Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng trung - Dài hạn ở ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

doc 85 trang nguyendu 3730
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng trung - Dài hạn ở ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_tin_dung_trung_dai_han_o.doc

Nội dung text: Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng trung - Dài hạn ở ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

  1. Lời nói đầu Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách: ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực; những thiên tai nặng nề liên tiếp xảy ra. Vượt lên trên mọi khó khăn thử thách đó, Việt Nam vẫn hoàn thành công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế- xã hội, vững bước đưa Việt Nam trở thành con rồng Châu á. Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu vốn đã và đang là một nhu cầu vô cùng cấp thiết cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tín dụng trung- dài hạn là công cụ đắc lực để đáp ứng nhu cầu đó. Hệ thống NHTM Việt Nam chiếm một vị trí chiến lược trong việc đáp ứng nhu cầu vốn đối với nền kinh tế. Nhận thấy tầm quan trọng của tín dụng trung- dài hạn đối với việc phát triển kinh tế- xã hội, các NHTM cũng đang triển khai nhiều biện pháp để có những bước chuyển dịch về cơ cấu tín dụng, tăng dần tỷ trọng cho vay trung- dài hạn với phương châm: “Đầu tư chiều sâu cho DN cũng chính là đầu tư cho tương lai của ngành NH”. Việc phát triển tín dụng NH không những chỉ mang lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế mà nó còn trực tiếp mang lại lợi ích thiết thực cho ngành NH. Tuy nhiên, thực tế hoạt động tín dụng trung-dài hạn còn đang gặp nhiều khó khăn, nổi cộm vẫn là vấn đề hiệu quả tín dụng trung- dài hạn còn thấp rủi ro cao, dư nợ tín dụng trung- dài hạn trong các NHTM vẫn thường chiếm tỷ lệ không cao lắm so với yêu cầu. Điều đó nói lên rằng vốn đầu tư cho chiều sâu chưa đáp ứng được đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng của nền kinh tế. Ngoài ra, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao cho vay ra nhưng không thu hồi được cả gốc và lãi nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế nói chung và của hệ thống NH nói riêng. Chính vì vậy vấn đề hiệu quả tín dụng trung- dài hạn đang là một vấn đề được mọi người trong và ngoài ngành quan tâm, giải quyết. Và đây cũng đang Ngành tài chính Ngân Hàng 1
  2. là đề tài của nhiều cuộc trao đổi, thảo luận tại các hội thảo, diễn đàn nghiên cứu. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao của vấn đề trên, với những kiến thức đã được học tập, nghiên cứu tại trường và sau một thời gian thực tập tại NHĐT  PTVN- một NH giữ vai trò chủ lực trong cho vay trung- dài hạn phục vụ đầu tư phát triển kinh tế đất nước, thấy rằng những vấn đề còn tồn tại trong tín dụng trung- dài hạn nên em đã chọn đề tài: “giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn tại Ngân Hàng đầu tư và phát triển việt nam” để thực hiện khoá luận tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm ba chương: Chương 1: Tín dụng và hiệu quả tín dụng trung- dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Chương 2: Thực trạng tình hình hoạt động tín dụng trung- dài hạn tại Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn tại NH Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam. Với những gì thể hiện trong bài khoá luận, em hy vọng sẽ đóng góp một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng nói chung và hiệu quả tín dụng trung- dài hạn đối với NHĐT  PTVN nói riêng. Tuy nhiên, trình độ cũng như thời gian nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo và ý kiến đóng góp của Thầy Cô giáo, các Cô Chú, Anh Chị ở phòng tín dụng và bất cứ ai quan tâm đến vấn đề này để khoá luận của em được hoàn thiện và sâu sắc hơn. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ giáo viên Khoa Tài Chính NH đã chuyền đạt cho em những kiến thức cơ bản và vô cùng quan trọng về Tài Chính và NH. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo- Tiến sĩ Nguyễn Duệ, người đã trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo để em có thể hoàn thành được bài viết này. Em cũng xin cảm ơn các cán bộ của NHĐT  PTVN đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian thực tập tại NH. Ngành tài chính Ngân Hàng 2
  3. Chương 1 Tín dụng và hiệu quả tín dụng trung- dài hạn của Ngân Hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Những vấn đề cơ bản về tín dụng trung- dài hạn Khái niệm tín dụng trung- dài hạn Trong nền kinh tế, nhu cầu tín dụng trung- dài hạn thường xuyên phát sinh, bởi các DN luôn phải tìm cách phát triển mở rộng sản xuất, đổi mới kỹ thuật, tin học Để củng cố và tăng cường sức cạnh tranh của DN trên thị trường. Muốn làm được điều này, đòi hỏi DN phải có một khối lượng vốn lớn với một thời gian dài. Chính vì vậy, các DN thường tìm đến với các NHTM nhờ sự giúp đỡ và các NHTM cho các DN vay khối lượng vốn lớn với thời gian dài bằng hình thức tín dụng trung- dài hạn. Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, tín dụng trung hạn được hiểu là loại tín dụng có thời gian hoàn vốn từ 1 đến 5 năm, được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Tín dụng NH trung hạn được cấp cho khách hàng để mở rộng cải tạo, khôi phục, hoàn thiện, hợp lý hoá quy trình công nghệ, quy trình sản xuất. Tín dụng NH dài hạn là loại tín dụng có thời gian hoàn vốn trên 5 năm, được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Hình thức tín dụng này được NHTM cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ việc xây dựng mới, mở rộng hoặc hoàn thiện quy trình công nghệ, quy trình sản xuất. Đối với điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn trung-dài hạn rất lớn, trong khi các DN chưa có nhiều thời gian để tích luỹ vốn và chưa tích luỹ được nhiều. Đồng thời việc đầu tư trực tiếp của công chúng qua việc mua trái phiếu, cổ phiếu do các DN phát hành còn là một vấn đề rất hạn chế. Cho nên trong thực tiễn nhu cầu về vốn trung- dài hạn của các DN chủ yếu được đáp ứng bởi vốn tự có cuả DN và đa phần còn lại bằng sự tài trợ của hệ thống NHTM thông qua tín dụng trung- dài hạn. Ngành tài chính Ngân Hàng 3
  4. 1. 1. 2. Các loại hình tín dụng trung- dài hạn Tín dụng trung- dài hạn là một nghiệp vụ đang được tồn tại cùng với nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh của NH. Ngày nay, trong điều kiện hoạt động của nền kinh tế thị trường, khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, do đó nghiệp vụ tín dụng trung- dài hạn đòi hỏi phát triển theo góp phần quan trọng trong việc đổi mới hiện đại hoá trang thiết bị và công nghệ sản xuất cho các ngành kinh tế của mọi thành phần kinh tế. Nghiệp vụ tín dụng trung- dài hạn của các NH trong những năm gần đây đã triển khai theo các hình thức sau: Cho vay theo dự án Đây là hình thức cấp tín dụng dựa trên cơ sở dự án sau khi đã xem xét khẳng định tính hiệu quả, tính khả thi của dự án đó. Do vậy, công việc của NH không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn thẩm định lại các vấn đề: Chi phí sản xuất , giá thành thị trường tiêu thụ, quy trình công nghệ. Bởi vì việc cấp quyết định một khoản tín dụng sẽ dàng buộc NH với người vay một khoảng thời gian quá dài 3 đến 5 năm hoặc 7 năm tuỳ theo từng dự án cho nên cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và xem xét kỹ các rủi ro xảy ra. Hình thức cho vay theo dự án gồm: Tín dụng hợp vốn (Cho vay đồng tài trợ): Trong hoạt động thực tiễn của các NHTM trong lĩnh vực tín dụng, không ít các trường hợp mức cho vay hoặc mức rủi ro mà bản thân một NH không thể đảm đương nổi, do đó dẫn đến sự liên kết phối hợp giữa các NH cùng tham gia tài trợ cho một dự án. Cho vay đồng tài trợ là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng cho một dự án do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phối hợp với các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN và tổ chức tín dụng. Quan hệ tín dụng dưới hình thức đồng tài trợ gồm hai bên tham gia: Bên đồng tài trợ và bên nhận tài trợ - Bên đồng tài trợ: Tối thiểu phải có từ hai NH thành viên trở lên, mỗi NH thành viên là một tổ chức tín dụng hoặc nhiều khi cũng có thể là một chi Ngành tài chính Ngân Hàng 4
  5. nhánh của một tổ chức tín dụng được uỷ quyền. Các NH thành viên sẽ bàn bạc cùng nhau chọn ra một tổ chức tín dụng làm đầu mối. Nhìn chung, mọi quan hệ về tín dụng giữa bên đồng tài trợ và bên nhận tài trợ đều được thực hiện thông qua tổ chức tín dụng làm đầu mối. - Bên nhận tài trợ: Thường là một pháp nhân hoặc cá nhân có nhu cầu vay vốn đầu tư cho dự án. Tín dụng trực tiếp Đây là hình thức tín dụng trung- dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị trường. NHTM tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm đối với từng dự án đầu tư của khách hàng mà họ đã lựa chọn để tài trợ. Thực tế cho thấy việc lựa chọn dự án tốt là yếu tố quyết định nhất của hình thức tín dụng này. Tín dụng tuần hoàn Tín dụng tuần hoàn được coi là tín dụng trung- dài hạn khi thời hạn của hợp đồng được kéo dài từ một đến vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và được trả nợ khi có nguồn, trong thời gian hợp đồng có hiệu lực. Trong các DN cổ phần khi có nhu cầu về vốn trung- dài hạn, DN có thể ra tăng việc phát hành cổ phiếu, nhưng cũng có thể vay NH dưới hình thức tín dụng tuần hoàn, sau đó sử dụng phần lợi nhuận tính trả cho cổ đông để trả nợ, đồng thời tăng vốn góp của cổ đông lên. Thực chất đây là một hình thức cải biến cơ cấu tài chính của DN, chuyển nợ vay NH thành vốn trung- dài hạn. DN vay vốn cũng có thể yêu cầu NH chuyển tín dụng tuần hoàn thành tín dụng trung- dài hạn và thậm chí có thể ra hạn kéo dài nhiều năm với điều kiện có tài khoản đảm bảo cho khoản vay một cách chắc chắn. Việc chuyển đổi này thường được diễn ra vào cuối giai đoạn của hợp đồng và điều đó còn phụ thuộc vào mức độ thực hiện hợp đồng và tình hình tài chính của khách hàng vay vốn. Tín dụng thuê mua- dịch vụ thuê mua Ngành tài chính Ngân Hàng 5
  6. Tín dụng cho thuê là một kiểu cho thuê tài sản để sử dụng chuyên môn theo hợp đồng. Nếu trong hợp đồng có kèm theo lời hứa của người thuê sẽ bán lại tài sản này, chậm nhất là khi hợp đồng cho thuê theo giá thoả thuận trước thì đó là thuê tài chính. Nếu trong hợp đồng không kèm theo lời hứa thì đó gọi là thuê hoạt động hay thuê đơn giản. Tài sản cho thuê bao gồm động sản và bất động sản như nhà cửa máy móc, thiết bị văn phòng. Đối với NH- người cho thuê: Đa dạng hoá việc sử dụng vốn, mở rộng dạng khách hàng, tăng thêm sản phẩm NH, giảm mức độ rủi ro so với cấp tín dụng hoặc bảo lãnh. Vì trong thời gian cho thuê, NH vẫn chỉ có quyền sở hữu pháp lý đối với thiết bị thuê nên NH có khả năng nhanh chóng chiếm lại thiết bị nếu người đi thuê không tuân thủ theo hợp đồng thuê. Tín dụng thuê mua bảo đảm sử dụng đúng đắn số vốn tài trợ, tỷ lệ sử dụng vốn cao. Đối với người đi thuê: Người đi thuê không phải bỏ ngay một số tiền để mua sắm thiết bị nhưng vẫn có thiết bị sử dụng, có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến đồng thời hạn chế được sự lỗi thời nhanh chóng của thiết bị. Mô hình tín dụng dịch vụ thuê, mua có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển đất nước, tạo điều kiện giúp đỡ các DN không đủ vốn nhưng vẫn có thể thuê được máy móc, thiết bị hiện đại, thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. 1.1.2.4. Nghiệp vụ đầu tư chứng khoán Đây cũng là nghiệp vụ sinh lời của NHTM, trong nghiệp vụ này, NH đầu tư vào hai loại chứng khoán là chứng khoán Nhà nước và chứng khoán Công ty. 1. 1. 3. Vai trò của tín dụng trung- dài hạn 1.1.3.1. Đối với các DN: Các DN thường gặp phải một căn bệnh là thiếu vốn đặc biệt là thiếu vốn trung- dài hạn để phát triển sản xuất. Nền kinh tế không ngừng vận động, hàng hoá sản xuất ngày càng nhiều và nhu cầu con người không ngừng nâng cao. Một DN muốn tồn tại và phát triển thì phải biết nắm bắt nhu cầu và thoả mãn nhu cầu đó. Như vậy, DN phải không ngừng đổi mới, mạnh dạn đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất hay để xâm nhập vào thị Ngành tài chính Ngân Hàng 6
  7. trường mới. Tuy nhiên, để làm được điều này, cần huy động một khối lượng vốn nhất định, hoặc DN có thể tự tích lũy qua lợi nhuận để lại nhưng thời gian tích luỹ có thể quá lâu, làm mất thời cơ kinh doanh. Hơn nữa, khi chậm đổi mới có nghĩa là lợi nhuận không còn. DN có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán hoặc vay vốn NH. Đối với NH, việc vay vốn trung- dài hạn từ NH đôi khi đem lại nhiều thuận lợi hơn so với việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Về mặt kỳ hạn, DN có thể vay vốn NH theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu kinh doanh. Về thủ tục thời gian thì nhanh chóng và ít phức tạp, hơn nữa không phải công ty nào cũng được quyền bán trái phiếu, cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán, nhất là công ty mới thành lập hay quá nhỏ, chưa có tiếng tăm. Ngoài ra với các khoản vay trung- dài hạn tại NH, vừa giúp NH thực hiện chiến lược kinh doanh đem lại lợi tức cho DN mà không gia tăng sự kiểm soát của người bên ngoài đối với hoạt động kinh doanh của DN như trong trường hợp phát hành cổ phiếu. Mặc dù, có nhiều thuận lợi như vậy nhưng lãi suất trung- dài hạn của NH là chi phí khá cao đối với DN. Nó buộc các DN phải nghĩ đến hiệu quả đầu tư, doanh thu đạt được không chỉ đủ để trả vốn và lãi cho NH mà phải đem lại lợi tức cho mình. Do vậy, lãi suất tín dụng trung- dài hạn của NH là đòn bẩy thúc đẩy DN khai thác triệt để đồng vốn để kinh doanh có lãi và thắng lợi trong cạnh tranh. Như vậy, vay vốn trung- dài hạn từ NH là biện pháp quan trọng để các DN có vốn cho thực hiện dự án của mình. 1.1.3.1. Đối với nền kinh tế Hoạt động tín dụng trung dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dân, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng làm nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, từ những nhà tiết kiệm sang nhà đầu tư, phục vụ phát triển kinh tế. Do tập trung được vốn và điều hoà cung cầu vốn trong nền kinh tế, tín dụng trung- dài hạn góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng đầu tư phát triển kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ. Các khoản cho vay cung cấp cho các ngành được thực hiện theo cả chiều sâu và chiều rộng, đầu tư có trọng điểm, hình Ngành tài chính Ngân Hàng 7
  8. thành các ngành sản xuất mũi nhọn, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác triệt để các nguồn lực, tập trung phục vụ sản xuất. Nắm trong tay nguồn vốn lớn, lâu dài đã thúc đẩy tiến độ phát triển các công trình, các dự án, tạo được hiệu quả kinh tế bền vững, lâu dài góp phần thúc đẩy tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã định hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Bên cạnh đó, các khoản cho vay trung- dài hạn có vai trò tạo nguồn vốn để thực hiện xây dựng mới, hiện đại hoá từng bước nền sản xuất trong nước, thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng, mẫu mã, đa dạng về tính năng của sản phẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Hàng hoá có tính chất cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ thúc đẩy xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho quốc gia, cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế. Tín dụng trung- dài hạn có vai trò trong việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. NHNN luôn quản lý tín dụng trung- dài hạn bằng các quy định và chính sách của mình. NHNN đóng vai trò là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, ổn định lưu thông tiền tệ. Thông qua tín dụng trung- dài hạn, Chính Phủ cũng có thể quản lý và thực hiện các chương trình kinh tế lớn một cách có hiệu quả. Thực tế cho thấy, các chương trình kinh tế lớn đều được cấp vốn thông qua hệ thống các NHTM, hiệu quả được xét đến kỹ hơn và Chính Phủ cũng quản lý dễ dàng hơn các chương trình đầu tư này. Ngoài ra, Chính Phủ còn có thể hướng tín dụng trung- dài hạn vào các ngành kinh tế mũi nhọn, phục vụ quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá để các ngành này đi đầu, tạo đà cho sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước. Hoạt động tín dụng trung- dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan gia luôn gắn liền với thị trường thế giới. Tín dụng trung- dài hạn đã trở thành nhịp cầu nối liền quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau bằng các hoạt động tín dụng quốc tế như: Các hình thức tín dụng giữa các Chính Phủ, giữa cá nhân với cá nhân, các hình thức tài trợ, cho vay không hoàn lại của Chính Phủ các nước. 1.1.3.2. Đối với hoạt động NH Ngành tài chính Ngân Hàng 8
  9. Hoạt động của NH trong cơ chế thị trường là hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh gay gắt này đòi hỏi mỗi NH phải thực sự quan tâm đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính mình. Vì vậy, hoạt động tín dụng được xem là sự cần thiết để mang tính cạnh tranh của NH. Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường vận động trong điều kiện nền kinh tế mở với nhu cầu mở rộng quy mô, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, tiến tới đổi mới toàn bộ nền kinh tế đã cho thấy nhu cầu vốn trung- dài hạn là cấp thiết và quan trọng. Nguồn vốn này tạo điều kiện cho các DN đổi mới kỹ thuật, trang bị công nghệ mới, phương pháp sản xuất mới để tạo ra hàng hoá mới. Đây là điều kiện để NH mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, tín dụng trung- dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi NH, đồng thời cũng là cách NH gọi vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn cho các DN. Vì vậy, tín dụng trung- dài hạn cần phải được tăng cường để các NH có thể tham gia nỗ lực vào sự nghiệp công nghiệp- hoá hiện đại hoá đất nước thông qua nghiệp vụ này. Ngoài ra tín dụng trung- dài hạn còn là một nghiệp vụ mang lại lợi ích chủ yếu cho NH. Bởi lẽ tín dụng trung- dài hạn là những khoản tín dụng có quy mô lớn, lãi suất cao, thời gian dài nên lãi thu sẽ lớn và ổn định. Chuyển từ nghiệp vụ cho vay ngắn hạn sang cho vay trung- dài hạn là sự biến chuyển có tính chiến lược của NH, đồng thời nâng cao tính cạnh tranh trong lĩnh vực NH. Khi NH không đa dạng hoá hoạt động cho vay, đa dạng hoá khách hàng, thời hạn vay tiền thì NH không thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường với sự chèn ép đông đảo của NH khác. Quan hệ tín dụng trung- dài hạn cũng có thể dẫn tới các hoạt động bảo lãnh do NH thực hiện. NH có thể thực hiện bảo lãnh vay các NH khác, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh khác cho khách hàng. Các hình thức bảo lãnh này đem lại thêm lợi nhuận cho NH. Ngành tài chính Ngân Hàng 9
  10. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn đang là những vấn đề mà các NH đều quan tâm nhằm đem lại lợi nhuận cho NH cũng như phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. hiệu quả tín dụng trung- dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. 1.2. 1. Khái niệm hiệu quả tín dụng trung- dài hạn Tín dụng trung dài hạn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển trong nền kinh té nước ta, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Như đã nói ở phần trên, tín dụng trung dài hạn không chỉ tác động tới nền kinh tế mà còn tác động tới các DN mà hơn cả là tới NH. Thông qua việc xem xét hiệu quả của hoạt động cho vay trung- dài hạn sẽ giúp cho NH có thể đánh giá lại hoạt động cho vay của mình để từ đó có thể đưa ra những giải pháp thông qua nhằm khắc phục những tồn tại thiếu sót và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay. Xét trên quan điểm của NH thì hoạt động tín dụng trung- dài hạn được xem là có hiệu quả khi nó đảm bảo được ba yếu tố: Khả năng sinh lợi cho NH Khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn Khả năng thanh khoảnh từ phía nguồn. Điều này có nghĩa là các NH khi tiến hành cho vay trung- dài hạn thì khoản cho vay đó phải đem lại thu nhập cho NH, đảm bảo trang trải được chi phí trả cho lãi suất huy động hoặc đi vay, chi phí NH và rủi ro của NH. Song không phải các NH cứ cho vay nhiều, mang lại nhiều lợi nhuận là có hiệu quả cao bởi vì nếu cho vay ra mà không thu hồi được vốn cho vay hoặc cho vay không cân xứng với nguồn huy động được thì sớm hay muộn NH cũng dễ rơi vào tình trạng thua lỗ, đổ bể. Chính vì vậy, yếu tố hiệu quả trong kinh doanh là yếu tố quan trọng và cần thiết đầu tiên đối với sự tồn tại và phát triển của NH. 1.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng trung- dài hạn. 1.1.4.1. Quy mô cho vay trung- dài hạn: Ngành tài chính Ngân Hàng 10
  11. Quy mô cho vay trung- dài hạn được thể hiện thông qua các chỉ tiêu sau: Doanh số cho vay: Là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá một cách khái quát và có hệ thống đối với những khoản vay tại một thời điểm. Khi xác định doanh số cho vay, chưa có sự đánh giá cụ thể về chất lượng và phần ròng của những khoản vay trong một thời kỳ nhất định. Nhưng đây là chỉ tiêu cho biết khả năng luân chuyển sử dụng vốn của một NH. Quy mô đầu tư và cấp vốn tín dụng của NH đó với nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế: Tổng dư nợ nội tệ và ngoại tệ thể hiện được mối quan hệ tín dụng giữa NH với khách hàng, đồng thời là chỉ tiêu phản ánh phần vốn đầu tư hiện đang còn lại tại một thời điểm của NH mà NH đã cho vay nhưng chưa thu về. Đồng thời chỉ tiêu này cũng phản ánh Mối quan hệ với doanh số cho vay (dư nợ đầu kỳ + doanh số cho vay – doanh số thu nợ = dư nợ cuối kỳ), với khả năng đáp ứng nguồn vốn của các NHTM đối với nhu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế. 1.1.4.2. Hiệu quả tín dụng trung- dài hạn Để đánh giá hiệu quả tín dụng trung- dài hạn, người ta có thể dùng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Các chỉ tiêu này là các chỉ tiêu chung cho toàn bộ các khoản tín dụng trung- dài hạn tại NH, tức là đánh giá hiệu quả tín dụng trung- dài hạn của một NH. Xét trên quan điểm NH: Chỉ tiêu dư nợ: Dư nợ trung- dài hạn Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ trung- dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng của một NH qua các thời kỳ khác nhau. Có thể nghiên cứu biến động quy mô, khối lượng tín dụng trung- dài hạn. Nếu chỉ xem xét tử số, tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển ngày càng có uy tín. Vì tín dụng trung- dài hạn có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn, thế mà dư nợ lại lớn chứng tỏ mối quan hệ khách hàng- NH là hoàn toàn tin cậy. Ngành tài chính Ngân Hàng 11
  12. Chỉ tiêu này cũng có thể dùng so sánh giữa các NH khác nhau để thấy được thế mạnh của NH này so với thế mạnh của NH khác trong hoạt động tín dụng trung- dài hạn. Tuy nhiên, có thể coi đây như một chỉ tiêu định lượng để có thể thấy rõ bản chất của tín dụng trung- dài hạn của một NH. Chỉ tiêu sử dụng vốn: Huy động vốn x 100% Sử dụng vốn Doanh số cho vay trung- dài hạn Hoặc: Nguồn vốn trung- dài hạn NH có thể sử dụng nguồn vốn trung- dài hạn và một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung- dài hạn. Có thể hiểu đây là chỉ tiêu hệ quả phán ánh hiệu quả tín dụng. Chỉ tiêu sử dụng vốn cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một NH. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ NH đã sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn huy động được. Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn trung- dài hạn Tổng nợ quá hạn NH sẽ chuyển các khoản vay không trả được nợ khi đến hạn thành các khoản nợ quá hạn. Nợ quá hạn có thể do các nguyên nhân chủ quan của phía DN, do các nguyên nhân khách quan hoặc do xác định không hợp lý thời hạn vay, phương thức hoàn trả hay một số yếu tố khác của hợp đồng. Nợ quá hạn là điều không mong muốn của NH. Nó làm giảm hiệu quả tín dụng của NH và các NH luôn cố gắng làm giảm tỷ lệ này. Nợ quá hạn tín dụng trung dài hạn x 100% Hoặc Tổng dư nợ tín dụng trung- dài hạn Chỉ tiêu này cho thấy trong 100% dư nợ tín dụng trung- dài hạn thì có bao nhiêu % là nợ quá hạn. Ngành tài chính Ngân Hàng 12
  13. Thể hiện tỷ lệ nợ không thanh toán đúng hạn trên tổng dư nợ. Các NH có chỉ số này thấp chứng tỏ hiệu quả tín dụng cao. ở các nước có nền tài chính phát triển, người ta quy định các NH có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ < 5% thì được coi là có chất lượng tín dụng tốt, ngược lại nếu vượt quá 5% thì có dấu hiệu xấu, hoạt động của NH đó không an toàn, nguy cơ rủi ro cao. Chỉ tiêu nợ khó đòi : Nợ khó đòi trung- dài hạn Tổng dư nợ trung- dài hạn Rõ ràng tỷ lệ này càng cao, thì tín dụng có hiệu quả càng thấp. Nợ khó đòi có nguy cơ làm giảm lợi nhuận của NH và nếu có quá nhiều nợ khó đòi sẽ có thể làm cho NH phá sản. Các NH đang cố gắng giảm đến mức tối đa các khoản nợ khó đòi để làm tăng hiệu quả tín dụng trung- dài hạn. Chỉ tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận từ tín dụng trung- dài hạn Tổng dư nợ tín dụng trung- dài hạn Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả các khoản tín dụng trung- dài hạn bởi xét cho cùng mục đích của NHTM là lợi nhuận, hay ít nhất cũng thu đủ để bù đắp chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung- dài hạn, nó nêu lên số lãi thu được từ 1 đồng dư nợ trung- dài hạn. Nên trong điều kiện thị trường và rủi ro như nhau thì chỉ tiêu này càng lớn càng có lợi cho NH. Đặc biệt với những NH chưa phát triển các dịch vụ NH thì thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Có nghĩa là hiệu quả tín dụng tốt phải bao gồm cả cái mà khoản tín dụng đó mang lại cho NH. Hay ta xét đến chỉ tiêu: Lợi nhuận tín dụng trung- dài hạn Ngành tài chính Ngân Hàng 13
  14. Tổng lợi nhuận Chỉ tiêu này cho phép thấy rõ hơn vị trí của tín dụng trung- dài hạn trong hoạt động của NH. Thu từ khoản tín dụng có hiệu quả cao sẽ đóng góp lớn vào thu nhập NH. Nếu khoản tín dụng có hiệu quả không tốt thì thu không được nợ gốc và lãi mà còn làm tăng chi phí của NH, nên sẽ kéo theo lợi nhuận giảm tương ứng. Tuy nhiên, đối với một số dự án trung- dài hạn theo kế hoạch Nhà nước thì chỉ tiêu này đôi khi tỏ ra không đầy đủ để phản ánh hiệu quả tín dụng. Vì mục tiêu kinh tế- xã hội hay chiến lược phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn, những ngành công nghiệp non trẻ, thì đôi khi mục tiêu lợi nhuận không phải là hàng đầu. Lúc này lợi nhuận không phản ánh thực chất của khoản tín dụng. Vì vậy, khi dùng các chỉ tiêu này để phân tích chúng ta phải xem xét tổng hợp các mục tiêu của dự án vay vốn trung- dài hạn. Xét trên quan điểm khách hàng Khách hàng là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn trung- dài hạn, đối với khách hàng thì chất lượng tín dụng biểu hiện ở một số chỉ tiêu như sau: - Doanh thu tăng từ dự án Lợi nhuận tăng từ dự án Lao động tăng từ dự án Có thể nói, một khoản tín dụng tốt đối với NH cũng chính là khoản tín dụng tốt đối với DN. Từ nguồn vốn vay NH mà DN thay đổi cơ chế mới, mở rộng hoạt động sản xuất, làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận của DN. Như vậy, mục tiêu của DN không chỉ là cho vay thu mà còn thông qua nguồn vốn trung- dài hạn để kích thích hoạt động của DN, tạo cơ sở cho sự phát triển nền kinh tế. DN làm ăn coá hiệu quả, có lãi lại tiếp tục đầu tư vào dự án mới, lại xuất hiện nhu cầu tín dụng mới. Có thể thấy sự bước song hành trên lộ trình kinh tế giữa NH và DN dưới sự tác động qua lại có hiệu quả; chỉ tiêu tăng lao động từ dự án đáng quan tâm nhất là trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tăng gần 7% thì một dự án đầu tư sẽ giải quyết về khó Ngành tài chính Ngân Hàng 14
  15. khăn, về công việc làm cho DN và cho xã hội, đó cũng là một khoản tín dụng có hiệu quả. Như vậy, khi đánh giá hiệu quả tín dụng trung- dài hạn, ta không thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể mà phải xem xét một hệ thống các chỉ tiêu ở trên để phân tích cả hai mặt định lượng và định tính, cả về lợi nhuận thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trên quan điểm của khách hàng và quan điểm của NH. Có như vậy việc đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng mới thực sự khách quan, chính xác phản ánh đúng thực trạng để từ đó phân tích nguyên nhân, tìm ra giải pháp, tháo gỡ khó khăn một cách hiệu quả. 1. 2. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng trung dài hạn của NHTM Hoạt động tín dụng trung- dài hạn của các NHTM được thực hiện dưới hình thức sau: Cho vay theo dự án (Cho vay trực tiếp): Là hình thức cho vay trực tiếp bằng đồng vốn của NH đối với các dự án. Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua hoạt động cho thuê máy móc, thiết bị các động sản khác phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh được tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên mua. Mặt khác, đây là một hoạt động tín dụng còn rất mới đối với DN đi thuê. Do vậy, dư nợ tín dụng trung hạn và dài hạn được thực hiện dưới dạng vay theo dự án là phổ biến. Đây là mảng tín dụng lớn mà các NHTM hiện nay đang cung cấp cho các DN. Vì vậy, vấn đề đặt ra là vốn trung- dài hạn cho nền kinh tế là một yêu cầu đang được quan tâm sâu sắc cuả các nhà lãnh đạo nhà nước kể cả nhà quản lý NH đều có quan điểm chung: Nền kinh tế muốn tăng trưởng thì các NHTM tìm cách thay đổi cơ cấu tín dụng, gia tăng tỷ trọng tín dụng trung- dài hạn. Như vậy, để đạt được một tỷ trọng dư nợ trung- dài hạn bao nhiêu là hợp lý. Điều đó phụ thuộc môi trường và điều kiện cụ thể của mỗi NH, trên cơ sở đó các NHTM xây dựng cho mình một chiến lược tín dụng riêng để đưa ra quy định mức độ nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn. Các nhân tố từ phía NH Ngành tài chính Ngân Hàng 15
  16.  Thẩm định dự án đầu tư: Khi đến vay vốn trung- dài hạn, NH thường phải mang đến một dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư giúp NH xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án để xác định tính khả thi của dự án và đồng thời quyết định cho vay. Cũng từ việc thẩm định NH có thể tư vấn, giúp đỡ cho chủ đầu tư sửa đổi những điểm không hợp lý trong dự án để có thể thực hiện dự án hiêụ quả hơn và NH có thể cho vay được. Thẩm định là một công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán riêng. Nếu việc thẩm định không được tiến hành chặt chẽ thì khả năng xảy ra rủi ro đối với NH sẽ rất lớn và khoản cho vay chắc chắn sẽ có hiệu quả không cao. Để tìm được nhiều dự án có hiệu quả cao, các NH phải có đầy đủ thông tin về dự án và các lĩnh vực có liên quan. Khi đã có dự án, NH cũng phải có đầy đủ thông tin để thẩm định tính hiệu quả của dự án vì DN khi mang dự án đến NH chỉ muốn được NH chấp nhận và họ cũng có một số lý do khác nhau để lập một dự án thiếu chính xác. Khi cho vay, NH cũng luôn cần thông tin về tình hình thực hiện dự án, về thị trường và các thông tin khác để có thể phản ứng kịp thời trước những đột biến có thể xảy ra. Như vậy, thông tin tín dụng là một yếu tố hết sức quan trọng. Thông tin càng kịp thời, chính xác thì các rủi ro càng được hạn chế và ngày càng có khả năng nâng cao hiệu quả tín dụng.  Khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng: Tín dụng trung- dài hạn là một trong những nghiệp vụ phức tạp nhất trong các khâu nghiệp vụ của NH, nó đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải nắm được đặc thù của mỗi ngành sản xuất kinh doanh, am hiểu về pháp luật, nắm bắt được thông tin thị trường và điều quan trọng phải biết thẩm định dự án, có như vậy thì mới có thể làm tốt được nghiệp vụ này. Vì lẽ đó mà NH gặp không ít khó khăn bởi mỗi ngành sản xuất kinh doanh đều có chỉ tiêu định mức kinh tế và những yếu tố tạo nên giá thành sản phẩm khác nhau. Mà thực tế trình độ NH nói riêng và cán bộ tín dụng nói chung vẫn còn thiếu bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng phát triển cao của công việc. Do vậy, Ngành tài chính Ngân Hàng 16
  17. dễ dẫn đến tình trạng cấp tín dụng kém hiệu quả, mặc dù các NH đã có những nhân viên có nhiều kinh nghiệm trong cho vay ngắn hạn. Tín dụng trung- dài hạn được tìm kiếm, thẩm định và quyết định cho vay đều có vai trò quan trọng của cán bộ tín dụng. Dựa vào mối quan hệ và các thông tin có được, cán bộ tín dụngtìm đến dự án, để xác định nhu cầu vay của chủ đầu tư. Để có thể cho vay, cán bộ tín dụng có thể tiếp thẩm định dự án hoặc có thể nhờ phòng thẩm định hỗ trợ. Dù có phòng thẩm định nhưng vai trò và trách nhiệm của cán bộ tín dụng có thể trực tiếp thẩm định là rất quan trọng. Cán bộ tín dụng là người theo sát dự án, phát hiện kịp thời thông tin và là người chịu trách nhiệm chính của khoản vay. Hiện nay, ngoài trình độ và kinh nghiệm, người ta thường hay đề cập đến vấn đề đạo đức của cán bộ tín dụng. Cho vay là một công việc phức tạp liên quan đến tài chính và không phải ai cũng có thể không dao động trước những cám dỗ. Khi đã có những sai phạm của cán bộ tín dụng thì hậu quả thường rất lớn đối với NH và đối với nền kinh tế.  Chính sách tín dụng của NH: Đối với mỗi NH và trong từng thời kỳ thường có những chính sách khác nhau. Chính sách tín dụng của NH ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng các khoản cho vay, quy mô của từng khoản vay, các khoản đảm bảo và nhiều yếu tố khác. Chính sách tín dụng của NH không những phụ thuộc khá nhiều vào chính sách của Chính Phủ và các cơ quan quản lý. Chính sách tín dụng tạo ra sự quản hướng dẫn cần thiết cho các nhân viên tín dụng và rõ ràng có ảnh hưởng mạnh đến hiệu quả tín dụng.  Chính sách lãi suất: NHTM là định chế tài chính trung gian thực hiện đi vay để cho vay với lãi suất cao hơn. Nguồn vốn hoạt động của các NHTM chủ yếu bằng vốn huy động, khi huy động vào phải trả lãi suất cho người gửi tiền, và khi cho vay họ sẽ thu được lãi suất cho vay. Trong cơ chế thị trường thì lãi suất luôn biến động, phụ thuộc vào cung- cầu trên thị trường. Do đó, phải có một chính sách lãi suất phù hợp làm cơ sở cho NH nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn tức là phải đảm bảo các điều kiện sau đây: Ngành tài chính Ngân Hàng 17
  18. Bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, ngoài tiền lãi còn có các lợi ích khác như sự an toàn, thanh toán lợi nhuận. Lãi suất cho vay phải bù đắp được chi phí về huy động vốn chi phí về nghiệp kinh doanh của NH có dự phòng bù đắp rủi ro và bảo đảm mức thu nhập ròng hợp lý cho NH. Lãi suất phải dược thay đổi theo cung- cầu thị trường nhưng sự biến động của nó luôn trong giới hạn. Lãi suất cho vay phải phù hợp với đối tượng của tín dụng có nghĩa là lãi suất cho vay dài hơn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn bởi cho vay dài hạn có mức độ rủi ro cao hơn.  Công tác tổ chức cho vay của NH: Tổ chức cho vay của NH tuỳ thuộc vào nhiều yêú tố như quy mô NH, quy mô các khoản tín dụng hay các loại cho vay. Nhân viên tín dụng thường tiếp súc trực tiếp với người vay, nhận đơn xin vay, phỏng vấn người vay, quyết định xem xét đơn xin vay và thu thập thông tin từ phía khách hàng. Tại các NH nhỏ, các cán bộ tín dụng cho vay trung- dài hạn có thể được sắp xếp kết hợp với các loại cho vay khác hay có thể là với các nhiệm vụ khác. Mỗi nhân viên có những mức phán quyết nhất định. Tại các NH có quy mô vừa, có nhiều uỷ quyền và chuyên môn trong hoạt động cho vay hơn. Có thể có một uỷ ban cho vay để xử lý các yêu cầu xin vay lớn đến một mức độ nhất định. Tổ chức cho vay tại NH lớn thường được chuyên môn hoá thành các bộ phận phụ trách các loại cho vay khác nhau. Công tác thu thập xử lý thông tin cũng được thực hiện một cách có hệ thống và tạo nhiều thuận lợi cho cán bộ tín dụng. Tại các NH chi nhánh, công tác tổ chức cho vay về cơ bản cũng giống như tại các NHTW, nhất là các chi nhánh lớn chỉ khác là có các mức phán quyết dành cho giám đốc chi nhánh và mỗi chi nhánh có thể được chuyên môn hoá theo địa bàn hoặc đối tượng cho vay. Cách tổ chức cho vay tại các chi nhánh cũng có thể phụ thuộc nhiều vào cách tổ chức của NH cấp Trung ương. Ngành tài chính Ngân Hàng 18
  19. Như vậy, có thể thấy công tác tổ chức cho vay có thể hỗ trợ đắc lực cho nhân viên tín dụng và công tác này ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả tín dụng.  Khả năng về nguồn vốn trung- dài hạn: Nguồn vốn cho vay bằng tiền là cơ sở để NH hoạt động tín dụng. Quy mô và cơ cấu vốn quyết định lựa chọn các hình thức đầu tư, nguyên tắc cơ bản mà NH luôn tuân thủ trong khi cho vay là: Chỉ được phép cho vay trung- dài hạn khi có nguồn vốn trung- dài hạn. Vì đầu tư trung- dài hạn là đầu tư cho tương lai, song các NH phải tính toán và chấp nhận rủi ro theo quy mô của từng khoản đầu tư. Nếu NH lạm dụng một lượng lớn nguồn vốn ngắn hạn quá quy định cho phép để cho vay trung- dài hạn thì có thể xảy ra tình trạng: NH không thanh toán kịp thờicho những khoản huy động ngắn hạn trong khi các khoản vay trung- dài hạn chưa đến hạn và gửi tiền mới thì chưa huy động được. Thực tế các NHTM trong giai đoạn hiện nay về huy động nguồn vốn này là hết sức nan giải. Chính vì lẽ đó, để thực hiện chiến lược đa dạng hoá, đa phương hoá các phương thức, giải pháp huy động vốn từ mọi nguồn, kể cả nước ngoài, NH phải tạo được cơ cấu hợp lý. Từ kinh nghiệm và thực tế, NHNN đã cho phép các NHTM được dùng 20% vốn ngắn hạn để đầu tư cho các dự án vay trung- dài hạn. Tất cả vì sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra và Chính Phủ đẫ cho phép các NHTM tiếp tục chuyển vốn ngắn hạn cho vay trung- dài hạn theo kế hoạch Nhà nước (Văn bản số 6213/ KTTH ngày 07/12/1996). Các nhân tố từ phía người xin vay Các DN khi đến vay đều phải tính đến chất lượng hiệu quả sử dụng vốn vay. Nếu họ thực hiện có hiệu quả dự án và có lợi nhuận thì có thể làm tăng hiệu quả của khoản vay. Tuy nhiên, rất có thể trong quá trình quản lý, chủ đầu tư mắc phải những sai sót nhất định, dẫn tới thiệt hại cho bản thân họ và thiệt hại cho NH để kiếm lợi riêng. NH chỉ có thể giảm thiểu những rủi ro này bằng Ngành tài chính Ngân Hàng 19
  20. cách thẩm định chặt chẽ dự án, quản lý sát sao việc thực hiện, nắm bắt kịp thời các thông tin để đưa ra những quyết định chính xác. 1.3.2.3. Các nhân tố khách quan Cho dù NH thực hiện tốt các yêu cầu khi cấp và chủ đầu tư có đủ khả năng cũng như đạo đức để thực hiện dự án thì khoản cho vay cũng vẫn có thể có hiệu quả thấp. Đó là ảnh hưởng của các yếu tố môi trường.  Môi trường kinh tế- xã hội: Môi trường kinh tế xã hội là tổng hoà các mối quan hệ về kinh tế và xã hội tác động lên hoạt động của DN. Môi trường kinh tế phát triển rất có thể tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tín dụng trung- dài hạn. Một khi thị trường đã quen với các khoản tín dụng, các chế độ báo cáo và hạch toán tài chính được sử dụng phổ biến, thì hiệu quả các khoản tín dụng được nâng lên. Chu kỳ kinh tế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, sản xuất bị đình trệ, do đó hoạt động tín dụng sẽ gặp khó khăn về mọi mặt. Chẳng hạn khi lạm phát cao, lãi suất thực sẽ giảm xuống và nếu như NH không có cân đối giữa các loại nguồn và sử dụng nguồn nhạy cảm với lãi suất thì có thể khoản cho vay không đem lại hiệu quả mong đợi Cũng có thể có những biến động về tỷ giá hoặc biến động về thị trường làm cho chủ đầu tư bị bất ngờ, dẫn đến thu không đủ, làm giảm khả năng trả nợ cho NH. Một DN hoạt động trong môi trường kinh tế thì phải chịu tác động của các biến đổi trong môi trường này. Vấn đề là công tác dự báo tình hình và khả năng ứng phó với các tình huống xảy ra của DN cũng như của NH để đảm bảo hiệu quả của các khoản tín dụng.  Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý có thể ảnh hưởng tốt hoặc không tốt đến quy mô và hiệu quả các khoản tín dụng trung- dài hạn. Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ thống nhất và ổn định sẽ tạo điều kiện cho NH trong việc xét duyệt cho vay. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, pháp luật đã trở thành bộ phận không thể thiếu. Với vai trò hường dẫn và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong xã hội hoạt động theo trật tự, trong khuôn Ngành tài chính Ngân Hàng 20
  21. khổ pháp luật, đảm bảo sự công bằng an toàn và hiệu quả đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đầy đủ đồng bộ. Ngoài ra còn có các quy định chồng chéo có thể gây khó khăn cho NH hoặc các quy định thiêú chặt chẽ có thể tạo ra kẽ hở để các bên trục lợi. Việc thay đổi các chính sách cũng có thể là một nguyên nhân gây khó khăn cho công tác thu hồi nợ của NH.  Môi trường chính trị- xã hội: Môi trường chính trị- xã hội ổn định sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư và NH cũng có thể mạnh dạn cho vay. Trong tình hình chính trị – xã hội không ổn định như đình công, bãi công sự đấu tranh giữa các Đảng phái, thế lực trong xã hội, chiến tranh biên giới thì không chỉ riêng các DN sản xuất mà bản thân NH cũng khó có thể tập trung vào đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện như vậy duy trì sự phát triển như cũ đã là khó huống gì nói đến việc mở rộng. Vì vậy, hiệu quả tín dụng khó có thể bảo đảm được. Hơn nữa sự bất ổn về chính trị- xã hội sẽ dẫn đến mất lòng tin đầu tư của dân chúng như các chủ DN trong và ngoài nước. NH không huy động thêm vốn, trong khi có thể xu hướng dân chúng rút dần tiền gửi NH về tự bảo quản và như vậy NH sẽ gặp rất nhiều khó khăn. 1. 2. 4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyyển sang nền kinh tế thị trường, nâng cao tín dụng trung- dài hạn sẽ đưa lại nhiều lợi ích cho DN, cho NH và nền kinh tế. Nếu NH có một nguồn vốn ổn định trong thời gian dài, dùng nguồn vốn này sẽ tạo lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với việc dùng nó cho vay ngắn hạn. Bên cạnh khoản cho lợi nhuận hấp dẫn, tín dụng trung- dài hạn còn là vũ khí cạnh tranh rất có hiệu quả giữa các NH với nhau. Với sản phẩm này, NH sẽ phục vụ tốt hơn cho các DN và ngày càng nhiều khách hàng đến với NH. Khi đã xác định nâng cao hiệu quả cho vay trung- dài hạn, các NH không chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt mà mong đợi lợi ích lâu dài hơn đó là: “Nâng cao tín dụng trung – dài hạn để đẩy mạnh cho vay ngắn hạn”. Các DN sau khi được NH cho vay vốn để đầu tư chiều rộng hoặc đầu tư chiều sâu năng lực sản Ngành tài chính Ngân Hàng 21
  22. xuất kinh doanh sẽ tăng lên, từ đó nhu cầu về vốn lưu động lại càng tăng để đáp ứng cho sản xuất. Người đầu tiên mà DN sẽ dễ dàng tìm được sự thông cảm vì đã hiểu nhau qua các hợp đồng tín dụng. Về phía NH cũng muốn quan hệ với các DN để tiện theo dõi tình hình tài chính và các khoản thu chi của DN nhằm nắm vững sâu khách hàng hơn. DN được vay vốn để đầu tư đổi mới tài sản cố định sẽ đạt được các mục tiêu, tăng số lượng, chất lượng của sản phẩm, giá thành hạ, tăng tiêu thụ dẫn đến tăng lợi nhuận. Đó chính là cơ sở để DN tồn tại và phát triển. Xét trên góc độ tài chính DN, nhạy cảm trong đầu tư sản xuất kinh doanh sẽ hạ thấp được chi phí sản xuất. Đây cũng là biện pháp để chống hao mòn vô hình. Nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn tích luỹ thì phải mất một thời gian dài DN mới đổi mới được tài sản cố định do vậy sẽ bị tụt xa với các DN trường vốn đã trang bị hiện đại. Trong cuộc cạnh tranh đó, không có chỗ cho các sản phẩm lạc hậu. Vì thế, lối thoát duy nhất cho các DN là đi vay để đổi mới. Khi tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài, DN mong muốn có được các khoản tín dụng dài hạn từ NH. Có ý kiến cho rằng: Cách tốt nhất để huy động vốn là DN phát hành cổ phiếu trái phiếu để huy động vốn dài hạn. Chúng ta không phủ nhận những mặt tích cực của thị trường chứng khoán trong việc phục vụ nhu cầu bổ sung vốn cho DN, nhưng hình thức này chỉ phát huy ở những nước có hệ thống thị trường chứng khoán và thị trường vốn hoàn hảo. Các khoản vay trung- dài hạn sẽ được trả dần theo định kỳ dựa trên hiệu quả kinh doanh thực tế của DN. DN được hưởng một khoản thời gian ân hạn, trong thời gian đó, DN không phải trả lãi. Thậm chí một số kỳ hạn của món vay cũng có thể thương lượng với NH để ra hạn khi có sự biến động trong thu nhập của DN. Một lý do khác làm cho các khoản vay trung dài hạn tại NH ngày một gia tăng là do sự ra đời của các DN có quy mô vừa và nhỏ, cũng tìm đến các nhà tài chính NH để vay vốn trang bị tài sản cố định. Cân đối với một số DN làm ăn kém hiệu quả, NH sẽ thực hiện đúng quy trình và điều khiển vay vốn, thậm chí từ chối cấp tín dụng. Từ đó bản thân DN phải tự đổi mới lại tổ chức sản Ngành tài chính Ngân Hàng 22
  23. xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn để được vay vốn, hoặc phải sát nhập với DN lớn nếu không muốn phá sản. Xét trên phương diện toàn nền kinh tế, hoạt động tín dụng trung- dài hạn của các NH nếu có hiệu quả sẽ tác động tốt tới mội lĩnh vực kinh tế- chính trị- xã hội. Phát triển cho vay tín dụng trung- dài hạn sẽ giảm bớt đáng kể các khoản bao cấp từ ngân sách cho đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần giảm bớt thâm hụt ngân sách. Với tư cách là trung gian tín dụng “Đi vay để cho vay” NH sẽ huy động giá trị thặng dư nằm rải rác trong các DN và cá nhân, biến nó thành nguồn lớn để đầu tư cho các dự án có khả thi cao. Tín dụng NH góp phần đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn của nền kinh tế. Mặc dù là một đơn vị kinh doanh nhưng các NH quốc doanh vẫn là bộ phận của Nhà nước. Hoạt động tín dụng trung- dài hạn nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia thông qua các chính sách ưu đãi trong tín dụng. Về nguyên tắc, NH ưu đãi đối với những công trình sản xuất trực tiếp và thực hiện trực tiếp các điều kiện vay vốn cố định với các DN kinh doanh dịch vụ. Đầu tư tín dụng trung- dài hạn của NH theo trọng điểm của ngành trên cơ sở trong nội bộ từng ngành đã sắp xếp lại các DN giữa các ngành góp phần hình thành cơ cấu hợp lý. Hoạt động đầu tư tín dụng theo chiều rộng, chiều sâu đã tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật vững chắc cho nền kinh tế phát triển lâu dài. Với năng lực sản xuất tăng, tạo ra sản phẩm hàng hoá nhiều hơn đủ tiêu chuẩn để dùng và dư thừa cho suất khẩu, nhiều DN với máy móc hiện đại sản xuất ra sản phẩm thay thế hàng nhập. Những kết quả đó đóng góp phần nào tiết kiệm chi ngoại tệ. Tạo cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh. Ngoài ra tín dụng trung- dài hạn của NH còn đóng góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và hạn chế các tệ nạn xã hội khác. 1.3. Khái quát những cơ chế, chính sách tác động đến việc nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn. Hiện nay, NHNNVN và NHĐT  PTVN đã có những văn bản quyết định tác động đến việc nâng cao hiệu quả tín dụng: Ngành tài chính Ngân Hàng 23
  24. Ngày 30/3/1999, thủ tướng Chính Phủ ban hành quyết định 67/1999/QĐ/TTg về một số chính sách tín dụng NH phục vụ phát triển nông thôn. Quyết định của Thống đốc NHNN số 297/1999/QĐ- NHNN5 ngày 25/08/1999 về việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng”. Về quy định chung: “ Tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam phải thường xuyên duy trì các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo Quy định này bao gồm: Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung- dài hạn. Tỷ lệ về khả năng chi trả. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu”. Nghị định 178/1999. NĐ- CP ngày 29/12/1999 của Chính Phủ quy định “về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng” và các thông tư hướng dẫn NHNN, NHTMTW với tầm mở ra rộng, đa dạng hơn nhằm thi hành “luật các tổ chức tín dụng”. Nghị định này có quy định tất cả các DN khi vay vốn NH đều phải có thế chấp, cầm cố hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Ngoài ra nghị định này cũng quy định các tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn khách hàng để cho vay không có đảm bảo bằng tài sản. Điều 22- Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng, ban hành theo quyết định số 324/09/1998 của Thống đốc NHNN quy định: “ Tổ chức tín dụng có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quy trình vay vốn và trả nợ của khách hàng”. Ngày 15/06/2000, Chính Phủ tiếp tục ban hành nghị định số 20/2000/NĐ- CP về sử phạt phạm vi hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động NH. Quyết định số 284/2000/QĐ- NHNN1 ngày15/08/2000 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. “Quy chế này quy định về việc cho vay bằng VND và ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đầu tư phát triển và đời sống. Đối tượng được áp Ngành tài chính Ngân Hàng 24
  25. dụng: Các tổ chức tín dụng được thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy định của Luật Các Tổ Chức tín dụng; Các khách hàng vay của các tổ chức tín dụng bao gồm: Các pháp nhân (DN Nhà nước, hợp tác xã, công trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, DN có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác có đủ các điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ Luật dân sự), cá nhân, các hộ gia đình, tổ hợp tác, DN tư nhân, công ty hợp danh”. Ngày 4/8/2000, Thống đốc NHNN ban hành quyết định số 241, 242, 243, 244/QĐ- NHNN1 nhằm thay đổi căn bản việc điều hành lãi suất sang quy định hành chính điều hành theo lãi suất cơ bản. Ngày 12/9/2000, Chính Phủ ban hành nghị định số 49/2000/NĐ-CP về tổ chức hoạt động NHTM. Quy định rõ NHTM là NH được thực hiện toàn bộ hoạt động NH và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước, nghị định đã luật pháp hoá chi tiết một số điều của luật các Tổ chức tín dụng về tổ chức và hoạt động của NHTM. Ngày 27/11/2000, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định 488/2000/QĐ- NHNN về việc phân loại tài sản “Có”, trích lập và sử dụng dự phòng để sử lý rủi ro trong hoạt động NH của tổ chức tín dụng. Quyết định này quy định rõ: Tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam phải thực hiện việc phân loại tài sản “Có”, trích lập và sử dụng dự phòng để sử lý rủi ro trong hoạt động NH theo quy định này; Việc trích lập và sử dụng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng giảm giá chứng khoán, quỹ dự phòng tài chính thực hiện theo quy định tại nghị định số 166/1999/NĐ- CP ngày 19/11/1999 của Chính Phủ về chế độ tài chính đối với các Tổ chức tín dụng. Ngày 28/11/2000, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định 492/2000/QĐ- NHNN5 quy định về việc góp vốn mua cổ phần của Tổ chức tín dụng: “ Các tổ chức tín dụng thuộc các loại hình tổ chức tín dụng sau đây được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của DN và của các Tổ chức tín dụng khác theo quy định này và quy định khác có liên quan của Pháp luật: NH (NHTM, NH Phát triển, NHĐT), Tổ chức tín dụng (Công Ngành tài chính Ngân Hàng 25
  26. ty tài chính; Tổ chức tín dụng hợp tác góp vốn, mua cổ phần của DN và các tổ chức tín dụng khác thực hiện theo quy định riêng của NHNN”. Chương 2 Ngành tài chính Ngân Hàng 26
  27. Thực trạng tín dụng trung- dài hạn tại Ngân Hàng đầu tư và phát triển việt nam 2.1. Tổng quan về hoạt động của NHĐT&PTVN trong những năm gần đây 2.1.1. Tốc độ tăng trưởng: Nhìn chung nhịp độ tăng trưởng của các chỉ tiêu cơ bản như tăng trưởng tài sản, huy động vốn, cho vay đầu tư phát triển. . . đều đạt tốc độ cao: 2.1.1.1. Về tăng trưởng tài sản: Năm 1998, NH tốc độ tăng trưởng của NH đạt 26%. Năm 1999, NH vẫn giữ nhịp độ tăng trưởng cao đạt 28%. Theo bảng tổng kết kế hoạch 5 năm, đến ngày 31/12/2000, tổng tài sản là 47.5000 tỷ đồng, gấp 3 lần so với năm 1995, tăng 21,3% so với năm1999, hoàn thành kế hoạch đề ra. Về tăng trưởng huy động vốn: Năm 1998 đạt mức tăng 55% so với so với năm 1997. Năm 1999 tăng 66%. Ngày 31/12/2000, nguồn vốn huy động tăng 30.000 tỷ đồng, tăng 34% so với năm 1999 và tăng hơn 7 lần so với năm 1995. Huy động dân cư đạt 18.700 tỷ đồng, tăng 36% so với năm 1999, hoàn thành kế hoạch đề ra. 2.1.1.3. Về tăng trưởng dư nợ: Năm 1998, tăng 28,7% trong đó tín dụng đầu tư và phát triển tăng 23%; Năm 1999, tăng 25% trong đó tín dụng đầu tư và phát triển tăng 19% so với năm 1998; tổng dư nợ 31/12/2000 đạt 36.000 tỷ (Kể cả dư nợ uỷ thác đầu tư). Riêng tổng dư nợ tín dụng đạt 33.500 tỷ đồng, tăng 3 lần so với năm 1995, tăng 32% so với năm 1999, đạt 103% kế hoạch, trong đó tín dụng đầu tư phát triển đạt 18.000 tỷ đồng, tăng hơn 3 lần so với năm 1995, tăng 29% so với năm 1999. 2.1.1.4. Các dịch vụ về NH ngay càng được mở rộng và nâng cao hiệu quả: Những năm vừa qua, trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biểu hiện trì trệ, hoạt động NH phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách, việc tận dụng được Ngành tài chính Ngân Hàng 27
  28. các thời cơ, nỗ lực vượt qua khó khăn để tiếp tục giữ được mức tăng trưởng cần thiết, hợp lý tạo đà cho bước phát triển trong thời kỳ tới là một thắng lợi lớn trong năm qua của toàn hệ thống. Trong năm 2000, toàn hệ thống NHĐT đã nỗ lực triển khai quyết định 13/1999/QĐ- TTg của thủ tướng Chính Phủ, toàn hệ thống đã tiếp nhận thêm kế hoạch tín dụng đầu tư tăng 28% so với năm 1999, tăng số dụ án tìm kiếm đồng thời mở rộng đáng kể tín dụng ngắn hạn phục vụ đầu tư phát triển và tài trợ xuất khẩu. Tuy mức tăng trưởng trong thời gian qua là khá cao nhưng thực sự vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu kích cầu, chưa ngang tầm với công nghiệp hoá- hiện đại hoá, yêu cầu phát triển của nền kinh tế. 2. 1. 2. Cơ cấu tài sản Cùng với những tăng trưởng về lượng, cơ cấu tài sản cũng có những chuyển đổi tích cực. Cơ cấu tài sản ngày càng được xây dựng một cách hợp lý hơn. Năm 2000, tổng tài sản đạt 47.500 tỷ đồng, tăng 21,3% so với năm 1999. Hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu của NH (Chiếm 77% tổng tài sản của NH). Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu vốn theo hướng tích cực chủ động: Vốn trong nước chiếm99%, Vốn nước ngoài chiếm 1% tổng tài sản. Vay nợ tín dụng trung- dài hạn nước ngoài giảm 200 tỷ đồng so với năm 1999. Giữ vững cơ cấu tín dụng: Tín dụng trung- dài hạn chiếm 52% tổng dư nợ. 2. 1. 3. Huy động vốn Năm 2000 là năm có nhiều diễn biến phức tạp về lãi suất, tỷ giá ngoại tệ USD cùng với xu hướng đô la hoá đã ảnh hưởng lớn tới cơ cấu huy động vốn của các NH. Tuy nhiên bằng những giải pháp sáng tạo, công tác huy động vốn trong nước của NHĐT&PTVN vẫn đạt được kế quả khả quan: Giữ vững tốc độ tăng trưởng cao: tăng 35% so với năm1999. Đảm bảo đủ vốn cho đầu tư phát triển Cơ cấu vốn huy động vốn được điều chỉnh theo hướng ngày càng hợp lý hơn. Tỷ trọng huy động vốn trong dân cư so với tổng huy động vốn chiếm 62% so với năm 1999 là 59%. Tỷ trọng nguồn vốn dài hạn chiếm 50% tổng nguồn vốn (so với năm 1999 là 39%, năm 1998 là 20%). Ngành tài chính Ngân Hàng 28
  29. Đặc biệt nắm bắt tận dụng thời cơ, trong năm 2000 đã phát hành thành cộng hai đợt trái phiếu, huy động được gần 4.000 tỷ đồng (trong đó có 135 triệu USD) với chất lượng cao hơn, đáp ứng yêu cầu của thị trường (trái phiếu được thanh toán trong toàn quốc và được niêm yết trên thị trường chứng khoán). Vận hành cơ chế điều hành vốn mới đã tạo tính chủ động cao cho các chi nhánh, nguồn vốn được sử dụng hiệu quả hơn. Năm 2000, nguồn vốn phục vụ thanh toán và giải ngân cho các hợp đồng tín dụng luôn được đảm bảo, giữ vững lòng tin của khách hàng đối với NH. Tăng cường phát triển nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường liên NH, thị trường mở để nâng cao hơn hiệu quả của vốn huy động. 2. 1. 4. Hoạt động tín dụng Mặc dù năm 2000 nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai và đang trong tình trạng thiểu phát nhưng hoạt động tín dụng của NH vẫn tăng trưởng về số lượng và chất lượng hoạt động tín dụng được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng tín dụng 32% so với đầu năm, đạt 103% kế hoạch đề ra, trong đó tốc độ tăng trưởng tín dụng ngắn hạn là 35%, tín dụng đầu tư phát triển là 29% (so với năm 1999), đạt kế hoạch. Nét đổi mới trong hoạt động tín dụng năm 2000 là việc chuyển hoạt động tín dụng đầu tư truyền thống theo cơ chế mới theo đòi hỏi của thị trường, chủ động tìm kiếm dự án, thẩm định và tự chịu trách nhiệm khi cho vay theo quyết định 13/ TTg của thủ tướng Chính Phủ. Kết quả đạt được năm 2000 ghi nhận sự nỗ lực sáng tạo của toàn hệ thống để giữ vững và phát huy vai trò chủ lực trong đầu tư phát triển. Tín dụng đầu tư phát triển chiếm 52% trong tổng dư nợ. Năm 2000, NHĐT&PTVN đã đầu tư hơn 3000 tỷ đồng cho hàng trăm dự án chi nhánh tự tìm kiếm, tập trung vào các chương trình kinh tế của Chính Phủ, đặc biệt như: Chương trình kích cầu tai thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ, hỗ trợ vốn đối với các thành phố lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Phục vụ cho vay phát triển Tây Nguyên, chương trình cho vay khắc phục hậu quả bão lũ. . . Ngành tài chính Ngân Hàng 29
  30. Tín dụng phục vụ đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước: Năm 2000, NHĐT&PTVN được Chính Phủ giao nhiệm vụ thực hiện tín dụng đầu tư và phát triển số vốn là 4.000 tỷ. Đến 31/12/2000 hợp đồng tín dụng theo kế hoạch 2000 gần 2.000 tỷ đồng với trên 60 dự án. Giải ngân đến 31/12/2000 là 2.500 tỷ đồng, việc giải ngân trong năm nay chủ yếu là những hợp đồng đã ký năm trước. Dư nợ tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà Nước đạt 11.300 tỷ đồng. Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu năm 2000 có nhiều cố gắng. Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tập trung vào một số nhóm ngành hàng: Cà phê, gạo, hải sản, dệt may, giầy dép. . . Doanh số cho vay xuất nhập khẩu đến cuối năm 2000 khoảng 4.860 tỷ đồng (tương 347 triệu USD) tăng 37% so với năm 1999, đạt 2,48% tổng kim ngạch xuất khẩu trong cả nước, trong đó doanh số cho vay tạm trữ cà phê xuất khẩu niên vụ 2000- 2001 đạt 2.200 tỷ đồng chiếm gần 50% doanh số cho vay xuất khẩu toàn hệ thống, doanh số cho vay chương trình xuất khẩu gạo năm 2000 đạt trên 900 tỷ đồng. Dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 1.500 tỷ đồng, chiếm gần 10% tổng dư nợ ngắn hạn của toàn bộ hệ thống. Tổng số ngoại tệ mua lại được khoảng 115 triệu USD. Hoạt động tài trợ nhập khẩu gắn liền với tài trợ xuất khẩu để thực hiện khép kín tới từng DN. Doanh số cho vay nhập khẩu đạt 352 triệu USD, chiếm 2,34% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, trong đó doanh số cho vay nhập khẩu ngắn hạn đạt 330 triệu, tăng 92% so với năm 1999. Dư nợ đến 31/12/2000 đạt 150 triệu USD. Thu nợ nhập khẩu ngắn hạn đạt 302 triệu USD. Với những kết quả đạt được nói trên, trong điều kiện cầu tiêu dùng và đầu tư đều giảm sút, có thể khẳng định là: Hoạt động của NH đầu tư trong những năm qua đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, để có thể thật sự chuyển hướng hoạt động kinh doanh tín dụng theo cơ chế thị trường, vấn đề đặt ra đối với toàn hệ thống là phải đổi mới nhiều hơn nữa trong hoạt động tín dụng cụ thể là: - Phải có những bước tiếp cận khách hàng mạnh mẽ hơn nữa, có bộ phận xúc tiến đầu tư, tìm kiếm dự án và thẩm định dự án, cần phải thâm nhập hơn Ngành tài chính Ngân Hàng 30
  31. nữa vào tổng công ty lớn, các khu công nghiệp trọng điểm, các dự án cơ sở hạ tầng. - Tranh thủ tham gia đầu tư vốn theo kế hoạch Nhà nước đến mức tối đa, tranh thủ phối hợp với quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia để thực hiện cho vay đầu tư phát triển. 2. 1. 5. Hoạt động dịch vụ Năm 2000, đánh dấu một bước chuyển biến tích cực hoạt động dịch vụ của NHĐT&PTVN. Ngay từ những tháng đầu năm khi thực hiện triển khai kế hoạch kinh doanh toàn hệ thống đã xác định mực tiêu giải pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ, mở rộng thị trường, thị phần, nâng cao vị thế và uy tín của NH. Kết quả thể hiện cụ thể như sau: - Hoạt động đại lý uỷ thác: Đã tìm kiếm thêm 14 nguồn mới với 29 dự án mới tổng giá gần 512 triệu USD đạt 102 kế hoạch năm. Phí dịch vụ thu được khoảng 7 tỷ đồng. Đặc biệt hoạt động đại lý uỷ thác ngoài việc mang lại lợi ích từ việc thu phí NH, lãi quay vòng vốn do tranh thủ số dư trên các tài khoản, lãi kinh doanh mua bán ngoại tệ đẫ giúp NH mua lại gần 190 triệu USD và một số ngoại tệ khác, đáp ứng về ngoại tệ khác trong thanh toán và giảm bớt tình trạng căng thẳng về ngoại tệ của NH. - Hoạt động kinh doanh tiền tệ đang từng bước được củng cố và hoạt động có tính nhất quán theo các mục tiêu quản lý và kinh doanh của NH trong từng giai đoạn. Trong năm 2000 với xu hướng lãi suất ngoại tệ trên thị trường quốc tế tăng nên việc huy động nguồn vốn ngoại tệ tăng nhanh nhưng việc quản lý nguồn vốn ngoại tệ vẫn đảm bảo hiệu quả. Năm 2000, số đầu tư tiền gửi ngoại tệ đạt 3,8 tỷ USD, tăng 52% so với năm 1999 và doanh số nhận tiền gửi để đầu tư là 160 triệu USD. - Hoạt động mua bán ngoại tệ: Vẫn đang từng bước ở mức mua bán để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu ngoại tệ của các khách hàng thanh toán và trả nợ vay. Doanh số mua bán đạt 5,3 tỷ USD, tăng gần 3 lần so với năm 1999, lãi thu được từ hoạt động mua bán ngoại tệ đạt 22 tỷ đồng, tăng gần 60% so với 1999. Ngành tài chính Ngân Hàng 31
  32. - Hoạt động thanh toán: Với định hướng đẩy mạnh việc nâng cao hiệu quả sản phẩm dịch vụ và tăng tỷ trọng thu dịch vụ so với tổng thu của NH, hoạt động thanh toán năm 2000 được triển khai mạnh mẽ trên toàn hệ thống và đạt được kết quả đáng khích lệ. - Hoạt động thanh toán quốc tế: Mạng lưới thanh toán không ngừng được mở rộng. Hiện đã có 31/64 chi nhánh thực hiện hoạt động này. Doanh số hoạt động đạt 2,28 tỷ USD, tăng 62% so với năm 1999, trong đó doanh số xuất nhập khẩu đạt 1,31 tỷ USD tăng 49% so với năm 1999, phí dịch vụ thu được đạt 27 tỷ đồng. Đặc biệt trong năm đã triển khai thêm một số loại hình dịch vụ mới: Chi trả kiều hối tại nhà, chi trả kiều hối qua các công ty, thực hiện làm đại lý trả lương cho người lao động Việt Nam tại nước ngoài. . . - Hoạt động thanh toán trong nước: Đến nay toàn hệ thống đã có 99 đơn vị tham gia thanh toán tập trung nội tệ và 71 đơn vị tham gia thanh toán tập trung ngoại tệ. Doanh số thanh toán 1.200.000 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 1999. Phí thanh toán trong nước đạt 15 tỷ đồng, Tăng 15% so với năm 1999. Đặc biệt trong năm 2000 đã triển khai nối mạng thanh toán với một số NH: Citi Bank, Bank of Tokyo Mitsubishi, NH liên doanh Lào- Việt. Đồng thời thực hiện tốt vai trò NH thanh toán cho hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán. - Hoạt động bảo lãnh: Mặc dù hai năm trở lại đây, nhu cầu bảo lãnh vay vốn nước ngoài của các DN giảm mạnh nhưng doanh số bảo lãnh toàn hệ thống đến 31/12/2000 đạt 5000 tỷ đồng, tăng 4% so với năm 1999. Số dư bảo lãnh đạt 4600 tỷ đồng, tăng 35% so với năm 1999. Phí bảo lãnh đạt 26 tỷ đồng, tăng 15 % so với năm 1999. 2. 1. 6. Lợi nhuận Lợi nhuận năm 2000 tăng 20% so với năm 1999, là năm có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận khá cao. Mặc dù 8 tháng đầu năm, xu hướng chung lãi suất xuống, chênh lệch lãi đầu vào và đầu ra thu hẹp nhưng thu nhập rồng từ lãi 11 tháng năm 2000 bằng 140% năm 1999. Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế bình quân đầu người đạt 34 triệu so với 20 triệu năm 1999. Ngành tài chính Ngân Hàng 32
  33. Kết quả của việc nâng cao hiệu qủa tài sản có nhiều năm liền nên doanh thu lãi năm 2000 đạt 4. 250 tỷ đồng trong đó thu lãi cho vay chiếm 85%. 2. 1. 7. An toàn hệ thống NHĐT&PTVN đã tuân thủ đầy đủ các quy định an toàn của NHNN. Giữ vững tỷ lệ nợ quá hạn dưới 2% nhưng số tuyệt đối nợ quá hạn lại tăng (88 tỷ đồng) trong đó tỷ trọng nợ quá hạn ngắn hạn tăng từ 1,64% lên 1,7%, tuy nợ quá hạn khó đòi giảm 24 tỷ đồng, nợ chờ xử lý giảm 32 tỷ đồng so với năm 1999 nhưng nợ khoanh lại tăng thêm 134 tỷ đồng. Mặc dù nợ quá hạn được duy trì ở mức 2% so với tổng dư nợ nhưng vẫn cần phải thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống. 2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng trung- dài hạn của NHĐT&PTVN trong những năm gần đây 2.2.1. Những quy định về cho vay trung- dài hạn tại NHĐT&PTVN Cho vay theo kế hoạch Nhà Nước:  Đối tượng vay vốn: Các DN vay vốn phải cố đủ tư cách pháp nhân, sản xuất kinh doanh có lãi. Dự án xin vay phải là dự án có hiệu quả, có đủ khả năng trả nợ NH hoặc các dự án cho vay dở dang, đã ký hợp đồng tín dụng từ năm trước nhưng phải được thông báo theo kế hoạch của và cho vay trong năm kế hoạch. Dự án đầu tư mới hiện nay ưu tiên cho các ngành điện, cơ khí, sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến, khu công nghiệp, khu đô thị mới có thu phí vả có khả năng thu hồi vốn.  Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay được xác định theo thông báo của Chính Phủ trong năm kế hoạch. Lãi suất cho vay trung- dài hạn theo kế hoạch Nhà nước bằng VND hiện nay là 0,81%/tháng. Lãi suất cho vay trung- dài hạn bằng USD là 7,5%/ năm. Sau một thời gian điều hành lãi suất theo phương pháp “cứng”, quy định trần lãi suất đã bộc lộ một số nhược điểm của nó. Hiện nay, NHNN đang áp dụng “lãi suất cơ bản” thay thế trần lãi suất. Lãi suất cơ bản tại thời điểm hiện Ngành tài chính Ngân Hàng 33
  34. nay được xác định là 0,75%/tháng đối với VND và được xê dịch trong biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% đối với cho vay trung- dài hạn.  Thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn và khả năng trả nợ của DN nhưng không quá 10 năm, nếu quá 10 năm phải trình Chính Phủ.  Tài sản thế chấp: Tài sản thế chấp là tài sản hình thành từ vốn vay và các hình thức đảm bảo nợ vay khác. Hiện nay, vấn đề thế chấp tài sản được quy định cụ thể trong nghị định số 178/1999/NĐ- CP ban hành ngày 29/12/1999.  Hồ sơ vay vốn: Được lập theo quy trình tín dụng đầu tư phát triển hiện hành của NH. Hiện nay, hồ sơ cho vay được lập sẵn để tiện cho các DN đến vay. 2.2.1.2. Nguồn NH tự tìm kiếm  Đối tượng vay: DN vay vốn phải đủ tư cách pháp nhân, sản xuất kinh doanh có lãi. Dự án vay vốn phải có hiệu quả, có khả năng thu hồi vón nhanh. Ngoài ra, các DN có nhu cầu vay vốn đầu tư mới, đầu tư chiều sâu mở rộng sản xuất hiện có phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế của Chính Phủ và chính sách tín dụng của NHĐT&PTVN  Lãi suất cho vay: Được tính theo lãi suất quy định của NH tại thời điểm vay vốn, phù hợp với chính sách khách hàng và chiến lượng kinh doanh của NH. Từ ngày 7/4/2000, lãi suất cho vay trung- dài hạn bằng VND là 0,76%/tháng.  Thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay được xác định theo thời gian thu hồi vốn của dự án và khả năng trả nợ của NH. 2.2.2. Hiệu quả tín dụng trung- dài hạn tại NHĐT&PTVN Hiệu quả tín dụng trung- dài hạn theo đánh giá đối với khách hàng và đối với nền kinh tế. Ngành tài chính Ngân Hàng 34
  35. Đối với NHĐT&PTVN, hiệu quả tín dụng còn thể hiện ở sự đóng góp của tín dụng vào các mục tiêu chung của nền kinh tế như tạo công ăn việc làm, tiết kiệm ngoại tệ. . . Đây là những mục tiêu khó đánh giá đầy đủ về mặt định lượng. Tại NHĐT&PTVN, ngay từ đầu năm 2000 toàn hệ thống đã đổi mới cách làm, cách nghĩ, tích cực triển khai hoạt động tín dụng đầu tư phát triển kinh tế như: Nhanh chóng xử lý xét duyệt cho vay đối với các dự án chuyển tiếp của năm 1999; đồng thời tích cực thực hiện chỉ thị số 1102/CT- HĐQT/NHĐT đẩy mạnh hoạt động tín dụng đầu tư phát triển phục vụ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước theo hướng kết hợp nhiều hình thức và nhiều nguồn vốn để phục vụ nhiều nhất với hiệu quả cao nhất cho đầu tư phát triển. Tích cực tìm kiếm các dự án có hiệu quả, có khả năng trả nợ NH; chú trọng đến các dự án then chốt trọng điểm trong các mục tiêu phát triển kinh tế của các bộ, ngành, địa phương. Trong năm 2000, NHĐT&PTVN đã duyệt cho vay các dự án tín dụng đầu tư với tổng số là 7.215 tỷ đồng và 33 triệu USD, giải ngân được 2.420 tỷ đồng và 11,3 triệu USD. Số còn lại tiếp tục giải ngân trong năm 2001. Đã có những chi nhánh thực hiện tốt việc cho vay phục vụ đầu tư phát triển như: chi nhánh Gia lai,Chi nhánh Đà Nẵng, Sở giao dịch I, Sở giao dịch II, chi nhánh thành phố Hồ chí Minh. . . Đặc biệt, chi nhánh thành phố Hà Nội bước đầu đã cho vay phục vụ tốt chương trình phát triển kinh tế và kích cầu của thành phố. Để phục vụ tốt việc phát triển kinh tế các vùng động lực ở cả ba miền, năm 2000 NHĐT&PTVN đã tổ chức hội nghị tín dụng phục vụ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ tại Vũng Tàu, hội nghị tín dụng NHĐT&PT phục vụ miền núi Tây Nguyên tại Đăk Lăk. Hội nghị đã truyền tải và quán triệt đường lối phát triển kinh tế, tư tưởng chỉ đạo của NHĐT&PT bước đầu giải quyết được những bức xúc thực tế sảnn xuất kinh doanh của DN cũng như những lúng túng trong hoạt động nghiệp vụ tín dụng của chi nhánh NHĐT&PT; hội nghị đã đề ra chương trình hành động, theo đó tạo điều kiện cho các chi nhánh về nguồn vốn, các giải pháp, biện pháp để các chi nhánh có Ngành tài chính Ngân Hàng 35
  36. căn cứ thực hiện dựa trên thế mạnh và kế hoạch phát triển kinh tế ở mỗi địa phương; đối với các tỉnh miền núi và Tây Nguyên, NHĐT&PT đã tích cực cho vay đầu tư trồng cây công nghiệp dài ngày như: Cà phê, Chè, Cao su. . . cho vay phục vụ các khu công nghiệp, các khu đô thị mới; cho vay tạm trữ Cà phê theo chỉ đạo của Chính Phủ và NHNN; cho vay khắc phục lũ lụt ở các tỉnh miền Trung. Đạt được những thành tựu kể trên có công sức đóng góp to lớn của cán bộ NH năm qua. NHĐT&PTVN hiện nay vẫn đang mong muốn có nhiều hơn nữa các dự án có hiệu quả để cho vay vốn, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào sự phát triển kinh tế đất nước. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng trung- dài hạn tại NHĐT&PTVN  Quy mô tín dụng của NHĐT&PTVN NHĐT&PTVN là một trong bốn NH quốc doanh lớn nhất của cả nước với mạng lưới hơn 100 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố và khu công nghiệp trong cả nước. Đặc biệt, với chức năng chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư phát triển nên quy mô cho vay trung- dài hạn của NHĐT&PTVN rất rộng và lớn mạnh trên toàn đất nước cũng như trong các ngành kinh tế trọng điểm. Quy mô tín dụng ngày càng được mở rộng thông qua doanh số cho vay và dư nợ tín dụng. Bảng 1: Doanh số cho vay và dư nợ tín dụng trong giai đoạn 1998- 2000. (Đơn vị : Tỷ đồng) Ngành tài chính Ngân Hàng 36
  37. Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Chỉ tiêu Số Tỷ Số Tỷ 99/98 Số Tỷ 00/99 tiền trọng tiền trọng tiền trọng +- % +- % Doanh 21911 100 28199 100 6288 28,7 36195 100 7996 28,35 số cho vay Doanh 15469 70,6 20963 74,34 5494 35,5 25946 71,68 4983 23,77 số cho vay ngắn hạn Doanh 3412 15,57 4521 16,04 1109 32,5 7749 21,4 3228 71,4 số cho vay trung- dài hạn Cho vay 3030 13,83 2715 9,62 -315 -10,04 2500 6,9 -215 -7,92 uỷ thác Dư nợ 18881 100 24979 100 6098 32,29 33500 100 8016 34 tín dụng Dư nợ 8072 42,75 11464 45,89 3392 42,02 14507 43,3 3043 26,54 tín dụng ngắn hạn Dư nợ 10809 57,25 13515 54,1 2706 25,03 18993 56,69 5478 40,53 tín dụng trung- dài hạn ( Nguồn: Báo cáo tổng kết giai đoạn 1998- 2000) Năm 1998: Tình hình kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, thiên tai hạn hán, bão lũ. . . đã gây ra không ít những thiệt hại về người và của, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á đã gây tác động xấu đối với sự phát triển kinh tế nước ta, Đảng và Nhà nước đã thay đổi chỉ tiêu tăng Ngành tài chính Ngân Hàng 37
  38. trưởng GDP xuống còn 5- 6% để phù hợp với tình hình, và cụ thể là GDP năm 1998 tăng trưởng 5,6% so với năm 1997. Trên cơ sở phân tích những thuật lợi, khó khăn và thử thách của đất nước, NHĐT&PTVN đã đề ra phương hướng và các giải pháp hoạt động của NH trong năm 1998 là tiếp tục phát huy nội lực và truyền thống với trách nhiệm nỗ lực cao nhất phục vụ cho đầu tư phát triển theo hướng của Nhà nước. Đẩy mạnh đổi mới toàn diện trong tăng trưởng, hiệu quả và tiết kiệm trong chi phí làm phương châm hành động. Tập trung xây dựng nguồn lực và đổi mới quản trị điều hành, giữ vị thế uy tín và vai trò chủ đạo của NHĐT&PTVN. NHĐT&PTVN đã thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 1998 góp phần tăng trưởng kinh tế. Trong năm 1998, doanh số cho vay đạt 21.911 tỷ đồng, trong đó doanh số cho vay ngắn hạn đạt 15.469 tỷ đồng, doanh số cho vay trung- dài hạn đạt 3.412 tỷ đồng. Dư nợ tín dụng trung- dài hạn trong năm 1998 là 10.809 tỷ đồng. Cho vay uỷ thác tài trợ phát triển đạt 3.030 tỷ đồng, như vậy dư nợ tín dụng đầu tư và phát triển đạt 13.839 tỷ chiếm 46,48% tổng tài sản năm 1998. Trong năm 1998, NH đã ký hợp đồng tín dụng đạt 104% kế hoạch giao. Đầu năm, NH cũng đã giải ngân các hợp đồng tín dụng trung- dài hạn với tổng số tiền là 4.200 tỷ đồng. Đồng thời NH cũng từ chối cho vay đối với các dự án kém hiệu quả, không đủ hồ sơ thủ tục theo quy định, tổng giá trị 311 tỷ đồng. Trong năm, NH đã đổi mới phương thức phục vụ đầu tư, phát triển cho các DN, đã cho vay ứng trước vốn cho 34 công trình chuyển tiếp cần vốn ngay 316 tỷ đồng. Vốn của NH đã tập trung vào 5 chương trình lớn trong năm: - Điện lực: 1.500 tỷ đồng. - Đánh bắt cá xa bờ: 170 tỷ đồng. - Khắc phục hậu quả bão lũ: 300 tỷ - Hỗ trợ DN vừa và nhỏ: 65tỷ đồng - Tài trợ xuất nhập khẩu: 1.000 tỷ đồng Năm 1999: Mặc dù chưa thoát khỏi khó khăn trong nền kinh tế cũng như trong hoạt động NH, Nhưng bằng những định hướng đúng đắn của hội đồng quản trị và ban tổng giám đốc điều hành các phòng đã chủ động xây dựng Ngành tài chính Ngân Hàng 38
  39. chương trình công tác năm 1999, có chương trình cụ thể nên hoạt động năm 1999 vẫn đạt được những kết quả đáng khích lệ. Dư nợ tín dụng trung- dài hạn đã đạt được 13.515 tỷ đồng, tăng 25,03% so với năm 1998. Cho vay uỷ thác tài trợ phát triển đạt 2.715 tỷ đồng đã đưa số dư nợ tín dụng đầu tư phát triển lên 16.230 tỷ đồng, tăng 17,28% so với năm 1998. Về tín dụng đầu tư, NH đã uỷ nhiệm được 42.289 tỷ đồng, đạt 153% so với kế hoạch được giao đầu năm. Trong năm 1999 NH cũng ký được nhiều hợp đồng tín dụng đạt 3.872 tỷ đồng và đã giải ngân được 1.900 tỷ, đồng thời NH cũng đã từ chối cho vay với các dự án kém hiệu quả, không đủ hồ sơ theo quy định tổng trị giá là 231 tỷ đồng. Về tín dụng đầu tư theo lãi suất thương mại: NH luôn tích cực chỉ đạo các chi nhánh tìm kiếm các dự án có hiệu quả, có khả năng trả nợ NH, đặc biệt các dự án thuộc tổng công ty có năng lực tài chính mạnh như: Sông Đà, Lắp máy, Xi măng, Bưu chính viễn thông, Tổng công ty dầu khí, Tổng công ty cà phê, Liên hiệp đường sắt Việt Nam, Tổng công ty thép, LICOGI, Cơ khí xây dựng. . . với mức vốn là 8.664,6 tỷ đồng (đã bao gồm 239 triệu USD ) - Đối với tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu: Trong năm 1999, NH đã tiến hành tài trợ xuất nhập khẩu cho 19 dự án với số tiền 42 triệu USD. NH cũng đã thu nợ trong nước và trả nợ nước ngoài đầy đủ và đúng hạn gốc, lãi cho NH nước ngoài, kết quả như sau: Kế hoạch thu nợ gốc đực giao năm 1999 là 8.314.188 USD. Thực hiện thu nợ là 8.866.457 USD đạt 107% kế hoạch được giao. NH đã kí được 18 hiệp định khung với nhiều NH lớn trên thế giới. Các NH nước ngoài kí hiệp định khung với NHĐT&PTVN đều đánh giá tốt khả năng quản lý dự án, phối hợp chặt chẽ trong việc giải ngân. - NH đã ký hiệp định khung với NH Societe General( Pháp) trị giá 100 triêu FRF. - Đã đàm phán xong với NH Landé Bank (Đức) để ký lại hiệp định khung cho phù hợp hơn với điều kiện triển khai của Việt Nam. - NH cũng tiến hành đàm phán ký kết thêm các hiệp định khung với NH Natexis và Indosuez của Pháp, NH Den Dansk của Đan Mạch. Ngành tài chính Ngân Hàng 39
  40. Năm 2000, là năm chuyển giao sang thiên niên kỷ mới, năm cuối cùng thực hiện kế hoạch 5 năm (1996- 2000), năm thứ hai NHĐT&PTVN thực hiện kế hoạch phát triển 3 năm (1999- 2001) là năm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối vơi đất nước và đối với NHĐT&PTVN. Hoạt động kinh doanh năm 2000 của NHĐT&PTVN triển khai trong bối cảnh kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn thử thách gay gắt: Nền kinh tế giảm nhịp độ tăng trưởng xuống mức thấp nhất kể từ năm 1990 tới nay tuy những tháng cuối năm đã bắt đầu khởi sắc, sức cạnh tranh yếu, vốn đầu tư nước ngoài vẫn giảm, hàng hoá tồn đọng nhiều (ước tính từ 7000- 8000 tỷ đồng); Đặc biệt thiên tai liên tiếp xảy ra trong nhiều năm liền ở nhiều vùng, nghiêm trọng nhất là khu vực đồng bằng Sông Cửu Long bị ngập trong nước cao nhất và kéo dài chưa từng có, gây thiệt hại rất nặng nề về người và tài sản, mùa màng. Tuy nhiên, hoạt động của NH cũng có những thuận lợi căn bản: thành tựu 10 năm đổi mới hoạt động, kết quả hoàn thành kế hoạch kinh doanh năm 1999 tạo đà để hoàn thành kế hoạch năm 2000. Tình hình kinh tế thế giới, đặc biệt là trong khu vực có một số chuyển biến tích cực. Một số nước phục hồi nhanh chóng sau khủng hoảng tạo thêm thận lợi cho nước ta trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đồng thời cũng tăng thêm sức ép cạnh tranh. Trong hoàn cảnh khó khăn thử thách, toàn hệ thống NHĐT&PTVN nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, đạt được những thành tựu tiến bộ tương đối toàn diện trên các lĩnh vực hoạt động. Các đơn vị, tập thể cá nhân xuất sắc, các giải pháp sáng tạo, các sản phẩm chất lượng ngày càng cao đã nảy nở ngày càng nhiều trong phong trào thi đua và môi trường cạnh tranh. Năm 2000, doanh số cho vay đạt 36.195 tỷ đồng trong đó doanh số cho vay ngắn hạn đạt 25.946 tỷ đồng, doanh số cho vay dài hạn đạt 7.749 tỷ đồng. Tổng dư nợ tín dụng trong năm 2000 đạt 33.500 tỷ đồng, dư nợ tín dụng trung- dài hạn đạt 18.993 tỷ đồng cho vay uỷ thác tài trợ phát triển đạt 2.500 tỷ đồng. Như vậy, dư nợ tín dụng đầu tư và phát triển đạt 21.493 tỷ đồng, tăng 32,43% so với năm 1999, vượt mức kế hoạch đề ra.  Tình hình huy động vốn: Ngành tài chính Ngân Hàng 40
  41. Chính sách nguồn vốn là một trong những chính sách hàng đầu vô cùng quan trọng đối với sự thành bại của một NHTM. Nhận thức được tầm quan trọng của nó, NHĐT&PTVN luôn thực hiện đa dạng hoá các nguồn vốn bằng nhiều hình thức, biện pháp và các kênh huy động khác nhau từ mọi nguồn vốn trong và ngoài nước. Bằng những biện pháp chính sách trên, trong những năm gần đây tổng nguồn vốn của NH đã có những tăng trưởng đáng kể. Bảng 2: Nguồn vốn trong giai đoạn 1998- 2000 ( Đơn vị: tỷ đồng) Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Chỉ tiêu Số Tỷ Số Tỷ 99/98 Số Tỷ 00/99 tiền trọng tiền trọng tiền trọng +- % +- % Tổng 28805 100 39172 100 10367 35,99 47500 100 8328 21,26 nguồn vốn Nguồn 15405 53,52 23132 59,05 7727 50,06 29800 62,74 6668 28,82 vốn huy động + Tiền 5975 9517 3542 59,28 11100 1583 16,63 gửi TCKT +Tiền 9430 13615 4185 44,38 18700 5085 37,88 gửi dân cư Vốn tài 3362 11,67 3321 8,48 -41 -1,2 3535 7,44 214 6,44 trợ uỷ thác Vốn và 1576 5,47 1734 4,43 158 10,02 2017 4,25 283 16,32 các quỹ Vốn vay 8025 27,86 10150 25,9 2125 26,48 10619 22,36 469 4,62 Tài sản 427 1,48 835 2,13 408 95,5 1529 3,92 694 83 nợ khác ( Nguồn: Báo cáo tổng hợp các năm 1998, 1999, 2000) Ngành tài chính Ngân Hàng 41
  42. Thông qua bảng này ta thấy nguồn vốn của NHĐT&PTVN được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: Nguồn vốn huy động, nguồn vốn vay, vốn và các các quỹ, nguồn vốn khác. Điều này đã đưa tổng nguồn vốn của NHĐT tăng lên một cách đáng kể. Năm 1998, tổng nguồn vốn của NH là 28.805 tỷ đồng, năm 1999 tổng nguồn vốn của NH 39.172 tỷ đồng, tăng 26,4% so với năm 1998, tương đương với 10.367 tỷ đồng. Đến năm 2000, tổng nguồn vốn của NH đã lên tới 47.500 tỷ đồng tăng 21,26% tương đương 8.328 tỷ đồng so với năm 1999. Đây là những bước trưởng thành của NHĐT&PTVN và những con số trên đã một phần chứng minh sự tăng trưởng của NHĐT&PTVN khi chuyển sang hướng kinh doanh đa năng tổng hợp. Nhìn vào cấu trúc nguồn vốn của NHĐT&PTVN, ta thấy nguồn vốn huy động chiếm tỷ lệ lớn. Năm 1998 tổng nguồn vốn huy động là 15.415 tỷ, chiếm 53,52% của tổng nguồn vốn, trong đó tổng tiền gửi huy động từ dân cư là chủ yếu. Đặc biệt trong năm 1998, NHĐT&PTVN đã phát hành trái phiếu huy động 1.200 tỷ đồng, trong đó 80% là VND còn lại là USD, vượt kế hoạch nhà nước giao cho đáp ứng vốn cho các công trình theo kế hoạch nhà nước. Trong năm 1998, nguồn vốn huy động trên 12 tháng chiếm 75,6% nguồn vốn huy động và nguồn vốn huy động dưới 12 tháng chỉ chiếm 24,4% NHĐT&PTVN đã chứng tỏ được thành công trong công tác huy động vốn, NHĐT&PTVN đã khai thác tận dụng được một lượng tiền lớn nhàn rỗi trong dân cư và cũng chứng tỏ rằng người dân ngày càng tín nhiệm NH và cảm thấy an toàn khi gửi tiền vào NH. Trong năm 1999, nguồn vốn huy động của NH là 23.132 chiếm 59,05% của tổng vốn tăng 33,3% so với năm 1998. Cùng với sự thành công của hai đợt phát hành trái phiếu, nguồn vốn huy động tăng trưởng cao và được điều chỉnh theo cơ cấu hợp lý. NH ngày một chuyển dịch được cơ cấu nguồn vốn, nguồn huy động trên 12 tháng chiếm tới 84%, còn nguồn dưới 12 tháng chỉ chiếm 16%, trong đó VND chiếm 85%, còn ngoại tệ chiếm 15%. Năm 2000, nguồn vốn huy động là 29.800 chiếm 62,74 tổng nguồn vốn tăng 28,82% so với năm 1999. Trong đó nguồn vốn huy động trong dân cư đạt Ngành tài chính Ngân Hàng 42
  43. 18.700 tỷ đồng, tăng 37,38%so với năm 1999. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 11.100 tỷ đồng, tăng 16,63% so với năm 1999. Tuy nhiên, trong công tác huy động vốn còn có hạn chế là nguồn vốn huy động từ các TCKT trong năm 2000 chiếm tỷ trọng nhỏ bằng 37,2% nguồn vốn huy động. Đây là nguồn vốn có lãi suất thấp, cần quan tâm khơi tăng nguồn vốn này, hơn nữa để giảm chi phí huy động vốn.  Tình hình sử dụng vốn: Chính sách nguồn vốn luôn là một chính sách quan trọng. Song công tác huy động vốn tốt nhưng sử dụng vốn lại không hiệu quả thì không những NH không phát triển mà còn là gánh nặng đối với NH. Chính vì vậy song song với việc huy động vốn NH luôn phải xây dựng cho mình một chiến lược, chính sách sử dụng nguồn như thế nào cho hiệu quả. Trong những năm qua, mặc dù phải đối mặt với biết bao khó khăn thử thách, những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực dẫn tới sản xuất đình trệ, tỷ lệ đầu tư giảm sút nhưng NHĐT&PTVN vẫn sử dụng nguồn vốn huy động một cách hiệu quả, từng bước đưa NH phát triển, cụ thể được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Tình hình sử dụng nguồn vốn trong giai đoạn 1998- 1999- 2000 (Đơn vị: tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 1998 Năm1999 Năm 2000 Số Tỷ Số Tỷ 99/98 Số Tỷ 00/99 tiền trọng tiền trọng tiền trọng +- % +- % Nguồn 28805 100 39172 100 10367 35,99 47500 100 8328 21,26 vốn Tổng dư 18881 65,55 24979 63,77 6098 32,29 33500 70,53 8016 34 nợ tín Ngành tài chính Ngân Hàng 43
  44. dụng Cho vay 80721 42,75 11464 29,27 3392 42,02 14507 30,54 3043 26,54 ngắn hạn Cho vay 10898 57,25 13515 34,50 2706 25,03 1899339,98 5478 40,53 trung- dài hạn Cho vay 3030 10,52 2715 6,93 -315 -10,4 2500 5,26 -215 -7,92 uỷ thác Dự trữ và 6894 23,93 11478 29.30 4584 66,49 11500 24,2 22 0,19 hoạt động tín dụng ( Nguồn: Báo cáo tổng hợp năm 1998, 1999, 2000) Trong những năm qua, NHĐT&PTVN đã tận dụng được tối đa nguồn vốn huy động. Mức sử dụng vốn luôn đạt 100%. Trong đó dư nợ tín dụng không ngừng tăng trưởng qua các năm. Năm 1998 dư nợ cho vay đạt 18.881 tỷ đồng chiếm 65,55%, sang năm 1999 tỷ tăng 32,29% so với năm 1998, sang năm 2000, dư nợ cho vay đã lên tới 33.500 tỷ đồng, tăng 34% so với năm 1999. Đây là những con số đáng khích lệ, thể hiện sự cố gắng nỗ lực lớn lao của toàn bộ cán bộ và nhân viên NHĐT&PTVN trong sự nghiệp phát triển của mình. Là một NH chủ lực trong lĩnh vực đầu tư - phát triển, NHĐT&PTVN đã chứng tỏ được mình thông qua số dư nợ cho vay trung – dài hạn ngày một tăng cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối. Năm 1998, tỷ lệ cho vay trung – dài hạn chiếm 57,68% tương đương 10.809 tỷ đồng trong đó cho vay ngắn hạn chiếm 42,32% tương đương 8.072 tỷ đồng. Đến năm 1999, tỷ lệ này đã được cải thiện. Dư nợ cho vay trung- dài hạn 13.515 tỷ đồng chiếm 57,25% tổng dư nợ tăng 25,03 so với năm 1998. Đến năm 2000, tỷ lệ cho vay trung – dài hạn đạt được 18.993 tỷ đồng, chiếm 56,69% tổng dư nợ tăng 40,03 so với năm 1999. Với phương châm: Đa dạng hoá các sản phẩm, các loại hình đầu tư, luôn quan tâm đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn, coi trọng tín dụng trung Ngành tài chính Ngân Hàng 44
  45. – dài hạn để phục vụ đầu tư và phát triển, đó luôn là mặt trận hàng đầu và là phương châm hoạt động của NHĐT&PTVN. NHĐT&PTVN luôn tập trung vốn cho những dự án trọng điểm, hiệu quả cao theo các mục tiêu hiện đại hoá, mở rộng tín dụng đối với các thành phần kinh tế như vật liệu xây dựng, điện lực, dầu khí, mía đường, dệt may, đánh bắt xa bờ. . . Phương châm hoạt động này đã giúp cho NHĐT&PTVN ngày một phát triển bền vững. Qua đây, ta thấy sự chuyển biến tích cực trong hoạt động tín dụng của NHĐT&PTVN, cơ cấu huy động sử dụng nguồn ở NHĐT&PTVN đang ngày một chuyển dịch theo chiều hướng tích cực để luôn giữ vai trò và khẳng định được vị trí của mình trong lĩnh vực đầu tư và phát triển.  Vấn đề nợ quá hạn: Từ sau 1995, NHĐT&PTVN đã có những đổi mới trong hoạt động tín dụng, từ hoạt động mang tính nửa bao cấp, nửa kinh doanh chuyển sang hoạt động đa năng tổng hợp. NH phải chịu trách nhiệm quản lý, giám sát việc sử dụng vón vay. Vì vậy đối với NH, mục tiêu an toàn, hiệu quả tín dụng phải được đặt lên hàng đầu. Cho đến nay, hiện tượng cho vay mất vốn tại NHĐT&PTVN là rất ít, tỷ lệ nợ quá hạn là rất thấp. Điều này được chứng minh qua bảng: Bảng 4: Dư nợ quá hạn trong giai đoạn 1998-2000 (Đơn vị: tỷ đồng) Năm 1998 Năm1999 Năm2000 Chỉ tiêu Số Tỷ Số Tỷ 99/98 Số Tỷ 00/99 tiền trọng tiền trọng tiền trọng +- % +- % Nợ quá hạn 375 1,99 458 1,8 83 -0,19 546 1,35 88 -0,45 Nợ quá hạn 188 1,74 189 1,35 1 -0,39 285,4 1,17 -130,6 -,18 trung- dài hạn Nợ quá hạn 187 2,32 269 2,35 82 0,03 260,6 1,74 -8,4 -0,61 ngắn hạn Nợ quá hạn 144 1,9 230 2,14 86 0,24 943 91,3 713 89,16 DN nhà nước Nợ quá hạn 43 8,88 39 5,49 -4 3,4 90 8,7 51 3,21 Ngành tài chính Ngân Hàng 45
  46. doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Nguồn: Báo cáo thường niên và báo cáo tổng kết giai đoạn 1998- 2000) Nói chung tỷ lệ nợ quá hạn của NHĐT&PTVN là rất thấp, vào khoảng 2%. Trong hoạt động tín dụng của một NH tỷ lệ nợ quá hạn vào khoảng 2% là thể hiện chất lượng tín dung tốt. Qua các năm, tỷ lệ này có chiều hướng giảm xuống. Năm1998, tỷ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống là 1,99 tương đương với 375 tỷ. Đến năm1999, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 1,8% tương đương với 458 tỷ đồng, giảm 0,19% so với năm 1998. Năm 2000, tỷ lệ nợ quá hạn còn 1,35% tương đương với 546 tỷ đồng, giảm 0,45% so với năm 1999. Nhìn chung, tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm có chiều hướng giảm về con số tương đối nhưmg về con số tuyệt đối vẫn tăng lên cùng với sự tăng trưởng của dư nợ tín dụng. Đối với các khoản tín dụng trung – dài hạn cũng vậy. Tỷ lệ nợ quá hạn của các khoản vay trung – dài hạn qua các năm cũng có chiều hướng giảm. Năm 1998, tỷ lệ này là 1,74% tương đương với 188 tỷ đồng. Sang năm 1999, tỷ lệ nợ quá hạn giảm 0,39%, so với năm 1998, tỷ lệ này chỉ còn 1,35% tương đương với 189 tỷ đồng. Năm 2000, tỷ lệ nợ quá hạn các khoản trung – dài hạn là 1,17% tương đương với 285,4 tỷ đồng giảm 0,18% so với năm 1999. Vậy hiệu quả tín dụng nói chung và hiệu quả trung – dài hạn nói riêng mặc dù đã được cải thiện qua các năm nhưng mức độ giảm tỷ lệ này vẫn còn nhỏ, tỷ lệ nợ quá hạn năm 2000 là 1,35% và đối với các khoản vay trung – dài hạn là 1,17%. Điều này thể hiện rằng trong công tác tín dụng vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định cần có những biện pháp để khắc phục, để giảm tỷ lệ này xuống mức thấp nhất có thể. Song nhìn chung, đây là một mức nợ quá hạn thấp, thể hiện hiệu quả tín dụng rất tốt tại NHĐT&PTVN, đồng thời cũng một phần thể hiện được hướng phát triển bền vững của NH.  Vấn đề áp dụng công nghệ thông tin: Ngành tài chính Ngân Hàng 46
  47. Trong năm 2000, Ban công nghệ tin học định hướng các hoạt động nhằm vào việc tăng cường năng lực tin học hiện tại của toàn ngành nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển trước mắt (xây dưng và mở rộng năng lực hạ tầng cơ sở mạng, phần cứng, truyền thông; nghiên cứu và phát triển các phần mềm ứng dụng; đẩy mạnh công tác triển khai vả hỗ trợ vận hành các chương trình ứng dụng cho các chi nhánh) cũng như chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc phát triển hội nhập trong tương lai của NHĐT&PTVN (nghiên cứu nắm bắt các công nghệ mới, đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án hiện đại hoá) đó là: Xây dựng và mở rộng năng lực hạ tầng cơ sở của mạng máy tính truyền thông: tăng cường chất lượng đường truyền tin, triển khai mở rộng mạng lưới WAN cho 9 chi nhánh. Nghiên cứu phát triển các phần mềm ứng dụng, triển khai và vận hành hệ thống ứng dựng: xây dựng các giải pháp kỹ thuật của chương trình thanh toán trái phiếu, hoàn thiện thêm một bước chương trình NH điện tử, triển khai và duy trì có hiệu quả chương trình NH chỉ định thanh toán cho trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, hoàn thành chương trình thông tin tín dụng, hoàn thành các thủ tục nâng cấp chương trình thanh toán tập trung, triển khai chương trình T4. COM, hỗ trợ cá chi nhánh xử lý những vướng mắc trong việc sử dụng hệ thống giao dịch IBS. . . Nhằm chuẩn bị các điều kiện phát triển ứng dụng công nghệ tin học trong tương lai, đặc biệt là các triển khai ứng dụng từ năm 2001, các hướng nghiên cứu công nghệ mới đã được triển khai thực hiện: công nghệ bảo mật thanh toán điện tử, công nghệ Web Server và khả năng phát triển trên Internet/Intranet, nghiệp vụ NH bán lẻ. Trong năm 2000, hoàn thành một khối lượng rất lớn các công việc của dự án hiện đại hoá NH: hoàn thành bước đấu thầu và lượng thầu giai đoạn I và hiện đang bổ sung hoàn chỉnh hồ sơ mời thầu của giai đoạn II.  Thu nhập của NHĐT&PTVN trong những năm qua: Trước những khó khăn thử thách của nền kinh tế, nhưng cùng với tinh thần đoàn kết và trí tuệ tập thể, NHĐT&PTVN đã vượt lên trên tất cả để đạt Ngành tài chính Ngân Hàng 47
  48. dược những bước tăng trưởng đáng khích lệ. Và điều đó cũng được đền đáp xứng đáng thể hiện qua bảng hệ thống NH trong những năm qua: Bảng 5: Thu nhập của NHĐT&PTVN trong giai đoạn 1998- 2000 (Đơn vị: tỷ đồng) Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Số tiền Số tiền 99/98 Số tiền 00/99 Chỉ tiêu +- % +- % *Tổng thu nhập 662 801 139 21 961,2 160,2 20 *Thu nhập từ lãi ròng 553 634 81 14,65 88,7 253,6 40 -Thu lãi 1878 2652 774 41,21 3395 743 28 +Ngắn hạn 1009 1183 174 17,24 1504 321 27,13 +Trung- dài hạn 869 1469 600 69,04 1891 422 28,73 -Trả lãi 1325 2081 693 52,3 2507,4 426,4 20,49 *Lợi nhuận trước thuế 109 133 14 11,76 175 66 60,55 ( Nguồn : Báo cáo thường niên và báo cáo tổng kết giai đoạn 1998- 2000) Năm 1998, mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế có nhiều biến động theo chiều hướng tiêu cực nhưng thu nhập của toàn hệ thống NH đạt 662 tỷ đồng, trong đó thu nhập ròng từ lãi chiếm 553 tỷ đồng. Thu lãi từ nghiệp vụ cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ lệ lớn hơn cho vay trung- dài hạn. Năm 1999, mức thu nhập của NH đã lên tới 801 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 1998 trong đó thu nhập ròng từ lãi là634 tỷ đồng. Thu lãi từ hoạt động tín dụng ngắn hạn là 1.183 tỷ đồng, từ hoạt động tín dụng trung- dài hạn là1.469 tỷ đồng, trong năm nay tỷ lệ thu lãi từ hoạt động tín dụng trung- dài hạn đã cao hơn tỷ lệ thu lãi từ hoạt động tín dụng ngắn hạn. Năm 2000, tổng thu nhập của NH tăng lên 961,2 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 1999, trong đó thu nhập ròng từ lãi là 887,6 tỷ đồng. Thu lãi từ hoạt động tín dụng ngắn hạn 1.504 tỷ đồng, từ hoạt động tín dụng trung- dài hạn là 1.891 tỷ đồng, trong năm 2000 này tỷ lệ hoạt động tín dụng trung- dài hạn đã cao hơn hẳn tỷ lệ hoạt động tín dụng ngắn hạn. Ngành tài chính Ngân Hàng 48
  49. Qua đây, cho ta thấy NHĐT&PTVN đã có những bước chuyển dịch trong cơ cấu cho vay tín dụng, thể hiện vai trò là một NH cho vay chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư phát triển trung- dài hạn. 2. 3. Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn của NHĐT&PTVN đã thực hiện trong thời gian qua. Với phương châm cẩn trọng bền vững thể hiện trong mội chủ trương chính sách, chương trình, quy chế, quyết định xử lý nghiệp vụ của các cấp quản trị điều hành; mỗi cán bộ trong toàn hệ thống luôn ý thức việc tăng trưởng tín dụng cần phải đi đôi với việc nâng cao hiệu quả tín dụng. Quan điểm đó đã chi phối mọi khâu trong quy trình tín dụng từ thẩm định, xét duyệt ký hợp đồng, giải ngân cho đến thu nợ, các chi nhánh trong toàn hệ thống song song với việc tích cực tìm kiếm dự án, khoản vay để tăng trưởng tín dụng thì chỉ tiêu hiệu quả luôn được đưa lên hàng đầu bằng những biện pháp hữu hiệu và tích cực nhất như nâng cao và tăng cường hiệu quả công tác thẩm định để quyết định cho vay: tích cực thu nợ quá hạn, vì thế nợ quá hạn của toàn hệ thống đã giảm từ 1,36% trong năm 1999 xuống còn 1,2% trong năm 2000. Đây là một cố gắng nỗ lực của toàn hệ thống. Việc giảm nợ quá hạn có nhiều nguyên nhân, những nguyên nhân tích cực nhất vẫn là việc cán bộ tín dụng các chi nhánh trong toàn hệ thống đã nhận thức được trách nhiệm của mình đối với đồng vốn cho vay và đã cố gắng trong việc thu các khoản nợ khê đọng, khó đòi mà tiêu biểu là những chi nhánh Lai Châu, Hà Nội, Trà Vinh, Kon Tum. . . . 2. 4. Đánh giá hoạt động tín dụng trung- dài hạn tại NHĐT&PTVN Ngành tài chính Ngân Hàng 49
  50. 2. 4. 1. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến công tác tín dụng trung- dài hạn. Thuận lợi Các định hướng hoạt động kinh doanh và kế hoạch mục tiêu cụ thể về các mặt nghiệp vụ đã được Hội đồng quản trị và ban Tổng giám đốc điều hành hoạch định là cơ sở để các chi nhánh, các phòng có chương trình và biện pháp triển khai công tác tín dụng. Quyết định 13 TTg và nghị định 43/CP của Chính Phủ về tín dụng đầu tư là một mốc son lịch sử một lần nữa đã thúc đẩy NHĐT&PTVN chuyển mạnh mẽ sang phục vụ đầu tư phát triển theo hướng các dự án tự tìm kiếm, hoạt động theo yêu cầu đòi hỏi của cơ chế thị trường. Vì vậy cán bộ NH phải đổi mới cách nghĩ, cách làm phù hợp trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. 2.41.2. Những khó khăn Nền kinh tế nói chung đã có những khởi sắc, nhưng sản xuất kinh doanh của nhiều DN vẫn kém hiệu quả. Nhiều cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, chậm được bổ sung, đôi khi không phù hợp với thực tế gây ra nhiều chậm trễ trong triển khai thực hiện, có nhiều cơ chế chính sách của Nhà nước quá mở rộng cho cấp thực hiện cũng gây lúng túng vì chưa được đào tạo và chưa phù hợp với năng lực. Việc triển khai kế hoạch đầu tư của Nhà nước năm 2000 của Bộ, Ngành, Địa phương còn chậm. Sự phối hợp giữa quỹ hỗ trợ phát triển với các NHTM tuy có sự chỉ đạo của Chính Phủ xong chưa đưọc triển khai tích cực. Các DN lo ngại về biến động tỷ giá dẫn đến xu thế chỉ thích vay bằng VND, không muốn vay bằng ngoại tệ, đồng thời tập trung trả nợ sớm các khoản vay ngoại tệ mặc dù chưa đến hạn trả. Đặc biệt đối với các DN không có điều kiện tái tạo nguồn ngoại tệ. Các văn bản quy định về giao dịch đảm bảo, về đảm bảo tín dụng tuy đã có nhưng khó thực hiện. Một số tỉnh cơ quan công chứng không tiến hành công chứng tài sản cố định gây khó khăn trong việc thực hiện đảm bảo tiền vay đối với NH. Ngành tài chính Ngân Hàng 50
  51. Trong năm, thiên tai lũ lụt xảy ra liên tiếp gây nhiều thiệt hai về người và tài sản, đặc biệt khu vực miền Trung và đồng bằng Sông Cửu Long dẫn đến nhiều DN phải đình đốn sản xuất, gây thiệt hại về tài sản và vốn ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng và NH. Sự cạnh tranh dành dật khách hàng, thị phần, thị trường giữa các NH ngày một gay gắt và trở nên phức tạp đặc biệt đối với các dự án lớn, các khách hàng là tổng công ty Nhà nước. 2. 4. 2. Đánh giá Những kết quả đạt được: Trong những năm qua, trước tình hình kinh tế- xã hội của đất nước tăng trưởng và phát triển, những đổi mới trong cơ chế quản lý, điều hành đất nước. NHĐT&PT đã có những định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn phù hợp với chính sách tiền tệ của Đảng và Nhà nước, về mọi mặt kinh doanh của NH nói chung và công tác tín dụng trung- dài hạn nói riêng đáp ứng được yêu cầu bức thiết của nền kinh tế và bản thân NH. Bằng sự nỗ lực cuả toàn hệ thống, căn cứ vào mục tiêu và kế hoạch hoạt động kinh doanh nói chung và tăng trưởng tín dụng nói riêng, năm 2000 toàn hệ thống NHĐT&PTVN đã phấn dấu đạt mức dư nợ 36.000 tỷ đồng, đạt tỷ lệ tăng trưởng là 37% tăng hơn so với dự kiến ban đầu là 8%. Nợ quá hạn vẫn ở mức 2%. Các chỉ tiêu khác đều thực hiện ở mức đạt và vượt kế hoạch đã đặt ra. Để thức hiện tốt mục tiêu trên, ngay từ đầu năm toàn hệ thống đã tiến hành đánh giá lại thực trạng tín dụng của từng chi nhánh trong năm 1999, thấy rõ những khó khăn vướng mắc cần xử lý, xác định thế mạnh của từng địa phương phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn để có kế hoạch biện pháp đến với khách hàng ngay từ khi dự án còn ở trong ý tưởng. Tại hội sở chính NHTW, các phòng tín dụng đã chủ động xây dụng chương trình công tác theo hướng bám sát cơ sở, phối hợp chặt chẽ với chi nhánh nhằm huy động sức mạnh của toàn ngành giúp các chi nhánh vươn lên tạo một thế đứng vững chắc, trên địa bàn, nhờ vậy nên năm 2000 hoạt động tín dụng đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Ngành tài chính Ngân Hàng 51
  52. NHĐT&PTVN luôn luôn xác định nhiệm vụ của một NH quốc lập và huyết mạch của nền kinh tế, công cụ của NH quốc doanh Việt Nam góp phần tích cực kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, đã tổ chức vốn bằng nhiều hình thức sáng tạo để thu hút nguồn vốn nhàn dỗi trong dân cư, như phát hành kỳ phiếu bảo đảm giá trị theo vàng. Tiết kiệm cho vay xây dựng nhà ở, phát hành trái phiếu năm 1994, 1996, 1998, 1999, riêng năm 2000 đạt 4.000 tỷ đồng. Thực hiện phương châm vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng, thông qua các hình thức huy động nên đã nâng tổng số vốn huy động từ 300 tỷ đồng (1990) lên 29.800 tỷ đồng (2000), gấp 99 lần. Mặt khác NHĐT&PTVN thực hiện nghiêm chỉnh các quy luật về lãi suất, tỷ giá hối đoái. NHĐT&PTVN trong những năm đổi mới phát huy truyền thống xây dựng và trưởng thành đã góp phần đáng kể vào việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nước nhà. Từ năm 1990 đến nay, NHĐT&PTVN cung ứng cho nền kinh tế 232.000 tỷ đồng. NHĐT&PTVN đã cho vay hoặc làm đại lý thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành cho hàng nghìn dự án đầu tư phát triển như: 14 nhà máy dệt, 58 nhà máy xi măng, 34 mỏ than, 62 nhà máy gạch (trong đó 47 nhà máy gạch Tuynen). . . . Cũng từ năm 1990, NHĐT&PTVN đã thực hiện thành công thử nghiệm hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước trong Đổi mới cơ chế đầu tư phát triển, đó là mọi công trình, mọi dự án sản xuất kinh doanh có thu hồi vốn dưới mọi hình thức đều phải đi vay để đầu tư. Thực hiện cơ chế này giúp các DN có ý thức hơn khi sử dụng đồng vốn đầu tư của Nhà nước. Dư nợ đầu tư phát triển đến nay đạt 18.000 tỷ đồng (trên tổng dư nợ 33 500 tỷ đồng), gấp 40 lần so với năm 1990, gấp 4 lần so với năm 1994. Từ chỗ phần lớn cho vay các dự án Nhà nước hàng năm đã chuyển sang phục vụ đầu tư các dự án tự tìm kiếm theo các chương trình, mục tiêu, chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Nhà nước, của các Bộ, các Ngành, các địa phương. Bám sát các mục tiêu, triển khai kịp thời có kết quả chương trình, giải pháp phục vụ nền kinh tế trọng điểm, chương trình kích cầu qua đầu tư theo nghị quyết 07/CP của Chính Phủ, nhất là chương trình phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, chương trình phục vụ phát triển miền núi Tây Nguyên, các biện pháp phục vụ Ngành tài chính Ngân Hàng 52
  53. kịp thời các tỉnh bị thiên tai bão lụt. Đưa doanh số cho vay đầu tư phát triển năm sau gấp đôi năm trước. Riêng năm 2000, toàn ngành đã thực hiện có kết quả phục vụ đầu tư phát triển. Đã ký hợp đồng cho vay gần 7.000 tỷ đồng. Trong đó 47 dự án theo kế hoạch Nhà nước chuyển tiếp với tổng số tiền 1.400 tỷ đồng, 130 dự án tự tìm kiếm giá 3848 tỷ đồng và 100 triêu USD. Một lần nữa khẳng định chuyển biến nhận thức trong đổi mới. NH tìm đến khách hàng để phục vụ để phục vụ đầu tư phát triển là một sự chuyển biến về chất và chính sự chuyển biến đó đã đưa lại một kết quả đáng khích lệ. Cơ cấu tín dụng đầu tư phát triển chuyển dịch theo hướng tích cực, những dự án tự tìm kiếm tăng lên, chiếm 65% tổng giá trị hợp đồng. NHĐT&PTVN liên tục tăng trưởng với mức bình quân cao (28%/năm). Các chỉ tiêu cơ bản đều tăng trưởng như: tổng tài sản, huy động vốn tín dụng thị phần, kinh doanh có hiệu quả, có lãi an toàn trong hoạt động NH, chất lượng sản phẩm ngày một nâng cao theo đòi hỏi của cơ chế thị trường. Sự nghiệp đổi mới của NHĐT&PTVN bắt đầu từ những năm 1986 và thực sự đổi mới từ khi có hai Pháp lệnh về NH ra đời. Đặc biệt là giai đoạn 1995 đến nay, hoạt động NHĐT&PTVN được đổi mới về cơ bản và tăng trưởng liên tục. Đến nay những chỉ tiêu chủ yếu đạt được đó là: - Tổng tài sản đạt 47.500 tỷ đồng, gấp 40 lần so với năm 1990 và gấp 5,5 lần so với năm 1994 - Tổng dư nợ đạt 33.500 tỷ đồng, gấp 47 lần so với năm1990 và gấp 4 lần so với năm 1994 - Huy động vốn đạt 29.800 tỷ đồng, gấp 99 lần so với năm 1990 và gấp 9 lần so với năm 1995 - Nợ quá hạn luôn ở mức 2% so với tổng dư nợ. Kết quả kinh doanh có lãi, thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước đầy đủ, thu nhập và phúc lợi cho người lao động từng bước được cải thiện. Với phương châm “hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của NHĐT&PTVN”, NHĐT&PTVN luôn bám sát mục tiêu và lãnh đạo theo hướng cẩn trọng, bền vững thể hiện trong mọi chủ trương, chính Ngành tài chính Ngân Hàng 53
  54. sách, chương trình, quy chế, quyết định xử lý nghiệp vụ của các cấp quản trị, điều hành của mọi cán bộ chủ chốt. Vừa tăng trưởng, vừa chăm lo nâng cao hiệu quả tín dụng, vừa đảm bảo kế hoạch lợi nhuận, vừa thực hiện dự chi đầy đủ theo nguyên tắc cẩn trọng. Vừa thực hiện ké hoạch kinh doanh hàng năm, vừa tạo ra tiền đề cho năm sau. Đó là những việc đã làm chuẩn bị cho năm 2001- 2002. Từ những kết quả trên, NH đã giữ vững và nâng cao vị trí, vai trò của mình, đáp ứng niềm tin yêu và vai trò của Đảng, Nhà nước và nhân dân trao cho hệ thống NHĐT&PTVN. 2.4.2.1. Những mặt còn tồn tại: Bên cạnh những mặt đã đạt được như đã nêu ở trên, hoạt động tín dụng tại các chi nhánh do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan vẫn còn bộc lộ những mặt yếu kém, khó khăn,vướng mắc cần khắc phục nhỡƠÁ G ¿  ~O Ngành tài chính Ngân Hàng 54
  55. bjbjŽÙŽÙ 4ỵ ỡ³ ỡ³ ậJ ô  ÿÿ ÿÿ ÿÿ ] ỵ ỵ ỵ ỵ      F F F F 8 ~ 4 ỡƠÁ G ¿  ~O Ngành tài chính Ngân Hàng 55
  56. bjbjŽÙŽÙ 4ỵ ỡ³ ỡ³ ậJ ô  ÿÿ ÿÿ ÿÿ ] ỵ ỵ ỵ ỵ      F F F F 8 ~ 4 cá xa bờ đến nay việc thu nợ vẫn gặp rất nhiều khó khăn do việc đánh bắt hải sản xa bờ với chi phí cao, giá bán sản phẩm giảm thấp, ý thức trả nợ của khách hàng kém Nợ quá hạn đối với các đối tượng này có chiều hướng tăng dần trong năm qua và tiếp tục có chiều hướng gia tăng tại các chi nhánh trong năm tới. - Tăng trưởng tín dụng ở các chi nhánh chưa đồng đều, ngoài các nguyên nhân khách quan do các DN trong nước hoạt động kém hiệu quả, kinh doanh thua lỗ chưa được các cấp chủ quản, các ngành quan tâm chỉ đạo tháo gỡ thì nguyên nhân chủ quan là một số các chi nhánh chưa thực sự tích cực tìm kiếm, thu hút khách hàng; còn thụ động trờ khách hàng tìm đến. Công tác tiếp thị giới thiệu sản phẩm NH đến DN trên địa bàn chưa tích cực trong khi việc tìm kiếm khách hàng tốt, dự án tốt khoản vay tốt trong thời điểm hiện nay là thực sự khó khăn; nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các NH trong việc giành giật các khách hàng là tổng công ty, trong khi các DN này cùng một lúc muốn quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng. - Nhiều chi nhánh vẫn chưa chủ động khai thác tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, chưa đẩy mạnh hoạt động tín dụng vào các lĩnh vực thuê mua, xuất khẩu hàng hoá dịch vụ, vì vậy tuy các hoạt động tín dụng đã tăng lên một cách đáng kể nhưng thị phần tín dụng phục vụ xuất khẩu vẫn chưa được mở rộng thêm nhiều, đang cố gắng giữ các khách hàng truyền thống là chính. Các hoạt động tiền gửi còn chưa tương đương với tiền vay, cho vay khép kín và chọn gói chưa được nhiều - Các hoạt động dịch vụ cung cấp cho khách hàng chưa đầy đủ, kịp thời và đầy đủ của một NH tiên tiến hiện đại. Nhiều nghiệp vụ còn chưa hoàn Ngành tài chính Ngân Hàng 56