Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại ngân hàng thương mại CP xuất nhập khẩu chi nhánh Hà Nội

doc 90 trang nguyendu 6780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại ngân hàng thương mại CP xuất nhập khẩu chi nhánh Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_giai_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_cong_tac_huy_dong_vo.doc

Nội dung text: Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại ngân hàng thương mại CP xuất nhập khẩu chi nhánh Hà Nội

  1. lời mở đầu 1- Tính cấp thiết của đề tài Trước tình hình kinh tế xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp, đan xen giữa khó khăn và thuận lợi, nguy cơ và thời cơ. Để tiến hành CNH, HĐH đất nước cần phải đẩy mạnh cách mạng công nghệ, phát huy tối đa mọi nguồn lực mà quan trọng nhất là vốn. Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, có nước đã sử dụng nguồn vốn bên ngoài làm chủ lực, nguồn vốn trong nước làm bổ trợ cho sự phát triển, tận dụng lợi thế chuyển giao công nghệ tiên tiến, rút ngắn thời gian bắt kịp với các nước phát triển. Có nước lại lựa chọn nguồn vốn nội địa làm chủ đạo, bằng cách này tốc độ phát triển thường chậm, nhưng hạn chế được sự phụ thuộc vào bên ngoài, tạo thế chủ động trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược, đảm bảo sự phát triển vững chắc của nền kinh tế trong lâu dài. Nằm trên vòng cung kinh tế đang phát triển năng động nhất thế giới, Châu á Thái Bình Dương, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam còn vấp phải nhiều khó khăn trở ngại. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn, lạc hậu, trình độ đội ngũ cán bộ lao động còn nhiều hạn chế, nền tảng cho mọi hoạt động kinh doanh còn thiếu rất nhiều. Đứng trước xu thế mở cửa hợp tác, để vững bước trên con đường phát triển CNXH theo định hướng của Đảng, chúng ta phải biết nắm bắt thời cơ, đi tắt đón đầu tận dụng khai thác mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Với chủ trương đề ra ở Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và được khẳng định lại ở Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ bên ngoài”. Nhưng bằng cách nào để khơi thông thu hút được nguồn lực trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh hiện nay. Câu hỏi được giải đáp bằng sự ra đời của các trung gian tài chính, đặc biệt là các NHTM.
  2. Là một trong những NHTM CP đi đầu trong lĩnh vực huy động vốn, vừa thực hiện chức năng kinh doanh, vừa thực hiện vai trò thành viên đóng góp một phần vốn điều hoà cho cả hệ thống NHTM CP XNK Việt Nam. Tuy nhiên công tác này vẫn còn một số hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện. Để thực hiện tốt vai trò và chức năng của mình việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để làm tốt hơn công tác huy động vốn tại ngân hàng trong thời gian tới là rất cần thiết. Là một sinh viên chuyên ngành tài chính tín dụng, bằng những vốn kiến thức đã được tiếp thu ở trường cộng với sự hiểu biết có hạn từ thực tế trong quá trình thực tập tại NHTM CP XNK Hà Nội, tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại NHTM CP XNK chi nhánh Hà Nội” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. 2- Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở xác định nội dung, vai trò của NHTM thông qua hoạt động huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, dịch vụ, khoá luận nghiên cứu thực trạng hoạt động của NHTM CP XNK chi nhánh Hà Nội nói chung và lĩnh vực huy động vốn nói riêng. Từ đó, đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm mở rộng huy động vốn tại Eximbank Hà Nội, đáp ứng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên địa bàn. 3- Đối tượng và phạm vị nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là những lý luận cơ bản về vốn và sử dụng vốn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong đó trọng tâm là nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn. Phạm vị nghiên cứu là khảo sát hoạt động của NHTM CP XNK Hà Nội trong 3 năm từ 2002 đến 2004. Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Eximbank Hà Nội. 4- Phương pháp nghiên cứu Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với
  3. các học thuyết kinh tế, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp 5- Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận chia thành 3 chương. Chương 1: Lý luận chung về công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHTM CP XNK chi nhánh Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại NHTM CP XNK chi nhánh Hà Nội.
  4. chương 1 lý luận chung về công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 1.1. Hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm Ngân hàng được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng. Sang thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển. Việc các ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã gây cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng. Lúc này hệ thống ngân hàng được phân thành hai nhóm: thứ nhất là nhóm ngân hàng được được phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành, sau chuyển thành NHTW. Thứ hai là các ngân hàng không được phép phát hành tiền, chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế . Ngày nay, hệ thống ngân hàng của hầu hết các nước trên thế giới là ngân hàng hai cấp trong đó có việt nam: NHTW là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, là ngân hàng phát hành, ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của chính phủ còn các NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Do vậy ở mỗi quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau về NHTM. ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng ban hành ngày 23/5/1990 xác định : “ Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
  5. chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán’’. Luật các TCTD được bổ sung sửa đổi năm 2004, điều 20 giải thích: “ TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.” và “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đã đạt đến trình độ cao của kinh tế hàng hoá, ngân hàng đóng vai trò quan trọng, nó là hệ thống thần kinh, hệ thống tuần hoàn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh, phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng vững mạnh. Ngân hàng và nền kinh tế có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Do đó, vai trò của ngân hàng thương mại được thể hiện ở một số mặt sau: 1.1.2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế Khi nhắc tới vai trò của ngân hàng thương mại thì không thể không nhắc tới vai trò cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh điều đầu tiên các chủ doanh nghiệp phải quan tâm đó là vốn. Nếu không có vốn thì doanh nghiệp sẽ bị mất cơ hội đầu tư, mất đi lợi nhuận mà lẽ ra có thể thu được. Do nhược điểm của thị trường tài chính dẫn đến ảnh hưởng tới tính liên tục của chu trình tài chính như sự không khớp nhịp giữa cung vốn và cầu vốn qua vấn đề thời gian và lượng vốn, rủi ro đạo đức, rủi ro mất khả năng thanh toán, NHTM với tư cách là một chủ thể kinh doanh trên lĩnh vực tài chính tiền tệ có thể khắc phục được những nhược điểm trên. NHTM chính là người đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế hình thành nên quỹ cho vay và sử dụng chúng để đáp
  6. ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Là một kênh phân phối vốn có hiệu quả NHTM đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh cải tiến qui trình công nghệ, từ đó nâng cao năng suất lao động để có thể đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường. Với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 1.1.2.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường Để có thể tiếp cận với thị trường đầu ra và tìm kiếm lợi nhuận các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới thị trường đầu vào của mình mà yếu tố đầu vào quan trọng nhất chính là vốn, đây luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh vì nó đặt nền tảng đầu tiên cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà phải biết khai thác các nguồn vốn khác tài trợ cho hoạt động của mình. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết được khó khăn đó. Như vậy, ngân hàng chính là cầu nối đưa doanh nghiệp đến với thị trường giúp doanh nghiệp tìm kiếm được đầu vào, bôi trơn hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho nó phát huy hiệu quả một cách tốt nhất trên thị trường, giúp doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian. 1.1.2.3. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế Nếu NHTW có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ như: thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất, thì các NHTM một mặt chịu sự tác động trực tiếp của các cộng cụ này mặt khác nó còn tham gia điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế thông qua mối quan hệ với các tổ chức kinh tế, cá nhân về các hoạt động tài chính tín dụng. Nói cách khác, thông qua hoạt động của NHTM với các chủ thể khác trong nền kinh tế, mọi thông tin có liên quan đến việc hoạch định chính sách tiền tệ sẽ được phản hồi lại NHTW, giúp NHTW có thể hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp trong từng thời kỳ để đảm bảo thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định.
  7. 1.1.2.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế Trên thế giới, trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia độc lập thường xuyên tiến hành những mối quan hệ đa dạng và phức tạp trên nhiều lĩnh vực : kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá, khoa học- kỹ thuật, trong đó quan hệ kinh tế thường chiếm vị trí quan trọng. áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế của mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh và toàn diện về mọi mặt mà quan trọng nhất là tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hoà nhập nền kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới ? Câu hỏi này sẽ được giải đáp thông qua vai trò của hệ thống NHTM với hàng loạt các nghiệp vụ không ngừng được hoàn thiện và phát triển: thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, uỷ thác đầu tư, Hệ thống NHTM trong nước đã điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế, đưa nền tài chính trong nước bắt kịp với nền tài chính quốc tế. 1.1.3. Các chức năng của NHTM 1.1.3.1. Chức năng trung gian thanh toán Ngân hàng làm chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc nhập tiền vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để ngân hàng thực hiện vai trò là trung gian thanh toán. Mặt khác, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể trong nền kinh tế có nhiều hạn chế đó là rủi ro phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách hàng ở cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu thanh toán qua ngân hàng. Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế. Trước hết thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn. NHTM sẽ cung cấp cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nhanh chóng
  8. và thuận tiện như : séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán, thanh toán điện tử, thanh toán bù trừ, cho phép khách hàng lựa chọn hình thức thanh toán mà theo họ là hiệu quả và an toàn nhất. Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Mặt khác, chức năng này còn góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu phí thanh toán làm tăng uy tín của ngân hàng và tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút nguồn vốn tiền gửi. Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM nên các NHTM không ngừng đổi mới và cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng thanh toán đáp ứng nhu cầc của khách hàng ngày càng tốt hơn. 1.1.3.2. Chức năng làm trung gian tín dụng Chức năng trung gian tín dụng là khái niệm cơ bản và đặc trưng nhất của NHTM và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng làm chức năng trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn”. Nói cách khác, ngân hàng sau khi huy động được các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế sẽ hình thành nên quỹ cho vay của ngân hàng và sẽ sử dụng nó để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các chủ thể trong nền kinh tế mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng ngân hàng của NHTM đi vay là để cho vay. Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sở dĩ không phải là một tổ chức nào khác trong nền kinh tế mà lại là ngân hàng đứng ra thực hiện chức năng này vì ngân hành là một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng, họ có đầy đủ kinh nghiệm và sự hiểu biết về tình hình cung cầu tín dụng trong nền kinh tế do vậy họ có thể khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường tài chính đó là sự không khớp nhịp giữa cung cầu tín dụng về thời hạn và số lượng tức là thông qua việc thu hút tiền gửi với một số lượng lớn ngân hàng có thể giải quyết mối
  9. quan hệ giữa cung cầu tín dụng cả về khối lượng vốn cho vay và thời gian cho vay . Thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo ra lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay và đảm bảo lợi ích cho nền kinh tế. 1.1.3.3. Chức năng tạo tiền Vào cuối thế kỷ XIX, khi mà hệ thông ngân hàng hai cấp được hình thành trong đó NHTW có nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ còn các NHTM thực hiện vai trò kinh doanh tiền tệ. Khi đó, các NHTM thông qua chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng đã tạo ra tiền ghi sổ trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại NHTM. Nói cách khác, nhờ hoạt động trên hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt . Các ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn từ một khoản tiền gửi ban đầu, hoặc từ khoản tiền nhận được từ NHTW thông qua việc cấp tín dụng cho các khách hàng là tổ chức phi ngân hàng. Bất kỳ ngân hàng nào được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn và cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng đều có khả năng tạo tiền. Sự kết hợp giữa chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Từ một khoản tiền gửi ban đầu thông qua làm chức năng trung gian tín dụng ngân hàng sử dụng để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ tức là ngân hàng đã tạo tiền. Còn ngược lại khi ngân hàng huy động được số vốn mà chưa cho vay ngân hàng chưa hề tạo tiền. Sự tạo tiền của NHTM chỉ xảy ra khi mọi hoạt động kinh doanh của NHTM thực hiện bằng chuyển khoản ghi nợ cho tài khoản nay và ghi có cho tài khoản khác có liên quan. Thực hiện chức năng tạo tiền, với việc cho vay không có sự xuất hiện của tiền mặt, các NHTM đã giảm được khối lượng tiền mặt trong lưu thông,
  10. tiết kiệm được chi phí, giúp điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp chính sách ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp, làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu chi trả của xã hội. Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi NHTM thực hiện tốt chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng qui mô hoạt động của ngân hàng. 1.1.4. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 1.1.4.1. Nghiệp vụ tài sản nợ Tài sản nợ bao gồm những khoản nợ mà ngân hàng nợ thị trường và vốn của ngân hàng. Các khoản nợ được thị trường biểu hiện thông qua những khoản vốn mà dân chúng gửi vào NHTM hoặc NHTM đi vay các chủ thể trong nền kinh tế như các cá nhân, các hộ gia đình, doanh nghiệp, nước ngoài, các trung gian tài chính khác, NHTW a-Vốn tiền gửi Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động huy động vốn của NHTM dưới dạng nhận các khoản tiền gửi của DN vào ngân hàng để thanh toán nhằm mục đích an toàn hay hưởng lãi. Đồng thời ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Bao gồm: + Tiền gửi thanh toán: Là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của TCKT và cá nhân trong quá trình kinh doanh của mình gửi vào ngân hàng để chủ động thanh toán hoặc sinh lời. Tuỳ theo tính chất nhàn rỗi của các nguồn vốn các tổ chức, cá nhân có thể gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn vào ngân hàng. Ngân hàng có thể sử nguồn vốn này vào cho vay các thành phần kinh tế. + Tiền gửi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của NHTM. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành hoặc tạm thời nhàn rỗi của dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi theo định kỳ hoặc tiết kiệm chi tiêu cho tương lai. Đây là nguồn vốn quan trọng có tính chất ổn định cao và có qui
  11. mô lớn trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM. Khách hàng có thể gửi tiết kiệm không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn tuỳ theo nhu cầu sử dụng. b- Phát hành giấy tờ có giá Nghiệp vụ này được thực hiện mang tính chất thời vụ, nó phát sinh khi có nhu cầu về vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhằm thu hút các khoản vốn trung dài hạn để đầu tư để đầu tư vào nền kinh tế, do huy động có thời hạn nên nguồn vốn này tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Bao gồm: kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi. c-Vốn đi vay Tuy nguồn tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của NHTM nhưng sau khi đã sử dụng hết vốn và tiền gửi mà ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng NHTM có thể đi vay ở NHTW, ở các NHTM khác trên thị trường tiền tệ, vay ở các tổ chức nước ngoài Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động bình thường. NHNN có thể cho các NHTM vay dưới các hình thức : cho vay chiết khấu, cho vay cứu cánh và cho vay theo thời vụ. - Cho vay chiết khấu: các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu và trở thành tài sản của họ khi cần thiết NHTM sẽ mang những thương phiếu này đến xin chiết khấu tại NHTW. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ và NHNN chủ yếu chỉ cho vay ngắn hạn để giải quyết nhu cầu cấp bách của NHTM . - Cho vay cứu cánh: NHNN sẽ cho vay cứu cánh khi NHTM bị khủng hoảng trầm trọng và có nguy cơ phá sản gây ảnh hưởng tới toàn hệ thống và đang bị đặt trong tình trạng “kiểm soát đặc biệt” theo quyết định của thống đốc.
  12. - Cho vay theo thời vụ : tại NHTM có những thời kỳ nhu cầu vay vốn và thanh toán của khách hàng khi diễn ra nhiều mà nguồn vốn của ngân hàng không đáp ứng đủ thi NHTW có thể cho vay để đảm bảo hoạt động. Ngoài ra khi có nhu cầu NHTM còn có thể đi vay từ các NHTM khác. Đây là nguồn các NHTM vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường . Các NHTM đang thiếu hụt dự trữ có thể vay mượn từ các NHTM và TCTD khác trên thị trường để đảm bảo thanh khoản còn các ngân hàng đang có dự trữ vuợt yêu cầu do có sự gia tăng bất ngờ về nguồn vốn huy động cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Quá trình vay mượn diễn ra rất đơn giản ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua NHTW. Khoản vay có thể không cần được đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và dự trữ của ngân hàng đi vay tăng lên. Có 2 loại vay từ NHTM khác : - Vay qua đêm. - Vay có kỳ hạn. Các khoản đi vay thường là với quy mô và thời hạn xác định trước do vậy tạo thành nguồn vốn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết và hoàn toàn chủ động về khồi lượng vay cho phù hợp với nhu cầu sử dụng. Tuy nhiên, do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kỳ hạn. Hơn nữa việc đi vay thường xuyên cũng sẽ làm cho uy tín của ngân hàng trên thị trường tiền tệ bị giảm sút gây ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng. d- Vốn khác Quá trình thực hiện các nghiệp vụ trung gian, NHTM cũng tạo được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán như: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong toả do ngân hàng chấp nhận hối phiếu thanh toán
  13. Thông qua các nghiệp vụ đại lý, dịch vụ NHTM cũng thu hút được một lượng vốn như trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận chuyển vốn cho khách hàng Do phát tiền theo tiến độ nên thường xuyên có một bộ phận vốn kết dư trên tài khoản ngân hàng có thể sử dụng tạm thời nguồn vốn đó vào kinh doanh. Phần lớn các nguồn vốn khác không phải trả lãi hoặc trả lãi rất thấp. Tuy nhiên, chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Để có được nguồn vốn này, các ngân hàng cần không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ, đa dạng hoá các dịch vụ tài chính, nâng cao uy tín của nhân hàng nhằm thu hút khách hàng. e-Vốn tự có và coi như tự có của của ngân hàng Vốn tự có là nhưng giá trị tiền tệ mà ngân hàng tạo lập được thuộc về sở hữu của ngân hàng. Vốn tự có mang tính chất ổn định, nó thường chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (dưới 10%), nhưng nó có một vị trí quan trọng quyết định qui mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh doanh, huy động vốn và cho vay. Nó đóng vai trò là “ tấm đệm giúp chống đỡ rủi ro phá sản”. Vốn tự có của ngân hàng góp phần thoả mãn các cơ quan quản lý ngân hàng khi họ xem xét các điều kiện của ngân hàng trong việc thiết lập các chi nhánh, giới hạn tín dụng, đầu tư và mua sắm tài sản cố địng của ngân hàng. Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Nguồn hình thành vốn tự có gồm hai nguồn chính sau: -Vốn tự có ban đầu là vốn mà NHTM phải có để đi vào hoạt động được quy định trong những văn bản pháp quy. Đây là phần vốn mà ngân hàng thực có trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng và thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Tuỳ theo tính chất mỗi ngân hàng mà nguồn vốn hình thành ban đầu khác nhau. Chẳng hạn : + NHTM quốc doanh: vốn điều lệ do NSNN cấp. + NHTM cổ phần: vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp.
  14. + NH liên doanh: vốn điều lệ do các bên tham gia liên doanh đóng góp. +NH tư nhân: vốn điều lệ thuộc sở hữu tư nhân. - Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động: + Vốn tự có bổ sung từ nguồn nội bộ: tỷ lệ bổ sung vào vốn tự có từ lợi nhuận tuỳ thuộc vào quyết định của chủ ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. + Vốn tự có bổ sung từ bên ngoài bằng cách phát hành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu chuyển đổi. + Vốn tự có bổ sung từ các quỹ trích từ lợi nhuận của ngân hàng. 1.1.4.2.Nghiệp vụ tài sản có Tài sản có phản ánh việc sử dụng vốn của NHTM hay những khoản mà thị trường nợ NHTM. Đó là những khoản mà ngân hàng cho thị trường vay hay đầu tư vào thị trường. a-Nghiệp vụ ngân quỹ Nghiệp vụ này phản ánh các khoản về dự trữ của ngân hàng bao gồm: - Tiền mặt tại quỹ - Tiền gửi ở ngân hàng khác - Tiền gửi ở NHTW Mặc dù dự trữ của ngân hàng không tạo nên lợi nhuận cho ngân hàng nhưng nó đảm bảo an toàn trong thanh toán và các nghiệp vụ tài chính khác cho ngân hàng ( thực hiện quy định về DTBB do NHTW đề ra). Vì thế nó hạn chế rủi ro thanh khoản, nâng cao uy tín cho ngân hàng tạo nền tảng vững chắc cho khả năng sinh lời của ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng uy tín sẽ quyết định ngân hàng đó có tồn tại được hay không vì thế nếu ngân hàng không duy trì đủ lượng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng thì uy tín của ngân hàng sẽ bị giảm sút trầm trọng. Nhưng duy trì một lượng tiền mặt bao nhiêu là đủ thì lại là điều không đơn giản. Nến dự trữ dư thừa thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của tài sản có, ngược lại dự trữ quá ít sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng khi có nhu cầu. Do
  15. vậy, mức dự trữ phù hợp sẽ phụ thuộc vào quy mô, nhu cầu thanh toán và tính thời vụ của các khoản thu chi tiền mặt. b-Nghiệp vụ cho vay Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho các nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn của ngân hàng. Đây là nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của NHTM, bởi một mặt thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng cung ứng một lượng vốn lớn cho nền kinh tế để đáp ứng yêu cầu sản xuất, tăng trưởng kinh tế; mặt khác là nghiệp vụ sinh lời lớn nhất của các NHTM do đó các NHTM đã tìm kiếm mọi cách huy động nguồn vốn để cho vay. Vì vậy quy mô của các khoản cho vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản có của NHTM và cũng chứa đựng rủi ro rất cao cho nên các ngân hàng luôn xem xét kỹ lưỡng tới từng món vay và từng đối tượng cho vay để đảm bảo an toàn cho khoản vay. Nghiệp vụ cho vay của NHTM có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Thông thường, người ta thường phân loại theo tiêu thức thời gian gồm: - Cho vay ngắn hạn : là loại hình cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. - Cho vay trung hạn : là loại hình cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. - Cho vay dài hạn : là loại hình cho vay có thời hạn trên 5 năm. c-Nghiệp vụ đầu tư Nghiệp vụ đầu tư là nghiệp vụ sinh lời của NHTM ở nghiệp vụ này NHTM đầu tư vào chứng khoán và góp vốn, mua cổ phần của các TCTD và các tổ chức kinh tế với mục đích kiếm lời, phân tán rủi ro qua việc đa dạng hoá các hạot động kinh doanh. Đầu tư vào chứng khoán là hình thức phổ biến trong nghiệp vụ tài sản có của các NHTM và các TCTD. Ngân hàng có thể đầu tư vào chứng khoán Chính phủ, trái khoán công ty để thu lợi tức đầu tư, do đó mang lại thu nhập cho ngân hàng. Nghiệp vụ này cũng nâng cao khả năng thanh toán, bảo tồn ngân quỹ. d-Những tài sản có khác Đó là những hiện vật như nhà làm việc, máy tính và những trang thiết bị khác do ngân hàng sở hữu.
  16. 1.1.4.3. Các hoạt động dịch vụ ngân hàng Đây là các hoạt động kinh doanh ngoài tín dụng như: dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn, bảo lãnh, cho thuê tài sản nhằm tạo ra các khoản thu nhập tăng thêm năng lực tài chính cho các NHTM. Xu thế chung hiện nay các ngân hàng tập trung hoàn thiện tốt hơn các dịch vụ của mình nhằm không ngừng tăng nhanh tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu nhập của ngân hàng. Đây là những nghiệp vụ thuộc tài sản có của NHTM. 1.2. Vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập thông qua việc huy động, đi vay để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực chất vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh, phân phối, tiêu dùng, mà người chủ sở hữu gửi vào ngân hàng với các mục đích khác nhau, họ chỉ có quyền sở hữu còn quyền sử dụng vốn tiền tệ họ chuyển nhượng cho ngân hàng, để rồi ngân hàng phải trả cho họ một khoản thu nhập. Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quả trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến việc tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của NHTM. 1.2.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của NHTM Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là“ tiền tệ’’ với đặc thù hoạt động kinh doanh là “đi vay để cho vay’’ nên nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng có vai trò hết sức quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh của mỗi ngân hàng. Vốn là yếu tố quyết định đến khả năng sinh lời, khả năng cạnh tranh cũng như khả năng phòng chống rủi ro của ngân hàng.
  17. 1.2.2.1. Vốn huy động quyết định đến quy mô hoạt động và quy mô tín dụng của ngân hàng Cụ thể, nếu ngân hàng có nguồn vốn lớn, dồi dào thì chắc chắn ngân hàng sẽ có đủ khả năng để thực hiện đa dạng hoá sản phẩm của mình để đáp ứng tốt nhất nhu cầu dịch vụ của khách hàng. Đồng thời nguồn vốn lớn còn có thể giúp ngân hàng mở rộng mạng lưới chi nhánh, hiện đại hoá cơ sở vật chất, Không những vậy, với tiềm năng vốn lớn các NHTM có thể hoàn toàn tự quyết định lấy cơ hội kinh doanh của mình, tự tạo ra một hình ảnh riêng cho ngân hàng, từ đó sẽ tạo ra đựơc sức hút đối với khách hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn lớn có thể cùng một lúc phục vụ nhiều nhu cầu vay vốn của các đối tượng khác nhau qua đó đem lại lợi nhuận và nâng cao hình ảnh cho ngân hàng, giúp ngân hàng không ngừng mở rộng quy mô hoạt động và quy mô tín dụng của mình. 1.2.2.2. Vốn huy động quyết định đến khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của các ngân hàng trên thị trường Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường uy tín là vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải đặt lên hàng đầu đặc biệt đối với các NHTM thì nó lại càng là vấn đề sống còn. Một ngân hàng có uy tín tốt trên thị trường ngân hàng đó có thể dễ dàng huy động được nguồn tiền nhàn rỗi từ các cá nhân, tổ chức kinh tế Nhưng để có được uy tín đó trước hết ngân hàng phải luôn có khả năng sẵn sàng chi trả các khoản tiền gửi cho khách hàng. Nguồn vốn lớn sẽ giúp ngân hàng có khả năng chống đỡ đối với việc rút tiền của dân lớn hơn vì dự trữ sơ cấp của họ lớn. Vốn lớn NHTM còn có thể quyết định dự trữ thứ cấp lớn tức là đầu tư vào các giấy tờ có giá có tính lỏng cao. Khi ngân hàng có nguồn vốn lớn thể hiện ngân hàng lớn nên khả năng đi vay chống đỡ rủi ro cũng dễ dàng hơn. 1.2.2.3. Vốn huy động ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường
  18. Khi NHTM có nguồn vốn lớn có thể cạnh tranh và dành ưu thế so với các ngân hàng khác cả về giá và chất lượng dịch vụ. Cụ thể, khi ngân hàng có nguồn vốn lớn ngân hàng có thể đa dạng hoá các loại hình dịch vụ để đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng từ đó có thể thu hút khách hàng đến với ngân hàng vì họ có thể được hưởng nhiều dịch vụ hơn so với ngân hàng khác. Vốn lớn ngân hàng có thể đẩy lãi suất đầu vào cao cũng như giảm lãi suất cho vay so với các ngân hàng khác để thu hút khách hàng. Các NHTM đều hiểu rằng kinh doanh trong cơ chế thị trường thì sức mạnh cạnh tranh mang ý nghĩa sống còn, vì vậy các ngân hàng luôn tìm mọi cách để năng cao khả năng này. 1.2.3. Các hình thức huy động vốn của NHTM Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động thông qua các nghiệp vụ chủ yếu như: nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá và các nghiệp vụ trung gian khác.Vốn huy động là nguồn vốn mà ngân hàng có thể chủ động tìm kiếm hoặc bị động trong việc tạo nguồn. Vốn huy động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thường ở mức 70 – 80%, đây chính là nguồn chủ yếu đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng và cũng là nguồn mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng thông qua các công cụ tài chính với mức lãi suất khác nhau, thời hạn hoàn trả khác nhau để có thể huy động tới mức tối đa nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng. Các NHTM phải làm sao thu hút được nhiều tiền của người tiêu dùng và các doanh nghiệp dù ngân hàng phải trả lãi cho loại tiền gửi này song việc thu hút nhanh và biết sử dụng vẫn mang lại nguồn lợi lớn cho ngân hàng. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn để chi trả trước hạn. Vì vậy ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó
  19. vào hoạt động kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng .
  20. * Sự cần thiết của vốn huy động trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: Như đã đề cập trong tổng nguồn vốn của một ngân hàng, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần rất nhỏ, còn đại bộ phận là nguồn vốn huy động từ các đối tượng khác nhau. Phải có vốn huy động ngân hàng mới có thể hoạt động bình thường và phát triển bởi chức năng chủ yếu của nguồn vốn chủ sở hữu là bảo vệ an toàn và điều chỉnh hoạt động ngân hàng. Như vậy trong quá trình hoạt động kinh doanh các ngân hàng dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu để đưa ra các quyết định kinh tế cho phù hợp với các qui định của luật pháp. Còn nguồn vốn được sử dụng vào các hoạt động kinh doanh sinh lời của một ngân hàng chính là từ vốn huy động. Nguồn vốn huy động càng nhiều ngân hàng càng có khả năng cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng cũng như làm giàu cho ngân hàng. Như vậy chỉ với vốn huy động ngân hàng mới có thể làm tốt chức năng trung gian tín dụng- chức năng quyết định sự duy trì và phát triển của ngân hàng, đồng thời là cơ sở để thực hiện các chức năng còn lại. * ý nghĩa của vốn huy động trong hoạt động ngân hàng: Trước hết cần khẳng địng rằng vốn huy động sẽ quyết định tới khả năng mở rộng qui mô và phạm vi kinh doanh, kết quả kinh doanh của NHTM. Một ngân hàng thành công trong công tác huy động vốn sẽ có tiềm lực tài chính để nâng cao khả năng cạnh tranh: mở thêm nhiều điểm giao dịch với khách hàng, nghiên cứu và đưa ra thị trường những sản phẩm mới bên cạnh những sản phẩm truyền thống Nhờ vậy ngân hàng có thể thu hút thêm nhiều khách hàng. Điều này có tác động tích cực đến kết quả kinh doanh cuối kỳ của ngân hàng. Bên cạnh đó, vốn huy động cũng đẩm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng. Nguồn vốn dồi dào giúp các ngân hàng lúc nào cũng có thể phục vụ nhu cầu thanh toán chi trả của khách hàng, khiến khách hàng yên tâm giao dịch, tin tưởng vào ngân hàng. Từ đó, uy tín của ngân hàng trên thị trường cũng được nâng cao, càng có điều kiện để mở rộng hoạt động và nâng cao vị thế.
  21. Do nguồn vốn huy động là nguồn vốn cơ bản và quan trọng để ngân hàng dùng vào hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình nên để đảm bảo đủ vốn cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả đem lại nhiều lợi nhuận nhất các NHTM không ngừng mở rộng các hình thức huy động vốn nhưng về cơ bản các ngân hàng thường sử dụng huy động vốn qua tài khoản tiền gửi, huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá và huy động thông qua các khoản đi vay. 1.2.3.1. Huy động từ tài khoản tiền gửi Tiền gửi của ngân hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, tổ chức và dân cư. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau do đó cũng có nhiều loại tiền gửi khác nhau. * Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn : Tiền gửi không kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu này của người gửi tiền. Đây là tiền của cá nhân, doanh nghiệp gửi vào ngân hàng với mục đích chính là để hưởng dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Trong phạm vi số dư cho phép các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp , cá nhân đều được ngân hàng thực hiện và các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện nhập vào tài khoản thanh toán theo yêu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Do vậy nó là nguồn vốn biến động nhiều nhất mà ngân hàng khó có thể dự đoán về quy mô tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng có thể huy động được, đồng thời kỳ hạn tiềm năng của loại loại tiền này cũng là ngắn nhất . * Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhưng có thoả thuận thời gian rút tiền và khách hàng không được phép rút tiền trước thời hạn. Mục đích chính của người gửi tiền là sinh lời và ngân
  22. hàng có thể chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn này vì tính thời hạn của nguồn vốn. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền và sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng trên cơ sở xem xét mức độ an toàn của ngân hàng cũng như quan hệ cung cầu về vốn tại thời điểm đó. Tuy nhiên, để tạo tính lỏng cho các loại tiền gửi có kỳ hạn mà từ đó mà hấp dẫn khách hàng, ngân hàng có thể cho phép khách hàng rút tiền trước kỳ hạn, tuỳ theo chính sách của mỗi ngân hàng mà có hình thức trả lãi phù hợp. * Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội với mục đích tích luỹ và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm chia thành hai loại là tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm không kỳ hạn. - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn : Đây là khoản tiền nhàn rỗi mà người dân tạm thời gửi vào ngân hàng do không có kế hoạch chi tiêu cụ thể nên họ có thể rút tiền vào bất cứ thời điểm nào. Tuy nó là tiền gửi không kỳ hạn nhưng nó không phải là tiền gửi thanh toán nên người gửi tiền không được hưởng các tiện ích thanh toán. Nguồn vốn này cũng thường xuyên biến động nên ngân hàng cũng phải chủ động trong việc chi trả cho khách hàng. Do vậy lãi suất của loại tiền gửi này thường thấp. - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, người gửi tiết kiệm có kỳ hạn chỉ được rút tiền khi đáo hạn. Mục đích gửi tiền của họ là an toàn và hưởng lãi vì khách hàng đã xác định trước và có kế hoạch chi tiêu cụ thể đối với khoản tiền này. Khoản tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao bởi vì ngân hàng có thể chủ động sử dụng nó cho hoạt động kinh doanh của mình đặc biệt là để cho vay trung dài hạn. Là sản phẩm huy động truyền thống với các hình thức phong phú và kỳ hạn đa dạng nên tiền gửi tiết kiệm rất phù hợp với dân cư, đáp ứng được nhu cầu người gửi, khả năng huy động của ngân hàng từ nguồn vốn này là rất tiềm năng. Tuy nhiên ngân hàng cần chú ý đến chính sách lãi suất huy động, nghiên cứu để đưa ra các hình thức huy động hấp dẫn, phù hợp với tính đa dạng phong
  23. phú và phức tạp của đối tượng dân cư. Đặc biệt cần có cơ chế trả lãi hợp lý đối với loại tiết kiệm không kỳ hạn, cơ chế đảm bảo bằng giá trị vàng, hay ngoại tệ mạnh cho các loại tiết kiệm nội tệ, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi, tạo niềm tin để khuyến khích dân cư gửi vào ngân hàng ngày càng lớn. 1.2.3.2. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá Các giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng cho một mục đích nào đó. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn nên thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thông thường. - Chứng chỉ tiền gửi (CDs): CDs là công cụ vay nợ do NHTM bán cho người gửi tiền với lãi suất nhất định và được lưu thông khi chưa đến hạn thanh toán. Người sở hữu CDs có thể được hoàn trả hết toàn bộ số tiền gửi cộng với lãi hoặc có thể bán CDs trên thị trường thứ cấp. CDs là công cụ mang lãi suất, lãi suất của nó được tính toán trên cơ sở 360 ngày và được trả theo mệnh giá và thời hạn. Lãi suất của CDs được tính dựa trên lãi suất của thị trường tiền tệ, tình trạng tài chính của ngân hàng phát hành ra nó và thời hạn thanh toán CDs. Mức lãi suất của CDs do ngân hàng có chất lượng cao phát hành thường cao hơn lãi suất của tín phiếu kho bạc, sự chênh lệch này phản ánh mức độ chênh lệch và rủi ro của từng ngân hàng. Sự phát triển của CDs cùng với sự nhạy cảm của lãi suất giúp các NHTM chủ động trong việc huy động vốn và thích ứng với môi trường cạnh tranh mới. - Trái phiếu : Trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người hữu, trong đó cam kết sẽ hoàn trả nợ kèm lãi trong một thời hạn nhất định. Thông qua phát hành trái phiếu, ngân hàng có thể thu hút được nguồn vốn trung và dài hạn để cho vay mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư. Việc phát hành trái phiếu sẽ thu hút được lượng tiền ổn định trong dài hạn do vậy phát hành trái phiếu chỉ được thực hiện khi ngân hàng thực sự cần một
  24. lượng vốn lớn hoặc khi ngân hàng đã có kế hoạch sử dụng vốn để cho vay trung dài hạn. - Kỳ phiếu: Kỳ phiếu là chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn, có lãi suất tương ứng với từng loại kỳ hạn hoặc phương thức trả lãi trước hoặc sau. Đây là giấy tờ có giá ngắn hạn nghĩa là ngân hàng sẽ có được nguồn vốn chủ động với tính chất ổn định cao nhưng chi phí mà ngân hàng bỏ ra cũng rất lớn. Do vậy ngân hàng phải có chính sách huy động vốn linh hoạt để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. 1.2.3.3. Huy động vốn qua các khoản đi vay Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW, hoặc giũa các NHTM với nhau trên thị trường liên ngân hàng, hay với các tổ chức tài chính khác. * Vay NHTW: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán ) NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay của NHNN chủ yếu là tái chiết khấu các thương phiếu hoặc tái cấp vốn. Trong điều kiện của Việt Nam chưa có thương phiếu NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. * Vay các TCTD khác: Đây là nguồn các NHTM vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vốn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó có thể bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN. Khoản vay có thể không cần đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc nhà nước.
  25. 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của NHTM Trong xu hướng quốc tế hoá hiện nay đòi hởi các doanh nghiệp nói chung và các tổ chức trung gian tài chính nói riêng phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, mà yêu cầu quan trọng là năng lực tài chính. Để đánh giá năng lực tài chính của NHTM có nhiều tiêu chí như: quy mô vốn điều lệ, quy mô tài sản có, tỷ lệ nợ xấu, quy mô lợi nhuận, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản. Do đó cho thấy việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề tạo vốn của NHTM là một việc làm hết sức cấp thiết. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề tạo vốn của mỗi ngân hàng bao gồm các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan. 1.2.4.1. Các nhân tố khách quan a- Môi trường chính trị pháp luật Mọi hoạt động kinh doanh trong đó có hoạt động ngân hàng đều phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Bởi vì hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng tới nhiều chủ thể trong nền kinh tế như: nhà đầu tư, người gửi tiền, người vay tiền Môi trường pháp lý đem đến cho ngân hàng những cơ hội song cũng đặt ra nhiều thách thức mới. Đó là luật các TCTD và hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức Trong sự ràng buộc về pháp luật các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn thay đổi làm ảnh hưởng tới quy mô hiệu quả và chính sách huy động vốn của ngân hàng. b-Môi trường kinh tế Các nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề tạo vốn gồm có: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, yếu tố lạm phát, sự biến động của tỷ giá hối đoái Trong điều kiện nền kinh tế phát triển hưng thịnh thu nhập dân cư cao và ổn định thì nguồn tiền vào ra các ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy động được cũng dồi dào, cơ hội đầu tư cũng được mở rộng. Nếu nền kinh tế suy thoái thì khả năng khai thác vốn đưa vào nền kinh tế bị hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh lại công tác huy động vốn. c- Môi trường văn hoá xã hội
  26. Đây cũng là nhân tố được các nhà kinh doanh ngân hàng quan tâm vì nó có khả năng chi phối rất lớn đến hành vi tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng của khách hàng. Đó là: phong tục tập quán, trình độ dân trí, lối sống của người dân Chẳng hạn như thói quen của người dân trong việc sử dụng tiền mặt, với tâm lý lo ngại trước sự sụt giá của đồng tiền cũng như sự hiểu biết của người dân về các ngân hàng và hoạt động của ngân hàng sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Nếu như dân cư có sự hiểu biết về ngân hàng cũng như các hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng và thấy được những tiện ích, lợi ích ngân hàng mang lại thì họ sẽ gửi nhiều tiền vào ngân hàng hơn và như vậy công tác huy động vốn cũng thuận lợi hơn. ở các nước phát triển dân chúng có thói quen gửi tiền vào ngân hàng và thực hiện thanh toán qua ngân hàng, ngân hàng là một cái gì đó không thể thiếu trong cuộc sống. Tuy nhiên với đại bộ phận các nước đang phát triển như nước ta, dân chúng chưa có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để sử dụng dịch vụ ngân hàng, họ có thói quen cất trữ tiền mặt, vàng bạc và ngoại tệ nên nó là nhân tố ảnh hưởng mạnh tới công tác huy động vốn của NHTM. c- Môi trường công nghệ Môi trường công nghệ thông tin hiện nay được coi như sức mạnh cạnh tranh của mỗi ngân hàng trong sự cạnh tranh mạnh mẽ không những giữa các ngân hàng trong nước với nhau mà còn giữa các ngân hàng trong nước với các ngân hàng quốc tế trong tiến trình hội nhập và mở cửa kinh tế quốc tế. Môi trường công nghệ là một yếu tố rất quan trọng. Trong hoạt động ngân hàng, nó tạo điều kiện tiếp xúc cao giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu ở quốc gia có công nghệ phát triển, ngân hàng có khả năng ứng dụng nó trong hoạt động ngân hàng sẽ tạo điều kiện giúp ngân hàng tăng diện tiếp xúc với khách hàng từ đó giúp ngân hàng thuận lợi hơn trong việc huy động vốn. 1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan a- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
  27. Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh doanh ngân hàng có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn, có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Nếu chiến lược kinh doanh đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách tối đa thì hoạt động huy đông vốn sẽ phát huy được hiệu quả. Trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng chiến lược khách hàng đóng vai trò rất quan trọng. Nó tác động trực tiếp tới sự thành công trong công tác huy động vốn của ngân hàng. Để có được thành công, trước tiên ngân hàng phải tìm hiểu động cơ, thói quen, mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Trên cơ sở thông tin về khách hàng đưa ra chính sách giá cả hợp lý, xây dựng chính sách trong phục vụ và giao tiếp tạo sự thoải mái cho khách hàng giao dịch. Từ đó sẽ tạo thuận lợi cho công tác huy động vốn của ngân hàng. b- Chính sách về giá cả và lãi suất Lãi suất là một công cụ quan trọng trong hoạt động huy động vốn của NHTM, xây dựng một chính sách linh hoạt hợp lý là điều kiện giúp ngân hàng có được nguồn vốn hợp lý về qui mô và cơ cấu. Chính sách đó phải đảm bảo cho ngân hàng một mặt thu hút được nhiều vốn mặt khác vẵn phải đảm bảo cho ngân hàng kinh doanh có lãi. c- Mạng lưới chi nhánh Ngoài việc quan tâm đến lãi suất, dịch vụ tiện ích của ngân hàng, người gửi tiền còn quan tâm đến vấn đề thuận tiện trong việc gửi tiền. Nhất là các khoản tiết kiệm của dân cư thường là những khoản không lớn nên người dân rất ngại đi một quãng đưỡng xa đến vài cây số để gửi tiền chẳng thà để cất giữ ở nhà còn hơn. Vì vậy để huy động được khoản tiền gửi của dân chúng thì nhất
  28. thiết ngân hàng phải mở rộng mạng lưới chi nhánh và thực hiện tốt công tác tổ chức mạng lưới phục vụ. d- Uy tín của ngân hàng Trên cơ sở nghiên cứu sẵn có đã đạt được, mỗi ngân hàng sẽ tạo được một hình ảnh riêng trong lòng khách hàng. Một ngân hàng lớn sãn có uy tín có tiếng tăm trong nhiều năm sẽ có lợi thế hơn trong việc huy động vốn. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động và tiết kiệm chi phi huy động. Thậm chí trong trường hợp lãi suất tiền gửi tại ngân hàng thấp hơn đôi chút, những người có tiền vẫn lựa chọn một ngân hàng có uy tín hơn để gửi mà không tìm những nơi có lãi suất hấp dẫn hơn để gửi, vì họ tin rằng ở đây đồng vốn của mình được tuyệt đối an toàn. Từ những vấn đề trình bày ở trên có thể thấy rằng các NHTM phải xây dựng được một nền khách hàng bền vững bằng cách đưa ra được những dịch vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng và đem lại tiện ích cho khách hàng. Do đó trên cơ sở nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn các NHTM cần phải hạn chế những tác động tiêu cực và lợi dụng những tác động tiêu cực của các nhân tố đó để giúp ích cho công tác huy động vốn – tạo nguồn vốn hoạt động cho các NHTM. 1.3. Các biện pháp mở rộng huy rộng vốn của NHTM 1.3.1. Biện pháp kinh tế Biện pháp kinh tế là biện pháp dựa vào yếu tố mang tính vật chất mà ngân hàng thông qua nó tác động đến nhu cầu và tâm lý của khách hàng gửi tiền vào ngân hàng mình. Để nâng cao hiệu quả huy động vốn, biện pháp kinh tế mà ngân hàng có thể áp dụng đối với khách hàng là chính sách lãi suất huy động hấp dẫn, tổ chức khuyến mãi tặng quà cho khách hàng gửi lớn, gửi nhiều, khách hàng truyền thống thông qua cơ chế huy động. 1.3.2. Biện pháp kỹ thuật
  29. Biên pháp kỹ thuật là những biện pháp mang tính kỹ thuật trong nghiệp vụ huy động vốn nhằm tạo cho công tác huy động cũng như hoàn trả tiền gửi, thanh toán giao dịch cho khách hàng một cách nhanh chóng thuận lợi và chính xác. Biện pháp kỹ thuật trong mở rộng huy động vốn của ngân hàng sẽ bao gồm những giải pháp mang tính chất công nghệ, tăng tiện ích phục vụ khách hàng và những giải pháp nâng cao trình độ nghiệp vụ của nhân viên, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào công tác huy động vốn. 1.3.3. Biện pháp tâm lý Tâm lý khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng ngoài việc được hưởng lãi suất ngân hàng trả cao, phục vụ thanh toán kịp thời, còn là sự yên tâm và cảnh giác an toàn cao. Vì vậy, đáp ứng được yêu cầu đó về mặt tâm lý đó của khách hàng, tức là tạo sự uy tín và lòng tin đối với khách hàng là yếu tố thành công cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Ngày nay các NHTM luôn không ngừng hoàn thiện mình và nâng cao uy tín trên thị trường để thu hút khách hàng. Việc ngân hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi đã phần nào đêm lại sự yên tâm cho khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Ngoài yếu tố khách hàng thì chính sách khuyến khích nhân viên ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Bên cạnh việc không ngừng nâng cao tiền lương và thu nhập cho cán bộ thì cần thiết phải chăm lo đời sống tinh thần cho nhân viên, đó là: Niềm vui và sự thoải mái trong công việc, được kính trọng, được giao tiếp rộng rãi, khen thưởng kịp thời, tạo điều kiện thăng tiến đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của ngân hàng. Ngoài ra, việc quảng bá uy tín, tên tuổi của ngân hàng trên các phương tiẹn quảng cáo, truyền thông cũng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp của ngân hàng. Từ đó củng cố niềm tin và tâm lý yên tâm của khách hàng khi họ gửi tiền vào ngân hàng. Các biện pháp kinh tế, kỹ thuật nêu trên cũng có tác dụng tác động vào tâm lý khách hàng và nhân viên ngân hàng, từ đó tạo ra xu hướng tốt hơn trong công tác huy động vốn của ngân hàng. Việc thực hiện đồng bộ các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và tâm lý có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và tất yếu có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả công tác huy động vốn của các NHTM.
  30. Kết luận chương 1: Trong chương 1 chúng ta đã nghiên cứu những nội dung cơ bản liên quan đến NHTM nói chung cũng như đã nghiên cứu các phương thức tạo lập vốn các hình thức, thể thức huy động vốn và các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn và cơ cấu nguồn vốn của NHTM. Những nội dung này liên quan đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng giúp chúng ta có một cơ sở lý luận rõ ràng để đi phân tích thực trạng công tác huy động vốn của NHTMCP XNK chi nhánh Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, để từ đó đưa ra được các giải pháp phù hợp nhằm mở rộng huy động vốn một cách có hiệu quả. Chương 2 thực trạng công tác huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu chi nhánh hà nội 2.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Eximbank Hà Nội 2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn Hà Nội, trung tâm kinh tế – xã hội của đất nước, đang cùng cả nước thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Dưới sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, nhà nước, các cấp lãnh đạo, thành phố Hà Nội đã đạt được những bước phát triển vượt bậc về cả kinh tế và xã hội. Đặc biệt là nền kinh tế của thủ đô trong những năm gần đây có tốc độ tăng trưởng cao vào hàng đầu của đất nước. Trong năm 2004, GDP của thủ đô tăng trưởng bình quân là 11%/năm. Tốc độ đô thị hoá cao, hàng loạt các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng được triển khai trên qui mô lớn. Tất cả các thành tựu đó là kết quả của một quá trình kiên trì đổi mới cơ chế chính sách, tạo môi trường thông thoáng cho sản xuất kinh doanh. Và cũng chính các thành tựu đó là một yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động của các NHTM.
  31. Hà Nội là một địa phương có số lượng NHTM lớn nhất toàn quốc. Tính đến cuối năm 2004, trên địa bàn thành phố có khoảng 92 TCTD trong đó có 70 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng cấp một. Hệ thống NHTM Hà Nội hoạt động trong môi trường thuận lợi về chính trị, kinh tế, xã hội và có nhiều điều kiện tiếp cận với trình độ ngân hàng trên thế giới. Hoạt động ngân hàng trên địa bàn không ngừng phát triển trên tất cả các phương diện và có ảnh hưởng ngày càng sâu rộng đến đời sống kinh tế – xã hội của thủ đô. Trong những năm qua hoạt động huy động vốn trên địa bàn hết sức sôi động. Đồng thời các TCTD cũng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và dịch vụ ở Hà Nội không ngừng tăng nhanh, đóng góp quan trọng vào quá trình tăng trưởng của thủ đô. Đặc biệt Hà Nội còn là nơi tập trung hầu hết các tổng công ty nhà nước, các công ty liên doanh, công ty nước ngoài và là nơi tập trung rất đông các doanh nghiệp và cùng với nó là số lượng dân cư đông đúc có đời sống vật chất và thu nhập ngày càng cao là thị trường tiền gửi đầy tiềm năng đối với các ngân hàng. Nhận thức được điều đó, các NHTM nói chung và Eximbank Hà Nội nói riêng đã có những thay đổi trong hoạt động phù hợp với sự vận động phát triển thủ đô. Qua đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế thủ đô phát triển nhanh và vững chắc hơn. 2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Eximbank Hà Nội Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam được thành lập theo quyết định số 140/CT ngày24/05/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính phủ với tên gọi đầu tiên là Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank – Eximbank Vietnam), với thời hạn 50 năm, là một trong những NHTM CP đầu tiên của Việt Nam, với hình thức là ngân hàng cổ phần chuyên doanh về tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ sản xuất, chế biến hàng XNK và kinh doanh XNK.
  32. Vốn pháp định là 100 tỷ VNĐ tương đương 25 triệu USD, được chia thành 250.000 cổ phần mệnh giá mỗi cổ phần là 400.000 VND được đảm bảo bằng 100 USD dưới hình thức cổ phiếu có ghi tên được chuyển nhượng và có thể rút ra trong thời hạn 3 năm kể từ ngày góp vốn. Ngày 17/10/1990 Thống đốc NHNN ra quyết định số 04/NHQD phê chuẩn điều lệ của ngân hàng TMCP XNK Việt Nam đồng thời cũng ra quyết định cho phép Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam được thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế và thành lập quan hệ đại lý, quan hệ tài khoản với các ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 17/10/1990, Hội sở Trung ương tại số 7 Lê Thị Hồng Gấm, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Chi nhánh Hà Nội của Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam được thành lập theo quyết định số 195/EIB – HN/VP ngày 10/08/1992 của Chủ tịch hội đồng quản trị ngân hàng TMCP XNK Việt Nam và được NHNN Việt Nam chấp thuận bằng văn bản số 002/GCT ngày 22/09/1992 theo giấy phép đặt văn phòng chi nhánh số 0503/GP.UB của UBND TP Hà Nội. Chi nhánh chính thức đi vào hoạt động từ ngày 27/11/1992, địa điểm hiện tại ở số 19 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm Hà Nội. Ngoài trụ sở chính hiện nay, Eximbank Hà Nội còn có 2 chi nhánh cấp II đó là chi nhánh Láng Hạ đặt tại 54 K1 Thành Công, Láng Hạ, quận Ba Đình, Hà Nội và chi nhánh Long Biên chính thức đi vào hoạt động từ ngày 10/03/2004. Nhiệm vụ chủ yếu của Eximbank Hà Nội là mở rộng phạm vi hoạt động của Eximbank phục vụ các chương trình kinh tế – xã hội và đẩy mạnh công cuộc đầu tư phục vụ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu ở các tỉnh phía Bắc. Mục tiêu đó có tính chất kinh tế và tiền tệ. Tuy hoạt động độc lập nhưng Eximbank Hà Nội vẫn thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm đối với Hội sở Trung ương, cụ thể:
  33. - Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ điều lệ của Ngân hàng, các quy định và chỉ thị của Hội Đồng quản trị và tổng giám đốc Eximbank Việt Nam. - Chấp hành thống nhất các quy tắc về nghiệp vụ kinh doanh, và chế độ các hạch toán báo cáo. - Về kết quả kinh doanh, sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế với Nhà nước, chuyển lợi nhuận kinh doanh về Hội sở Trung Ương. Ra đời trong điều kiện nền kinh tế mở cửa với sự điều tiết của cơ chế thị trường tạo ra môi trường kinh tế phù hợp để chi nhánh hoạt động kinh tế và phát triển. Trong hơn 10 năm hoạt động và trưởng thành dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Hội đồng quản trị, sự lãnh đạo sát sao và sự hỗ trợ to lớn về mọi mặt của Hội sở Trung ương, cũng như được sự tín nhiệm của các cổ đông và các đơn vị khách hàng, tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên của Eximbank Hà Nội đã tích cực trong công tác đưa chi nhánh ngày càng lớn mạnh. Không chịu bó tay trước bất kỳ khó khăn nào, bằng ý chí vươn lên của gần 100 cán bộ công nhân viên, chi nhánh đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Chỉ trong một thời gian ngắn ra đời và đi vào hoạt động Eximbank Hà Nội đã từng bước khẳng định được chỗ đứng của mình, chứng tỏ được sức mạnh tiềm năng bằng những kết quả đạt được hết sức cụ thể trong từng mặt nghiệp vụ. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Eximbank Hà Nội Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đã được xác định ngay từ khi mới thành lập là phục vụ các chương trình kinh tế – xã hội và đẩy mạnh công cuộc đầu tư phục vụ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu ở các tỉnh phía Bắc. Bộ máy tổ chức của Eximbank Hà Nội phải tổ chức sao cho vừa gọn nhẹ, nhưng lại vừa đảm bảo đạt hiệu quả cao phù hợp với quy mô và đặc điểm địa bàn hoạt động của chi nhánh. Do đó, cơ cấu tổ chức của Eximbank Hà Nội gồm: - Giám đốc. - Phó giám đốc. - Các phòng nghiệp vụ.
  34. - Chi nhánh cấp II Láng Hạ. - Chi nhánh cấp II Long Biên. - Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Eximbank Hà Nội. Ban giám đốc điều hành Phòng tín dụng - Đt Phòng TTQT và QHQT Phòng kế toán Phòng ngân quỹ Phòng hành chính Chi nhánh láng hạ Chi nhánh long biện Ngoài ra, Eximbank Hà Nội còn có thêm tổ vi tính với nhiệm vụ và chức năng chính là nghiên cứu ứng dụng các phần mềm trong lĩnh vực ngân hàng, quản lý và bảo dưỡng nâng cấp mạng nội bộ cũng như kết nối với Hội sở Trung ương và các chi nhánh khác trong hệ thống Eximbank Việt Nam. Bên cạnh đó, Eximbank Hà Nội còn có tổ công nợ để theo dõi và quản lý các khoản nợ quá hạn, tổ thẻ phụ trách hoạt động thanh toán và phát hành thẻ MasterCard và VisaCard và bộ phận hỗ trợ tư vấn du học trực thuộc phòng tín dụng đầu tư. 2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh chủ yếu của Eximbank Hà Nội trong những năm qua 2.1.4.1. Hoạt động huy động vốn. Tạo vốn hiện đang là vấn đề được ngành tài chính ngân hàng, các doanh nghiệp hết sức quan tâm. Bởi vì chỉ khi nguồn vốn được đảm bảo thì mới tạo
  35. đà cho việc sử dụng vốn hợp lý vào mục đích khác nhau. Và để có thể tạo được nguồn vốn riêng cho mình với chi phí rẻ nhất thì cách tốt nhất là ngân hàng huy động từ nền kinh tế mà chủ yếu từ tổ chức kinh tế và dân cư. Nhận thức được vấn đề đó với phương châm coi tạo nguồn vốn là khâu mở đường tạo mặt bằng vốn tăng trưởng vững chắc ngân hàng Eximbank Hà Nội đã cố gắng trong công tác huy động vốn với nhiều hình thức huy động khác nhau để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy, nguồn vốn của ngân hàng không ngừng tăng trưởng. Năm 2004, tổng nguồn vốn huy động đạt 985,83 tỷ đồng tăng 2,32% so với năm 2003. Tuy nhiên tốc độ tăng này thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng năm 2003 đạt 45,18%. Nguyên nhân là do năm 2004 có những thời điểm tình hình huy động vốn của Eximbank Hà Nội chựng lại rõ nét do tác động tăng của chỉ số giá tiêu dùng. Để thấy rõ hơn sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động ta sẽ xem xét cơ cấu của nó: Bảng 2.1: Cơ cấu huy động theo loại tiền gửi. Đơn vị: Tỷ đồng. Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Vốn huy động 595.16 100% 880,5 100% 893,44 100% Tiền gửi của TCKT 243,72 40,85% 243,67 27,67% 251,45 28,14% Tiền gửi tiết kiệm 351,44 59,15% 636,83 72,33% 641,99 71,86% (Nguồn số liệu: phòng Kế toán của Eximbank-HN) Như vậy, trong cơ cấu vốn huy động của Eximbannk Hà Nội thì nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với tiền gửi của các TCKT. Nếu trong năm 2002 vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm chỉ chiếm 59,15% trong tổng số vốn huy động từ tài khoản tiền gửi thì đến năm 2004 tỷ lệ đó đã lên tới 71,86% một tốc độ tăng cao cho thấy uy tín của Eximbank Hà Nội đối với dân cư ngày càng tăng. Ngược lại với tiền gửi của dân cư thì tiền gửi của các TCKT chiếm tỷ trọng tương đối thấp trong tổng số vốn huy động từ tài khoản tiền gửi, nếu năm 2002 huy động được 243,72 tỷ
  36. đồng chiếm 40,85% thì đến năm 2004 mặc dù số tiền huy động được là 251,45 tỷ đồng nhưng tỷ trọng của nó lại giảm xuống chỉ chiếm 28,14%. Qua phân tích ta thấy số vốn huy động từ tài khoản tiền gửi năm sau đều cao hơn năm trước, để có được điều này Eximbank Hà Nội đã không ngừng nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ cũng như áp dụng mức lãi suất huy động linh hoạt nhằm đảm bảo tốt nguồn vốn huy động đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. 2.1.4.2. Hoạt động tín dụng: Eximbank Hà Nội có điểm thuận lợi là hoạt động trên một địa bàn đông dân cư, nhiều TCKT hoạt động. Nhưng đồng thời trên địa bàn này cũng tồn tại nhiều hệ thống ngân hàng trên nguyên tắc đi vay để cho vay dẫn đến sự cạnh tranh rất cao. Vì vậy để hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả cao thì ngân hàng không những phải chú trọng đến công tác huy động tiền gửi mà phải đặc biệt quan tâm đến sử dụng vốn và nhất là công tác tín dụng của ngân hàng. Năm 2003, cho vay ra nền kinh đạt 1746,48 tỷ đồng tăng 617,68 tỷ đồng so với năm 2002 đạt tốc độ tăng 54,72% thì đến năm 2004 doanh số cho vay đạt 1953,5 tỷ đồng tăng 11,86% so với năm 2003. Bảng 2.2: Đánh giá qui mô, tốc độ tăng trưởng tín dụng. Đơn vị: tỷ đồng Năm Năm Năm 2003/2002 2004/2003 Chỉ tiêu 2002 2003 2004 (+/-) tỷ đ (+/-) % (+/-) tỷ đ (+/-)% DS cho vay 1128,8 1746,5 1953,5 +617,68 +54,72 +207,02 +11,86 DS thu nợ 1012,9 1536,8 1632,4 +523,9 +51,74 +95,57 +6,22 Dư nợ 448,18 587,9 713,6 +139,72 +31,17 +125,7 +21,38 ( Nguồn số liệu: Phòng tín dụng Eximbank Hà Nội) Do mở rộng địa bàn tín dụng, cùng với những nỗ lực của tập thể cán bộ ngân hàng cho nên dư nợ cho vay của Eximbank đã được nâng lên từ 448,18 tỷ đồng năm 2002 lên 587,9 tỷ đồng năm 2003 với tốc độ tăng 31,17%.Và tốc độ tăng 21,38% dư nợ cho vay tính đến 31/12/2004 đã đạt 713,6 tỷ đồng. Để ý sự biến động giữa doanh số cho vay và dư nợ cho vay ta thấy doanh số cho vay
  37. luôn có mức tăng lớn hơn nhiều so với dư nợ cho vay. Năm 2002 mức tăng về doanh số cho vay là 617,68 tỷ đồng gấp 4,4 lần dư nợ cho vay và trong năm 2004 con số này là 1,65 lần. Sở dĩ như vậy là do hoạt động cho vay của Eximbank Hà Nội trong năm 2003 và 2004 chủ yếu là cho vay ngắn hạn và cho vay cầm cố, chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn. Với đặc điểm là một ngân hàng TMCP tiến hành các hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng ngân hàng nhằm phục vụ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và kinh doanh XNK, nên cho vay tài trợ XNK luôn là thế mạnh của HN. Chính vì thế trong cơ cấu cho vay thì doanh số cho vay bằng ngoại tệ tại Eximbank Hà Nội luôn chiếm tỷ trọng cao. Nếu như năm 2003 doanh số cho vay bằng ngoại tệ qui đổi về VNĐ là 797,12 tỷ đồng, chiếm 45,64% tổng doanh số cho vay của ngân hàng thì đến năm 2004 con số này là 863,37 tỷ đồng, chiếm 47,15% tổng doanh số cho vay. Cho vay bằng VNĐ tại Eximbank Hà Nội chủ yếu là phục vụ các doanh nghiệp trong việc sản xuất, chế biến, thu mua các mặt hàng xuất khẩu. Doanh số cho vay bằng VNĐ năm 2003 là 449,6 tỷ đồng, chiếm 28,6% tổng doanh số cho vay và năm 2004 con số này là 532,8 tỷ đồng, chiếm 27,3% tổng doanh số cho vay. Nhìn chung trong năm 2004 do mở rộng địa bàn tín dụng không những trên địa bàn Hà Nội mà tất cả các tỉnh phía bắc nên khối lượng tín dụng tăng lên đáng kể. Đây là một trong những nghiệp vụ đem lại nguồn thu đáng kể cho Eximbank Hà Nội trong những năm qua. Điều này chứng tỏ khách hàng có sự tin tưởng và tín nhiệm lớn đối với ngân hàng. Song song với tăng trưởng dư nợ lành mạnh, chi nhánh cũng hết sức quan tâm đến công tác xử lý nợ tồn đọng. Ban giám đốc chi nhánh luôn đôn đốc cán bộ tín dụng trong việc xem xét và đưa ra các điều kiện cho vay chặt chẽ, đối với những khoản vay lớn thì phải hoàn tất tài sản đảm bảo để tạo điều kiện đối với việc vay vốn của khách hàng và hạn chế rủi ro về phía ngân hàng. Tổng dư nợ quá hạn của Eximbank Hà Nội tính đến thời điểm 31/12/2004 là 18,67 tỷ đồng, so với tổng dư nợ quá hạn năm 2003 thì con số này tăng lên
  38. 0,78 tỷ đồng. Nhưng nhìn lại năm 2001 với tổng dư nợ quá hạn là 40,42 tỷ đồng thì tình hình nợ quá hạn tại Eximbank Hà Nội đã giảm rõ rệt. Bảng 2.3: Tình hình nợ quá hạn tại Eximbank Hà Nội. Đơn vị: Tỷ đồng chỉ tiêu 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 1. Tổng dư nợ 448,18 587,9 713,6 2. Tổng dư nợ quá hạn 3,02 17,89 18,67 Trong đó: - Đối với cho vay ngắn hạn 2,02 13,58 13,78 - Đối với cho vay trung, dài hạn 1,00 4,31 4,89 - Đối với khoản trả thay trong bảo lãnh 0 0 0 3. Dư nợ quá hạn khó đòi 0 0,53 0,58 4. Tỷ lệ NQH trên tổng dư nợ(%) 0,66 2,69 2,7 (Nguồn số liệu: phòng tín dụng Eximbank Hà Nội) Với sự phấn đấu nỗ lực, công tác kinh doanh tín dụng của Eximbank Hà Nội đã ngày càng mở rộng. Là một ngân hàng còn khá non trẻ, lại phải chịu sự cạnh tranh của các ngân hàng lớn có bề dày kinh nghiệm và có nhiều khách hàng quen thuộc trong và ngoài nước thì đối với Eximbank Hà Nội đây có thể được coi là một thành công. Năm 2004, thực hiện chủ trương điều chỉnh một bước cơ cấu tín dụng theo hướng cho vay có đảm bảo bằng tài sản và phân tán rủi ro. Hạn chế việc cho vay không có đảm bảo bằng tài sản, không cho vay các dự án có hiệu quả thấp. Mở rộng tín dụng một cách thận trọng và đúng hướng vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp, tăng cường mạnh cho vay tiêu dùng, cầm cố sổ tiết kiệm. Thực hiện qui trình hoá nghiệp vụ tín dụng, ban hành sổ tay tín dụng, công tác tín dụng được kiểm soát chặt chẽ, chất lượng tín dụng được đảm bảo an toàn và hiệu quả. 2.1.4.3. Các hoạt động khác a- Thanh toán quốc tế
  39. Khâu thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ tương đối phát triểncủa Eximbank Hà Nội. So với các ngân hàng trên địa bàn về thanh toán quốc tế, Eximbank Hà Nội chiếm một tỷ trọng khá lớn và là một trong những ngân hàng rất có uy tín. Eximbank Hà Nội luôn chấp hành tốt các qui định, qui trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế, không để xảy ra sai sót, rủi ro trong thanh toán. Hơn 10 năm hoạt động, khối lượng thanh toán XNK qua Eximbank không ngừng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Bảng 2.4: Doanh số thanh toán quốc tế tại Eximbank Hà Nội. Đơn vị: Tỷ đồng Thanh toán hàng xuất Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tên nghiệp vụ Số Số Số Trị nghiệp Trị giá nghiệp Trị giá nghiệp giá vụ vụ vụ 1. Thông báo L/C 134 21,05 175 22,3 193 25,7 2.Thương lượng chứng từ 145 17,07 147 18,05 158 19,02 3. Thanh toán 142 17,13 149 19,4 151 20,01 Thanh toán hàng nhập 1. Phát hành L/C a. L/C trả ngay 750 72,05 755 73,04 760 74,06 b. L/C trả chậm 5 1,59 0 0 5 2,03 Cộng 755 73,64 755 73,04 765 76,09 2. TTR 465 5,92 509 5,67 515 6,01 1. Thanh toán a. L/C trả ngay 748 59,94 820 72,01 868 75,03 b. L/C trả chậm 0 0 0 0 0 0 Cộng 748 59,94 820 72,01 868 75,03 c. Nhờ thu trả ngay 163 2,21 175 2,43 183 2,67 d. Nhờ thu trả chậm 4 0,22 6 0,34 8 0,36 Cộng 167 2,22 181 2,77 191 3,03 (Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh ngoại tệ Eximbank Hà Nội) b- Hoạt động kiều hối Với lợi thế hệ thống ngân hàng đại lý rộng khắp tại 58 quốc gia trên thế giới đã tạo tiền đề cho việc phát triển kiều hối, thuận tiện cho việc chuyển tiền từ các nước về Việt Nam. Lượng kiều hối chuyển về qua Eximbank Hà Nội
  40. ngày càng tăng đã đáp ứng được phần nào lượng ngoại tệ phục vụ nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu; tăng nguồn vốn huy động tiết kiệm ngoại tệ; tăng thu dịch vụ ngân hàng. Doanh số chi trả kiều hối năm 2003 tăng gấp đôi so với năm 2002, tuy nhiên năm 2004 con số này chỉ đạt 2,1 triệu USD giảm 76% so với năm 2003. Nguyên nhân là do công tác huy động kiều hối chưa có bộ phận chuyên trách nên thiếu tập trung thường xuyên để đề ra các biện pháp thích hợp thu hút đối tác cũng như đưa ra các biện pháp tiếp thị mới. c- Nghiệp vụ thẻ Tháng 3/2001, Eximbank đã chính thức phát hành thẻ tín dụng quốc tế mang thương hiệu ViêtNam Eximbank – MasterCard ra thị trường và trở thành một trong ba ngân hàng phát hành thẻ MasterCard tại thị trường Việt Nam. Đến tháng 7/2003 thẻ VietNam Eximbank VisaCard cũng đã chính thức ra đời. Trong năm 2004 đã phát hành ra thị trường 1768 thẻ mang thương hiệu VietNam Eximbank MasterCard, tăng 26% so với năm 2003,với giá trị bình quân 20 triệu đồng /thẻ và doanh số thanh toán thẻ đạt 0,98 triệu USD tăng 20% phí dịch vụ thu được tăng 15% so với năm 2003.Tuy nhiên hoạt động kinh doanh thẻ còn có một số mặt hạn chế như sau: Số lượng máy ATM của Eximbank quá ít, gây bất tiện đến giao dịch của khách hàng. Tiến độ kết nối hệ thống ATM với Vietcombank còn chậm. Hoạt động phát triển các đơn vị chấp nhận thẻ hết sức khó khăn do thị trường thanh toán thẻ cạnh tranh rất gay gắt. Các ngân hàng áp dụng nhiều chính sách như giảm, miễn phí dịch vụ đối với đơn vị chấp nhận thẻ. Thậm chí nhiều ngân hàng đẩy mạnh quảng bá thương hiệu, chưa quan tâm đến việc thu phí dịch vụ thẻ. Công tác quảng cáo, quảng bá sản phẩm thẻ của Eximbank còn hạn chế, nên sản phẩm thẻ của Eximbank chưa có sức thu hút tốt trên thị trường. d- Kinh doanh ngoại tệ Hoạt động kinh doanh ngoại tệ được xác định là một mảng nghiệp vụ lớn và quan trọng tại Eximbank, là trợ lực thúc đẩy các nghiệp vụ khác như xuất khẩu, nhập khẩu kiều hối, tín dụng đã tăng trưởng khá liên tục và bền
  41. vững. Trong những năm trở lại đây chi nhánh đã luôn chủ động khai thác và tìm kiếm nguồn ngoại tệ nên đã đáp ứng kịp thời nhu cầu về ngoại tệ phục vụ cho khách hàng nhập khẩu. Tuy nhiên nguồn mua USD/VND từ nguồn thanh toán xuất khẩu chỉ chiếm 20-25% nhu cầu thanh toán của khách hàng, còn lại phải mua từ nhiều nguồn khác nhau chủ yếu từ thị trường liên ngân hàng và thị trường vãng lai, nên lượng ngoại tệ năm qua có nhiều thời điểm khan hiếm, chưa đáp ứng đủ cho các doanh nghiệp, các cá nhân có nhu cầu cần thiết và hợp lý nhưng Eximbank cũng đáp ứng được nhu cầu cơ bản trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của mình. Bảng 2.5: Báo cáo về kinh doanh ngoại tệ của Eximbank Hà Nội. Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 1. Doanh số mua-bán ngoại tệ 171,83 269,8 471 2. Thu về kinh doanh ngoại tệ 0,12 0,19 0.21 ( Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh ngoại tệ Eximbank Hà Nội) Qua bảng số liệu trên ta thấy, tổng doanh số mua bán ngoại tệ của Eximbank Hà Nội năm 2004 đạt mức 471 triệu USD tăng 1,7 lần so với năm 2003. e- Nghiệp vụ kế toán thanh toán và ngân quỹ Đến đầu năm 2004, tổng số tài khoản của khách hàng mở tại ngân hàng là7569 tài khoản. Việc quản lý các tài khoản tiền gửi là rất khó khăn và phức tạp nên phòng kế toán của ngân hàng có trên 15 thanh toán viên làm công việc này. Việc tổ chức thanh toán nhanh chóng an toàn và thuận lợi của ngân hàng đã góp phần tạo được niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng. Đồng thời công tác thanh toán qua ngân hàng cũng được chi nhánh chú trọng. Chi nhánh thực hiện thanh toán bù trừ trục tiếp với khách hàng trên địa bàn Hà Nội nên đẩy mạnh tốc độ thanh toán ngoài hệ thống. Đối với công tác thanh toán liên hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán 100% qua máy vi tính vì vậy đảm bảo được thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn.
  42. Khối lượng tiền mặt lưu thông qua quỹ của Eximbank Hà Nội tương đối lớn, lượng tiền mặt thu vào trong hơn 10 năm qua trên10.000 tỷ VNĐ và chi ra cững xấp xỉ 10.000 tỷ VNĐ. Về hoạt động thu chi ngoại tệ trong 10 năm qua, các loại ngoại tệ đã thu qua quỹ ngoại tệ đạt trên 180 triệu USD, chi ra đạt 185 triệu USD. Công tác thu chi tiền mặt trong năm qua mặc dù khối lượng tăng lên gấp nhiều lần so với năm 2003 nhưng vẫn đảm bảo an toàn không xảy ra mất mát. 2.1.4.4. Kết quả kinh doanh Được sự chỉ đạo và hỗ trợ nhiều mặt của Hội sở Trung ương cũng như các chi nhánh trong cùng hệ thống, trong năm qua tập thể lãnh đạo, nhân viên của chi nhánh đã tích cực trong công tác, vượt qua những khó khăn đảm bảo kinh doanh có lãi. Bảng 2.6: Tình hình thu nhập, chi phí của Eximbank Hà Nội. Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tổng thu 34,82 56,8 73,17 Tổng chi 25,87 48,52 60,83 Lợi nhuận thu được 8,95 8,28 9,01 I/ Các nguồn chủ yếu - Thu lãi cho vay 20,79 34,19 41,52 - Thu lãi tiền gửi 5,17 12,25 19,21 - Thu từ nghiệp vụ bảo lãnh 0,32 0,24 0,83 - Thu từ kinh doanh ngoại tệ 2,7 3,52 4,37 - Thu về các dịch vụ khác 5,71 6,1 6,72 - Thu khác về hoạt động kinh doanh 0 0,19 0,15 II/ Các nguồn chi chủ yếu 1. Chi cho hoạt động kinh doanh 20,99 36,79 49,05 - Trả lãi tiềngửi 20,45 36,07 38,13 - Trả lãi tiền vay 0,06 0 0,04 - Chi về dịch vụ thanh toán và NQ 0,47 0,72 0,86 - Chi hoạt động kinh doanh khác 0,01 0,001 0,03
  43. 2. Chi nộp thuế 0,25 0,35 0,41 3. Chi cho quản lý 4,49 8,15 9,26 4. Chi khác 0,05 0,28 0,32 ( Nguồn số liệu: phòng kế toán của Eximbank Hà Nội)` Tổng thu của Eximbank Hà Nội trong năm 2003 là 56,8 tỷ đồng tăng so với năm 2002 là 63,12%, sang năm 2004 tổng thu nhập lại tăng với tốc độ 29,88% đạt 73,78 tỷ đồng. Trong đó, nguồn thu từ lãi cho vay luôn chiếm trên 50% tổng thu nhập của chi nhánh. Năm 2004 nguồn thu này đạt 41,52 tỷ đồng tăng 21,44% so với năm 2003. Cũng trong năm 2004 do tiền gửi tại các TCTD khác tăng mạnh cho nên thu lãi tiền gửi cũng tăng với tốc độ 60,08%. Nguồn thu nhập của ngân hàng sau một năm hoạt động phải đảm bảo trang trải đủ cho các khoản chi phí của ngân hàng và phải có lãi. Tổng chi phí của Eximbank Hà Nội năm 2004 là 60,83 tỷ đồng tăng 25,37% so với năm 2003. Tuy nhiên tốc độ tăng chi phí năm 2004 vẫn nhỏ hơn tốc độ tăng thu nhập năm 2004 để có được kết quả này là cả sự cố gắng lớn lao của tập thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng. Tình hình này được thể hiện rõ qua biểu đồ 2.2 Biểu đồ 2.2: Tình hình kết quả kinh doanh của Eximbank Hà Nội Đơn vị: tỷ đồng 80 70 60 50 Tổng thu 40 Tổng chi 30 LN thu được 20 10 0 2002 2003 2004 2.2. Thực trạng công tác huy động vốn tại Eximbank Hà Nội
  44. 2.2.1. Tình hình chung về huy động vốn của Eximbank Hà Nội trong những năm 2002-2004 Vốn là cơ sở quan trọng quyết định tới việc thành lập, mở rộng hoạt dộng kinh doanh của các chủ thể kinh tế nói chung và các NHTM nói riêng. Đối với các NHTM, vốn gắn liền với hoạt động kinh doanh trong suốt quá trình tồn tại và phát triển đặc biệt là nguồn vốn huy động- nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM. Việc mở rộng nguồn vốn huy động đi đôi với việc mở rộng và phát triển qui mô tín dụng và các dịch vụ khác của NHTM. Để có thể tồn tại và phát triển thì các NHTM phải luôn quan tâm tới hoạt động huy động vốn nói chung và công tác huy động vốn nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng đó cũng như để đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phục vụ cho việc phát triển kinh tế trên địa bàn Hà Nội Eximbank Hà Nội luôn quan tâm sát sao tới hoạt động huy động vốn, coi đó là tiền đề cơ sở cho ngân hàng triển khai các loại hình dịch vụ mới hiện đại nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Eximbank Hà Nội đã luôn tìm được cho mình một hướng đi đúng đắn cũng như tìm ra các giải pháp phù hợp với điều kiện kinh doanh trên địa bàn. Eximbank Hà Nội đã tích cực chủ động khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi, mở rộng mạng lưới hoạt động đưa ra nhiều hình thức huy dộng vốn khác nhau nhằm thu hút khách hàng đến với ngân hàng. Eximbank Hà Nội đã thực hiện đổi mới toàn diện hoạt động tín dụng của mình, đưa ra những chính sách phục vụ khách hàng nhằm giữ khách hàng truyền thống và thu hút thêm khách hàng mới. Những thay đổi tích cực này đã đem lại cho Eximbank một lượng vốn huy động tăng thêm đáng kể qua các năm. Như đã phân tích Eximbank Hà Nội nằm trên địa bàn có dân cư đông đúc với mức thu nhập và tích luỹ cao. Bên cạnh đó, trên địa bàn còn tập trung nhiều TCKT, thuộc đủ mọi thành phần hoạt động nên nhu cầu về vốn cũng như nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng tương đối lớn. Mặt khác, tính cạnh tranh giữa các NHTM, các TCTD trên địa bàn luôn diễn ra gay gắt vì đây là
  45. nơi tập trung số lượng các NHTM lớn nhất trên cả nước. Các cuộc chạy đua lãi suất giữa các NHTM quốc doanh đã kéo các NHTM CP vào trong vòng xoáy đó. Có thời điểm lãi suất của ngân hàng này cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng khác. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như vậy hoạt động huy động vốn của Eximbank Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt trong năm 2004 giá cả thị trường trong nước và quốc tế tăng mạnh, chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam tăng 9,5%, dịch cúm gia cầm bùng phát trên diện rộng, nền kinh tế trong tình trạng có lạm phát tăng, ảnh hưởng đến tâm lý của dân cư, tác động lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng vì dân chúng có xu hướng chuyển tích luỹ VND sang ngoại tệ, vàng hoặc đầu tư bất động sản Với phương châm “đi vay để cho vay” công tác điều hành vốn của Eximbank Hà Nội đã có những chuyển biến tích cực, toàn chi nhánh tập trung coa cho nhiệm vụ huy động vốn đưa ra nhiều biện pháp tích cực để thu hhút khách hàng như: đổi mới phong cách thái độ phục vụ, thực hiện các hình thức khuyến mại để thu hút khách hàng Đồng thời tiếp tục củng cố cơ sở hiện có và mở rộng mạng lưới hoạt động, chủ động điều hành linh hoạt lãi suất, đa dạng các hình thức và thời hạn huy động. Mặt khác thường xuyên có quan hệ tốt với khách hàng gửi tiền lớn và ổn định, khai thác tốt nguồn vốn của các đơn vị truyền thống, mở rộng và phát triển quan hệ với khách hàng mới thông qua việc vận động mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tiếp cận các quan hệ tín dụng mới, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động quảng bá tiếp thị Nhờ đó nguồn vốn liên tục tăng nhanh và bền vững qua các năm, tạo thuận lợi cho Eximbank Hà Nội trong việc điều hành tín dụng. 2.2.2. Thực trạng huy động vốn của Eximbank Hà Nội 2.2.2.1. Về qui mô nguồn vốn huy động Từ nguồn vốn ban đầu 14 tỷ đồng do Hội sở Trung ương cấp làm vốn điều lệ, qua hơn 10 năm hoạt động Eximbank Hà Nội đã mở rộng công tác huy động tiền gửi từ các đối tượng khác nhau để đảm bảo cho nhu cầu kinh doanh của chhi nhánh. Với lãi suất linh hoạt đạng hoá các hình thức huy động vốn
  46. năm 2004 Eximbank Hà Nội đã đạt được tốc độ tăng trưởng nguồn vốn khá cao. Kết quả này được biểu hiện ở bảng số liệu sau:
  47. Bảng 2.7: Quy mô nguồn vốn huy động qua các năm. Đơn vị: tỷ đồng. Mức chênh lệch Năm Tổng vốn huy động Tuyệt đối Tương đối 2002 663,71 116,81 21,36% 2003 963,54 299,83 31,12% 2004 985,83 22,29 2,26% ( Nguồn số liệu: phòng Kế toán của Eximbank-HN) Qua bảng số liệu trên chúng ta thấy qui mô nguồn vốn tăng trưởng đều qua các năm. Nếu như năm 2002 tổng nguồn vốn huy động chỉ đạt được 663,71 tỷ đồng thì năm 2003 tổng nguồn vốn huy động là 963,54 tỷ đồng( tăng 31,12% so với năm 2002). Bước sang năm 2004 tuy nguồn vốn huy động của Eximbank Hà Nội không có bước đột phá mạnh như năm 2003 nhưng vẫn tiếp tục tăng mặc dù tốc độ tăng có giảm xuống. Kết thúc năm tài chính 2004, tổng nguồn vốn huy động đạt được là 985,83 tỷ đồng tăng 2,26% so với năm 2003. Nguyên nhân là do chỉ số giá tiêu dùng đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình huy động vốn của Eximbank. Trong năm có những tháng như 2, 6, 7 và 8 năm 2004 tình hình huy động vốn chựng lại rõ nét nhưng Eximbank vẫn ổn định và duy trì được tốc độ tăng trưởng. Điều đó chứng tỏ mặc dù phải chịu sức ép mạnh mẽ của cạnh tranh của các TCTD khác trên địa bàn nhưng việc tăng trưởng vốn của Eximbank Hà Nội vẫn đạt hiệu quả, giúp ngân hàng chủ động về vốn. a- Huy động vốn bằng tiền gửi tiết kiệm Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm là nghiệp vụ truyền thống của các NHTM Việt Nam và nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của các ngân hàng. Trong ba năm vừa qua, Eximbank Hà Nội đã đưa ra nhiều biện pháp tích cực để huy động tối đa nguồn tiền gửi này, cụ thể là: đổi mới tác phong làm việc, hướng dẫn nhiệt tình đối với khách hàng gửi tiền lần đầu, cải tiến thủ tục giấy tờ, rút ngắn thời gian giao dịch từ những biện pháp trên
  48. Eximbank Hà Nội đã tạo ra một hình ảnh hoàn toàn mới trước khách hàng. Đó là lý do mà trong những năm gần đây số lượng vốn huy động qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm của Eximbank Hà Nội luôn tăng. Chúng ta sẽ thấy rõ tốc độ tăng của nguồn vốn này qua bảng dưới đây: Bảng 2.8: Cơ cấu kỳ hạn vốn tiền gửi tiết kiệm Đơn vị: Tỷ đồng chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tiền gửi tiết kiệm 351,44 636,83 641,99 - Tiền gửi không kỳ hạn 1,98 5,32 6,54 - Tiền gửi có kỳ hạn 349,46 631,51 635,45 + Kỳ hạn 1-3 tháng 30,45 45,38 32,55 + Kỳ hạn 6- 9 tháng 73,25 109,39 112,35 + Kỳ hạn > 12 tháng 239,56 468,43 483,21 + Kỳ hạn khác 6,20 8,31 7,34 (Nguồn số liệu: phòng kế toán của Eximbank Hà Nội) Quan sát tổng quan qua bảng số liệu cho thấy cùng với sự tăng trưởng của nguồn vốn huy dộng, bộ phận tiền gửi tiết kiệm của chi nhánh có xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 2002 tiền gửi tiết kiệm huy động được đạt 351,41 tỷ đồng chiếm 52,95% đến năm 2003 khoản tiền này là 630,83 tỷ đồng chiếm 66,09% trong tổng nguồn vốn huy động được và tăng so với năm 2002 là 81,21%. Đây là sự tăng trưởng vượt bậc về huy động tiền gửi tiết kiệmcủa Eximbank Hà Nội thể hiện uy tín của chi nhánh đối với dân cư. Thêm vào đó năm 2003 nền kinh tế khá ổn định, tích luỹ của dân cư tăng lên nhiều người gửi tiền vào ngân hàng nhằm mục đích an toàn và tìm kiếm lợi nhuận là chính cho nên mặc dù lãi suất có xu hướng giảm xuống nhưng nguời dân vẫn gửi tiền vào ngân hàng. Đến năm 2004 tuy không có sự tăng trưởng vượt bậc như năm 2003 nhưng chi nhánh vẫn huy động được 635,45 tỷ đồng. Tiền gửi tiết kiệm với kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao do đó ta thấy tiền gửi có kỳ hạn trên 12
  49. tháng chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tiền gửi có kỳ hạn. Tình hình này được thể hiện rõ qua biểu đồ 2.3 Biểu đồ 2.3: Cơ cấu kỳ hạn vốn tiền gửi tiết kiệm Đơn vị: tỷ đồng 700 600 500 400 TGTK TGTK KKH 300 TGTK CKH 200 100 0 2002 2003 2004 Tình hình huy động vốn tiền gửi tiết kiệm của dân cư tại chi nhánh chủ yếu nghiêng về tiền gửi có kỳ hạn điều này cũng dễ hiểu bởi Eximbank Hà Nội nằm trên địa bàn có thu nhập tương đối cao. Nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là nguồn vốn ổn định để Eximbank Hà Nội có thể chủ động sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình mà không lo lắng nhiều đến việc rút tiền của khách hàng khi chưa đến hạn, khả năng thu được lợi nhuận của chi nhánh vì thế sẽ cao hơn. Nhưng mặt trái của vấn đề lại xuất phát từ chính sự quá ổn định của nó. Đó là việc chi nhánh phải trả cho khách hàng những khoản lãi suất khá cao so với tièn gửi không kỳ hạn. Do đó nếu ngân hàng không sử dụng nguồn vốn này một cách có hiệu quả thì sẽ dẫn đến giảm thu nhập. Vì thế ngân hàng nên đưa ra các biện pháp tích cực hơn nữa để có thể cân đối giữa tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn, như là: đa dạng hoá hình thức huy động vốn, cung cấp nhiều tiện ích hơn khi mở tài khoản tiền gửi và có hình thức khuyến mại với khách hàng để đem lại hiệu quả cao nhất cho ngân hàng. b- Huy động vốn bằng tiền gửi thanh toán
  50. Các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi tiền vào ngan hàng với mục đích chính để thực hiện các khoản thanh toán trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của họ. Do vậy đối với tiền gửi thanh toán các tổ chứ kinh tế cá nhân thường gửi không kỳ hạn để có thể rút ra bất cứ lúc nào trong phạm vi số dư tài khoản khi có nhu cầu. Trong vài ba năm trở lại dây kết quả kinh doanh của Eximbank Hà Nội ngày càng di lên, tình hình tài chính ngày càng được cải thiện, Eximbank Hà Nội đang dần khẳng định được uy tín, hình ảnh của mình thể hiện qua sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động mà cụ thể là thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán của Eximbank Hà Nội. Bảng 2.9: Tình hình huy động vốn từ tổ chức kinh tế và doanh nghiệp Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm2002 Năm 2003 Năm2004 Tiền gửi của TCKT 243,72 243,67 251,45 - Tiền gửi không kỳ hạn 215,55 185,63 221,33 - Tiền gửi có kỳ hạn 28,27 58,04 30,12 ( Nguồn số liệu: phòng kế toán của Eximbank Hà Nội) Như vậy, nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế của Eximbank-HN luôn tăng trưởng đều qua ba năm gần đây. Tuy năm 2003 có sự giảm sút nhưng không đáng kể ( giảm 0,02% ) so với năm 2004. Trong tổng tiền gửi của tổ chức kinh tế, tiền gửi không kỳ hạn năm 2003 có sự giảm sút mạnh với năm 2002 là29,92 tỷ đồng với tốc độ giảm là 13,88% nhưng tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế lại tăng nhanh với tốc độ tăng gấp đôi là 106,04%. Đó là nguyên nhân khiến cho năm 2003 nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế không có sự giảm sút quá lớn. Đến năm 2004 nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế đạt 251,45 tỷ đồng, tăng 2,3% so với năm 2003 trong đó tiền gửi không kỳ hạn tăng khá nhanh đạt 35,7 tỷ đồng với tốc độ tăng là 19,24%. Đây là sự thành công lớn thể hiện uy tín của ngân hàng đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Nhất là trong điều kiện các NHTM nói chung cũng như các NHTM trên địa bàn thủ đô cạnh tranh gay gắt bằng cách đưa ra các mức lãi suất và hình thức huy động hấp dẫn.
  51. Có được kết quả trên cũng là do tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn luôn ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng có hiệu quả. Nhưng quan trọng hơn đó là sự nỗ lực của toàn thể nhân viên trong toàn bộ mạng lưới của chi nhánh, bằng các hình thức huy động vốn có hiệu quả đã khuyến khích các tổ chức kinh tế mở tài khoản qua ngân hàng. Tiền gửi từ các tô chức kinh tế thực sự là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng bởi lẽ Hà Nội là nơi tập trung hầu hết các tổng công ty nhà nước, các công ty nước ngoài và liên doanh với nước ngoài, là nơi tập trung rất đông các doanh nghiệp. Đó là cơ hội để thu hút được nguồn vốn với chi phí thấp nhất . Xét trong tổng nguồn vốn huy động thì nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng thấp hơn nhiều so với nguồn tiền gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, tiền gửi của các TCKT vào ngân hàng thường là nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi, chưa đến chu kỳ sản xuât kinh doanh hoặc là tiền gửi thanh toán. Đây là nguồn khá lớn mà chi phí của ngân hàng lại thấp ( lãi suất tiền gửi KKH ). Với những đặc điểm thuận lợi của nó luôn là đối tượng để Eximbank Hà Nội cũng như các ngân hàng khác tham gia khai thác góp phần tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. 2.2.2.2. Về cơ cấu huy động vốn a- Cơ cấu nguồn vốn huy động theo đối tượng sở hữu vốn Về mặt cơ cấu theo đối tượng sở hữu vốn, nguồn vốn huy động của Eximbank Hà Nội được hình thành từ tiền gửi của doanh nghiệp, tiền gửi của dân cư, tiền gửi của kho bạc nhà nước và TCTD khác. Sự biến động của các nguồn này sẽ được xem xét cụ thể qua các tính toán ở bảng 2.10 dưới đây: Bảng 2.10: Tình hình huy động vốn của Eximbank Hà Nội. Đơn vị :Tỷ đồng năm 2002 năm 2003 năm 2004 Tỷ Tỷ Tỷ Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Số tiền trọng trọng trọng (tỷ đ) (Tỷ đ) (Tỷ đ) ( % ) ( % ) ( % ) Vốn huy động 663,71 100 963,54 100 985,83 100 1. Tiền gửi thanh toán 243,72 36,72 243,67 25,29 251,45 25,51 - Có kỳ hạn 28,17 11,56 58,04 23,82 30,12 11,98 - Không kỳ hạn 215,55 88,44 185,63 76,18 221,33 88,03 2. Tiền gửi tiết kiệm 351,44 52,95 636,83 66,09 641,99 65,13
  52. - Có kỳ hạn 349,46 99,4 631,51 99,16 635,45 98,99 - Không kỳ hạn 1,98 0,56 5,32 0,84 6,54 1,02 3. Tiền gửi của TCTD 1,01 0,15 2,04 0,21 2,36 0,24 4. Nguồn vốn khác 67,54 10,18 81 8,4 87,03 8,38 ( Nguồn số liệu: phòng kế toán của Eximbank Hà Nội) Trong cơ cấu vốn huy động của Eximbank Hà Nội thì tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng cao. Đây là nguồn vốn dân cư chưa sử dụng hết đem gửi vào ngân hàng để lấy lãi và nó thường được gửi vào ngân hàng dưới hình thức tiền tiết kiệm. Theo nguyên tắc gửi tiền với thời hạn dài hơn sẽ được hưởng lãi suất cao hơn, mà mục đích của người gửi tiền chủ yếu là để hưởng lãi cho nên gửi tiết kiệm có kỳ hạn luôn thu hút được nhiều dân chúng hơn cả nó luôn chiếm hơn 90% tổng tiền gửi tiết kiệm của các năm từ 2002 đến 2004. Tổng số tiền gửi của dân cư tại Eximbank Hà Nội trong ba năm vừa qua luôn chiếm trên 50% tổng nguồn vốn huy động. Ngược lại, tiền gửi của các doanh nghiệp chủ yếu nhằm mục đích thanh toán và sử dụng các dịch vụ ngân hàng do đó trong tổng số tiền gửi thanh toán thì tiền gửi không kỳ hạn thường chiếm tỷ trọng khoảng 70 đến 80%. Để thu hút khách hàng giao dịch Eximbank Hà Nội có các chính sách về phí dịch vụ, đồng thời lãi suất cũng luôn được ngân hàng xem xét, điều chỉnh kịp thời để giữ được thế cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo khách hàng và ngân hàng cùng có lợi. Chính vì vậy trong năm 2004, Eximbank Hà Nội đã thu hút thêm được một số lượng khách hàng giao dịch. Trong năm 2004, tiền gửi của TCTD tại Eximbank Hà Nội tăng từ 2,04 tỷ đồng lên 2,36 tỷ đồng do đó tỷ trọng của nó trong tổng vốn huy động cũng tăng từ 0,15 năm 2003 lên 0,24% năm 2004. Điều này bước đầu khẳng định uy tín của Eximbank Hà Nội trong hệ thống các NHTM Việt Nam. Tình hình này thể hiện rõ qua biểu đồ 2.4.
  53. Biểu đồ 2.4: Cơ cấu huy động vốn của Eximbank Hà Nội Đơn vị: tỷ đồng 1000 900 800 700 VHĐ 600 TGTT 500 TGTK 400 TGTCTD 300 NVK 200 100 0 2002 2003 2004 b-Cơ cấu huy động vốn theo nội ngoại tệ Là NHTM cổ phần tiến hành các hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng ngân hàng nhăm phục vụ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu nguồn vốn ngoại tệ vai trò quan trọng có vai trò quan trọng đối với Eximbank Hà Nội. Bảng 2.11: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo nội ngoại tệ. Đơn vị: Tỷ đồng Tỷ trọng Tỷ trọng Tỷ trọng Số tiền Số tiền Số tiền ( % ) ( % ) ( % ) NV huy động 663,71 100 963,54 100 985,83 100 Nội tệ 515,68 77,7 760,04 78,88 764,53 77,56 Ngoại tệ($ qui 158,03 22,3 203,5 21,12 221,3 22,45 đổi) ( Nguồn số liệu: phòng kế toán của Eximbank Hà Nội) Qua bảng trên chúng ta thấy rằng, nguồn nội tệ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy độngcủa Eximbank Hà Nội. Năm 2002 nguồn ngoại tệ huy động được là 158,03 tỷ đồng chiếm 22,3% nguồn vốn huy động, năm 2003 tăng lên là 203,5 tỷ đồng ( tăng 28,78% so với năm 2002 ). Năm 2004
  54. nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ tiếp tục tăng lên đạt 221,3 tỷ đồng ( tăng 8,75% so với năm 2003 ). Như vậy tốc độ tăng năm 2004 giảm mạnh so với năm 2003 mặc dù số ngoại tệ huy động được qua các năm liên tục tăng. Tỷ trọng của nguồn vốn ngoại tệ trong tổng nguồn vốn huy động của Eximbank Hà Nội khá ổn định. Nó cho thấy Eximbank Hà Nội đã thực hiện tốt công tác huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, một trong những nghiệp vụ chủ yếu của Eximbank Hà Nội. c- Cơ cấu huy động vốn phân theo thời gian Bảng 2.12: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo thời gian. Đơn vị: tỷ đồng Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Chỉ tiêu Tỷ Tỷ Tỷ Số tiền Số tiền Số tiền trọng(%) trọng(%) trọng(%) Tổng nguồn 663,71 100 963,54 100 985,83 100 vốn - Không kỳ hạn 271,53 40,91 190,95 19,82 227,87 23,11 - Có kỳ hạn 377,63 59,09 689,55 80,18 665,57 76,82 ( Nguồn số liệu: phòng kế toán của Eximbank Hà Nội) Qua bảng số liệu trên ta thấy trong tổng nguồn vốn huy động được qua các năm thì tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn luôn thấp hơn so với tiền gửi có kỳ hạn. Cụ thể, năm 2002 chiếm 40,91% trong tổng nguồn vốn nhưng sang năm 2003 đã có sự giảm mạnh chỉ còn 19,82% và năm 2004 chiếm 23,11%. Nguyên nhân là do năm 2003 tiền gửi không kỳ hạn của các doanh nghiệp giảm mạnh từ 215,55 tỷ đồng năm 2002 xuống còn 185,63 tỷ đồng năm 2003. Tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn tăng từ 59,09% năm 2002 lên 76,82% năm 2004. Nguyên nhân là do trong tổng nguồn vốn huy động của Eximbank Hà Nội thì tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng cao mà mục đích của người dân khi gửi tiền vào ngân hàng hưởng lãi, thời hạn huy động càng dài thì NHTM áp dụng lãi suất càng cao.
  55. Rõ ràng, trong năm 2004 công tác huy động vốn của Eximbank Hà Nội đã có hiệu quả hơn rất nhiều so với những năm trước thể hiện mức độ tín nhiệm ngày càng cao của khách hàng đối với ngân hàng. Có thể nói, hoạt động huy động vốn của Eximbank Hà Nội năm 2004 đã có những bước phát triển vượt bậc. Đạt được thành tích này là do NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam đã áp dụng các biện pháp kịp thời phù hợp với diều kiện kinh tế nhiều thành phần. Chi nhánh đã chủ động mở rộng mạng lưới hoạt động của mình, đổi mới phong cách giao dịch với khách hàng ở tất cả các bộ phận kế toán cũng như tín dụng. Chất lượng công tác phục vụ của ngân hàng ngày một tốt hơn. Hơn nữa, ngân hàng đặc biệt quan tâm đến khách hàng truyền thống có uy tín với ngân hàng, có doanh thu bán hàng bằng tiền mặt cao. Các cán bộ ngân hàng luôn bám sát hoạt động kinh doanh, quá trình luân chuyển vật tư hàng hoá của các đơn vị tổ chức kinh tế có quan hệ với ngân hàng. Vì vậy ngân hàng luôn giữ được mối quan hệ tốt trong hoạt động kinh doanh với bạn hàng. 2.2.2.3. Thực trạng gửi tiền của khách hàng a- Nhóm khách hàng là dân cư Chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tiền gửi của Eximbank Hà Nội chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm trong đó chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn. Khách hàng là dân cư của Eximbank Hà Nội khá lớn vì ngân hàng nằm trên địa bàn có dân cư đông đúc với mức thu nhập tương đối cao và ổn định. Mục đích của nhóm khách hàng này gửi tiền vào ngân hàng nhằm thu lãi suất cao và tâm lý của họ là muốn được an toàn đối với khoản tiền của mình. Vì vậy đối với nhóm khách hàng này Eximbank Hà Nội đã có chính sách huy động hợp lý, đặc biệt là sử dụng công cụ lãi suất mềm dẻo, linh hoạt, đa dạng hoá các hình thức huy động với nhiều thời hạn khác nhau nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Nhờ đó đến năm 2004 số lượng khách hàng là cá nhân Việt Nam mở tài khoản bằng VND tại Eximbank Hà Nội là 5547 tài khoản và 1703 tài khoản USD. Để đạt được thành công trong công tác huy động vốn từ dân cư trong những năm qua Eximbank Hà Nội đã đưa ra nhiều giải pháp tích cực để một mặt tạo mối quan
  56. hệ tốt với khách hàng truyền thống mặt khác thu hút thêm nhiều khách hàng mới nhằm không ngừng tăng trưởng nhanh nguồn vốn huy động từ dân cư. b- Nhóm khách hàng là doanh nghiệp Để thu hút khách hàng là doanh nghiệp đến giao dịch, Eximbank Hà Nội có các chính sách về phí dịch vụ, lãi suất luôn được ngân hàng xem xét điều chỉnh kịp thời để giữ được thế cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo khách hàng và ngân hàng cùng có lợi nhuận. Các cuộc tiếp xúc khách hàng, chính sách khách hàng ưu đãi được thực hiện hàng năm tạo mối quan hệ gắn bó với khách hàng cũng như thực hiện các yêu cầu về tài trợ, thanh toán, chuyển tiền đi, đến trong và ngoài nước của khách hàng ngày một tốt hơn đảm bảo nhanh chóng, chính xác, an toàn, hiệu quả. Với các chính sách linh hoạt như trên và với việc đẩy mạnh công tác tiếp thị trong năm 2004 Eximbank Hà Nội đã thu hút được thêm một số lượng lớn khách hàng là doanh nghiệp đến giao dịch. Đối tượng khách hàng chủ yếu của Eximbank Hà Nội là các công ty TNHH, công ty cổ phần, và hợp tác xã, DNNN chiếm tỷ trọng không nhiều. Hiện tại số DNNN có quan hệ với Eximbank Hà Nội là 462 đơn vị chiếm 5,6%; công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã là 1031 đơn vị chiếm 12,5%. Như vậy, trong thời gian tới Eximbank Hà Nội cần chủ động và có biện pháp chỉ đạo tốt hơn để mở rộng và phát triển quan hệ với nhóm khách hàng này. c- Khách hàng là TCTD Đối với Eximbank Hà Nội khách hàng là các TCTD có quan hệ còn rất ít chỉ có 21 tổ chức chiếm 0,25%, năm 2004 tiền gửi của các TCTD tại ngân hàng là 2,36 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 0,24% trong tổng nguồn vốn huy động được. Điều này chứng tỏ Eximbank Hà Nội chưa thực sự chú trọng đến nhóm khách hàng này, do đó cần phải có các giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa việc thiết lập mối quan hệ với các khách hàng là TCTD. 2.2.3. Đánh giá kết quả công tác huy động vốn tại Eximbank Hà Nội 2.2.3.1. Những kết quả đạt được - Một là, nguồn vốn huy động là nguồn vốn cơ bản và quan trọng để ngân hàng dùng vào hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình. Do đó công tác
  57. huy động vốn được ngân hàng quan tâm đúng mức. Trong những năm qua, với nhiều nỗ lực cố gắng Eximbank Hà Nội đã đạt được những kết quả khả quan trong công tác huy động vốn . Nguồn vốn của ngân hàng tăng trưởng nhanh và bền vững, hình thức huy động đa dạng hơn. Cơ cấu nguồn vốn được điều chỉnh tăng dần loại tiền gửi có kỳ hạn nhằm tạo cho ngân hàng một nguồn vốn ổn định, khai thác tiền gửi của các đơn vị, TCKT, các cá nhân cũng tăng nhanh, đến nay số lượng các đơn vị có quan hệ tiền gửi gần 2259 đơn vị, cá nhân mở tài khoản tiền gửi là 7250 tài khoản. Qui mô nguồn vốn năm 2004 tăng so với năm 2003 là 22,29 tỷ đồng với tốc độ tăng là 2,32%. - Hai là, Eximbank Hà Nội đã chủ động mở rộng mạng lưới huy động tiền gửi, tích cực thu hút vận động khách hàng nên đã tạo điều kiện tăng trưởng nguồn vốn nhất là nguồn tiền gửi của khu vực dân cư. Mạng lưới chi nhánh và các phòng giao dịch được trang bị hiện đại nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng khi đến giao dịch với ngân hàng. - Ba là, quy trình nghiệp vụ ngày càng được hoàn thiện, đổi mới nhằm làm giảm thời gian giao dịch của khách hàng và tăng khối lượng huy động vốn trong thời gian làm việc của ngân hàng. Đặc biệt đối với các quầy giao dịch với khách hàng nhân viên ngân hàng luôn có thái độ nhiệt tình hướng dẫn cũng như trả lời khách hàng. Điều đó đã gây được thiện cảm đối với khách hàng, tăng uy tín của ngân hàng trên thị trường từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn của ngân hàng. - Bốn là, Eximbank Hà Nội đã luôn quan tâm đến lợi ích của khách hàng trên cơ sở tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng đã đưa ra mưc lãi suất hợp lý, linh hoạt và đưa ra nhiều kỳ hạn gửi tiền khác nhau do vậy khách hàng có thể chọn cho mình cách thức gửi tiền phù hợp. - Năm là, sự đoàn kết thống nhất trong ban lãnh đạo, sự đồng tâm nhất trí, hăng say lao động của tuyệt đại đa số cán bộ công nhân viên, tuổi đời còn tương đối trẻ có trình độ nghiệp vụ vững chắc, nhiệt tình công tác, có khả năng nhanh chóng tiếp cận các ứng dụng hiện đại nhất trong lĩnh vực ngân hàng tiền tệ, cùng kỷ cương điều hành kinh doanh ngày càng khoa học và thống nhất đã