tín của Ngân hàng. Hầu hết các bộ chứng từ đều có sai sót, nhẹ thì Chi nhánh báo cho đơn vị sửa, nhưng còn một số lỗi không thể sửa được thì Chi nhánh chỉ còn cách báo cho Ngân hàng nhận L/C biết và chờ chỉ thị của họ. Chính vì vậy việc thanh toán có thẻ bị chậm, bị phạt, thậm chí còn phải huỷ bỏ. - Ngân hàng có thể chịu rủi ro trong trường hợp Ngân hàng bảo lãnh cho người nhập khẩu đi nhận hàng khi chứng từ chưa về đến, người nhập khẩu có thể có thể dây dưa thậm chí không thanh toán cho Ngân hàng trong khi Ngân 39
  39. hàng chi nắm gữi của họ một số tiền ký quỹ không lớn. Hoặc trường hợp người nhập khẩu và người xuất khẩu cấu kết để lừa đảo thì mọi hậu quả Ngân hàng sẽ phải gánh chịu. - Môi trường hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có sự cạnh tranh rất lớn của các Ngân hàng thương mại khác, đặc biệt là các Ngân hàng ngoại thương, các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, - Hành lang pháp lý cho hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng còn thiếu, bất cập, mặc dù luật Ngân hàng đã ban hành và có hiệu lực, nhưng chúng ta chưa có luật ngoại hối, luật hối phiếu, luật séc. Các văn bản hiện hành thì chồng chéo, qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi nên khó áp dụng, hiệu lực pháp lý chưa cao. - Cán cân vãng lai và cán cân thương mại quốc tế còn thâm hụt. Do cán cân vãng lai và cán cân thương mại quốc tế thâm hụt dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ, ảnh hưởng đến khả năng mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động thanh toán quốc tế. Chương III: giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. I- Định hướng phát triển về hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh. Năm 2003 mở ra cho Việt Nam một triển vọng kinh tế tốt đẹp, chưa bao giờ kinh tế Việt Nam đứng trước những cơ hội to lớn, tiếp cận được nhiều thị trường như vậy. Tuy nhiên năm 2003 cũng sẽ khác nhiều so với năm 2002, bởi 40
  40. Việt Nam sẽ phải cắt giảm 775 dòng thuế nhập khẩu theo khuôn khổ AFTA và Trung Quốc đang trở thành đối thủ hết sức nặng ký đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu hơn nữa để không bị mất thị phần ngay tại Việt Nam. Các yếu tố trên đều dự báo cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước sẽ gay gắt hơn, quyết liệt hơn, do đó sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của các Ngân hàng. Mặt khác việc thực hiện hiệp định thương mại Việt Mỹ và những cam kết của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) cũng sẽ đặt các Ngân hàng thương mại Việt Nam trước những thách thức mới. Vì vậy, để thích nghi với tình hình Chi nhánh đã đặt ra phương hướng, nhiệm vụ cho các phòng ban nói chung và phòng kinh doanh đối ngoại nói riêng. Cụ thể đối với phòng kinh doanh đối ngoại: - Hoạt động mua bán ngoai tệ, thanh toán quốc tế phấn đấu tăng từ 15 - 20% so với năm trước. - Giữ vững, phát triển và nâng cao nghiệp vụ thanh toán quốc tế nhằm đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của khách hàng trong lĩnh vực này. - Cùng với hội nhập, cơ hội kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế đang mở ra, phòng kinh doanh đối ngoại cần tăng cường bồi dưỡng kiến thức thương mại quốc tế, luật, thông lệ quốc tế cho cán bộ để phát triển các nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu tăng thu dịch vụ thông qua phát triển mạng lưới chi trả ngoại hối, thanh toán séc, thẻ tín dụng. Trong tưong lai không xa Ngân hàng sẽ phải cạnh tranh hoàn toàn bình đẳng với các Ngân hàng thương mại nước ngoài, những đối thủ nặng ký hơn hẳn về danh tiếng, lịch sử phát triển, công nghệ, vốn, chất lượng dịch vụ và cả trình độ nhân viên Các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm nói riêng đang đứng trước sứp ép cạnh tranh buộc phải chuyển đổi mô hình tổ chức từ trụ sở chính đến các chi nhánh theo hướng các ngân hàng hiện đại. Đây là bước tiến rất lớn vì nó đòi hỏi mỗi nhân viên đều phải sử dụng thành thạo máy vi tính và thao tác nghiệp vụ với tính chuyên nghiệp cao. 41
  41. Hơn nữa việc thực hiện Hiệp định thương mại Viêt - Mỹ, hiệp định AFTA đang làm nền kinh tế Viêt Nam biến đổi nhanh chóng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ sản xuất đến dịch vụ. Nếu cán bộ kinh doanh không kịp trang bị cho mình kiến thức để nhận biết và đánh giá thì việc xác định và lựa chọn đội ngũ khách hàng có năng lực cạnh tranh tốt sẽ không thể thực hiện được. Vậy nên, yêu cầu đào tạo đang được đặt ra cấp bách đòi hỏi các phòng ban nghiệp vụ nói chung và phòng kinh doanh đối ngoại nói riêng phải chủ động nêu ra những vấn đề cần nghiên cứu học hỏi để phối hợp với phòng tổ chức hành chính mở lớp học cho anh chị em. Trước mắt Chi nhánh cần nhanh chóng phổ cập kiến thức tin học, ngoại ngữ tạo sự chuyển biến tích cực để phát huy tốt năng lực mỗi cá nhân trong nghiệp vụ chuyên môn. - Tích cực nghiên cứu đưa ra các sản hẩm dịch vụ mới, phát triển doanh thu về dịch vụ (trong đó có dịch vụ thanh toán quốc tế) ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập khoảng 25 – 30%). - Chủ động nghiên cứu dự án hiện đại hoá Ngân hàng và hệ thống thanh toán, hệ thống Ngân hàng một cửa, dịch vụ Ngân hàng trực tuyến, dịch vụ Ngân hàng điện tử, sẵn sàng cho hội nhập. - Đi cùng và hỗ trợ là công tác nguồn vốn, công tác tín dụng và các công tác khác cần đẩy mạnh: Tạo vốn thông qua phát triển các nghiệp vụ thanh toán là hình thức huy động vốn hiệu quả nhất, bởi không chỉ có chi phí trả lãi thấp mà còn mang lại nguồn thu dịch vụ đáng kể cho Ngân hàng. Cần lựa chọn khách hàng, đẩy mạnh nghiệp vụ cho vay và bảo lãnh với các khách hàng có vị thế và sức cạnh trạnh lớn. - Tiếp tục nghiên cứu trình Ngân hàng Công thương Việt Nam về việc mua trụ sở làm việc thuận lợi để giao dịch với khách hàng và phù hợp với tầm vóc kinh doanh của Chi nhánh. 42
  42. II- Một số giải pháp. Như phần trên đã trình bày, thì phòng Kinh doanh đối ngoại của Ngân Hàng công thương Hoàn Kiếm được nâng cấp lên phòng vào năm 1996, nhưng lúc này Ngân hàng vẫn chỉ là Ngân hàng loại hai. Đến năm 1997 thì lúc này Ngân hàng mới trở thành Ngân hàng loại một, mặc dù thế hoạt động thanh toán quốc tế đối với Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm vẫn còn mới mẻ và gặp nhiều khó khăn. Cuối năm 1998 và các năm tiếp theo thì hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã đạt được một số kết quả khả quan. Nhưng để có thể tồn tại trong vòn xoáy của các qui luật thị trường và qui luật xã hội Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã phải tự đổi mới để đủ sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Mặt khác, hiện nay mọi hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm vẫn còn phải chịu sự phụ thuộc, kiểm soát của Ngân hàng công thương Việt Nam. Chính vì vậy, hoàn thiện để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng công thương Hoàn kiếm là điều hết sức cần thiết để tiến tới Chi nhánh có thể đứng ra thanh toán trực tiếp với bên nước ngoài với tư cách là một Ngân hàng độc lập. Đế có thể làm được điều này thì Ngân hàng công thương Hoàn kiếm cần: 1. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của Ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay, để việc hiện đại hoá công nghệ thanh toán cuả Ngân hàng là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Một ngân hàng hiện đại không thể thiếu công nghệ thanh toán hiện đại, nhờ có công nghệ thanh toán hiện đại thì Ngân hàng mới nâng cao được chất lượng phục vụ , mở thêm các dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình nghiệp vụ, có như vậy mới có thể hội nhập với các cộng đồng Ngân hàng quốc tế. Công nghệ thanh toán là một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh cạnh tranh của mỗi Ngân hàng, nó được thể hiện: - Tiết kiệm chi phí, đẩy nhanh tốc độ thanh toán và chuyển tiền, tập trung hiệu quả vốn kinh doanh. 43
  43. - Thực hiện kế toán giao dịch thức thời, kiểm soát từ xa các nghiệp vụ thị trường liên Ngân hàng, quản lý thông tin, phòng ngừa rủi ro - Đảm bảo an toàn và hiệu quả. Với sự phát triển khoa học công nghệ ngày càng tiên tiến, trong lĩnh vực thanh toán quốc tế đòi hỏi Ngân hàng thực hiện cần phải nhanh chóng chính xác. Vì vậy, yếu tố ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động thanh toán quốc tế là không thể thiếu được, nó mang tính cập nhật ở bất cứ thời gian nào. Đây là yếu tố mà mỗi một Ngân hàng phải tính đến và coi đó như là một vũ khí đặc biệt trong cạnh tranh thu hút khách hàng. Ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã có nhiều cố gắng trong việc trang bi máy tính nối mạng cục bộ với các Chi nhánh trong hệ thống Ngân hàng công thương đồng thời với việc phát hành triển khai phần mềm về kế toán giao dịch, thanh toán liên Ngân hàng và thanh toán quốc tế . Tuy nhiên, cho đến nay công nghệ thanh toán vẫn chưa hiện đại, phần mềm chương trình chưa đồng bộ và hoàn thiện, mức độ tự động hóa chưa cao, trang bị máy tính vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiện tại, phòng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh vẫn chưa được trang bị máy móc nhiều, công tác truyền tin còn phụ thuộc vào Ngân hàng công thương Việt Nam. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm cần có các chính sách từng bước hiện đại hoá Ngân hàng: + Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật phải được hiện đại hoá dần cùng với hệ thống vi tính đồng bộ và hoàn chỉnh, để phục vụ cho nhu cầu truyền và nhận thông tin liên lạc với các bên tham gia thanh toán một cách nhanh chóng, chính xác. Đòi hỏi mô hình thanh toán và quản lý ngân hàng trong hệ thống phải được đổi mới phù hợp với nhu cầu tự động hoá. + Xu hướng tới, Chi nhánh cần kết hợp với Ngân hàng công thương Việt Nam đổi mới hơn nữa trong lĩnh vực công nghệ, trang bị đầy đủ máy móc thiết bị hiện đại để phục vụ cho nhu cầu truyền tin, trao đổi thông tin liên lạc với các bên tham gia thanh toán được nhanh chóng tiết kiệm thời gian, sao cho 44
  44. các trang thiết bị đó có thể cùng hoà nhập và theo kịp cộng đồng ngân hàng thế giới, đảm bảo thanh toán quốc tế được thực hiện nhanh chóng hơn. Trong điều kiện Chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn về vấn đề tài chính, để trang bị cho Chi nhánh các trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh toán quốc tế cần phải có vốn đầu tư lớn. Chi nhánh có thể sử dụng một phần lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh hàng năm, kết hợp với sự giúp đỡ về tài chính cũng như kỹ thuật của Ngân hàng công thương Việt Nam để thực hiện quá trình nâng cấp các trang thiết bị máy móc hiện đại tại Chi nhánh. Từng bước đưa công nghệ thanh toán không dùng chứng từ vào ngân hàng, ứng dụng máy tính thu nạp dữ kiện thanh toán và bằng từ tính, đĩa mềm thay cho chứng từ doanh nghiệp. Ngày nay, lĩnh vực tin học đã đạt được những thành tựu to lớn, giá máy tính và thiết bị tin học đã giảm đáng kể, hơn nữa mạng bưu chính viễn thông của Việt Nam có bước phát triển vượt bậc. Chỉ có thực hiện nhanh việc hiện đại hoá công nghệ thanh toán của mình Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm mới có thể sớm giành được ưu thế, nâng cao chất lượng phục vụ, phát triển đa dạng các dịch vụ và chiếm lĩnh thị trường. 2. Nâng cao năng lực thực hiện thanh toán của đội ngũ cán bộ nhân viên thanh toán quốc tế . Nhân tố con ngươi đóng vai trò quyết định sự thành bại của bất cứ hoạt động nào. Vì vậy, công tác cán bộ cần được chú trọng, đặc biệt đối với cán bộ làm nghiệp vụ thanh toán quốc tế vì nó là nghiệp vụ mới mẻ. Chất lượng thanh toán quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, khả năng xử lý công việc của cán bộ thanh toán. Ngoài những nghiệp vụ chuyên doanh chính của Ngân hàng, cán bộ thanh toán cần hiểu biết về lĩnh vực ngoại thương, trình độ về máy tính, ngoại ngữ cần phải toàn diện. Bởi vì trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế luôn phải xem xét và xử lý các vấn đề có liên quan như : 45
  45. - Trách nhiệm và quyền hạn của các bên tham gia hoạt động ngoại thương cũng như hoạt động thanh toán quốc tế đều bị chi phối không chỉ bởi luật lệ, tập quán của từng quốc gia riêng biệt mà còn chịu sự qui định bởi các văn bản pháp quy quốc tế. - Trong hoạt động thanh toán quốc tế liên quan đến các vấn đề về xử lý các sai sót chứng từ và tranh chấp có thể xảy ra. Để có thể phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, Ngân hàng cần có đội ngũ cán bộ năng nổ nhiệt tình , giỏi cả về chuyên môn và ngoại ngữ, vi tính, am hiểu lĩnh vực ngoại thương, các luật lệ và tập quán quốc tế về ngoại thương và thanh toán quốc tế. Có thể tư vấn giúp khách hàng ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu, áp dụng phương thức và những điều kiện thanh toán có lợi nhằm tránh những rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại, đồng thời có thể xử lý được những tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng và thanh toán, đảm bảo quyền lợi khách hàng nhưng vẫn giữ uy tín của Ngân hàng trên thương trường quốc tế. Đội ngũ thanh toán quốc tế của Ngân hàng hiện nay còn mỏng, cán bộ đều trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực ngoại thương và thanh toán quốc tế. Để có đội ngũ cán bộ thanh toán đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, Ngân hàng cần: - Bổ sung thêm các cán bộ có trình độ chuyên môn, giỏi về ngoại ngữ và vi tính, am hiểu ngoại thương và thanh toán quốc tế. - Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về thanh toán quốc tế, các cuộc hội thảo về thanh toán quốc tế nhằm giúp các Chi nhánh trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ thanh toán quốc tế, học tập kinh nghiệm xử lý các tình huống phát sinh trong hoạt động thanh toán quốc tế để vừa đảm bảo quyền lợi của khách hàng, đồng thời giữ uy tín cho Ngân hàng. - Trích một phần từ lợi nhuận Ngân hàng để tài trợ cho các học viên là cán bộ của Chi nhánh đang theo học nâng cao nghiệp tại các trường đại học hoặc lớp nâng cao trình độ ngoại ngữ như vậy sẽ khuyến khích cán bộ có động lực trau dồi kiến thức toàn diện hơn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. 46
  46. - Bên cạnh việc bồi dưỡng trình độ trình độ chuyên môn, ngoại ngữ cho cán bộ thanh toán quốc tế thì cần chú ý bồi dưỡng đạo đức phẩm chất, cán bộ thanh toán quốc tế phải có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình, năng nổ, có thái độ và phong cách giao tiếp văn minh lịch sự 3. Tăng cường huy động vốn ngoại tệ. Đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, đặc biệt là tín dụng tài trợ nhập khẩu để trên cơ sở đó mà phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, Chi nhánh cần phải đẩy mạnh nghiệp vụ huy động vốn ngoại tệ. Bởi hiện nay các đơn vị nhập khẩu có nhu cầu vay ngoại tệ rất lớn, do chênh lệch lãi suất giữa ngoại tệ và đồng Việt Nam còn có khoảng cách lớn. Đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam á, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng, các Ngân hàng nói chung là rất khan hiếm ngoại tệ. Để có đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế Ngân hàng có thể vay của Ngân hàng công thương Việt Nam và cần đa dạng hoá các nghiệp vụ huy động vốn ngoại tệ để không những huy động được của các đơn vị kinh tế và dân cư trong nước mà của cả các công ty nước ngoài, xí nghiệp liên doanh, các tổ chức phi chính phủ, cá nhân người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Ngoài ra, Ngân hàng còn tìm nguồn vốn ngoại tệ từ nước ngoài bằng cách thông qua các hợp đồng vay vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng và Ngân hàng nước ngoài để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế. Đẩy mạnh nghiệp vụ thanh toán L/C hàng xuất để tăng thêm nguồn thu ngoại tệ đáp ứng hoạt động thanh toán quốc tế. 4. Giải pháp thu hút khách hàng . Đối với mọi hoạt động sản xuất sản xuất kinh doanh thì khách hàng là một yếu tố cực kỳ quan trọng, đặc biệt trong cơ chế thị trường “khách hàng là thượng đế“. Khách hàng quyết định khối lượng và qui mô hoạt động của Ngân hàng đó. Đối với Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một Ngân Hàng tham gia hoạt động thanh toán quốc tế mà số lượng khách hàng có quan hệ thanh toán 47
  47. quốc tế qua Ngân hàng còn ít, qui mô hoạt động còn nhỏ bé, uy tín của Ngân hàng chưa cao. Vì vậy để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế Chi nhánh cần: 4.1. Thực hiện chính sách khách hàng hợp lý. Để thực hiện chính sách khách hàng hợp lý, Ngân hàng phải lập ban chuyên nghiên cứu thị trường để nắm bắt được tập quán, thái độ và nhất là động cơ của khách hàng khi lựa chọn Ngân hàng. Nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng sự lựa chọn Ngân hàng để giao dịch của khách hàng thường được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu và so sánh các tiêu chuẩn của Ngân hàng như địa điểm Ngân hàng có thuận lợi không, chất lượng phục vụ ở quầy ra sao, thái độ của nhân viên giao dịch, sự thuận lợi và dễ dàng khi vay mượn, hình ảnh và sức mạnh và sự an toàn của ngân hàng. Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong hiện tại và tương lai để thấy được những điểm mạnh cần phát huy và thiếu sót cần khắc phục. Tứ đó đưa ra chính sách hợp lý. Chính sách khách hàng hợp lý là phải không phân biệt khách hàng về thành phần kinh tế nhưng do áp dụng một số ưu đãi hợp lý trong quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng, phải đáp ứng cao nhất nhu câù của khách hàng. Mục tiêu của việc xây dựng một chính sách khách hàng hợp lý là xây dựng và củng cố uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng, Ngân hàng mở rộng phạm vi kinh doanh một cách chắc chắn, tạo cho khách hàng có sự yên tâm tin cậy khi giao dịch và thanh toán quốc tế qua Ngân hàng. Ngân hàng phải là chỗ dựa lâu dài, nơi hậu thuẫn vững chắc cho khách hàng trong việc tư vấn và quản lý tài chính, đầu tư kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận. Chính sách khách hàng gắn liền với hiệu quả kinh doanh của khách hàng đối với hiệu quả, an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Yêu cầu củng cố thị trường, mở rộng có chọn lọc thêm khách hàng mới và thị trường mới, có bước đi vững chắc. Đối tượng khách hàng được ưu đãi: 48
  48. - Khách hàng có quan hệ truyền thống tốt, các bạn hàng lâu dài từ trước tới nay. - Các doanh nghiệp lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có vay trả sòng phẳng. - Các doanh nghiệp quốc doanh vừa và nhỏ, có khả năng là bạn hàng lâu dài. Chính sách khách hàng phải được cụ thể hoá bằng tiêu chuẩn xếp loại khách hàng và các hình thức ưu đãi. Việc rà soát xếp loại khách hàng phải được tiến hành thường xuyên. Hình thức ưu đãi: - Ưu đãi về vốn và lãi suất khi vay vốn: Với những khách hàng đặc biệt cho họ hưởng lãi xuất cho vay thấp hơn đối với các khách hàng khác. - Ưu đãi trong việc thế chấp tài sản khi vay vốn. - Ưu đãi về tỷ lệ ký quĩ trong việc mở L/C. Cần có chính sách ký quỹ L/C nhập khẩu hàng loạt, phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn tốt hơn nhưng vẫn đảm bảo an toàn trong khâu thanh toán của Ngân hàng. Chính sách ký quý mở L/C thích hợp giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về tài chính khích lệ động viên họ mở L/C nhập khẩu tại Ngân hàng. - Ưu đãi về phí dịch vụ, trong đó có phí thanh toán quốc tế: Hiện tại Chi nhánh thực hiện tính theo qui định của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam. Nhưng để thu hút được khách hàng, Chi nhánh cần đề nghị Ngân hàng công thương Việt Nam và bản thân Chi nhánh đưa ra được biểu tính chi phí ưu đãi so với các Ngân hàng khác. Chỉ cần giảm chút ít % chi phí, các khách hàng xuất nhập khẩu sẽ giảm được chi phí với những hợp đồng có giá trị lớn. - Ưu đãi về giá mua, bán ngoại tệ phục vụ thanh toán quốc tế. 49
  49. 4.2. Đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh đối ngoại. Để đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng, Ngân hàng cần nghiên cứu nhằm đa dạng hoá sản phẩm, các dịch vụ Ngân hàng, trên cơ sở đó củng cố mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng, đồng thời nâng cao uy tín, qui mô hoạt động của Ngân hàng. - Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo hành như bảo lãnh đấu thầu quốc tế, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh khả năng cung cấp hàng, bảo lãnh nhận hàng, bảo lãnh tiền đặt cọc, bảo lãnh mở L/C trả chậm. Tuy nhiên, đi đôi với nghiệp vụ bảo lãnh, đặc biệt đối với L/C trả chậm cần nâng cao chất lượng thẩm định, thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ bảo lãnh L/C trả chậm đối với những mặt hàng trong danh mục cho phép của nhà nước, không mở L/C trả chậm đối với hàng tiêu dùng, quản lý chặt chẽ tiền bán hàng. - Phát triển các dịch vụ thanh toán séc du lịch, Visa card và hệ thống rút tiền tự động, tham gia tổ chức Master Card quốc tế, phát hành và thanh toán thẻ tín dụng. - Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh cũng như các hình thức kinh doanh ngoại tệ (mua bán trao đổi ngay, mua bán có kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi) để đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng. - Mua bán trao ngay nhằm cân bằng ngoại tệ cho các hoạt động đối ngoại của khách hàng và trực tiếp kinh doanh với khách hàng - Mua bán kỳ có hạn: Có thể ký hợp đồng mua ngoại tệ có kỳ hạn của khách hàng và từ khi khách hàng nhận được thông báo L/C hoặc ký hợp đồng bán ngoại tệ có kỳ hạn cho khách hàng để thanh toán ra nước ngoài trong thời gian tới. 4.3. Đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếo văn minh lịch sự. Trong Marketing Ngân hàng chính sách giao tiếp hằng ngày càng có vị trí quan trọng, nếu chỉ coi trọng chính sách quảng cáo như quảng cáo cho chế độ an toàn các khoản tiền gửi tại Ngân hàng, các dịch vụ mà Ngân hàng cung 50
  50. cấp là sai lầm. Trên thực tế, sự quyết định lựa chọn của khách hàng trong giao tiếp nhiều khi không phải do quảng cáo đưa lại, mà chính là do phong cách giao tiếp của Ngân hàng. Thái độ, phong cách giao tiếp chính là nghệ thuật lôi kéo khách hàng giữ khách hàng có hiệu quả. Trong mắt khách hàng nhân viên là hình ảnh của Ngân hàng nên khi thực hiện nghiệp vụ họ cũng không biết chính mình đang làm Marketing. Việc đổi mới phong cách làm việc, thái độ giao tiếp của cán bộ thanh toán quốc tế Ngân hàng là một trong những biện pháp quan trọng để lôi kéo và giữ được khách hàng. Nhân viên thanh toán của Ngân hàng cần phải luôn luôn niềm nở, nhiệt tình, giải quyết công việc chính xác, không gây khó khăn và không sai hẹn với khách hàng, luôn sẵn sàng hướng dẫn và giúp đỡ khách hàng làm thủ tục một cách nhanh chóng chính xác. Sẵn sàng tư vấn cho khách hàng ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với những điều khoản và áp dụng phương thức thanh toán an toàn và có lợi nhất. Chi nhánh cần tổ chức một đội ngũ phục vụ giúp khách hàng làm các thủ tục cần thiết, tránh tình trạng khách hàng giải quyết một việc phải đi lại quá nhiều. 4.4. Đẩy mạnh công tác tiếp thị và quảng cáo. Ngày nay trong cơ chế thị trường diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng, muốn tồn tại và phát triển thì Ngân hàng không thể ngồi đợi khách hàng tìm đếm mình mà phải chủ động tìm đến khách hàng. Hiện nay, hoạt động tiếp thị của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm chưa được chú trọng, Chi nhánh chưa có bộ phận tiếp thị, vì vậy để tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng thì Ngân hàng cần đẩy mạnh tiếp thị, thành lập tiếp thị, để tìm hiểu thường xuyên nhu cầu của khách hàng và tiếp xúc với các khách hàng, tăng cường hoạt động quảng cáo nhằm thu hút các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc có nhu cầu mua bán ngoại tệ về giao dịch và thanh toán quốc tế qua Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. 51
  51. Ngân hàng nên thường xuyên phát hành các báo cáo thường niên của Ngân hàng gửi tới khách hàng, định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng để nắm được nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. 5. Tư vấn cho khách hàng trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Trong thực tế, không phải tất cả khách hàng tham gia vào hoạt động ngoại thương đều có sự am hiểu thông suốt về luật lệ, nguyên tắc, trong lĩnh vực này và tiềm lực tài chính của họ luôn luôn đáp ứng đủ ngay nhu cầu chi trả, ngoài ra còn tính đến thiện chí thực hiện thanh toán của họ nữa. Còn có nhiều khách hàng kiến thức của họ còn hạn chế, ảnh hưởng tới quyền lợi của bản thân họ trong khi ký kết hợp đồng mua bán cũng như trong việc thiết lập các chứng từ thanh toán. Chính vì vậy, ngoài việc thiết lập hồ sơ thanh toán của khách hàng yêu cầu, Chi nhánh cần có sự tư vấn cho các khách hàng trên các khía cạnh. Lợi ích của Ngân hàng gắn liền với hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì mới đảm bảo khả năng thanh toán cho nước ngoài khi đến kỳ hạn, đảm bảo uy tín cho khách hàng. Hơn nữa, Ngân hàng có mối quan hệ đại lý với các Ngân hàng nước ngoài nên thông qua đó tìm hiểu về đối tác tham gia ký kết hợp đồng với khách hàng của mình để tư vấn cho khách hàng trong khi mua bán và thanh toán sao cho có lợi nhất và tránh được các tình huống rủi ro. Với kinh nghiệm nghề nghiệp của mình Ngân hàng nên tư vấn miễn phí cho khách hàng nhằm đảm bảo quyền lợi cho họ: - Cần thiết tư vấn cho khách hàng ngay từ khi lập và ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu: Nên sử dụng phương thức thanh toán nào sao cho thuận tiện và chi phí thấp nhất, ngoài ra còn tính đến lợi ích tối đa mà phương thức thanh toán có thể mang lại. - Đối với khách hàng xuất khẩu: Hướng dẫn cho khách hàng lập các chứng từ phù hợp với thông lệ quốc tế và trong nước, đảm bảo sự thống nhất 52
  52. giữa các chứng từ mà bên đối tác có thể từ chối và thanh toán. Mọi chứng từ được lập ra phải cụ thể, rõ ràng, tránh sự hiểu nhầm và mâu thuẫn xảy ra. - Đối với khách hàng nhập khẩu: ngoài sự tư vấn cho khách hàng mình về các phương thức thanh toán, cán bộ thanh toán quốc tế cần yêu cầu khách hàng của mình chuẩn bị sẵn nghiệp vụ thanh toán để quá trình thanh toán được trôi chảy. Ngoài ra cán bộ thanh toán quốc tế cần chú ý khách hàng của mình về thiện chí tham gia khi buôn bán ngoại thương. Vì xét về lâu dài, mối quan hệ tín nhiệm của các bên đối tác sẽ làm nền tảng thành công cho hiệu quả và chất lượng trong lĩnh vực ngoại thương nói chung cũng như thanh toán quốc tế nói riêng. - Bản thân công tác tư vấn được tiến hành tốt đã có tác dụng là một dịch vụ thu hút khách hàng đến với Ngân hàng, vừa có tác dụng hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thanh toán L/C của Ngân hàng. 6. Đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Để các doanh nghiệp thực hiện thành công hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình, thì ngoài yếu tố chất lượng hàng hoá, uy tín của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng nước ngoài thì một vấn đề quan trọng là vấn đề tài chính phục vụ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Việc tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài chính cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là công cụ giúp các doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh. Hoạt động ngoại thương càng phát triển thì các hình thức thanh toán cũng đa dạng tất yếu dẫn đến sự đa dạng của các hình thức tài chính trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. 6.1. Hoạt động tài trợ xuất khẩu. Bao gồm các hình thức: 53
  53. - Cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất nhập khẩu: Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương đã ký với khách hàng nước ngoài hoặc căn cứ vào L/C đã được thông báo, Ngân hàng cấp tín dụng để giúp các đơn vị thu mua hoặc sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với những đơn vị cam kết thông báo L/C xuất khẩu và gửi bộ chứng từ thanh toán qua Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm thì sẽ được áp dụng lãi suất vay ưu đãi. - Chiết khấu bộ chứng từ: Căn cứ vào bộ chứng từ đòi tiền hoàn hảo, Ngân hàng mua lại toàn bộ chứng từ để giải phóng vốn cho vay cho doanh nghiệp, giúp cho họ có điều kiện tăng vòng quay vốn. - Chiết khấu hối phiếu: Căn cứ vào hối phiếu đã được Ngân hàng nước ngoài chấp nhận nhưng chưa đến hạn thanh toán, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách chiết khấu lại hối phiếu đó. 6.2. Hoạt động tài trợ xuất khẩu: - Cấp tín dụng cho khách hàng mở L/C hàng nhập qua Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Mọi tín dụng thư đều do Ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu, tuy nhiên không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng có đủ số dư tiền tài khoản để đảm bảo cho thư tín dụng. Trên thực tế, khoảng cách giữa thời gian mở thư tín dụng và thời gian thanh toán là một khoảng thời gian quá dài, nếu chúng ta khống chế số dư tài khoản của nhà nhập khẩu thì điều này sẽ ảnh hưởng tới khả năng kinh doanh của họ cũng như ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh. Nhưng khi mở L/C , thì L/C đó lại thể hiện một sự đảm bảo thanh toán trừu tượng, có thể nói đó là một sự đảm bảo thanh toán của Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng mở L/C phải gánh chịu một rủi ro khi một nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C hết hạn trả tiền. Để tránh những hoạt động cản trở tới kinh doanh của nhà nhập khẩu và đảm bảo uy tín của Ngân hàng, tránh được rủi ro mà Ngân hàng phải gánh chịu thì Ngân hàng mở ra loại hình cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức tín dụng. Do đó, trước khi mở L/C theo đề nghị của nhà nhập khẩu, Ngân hàng phải kiểm tra mục đích, đối tượng nhập khẩu, tính toán hiệu 54
  54. quả kinh tế của hợp đồng, xem xét khả năng hoạt động và cạnh tranh của nhà nhập khẩu hiện tại và trong tương lai Đó là cơ sở để đảm bảo vốn vay của Ngân hàng. - Ngoài ra Ngân hàng còn có thể cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu qua các hình thức cho vay để thanh toán tiền đặt cọc cho phía nước ngoài hay cho vay trong thời gian mà nhà nhập khẩu bán hàng hoá nhập khẩu về cho đến khi thu được tiền bán hàng. 7. Đảm bảo an toàn trong hoạt động thanh toán quốc tế. Hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Tuy nhiên, những rủi ro mà khách hàng phải gánh chịu dẫn đến rủi ro của Ngân hàng vì Ngân hàng là nhà tài trợ cho họ. Đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh đối ngoại là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thường bao gồm: - Rủi ro không đảm bảo khả năng thanh toán ngoại tệ của Ngân hàng: Có nghĩa là Ngân hàng không cân đối được nguồn vốn và sử dụng ngoại tệ dẫn đến không đủ số dư ngoại tệ trên tài khoản để thực hiện các chi trả cho nước ngoài đúng hạn, làm ảnh hưởng uy tín của Ngân hàng trên trường quốc tế. - Rủi ro trong thanh toán: Bao gồm những rủi ro như đã giao hàng nhưng không đòi được tiền thanh toán, hoặc đã thanh toán nhưng chưa nhận được hàng hoặc hàng nhận được không đủ tư cách phẩm chất Loại rủi ro này là do rất nhiều nhân tố như rủi ro về hoạt động chính trị (chiến tranh, cấm vận hay cấm nhập khẩu), rủi ro về mặt kinh tế như phía nước ngoài khó khăn về tài chính không đảm bảo khả năng thanh toán hoặc tuyên bố phá sản, rủi ro đạo đức như đối tác nước ngoài không có thiện chí hay có hành vi lừa đảo. - Rủi ro về tỷ giá: là những thiệt hại gây ra do sự biến động của tỷ giá gây nên. 55
  55. Để phòng chống các rủi ro này, nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh toán quốc tế đồng thời củng cố và tăng cường uy tín của Ngân hàng trên trường quốc tế và đối với khách hàng của mình, Ngân hàng cần áp dụng các biện pháp sau: - Thường xuyên theo dõi tình hình kinh tế, chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại. Nghiên cứu và nắm vững những tập quán của nước đó nhằm tránh những rủi ro trong thanh toán. - Thông qua hệ thống đại lý của Ngân hàng công thương mà điều tra, khai thác thông tin về tình hình tài chính, khả năng giao hàng, lịch sử và tư cách đạo đức của đối tác nước ngoài trong hợp đồng kinh tế đối ngoại. - Tư vấn cho khách hàng khi ký kết lựa chọn phương thức và các điều kiện thanh toán có lợi nhất. - Trong quá trình thực hiện hợp đồng yêu cầu khách hàng phải thường xuyên theo dõi việc giao hàng, thông tin về con tàu nhằm tránh tình trạng lừa đảo của đối tác nước ngoài. - Để tránh rủi ro tỷ giá cần dự trữ ngoại tệ đa dạng, phải thường xuyên theo dõi biến động tỷ giá của các loại ngoại tệ, sự biến động của các thị trường tài chính tiền tệ để có dự báo chính xác về sự biến động tỷ giá trên cơ sở đó mà thay đổi kết cấu dự trữ có lợi nhất. Đẩy mạnh nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn như: Mua một khối lượng ngoại tệ theo giao dịch giao ngay đồng thời bán số ngoại tệ đó theo kỳ hạn, bán một số lượng ngoại tệ theo giao dịch giao ngay đồng thời mua lại số ngoại tệ này theo kỳ hạn hay mua một lượng ngoại tệ có kỳ hạn đồng thời bán nó có kỳ hạn. 8. Giải pháp khác. Để hoạt động thanh toán quốc tế phát triển và hoàn thiện thì bên cạnh các giải pháp trên thì cần có sự tổ chức tốt các mối quan hệ giữa các phòng ban để giải quyết công việc nhanh, thuận tiện hơn trong quá trình thanh toán, như việc phối hợp giữa phòng thanh toán quốc tế và phòng tín dụng nhằm đẩy 56
  56. mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu, phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Hơn nữa, muốn tạo được uy tín tốt thì không chỉ hoạt động thanh toán quốc tế được phát triển mà tất cả mọi mặt hoạt động của Ngân hàng đều phải phát triển. Cần tổ chức các cuộc tiếp xúc, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ hợp tác với nhau trong lĩnh vực thanh toán quốc tế với các Ngân hàng hương mại và Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Không ngừng phấn đấu, vươn lên khẳng định vị trí của mình trên thị trường trong nước cũng như quốc tế, xứng đáng là một trong những Ngân hàng Chi nhánh dẫn đầu hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam. III. Kiến nghị. 1. Đối với Ngân hàng công thương Việt Nam. Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một Chi nhánh trực thuộc Ngân hàng công thương Việt Nam vì vậy trong quan hệ thanh toán quốc tế, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm phải thực hiện thông qua Ngân hàng công thương Việt Nam. Chi nhánh chưa có khả năng phát huy tiềm lực của mình trong quan hệ đối ngoại cũng như quan hệ trực tiếp với các Ngân hàng đại lý. Chính vì vậy để tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm phát triển trước mắt Ngân hàng công thương Việt Nam cần: 1.1. Mở rộng và củng cố quan hệ đại lý với Ngân hàng nước ngoài. Trong quan hệ thanh toán quốc tế, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm phải thực hiện thông qua Ngân hàng công thương Việt Nam. Để phục vụ tốt quá trình thanh toán quốc tế sao cho nhanh chóng, chính xác, thuận tiện và ít chi phí, Ngân hàng công thương cần khắc phục tình trạng chuyển tiền thanh toán vòng vèo qua nhiều trung gian, vừa chậm trễ vừa tốn phí, cần mở rộng quan hệ đại lý với nhiều Ngân hàng trên thế giới. Muốn phát triển hoạt động đối ngoại và thanh toán quốc tế trực tiếp với nước ngoài thì bắt buộc Ngân hàng công thương Việt Nam phải có hệ thống Ngân hàng đại lý ở nước ngoài. 57
  57. Hiện nay Ngân hàng công thương Việt Nam đã có quan hệ với hơn 400 Ngân hàng đại lý trên 40 nước và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên để phát triển Ngân hàng đại lý Ngân hàng công thương Việt Nam phải tiếp tục phát triển Ngân hàng đại lý đặc biệt ở những nước mà Việt Nam có quan hệ thương mại lớn như Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, các nước ASEAN, các nước Châu Âu Tiến tới việc thiết lập các văn phòng đại diện và các chi nhánh Ngân hàng Công thương Việt Nam tại những nước có quan hệ thương mại lớn. Đồng thời với việc phát triển và củng cố quan hệ với các Ngân hàng đại lý, cần phải thường xuyên theo dõi hoạt động của các Ngân hàng đại lý nhằm tránh những rủi ro do sự phá sản của Ngân hàng. 1.2. Tạo điều kiện cho Chi nhánh có đủ thẩm quyền thực hiện thanh toán quốc tế cho khách hàng của Chi nhánh Vì Ngân hàng công thương Việt Nam vẫn là trung gian thanh toán giữa Chi nhánh với bên nước ngoài mà về tổ chức thực hiện nghiệp vụ thanh toán có nhiều chỗ chưa hợp lý, việc tiến hành nhiều bước chồng chéo các thông tin chứng từ có liên quan khi chuyển từ Chi nhánh tới bên nước ngoài sẽ làm mất thời gian, lãng phí, giảm hiệu quả và chất lượng thanh toán. Nên chăng Ngân hàng công thương Việt Nam cho phép Chi nhánh được giao dịch và thanh toán trực tiếp với bên nước ngoài mà không thông qua Ngân hàng công thương Việt Nam. Hiện tại khả năng Chi nhánh thực hiện được như vậy là rất khó khăn. Nhưng xét về lâu dài, để chủ động nghiệp vụ và có chất lượng hơn trong thanh toán quốc tế Chi nhánh cần từng bước phát triển để thực hiện thanh toán trực tiếp vơí bên nước ngoài. Vậy để tạo điều kiên cho Chi nhánh đề nghị Ngân hàng công thương Việt Nam cần: * Hoàn thiện quy trình tổ chức thanh toán quốc tế đối với Chi nhánh. - Thay đổi thủ tục truyền thông tin và xử lý chứng từ trong thanh toán quốc tế giữa hội sở Ngân hàng công thương Việt Nam với Chi nhánh: Mô hình truyền tin giao dịch với bên nước ngoài và từ nước ngoài chuyển đến Chi 58