Đề tài Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông

doc 65 trang nguyendu 3940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_duy_tri_va_mo_rong_thi_truong_tieu_thu_san_pham_o_con.doc

Nội dung text: Đề tài Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông

  1. Mở đầu Trong nền kinh tế thị trường bất cứ một doanh nghiệp công nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường, nhằm trả lời được 3 câu hỏi cơ bản "Cái gì, như thế nào, cho ai". Thị trường vừa được coi là điểm xuất phát cũng vừa là điểm kết thúc của quá trình sản xuất kinh doanh, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Có thể nói một doanh nghiệp chỉ làm ăn có hiệu quả khi nó xuất phát từ thị trường, tận dụng một cách năng động, linh hoạt những cơ hội trên thị trường. Hay nói cách khác, thông qua thị trường, sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp được tiêu thụ, giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra một cách liên tục trên cơ sở thực hiện được các mục tiêu đã đề ra. Vì thế duy trì và mở rộng thị trường được coi là một trong những nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của doanh nghiệp, đặc biệt trong quá trình hội nhập của nền kinh tế đất nước với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên hoạt động trong cơ chế thị trường cũng đồng nghĩa với việc phải luôn luôn đối mặt với các rủi ro thách thức trong quá trình cạnh tranh khốc liệt. Để phát triển thị trường một cách có hiệu quả, trước hết doanh nghiệp cần nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng nhận thức về thị trường. Tiếp đó doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu môi trường và khách hàng, sử dụng các thông tin, dữ liệu đó để phán đoán thị trường lựa chọn mục tiêu thị trường, lập kế hoạch chiến lược kinh doanh, kế hoạch duy trì thị trường cũ, chiếm lĩnh thị trường mới. Sau cùng là triển khai thực hiện kế hoạch thông qua 4 công cụ (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến hỗn hợp) . Trong tình hình thực tế hiện nay ngành sản xuất bóng đèn, phích nước ở Việt Nam đang phát triển nhanh chóng và thu được nhiều thành tựu đáng kể trên cả thị trường trong và ngoài nước. Hoà chung trong trào lưu đó, Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông (với chất lượng hàng đầu của Việt Nam) 1
  2. cũng là một công ty sản xuất hiệu quả càng ngày càng có nhiều khách hàng ưa chuộng tiêu dùng sản phẩm của Công ty. Đây là một thế mạnh lớn nhưng bên cạnh đó Công ty đã gặp phải không ít khó khăn. Thiết nghĩ cần ngay từ bây giờ phải có phương hướng phát triển đúng đắn. Xuất phát từ vai trò của thị trường và tình hình thực tế của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông, em xin chọn đề tài "Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông". Đề tài gồm 3 phần lớn sau: - Phần thứ nhất: Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường - Phần thứ hai: Thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông - Phần thứ ba: Một số biện pháp cơ bản nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông 2
  3. Phần thứ nhất Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường I. Một số vấn đề cơ bản về thị trường 1) Khái niệm: Thị trường ra đời gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, nó là môi trường để tiến hành các hoạt động giao dịch mang tính chất thương mại của mọi doanh nghiệp công nghiệp. Trong một xã hội phát triển, thị trường không nhất thiết chỉ là địa điểm cụ thể gặp gỡ trực tiếp giữa người mua và người bán mà doanh nghiệp và khách hàng có thể chỉ giao dịch, thoả thuận với nhau thông qua các phương tiện thông tin viễn thông hiện đại. Cùng với sự phát triển sản xuất hàng hoá, khái niệm thị trường ngày càng trở lên phong phú và đa dạng. Có một số khái niệm phổ biến về thị trường như sau: 1.1. Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là nơi gặp gỡ để tiến hành hoạt động mua bán giữa người mua và người bán. 1.2. Thị trường là biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của doanh nghiệp về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người lao động về việc làm bao lâu, cho ai đều được điều chỉnh bằng giá cả. 1.3. Thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu, trong đó những người mua và người bán bình đẳng cùng cạnh tranh. Số lượng người mua và người bán nhiều hay ít phản ánh qui mô của thị trường lớn và nhỏ. Việc xác định nên mua hay bán hàng hoá và dịch vụ với khối lượng và giá cả bao nhiêu do quan hệ cung cầu quyết định. Từ đó ta thấy thị trường còn là nơi thực hiện sự kết hợp giữa 2 khâu sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. 1.4. Thị trường là phạm trù riêng của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động cơ bản của thị trường được thể hiện qua 3 yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với 3
  4. nhau: Nhu cầu hàng hoá dịch vụ, cung ứng hàng hoá dịch vụ và giá cả hàng hoá dịch vụ. 1.5. Khái niệm thị trường hoàn toàn không tách rời khái niệm phân công lao động xã hội. Các Mác đã nhận định "Hễ ở đâu và khi nào có sự phân công lao động xã hội và có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy sẽ có thị trường. Thị trường chẳng qua là sự biểu hiện của phân công lao động xã hội và do đó có thể phát triển vô cùng tận". 1.6. Thị trường về vấn đề Marketing được hiểu là bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó. Tóm lại thị trường được hiểu là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một loạt hàng hoá, dịch vụ nào đó hay cho một đối tượng khác có giá trị. Ví dụ như thị trường sức lao động bao gồm những người muốn đem sức lao động của mình để đổi lấy tiền công hoặc hàng hoá. Để công việc trao đổi trên được thuận lợi, dần dần đã xuất hiện nhiều những tổ chức kiểu văn phòng, trung tâm giới thiệu xúc tiến việc làm cho người lao động. Cũng tương tự như thế thị trường tiền tệ đem lại khả năng vay mượn, cho vay tích luỹ tiền và bảo đảm an toàn cho các nhu cầu tài chính của các tổ chức, giúp họ có thể hoạt động liên tục được. Như vậy điểm lợi ích của người mua và người bán hay chính là giá cả được hình thành trên cơ sở thoả thuận và nhân nhượng lẫn nhau giữa cung và cầu. 2. Phân loại và phân đoạn thị trường 2.1. Phân loại thị trường Một trong những điều kiện cơ bản để sản xuất kinh doanh có hiệu quả là doanh nghiệp phải hiểu biết về thị trường và việc nghiên cứu phân loại thị trường là rất cần thiết. Có 4 cách phân loại thị trường: * Phân loại theo phạm vi lãnh thổ + Thị trường địa phương: tập hợp khách hàng trong phạm vi địa phương 4
  5. nơi thuộc địa phận phân bổ của doanh nghiệp. + Thị trường vùng: tập hợp những khách hàng ở một vùng địa lý nhất định. Vùng này được hiểu như một khu vực địa lý rộng lớn có sự đồng nhất về kinh tế - xã hội. + Thị trường toàn quốc: hàng hoá và dịch vụ được lưu thông trên tất cả các vùng, các địa phương của một nước. + Thị trường quốc tế: là nơi diễn ra các giao dịch buôn bán hàng hoá và dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau. * Phân loại theo mối quan hệ giữa những người mua và người bán. + Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: trên thị trường có nhiều người mua và người bán cùng một loại hàng hoá, dịch vụ. Hàng hoá đó mang tính đồng nhất và giá cả là do thị trường quyết định. + Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Trên thị trường có nhiều người mua và người bán cùng một loại hàng hoá, sản phẩm nhưng chúng không đồng nhất. Điều này có nghĩa loại hàng hoá sản phẩm đó có nhiều kiểu dáng, mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu kích thước khác nhau. Giá cả hàng hoá được ấn định một cách linh hoạt theo tình hình tiêu thụ trên thị trường. + Thị trường độc quyền: trên thị trường chỉ có một hoặc một nhóm người liên kết với nhau cùng sản xuất ra một loại hàng hoá. Họ có thể kiểm soát hoàn toàn số lượng dự định bán ra thị trường cũng như giá cả của chúng. * Phân loại theo mục đích sử dụng của hàng hoá: + Thị trường tư liệu sản xuất: đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị trường là các loại tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu, năng lượng, động lực, máy móc thiết bị. + Thị trường tư liệu tiêu dùng: đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị trường là các vật phẩm tiêu dùng phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của dân cư như đồ dùng dân dụng, quần áo, các loại thức ăn chế biến. 5
  6. * Phân loại theo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp: + Thị trường đầu vào: là nơi doanh nghiệp thực hiện các giao dịch nhằm mua các yếu tố đầu vào (thị trường lao động, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường khoa học công nghệ, thị trường bất động sản ). + Thị trường đầu ra: là nơi doanh nghiệp tiến hành các giao dịch nhằm bán các loại sản phẩm đầu ra của mình. Tuỳ theo tính chất sử dụng sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp mà thị trường đầu ra là thị trường tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng. 2.2. Phân đoạn thị trường: Hiện nay, dân số trên thế giới đã đạt tới con số trên 6 tỉ người, một con số khổng lồ và được phân bố trên phạm vi rộng với những sở thích thói quen khác nhau. Mọi doanh nghiệp đều nhận thức được rằng làm cho tất cả mọi người ưa thích sản phẩm của mình ngay là một điều không tưởng và không thể được. Trước hết họ cần phải khôn khéo tập trung vào phục vụ một bộ phận nhất định của thị trường, tìm mọi cách hấp dẫn và chinh phục nó. Từ đó xuất hiện khái niệm "phân đoạn thị trường". Nó được hiểu là việc phân chia thị trường thành những nhóm người mua hàng khác nhau theo độ tuổi, giới tính, mức thu nhập, tính cách, thói quen, trình độ học vấn Không hề có một công thức phân đoạn thị trường thống nhất nào cho tất cả các doanh nghiệp mà họ buộc phải thử các phương án phân đoạn khác nhau trên cơ sở kết hợp những tham biến khác nhau theo ý tưởng của riêng mình. Tuy nhiên có thể tóm lại 4 nguyên tắc phân đoạn thị trường tiêu dùng như sau: * Nguyên tắc địa lý: nguyên tắc này đòi hỏi chia cắt thị trường thành các khu vực địa lý khác nhau như quốc gia, tỉnh, thành phố, xã, miền ; Thành các khu vực có mật độ dân số khác nhau như thành thị, nông thôn; Thành các khu vực có trình độ dân trí khác nhau như miền núi, đồng bằng * Nguyên tắc nhân khẩu học: là phân chia thị trường thành những nhóm căn cứ vào biến nhân khẩu học như giới tính, mức thu nhập, tuổi tác, qui mô 6
  7. gia đình, giai đoạn của chu kỳ gia đình, loại nghề nghiệp, trình độ học vấn, tôn giáo, tín ngưỡng và dân tộc. Đây là các biến phổ biến nhất làm cơ sở để phân biệt các nhóm người tiêu dùng. Điều này có thể lý giải bởi sở thích, mong muốn hay nhu cầu của khách hàng có liên quan chặt chẽ tới đặc điểm về nhân khẩu học. Hơn nữa các biến này dễ đo lường, đơn giản và dễ hiểu hơn đa số các biến khác. + Biến giới tính đã được áp dụng từ lâu trong việc phân đoạn các thị trường thời trang quần áo, mỹ phẩm, sách báo, đồ dùng dân dụng ở đây có sự khác biệt khá rõ nét trong thị hiếu tiêu dùng giữa nam và nữ. + Tuổi tác khác nhau cũng dẫn đến những nhu cầu khác nhau. Ví dụ thị trường kem đánh răng đối với trẻ em: cần chú ý đến một số tiêu thức như độ ngọt cao, có thể nuốt được và chống sâu răng; đối với thanh niên cần có nhu cầu về làm bóng, trắng răng và hương thơm; đối với người già nổi bật là nhu cầu làm cứng và chắc răng. + Cuối cùng việc doanh nghiệp có tiêu thụ được sản phẩm của mình hay không lại phụ thuộc vào khả năng thanh toán của khách hàng có nhu cầu. Mức thu nhập của người dân cao thì khả năng thanh toán mới lớn. Nhiều doanh nghiệp đã áp dụng phương pháp giá phân biệt cho các tầng lớp lao động trong xã hội và đã thu được nhiều thành công. * Nguyên tắc hành vi: Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc hành vi là việc phân chia người mua thành nhiều nhóm khác nhau theo các biến lý do mua hàng, lợi ích mong muốn thu được, tình trạng người sử dụng cường độ tiêu dùng, mức độ trung thành, mức độ sẵn sàng chấp nhận hàng và thái độ đối với món hàng đó. Có nguyên tắc này bởi vì người tiêu dùng quyết định mua hàng hoá nhằm thoả mãn một lợi ích đang mong đợi nào đó. Nếu sản phẩm đủ sức hấp dẫn, họ sẽ trở thành khách hàng thường xuyên và trung thành của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì điều cần thiết nhất không phải là đẩy mạnh tiêu thụ mà phải nhận biết, hiểu kỹ lưỡng hành vi của khách hàng để đáp ứng đúng thị hiếu của từng nhóm khách 7
  8. hàng một và từ đó sản phẩm sẽ tự được tiêu thụ trên thị trường. * Nguyên tắc tâm lý: Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc tâm lý là việc phân chia người mua thành những nhóm theo đặc điểm giai tầng xã hội, lối sống và đặc tính nhân cách. Nguồn gốc giai tầng có ảnh hưởng mạnh đến sở thích của con người, đặc biệt là đối với đồ dùng dân dụng, quần áo, thói quen nghỉ ngơi, đi du lịch, đọc sách báo Những người thuộc tầng lớp trung lưu thường đi tìm những sản phẩm hàng đầu, hàm chứa nhiều giá trị thẩm mỹ độc đáo và thậm chí cả cách chơi chữ, còn những người thuộc tầng lớp hạ lưu lại vừa lòng với sản phẩm thông thường nhất, phù hợp với túi tiền của mình. Ngoài ra phong cách hay lối sống thường ngày cũng được thể hiện khá rõ trong cách tiêu dùng của người dân. Những người "cổ hủ" thường thích những đồ dùng, kiểu cách giản dị, tiện lợi, hay những người năng động, cởi mở lại là những người thích các loại xe môtô dáng thể thao khoẻ mạnh Các doanh nghiệp khi thiết kế sản xuất hàng hoá, dịch vụ đưa vào những tính chất và đặc tính làm vừa lòng khách hàng. II. Vai trò và chức năng của thị trường 1. Vai trò của thị trường Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp góp phần vào việc thoả mãn các nhu cầu của thị trường, kích thích sự ra đời của các nhu cầu mới và nâng cao chất lượng nhu cầu Tuy nhiên trong cơ chế thị trường, thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường vừa là động lực, vừa là điều kiện và vừa là thước đo kết quả, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. * Là động lực: thị trường đặt ra các nhu cầu tiêu dùng, buộc các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại được phải luôn nắm bắt các nhu cầu đó, sản xuất kinh doanh theo các nhu cầu đó và định hướng mục tiêu hoạt động cũng phải xuất phát từ những nhu cầu đó. Ngày nay mức sống của người dân được tăng lên rõ rệt do đó khả năng thanh toán của họ cũng cao hơn, nhu cầu nhiều hơn nhưng lại khắt khe hơn. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh thay nhau 8
  9. ra đời cạnh tranh dành giật khách hàng một cách gay gắt bởi vì thị trường có chấp nhận thì doanh nghiệp mới tồn tại được nếu ngược lại sẽ bị phá sản. Vậy thị trường là động lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Là điều kiện: thị trường bảo đảm cung ứng có hiệu quả các yếu tố cần thiết để doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình. Nếu doanh nghiệp có nhu cầu về một loại yếu tố sản xuất nào đó thì tình hình cung ứng trên thị trường sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tiêu cực hoặc tích cực tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy thị trường là điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Là thước đo: thị trường cũng kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của các phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các trường hợp khó khăn đòi hỏi phải có sự tính toán cân nhắc trước khi ra quyết định. Mỗi một quyết định đều ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp. Thị trường có chấp nhận, khách hàng có ưa chuộng sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp thì mới chứng minh được phương án kinh doanh đó có hiệu quả hay không hay thất bại. Vậy thị trường là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy thông qua thị trường (mà trước hết là hệ thống giá cả) các doanh nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực. Trên thị trường, giá cả hàng hoá và dịch vụ, giá cả với yếu tố đầu vào (như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, đất đai, lao động, vốn ) luôn luôn biến động nếu phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra hàng hoá và dịch vụ đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường và xã hội. 2. Chức năng của thị trường 2.1. Chức năng thừa nhận: Nếu sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra tiêu thụ được trên thị trường, tức là khi đó hàng hoá của doanh nghiệp đã được thị trường chấp nhận, lúc ấy sẽ 9
  10. tồn tại một số lượng khách hàng nhất định có nhu cầu và sẵn sàng trả tiền để có hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu đó và quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp, nhờ thế mà cũng được thực hiện. Thị trường thừa nhận tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ đưa ra giao dịch, tức thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng của chúng chuyển giá trị cá biệt thành giá trị xã hội. Sự phân phối và phân phối lại các nguồn lực nói lên sự thừa nhận của thị trường. Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải tìm hiểu kỹ thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường. Xác định cho được thị trường cần gì với khối lượng bao nhiêu. 2.2. Chức năng thực hiện của thị trường: Thông qua các hoạt động trao đổi trên thị trường, người bán và người mua thực hiện được các mục tiêu của mình. Người bán nhận tiền và chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua. Đổi lại, người mua trả tiền cho người bán để có được giá trị sử dụng của hàng hoá. Tuy nhiên sự thực hiện về giá trị chỉ xẩy ra khi thị trường đã chấp nhận giá trị sử dụng của hàng hoá. Do đó khi sản xuất hàng hoá và dịch vụ doanh nghiệp không chỉ tìm mọi cách để giảm thiểu các chi phí mà còn phải chú ý xem lợi ích đem lại từ sản phẩm có phù hợp với nhu cầu thị trường hay không. Như vậy thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các hàng hoá và dịch vụ hình thành nên các giá trị trao đổi của mình để làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực. 2.3. Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường Cơ chế thị trường điều tiết việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tức là kích thích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh vào các lĩnh vực có mức lợi nhuận hấp dẫn, có tỉ suất lợi nhuận cao, tạo ra sự di chuyển tư liệu sản xuất từ ngành này sang ngành khác. Thể hiện rõ nhất của chức năng điều tiết là sự đào thải trong quy luật cạnh tranh. Doanh nghiệp nào, bằng chính nội lực của mình, có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường phản ứng một cách kịp thời, linh hoạt sáng tạo với các biến động của thị trường thì sẽ tồn tại và phát triển hoặc ngược lại. Ngoài ra thị trường còn hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng theo 10
  11. mục đích có lợi nhất nguồn nhân sách của mình. Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm được chu kì sống của sản phẩm, để xem sản phẩm đang ở giai đoạn nào, tức là xem xét mức độ hấp dẫn của thị trường đến đâu đề từ đó có các chính sách phù hợp. 2.4. Chức năng thông tin của thị trường Chức năng này thể hiện ở chỗ, thị trường chỉ cho người sản xuất biết nên sản xuất hàng hoá và dịch vụ nào, bằng cách nào và khối lượng là bao nhiêu để đưa vào thị trường tại thời điểm nào là thích hợp và có lợi nhất, chỉ cho người tiêu dùng biết nên mua những loại hàng hoá và dịch vụ gì tại thời điểm nào là có lợi cho mình. Thị trường sẽ cung cấp cho người sản xuất và người tiêu dùng những thông tin sau: Tổng số cung, tổng số cầu, cơ cấu của cung và cầu, quan hệ cung cầu đối với từng loại hàng hoá và dịch vụ, các điều kiện tìm kiếm hàng hoá và dịch vụ, các đơn vị sản xuất và phân phối Đây là những thông tin quan trọng cho cả người sản xuất và người tiêu dùng để đề ra các quyết định thích hợp đem lại lợi ích hiệu quả cho họ. Để có được những thông tin này doanh nghiệp phải tổ chức tốt hệ thống thông tin của mình bao gồm các ngân hàng thống kê và ngân hàng mô hình cũng như các phương pháp thu thập và xử lý thông tin nhằm cung cấp những thông tin về thị trường cho lãnh đạo doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch chiến lược, kế hoạch phát triển thị trường. III. Các nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường 1. Các yếu tố cấu thành nên thị trường 1.1. Cầu thị trường Cầu về một loại hàng hoá dịch vụ là khối lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người mua sẵn sàng mua và có khả năng thanh toán ở mỗi mức giá nhất định với các điều kiện khác không thay đổi. Trong thực tế cuộc sống chúng ta hiểu rằng nhiều người thích mua hàng 11
  12. hoá là do sự tác động của nhiều yếu tố, thể hiện chung qua mức độ hấp dẫn của hàng hoá. Muốn tạo ra sự hấp dẫn hàng hoá của doanh nghiệp mình so với hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh khác thì doanh nghiệp cần tạo ra cho một khả năng thích ứng lớn hơn với nhu cầu. Vì vậy nghiên cứu để nhận dạng và hiểu biết cặn kẽ nhu cầu của khách hàng trở thành vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp trong đó phải đặc biệt chú ý đến những nhu cầu có khả năng thanh toán. Doanh nghiệp có thể chế tạo ra nhiều loại hàng hoá với những đặc tính cực kỳ hoàn mỹ, rút cục họ cũng chẳng bán được là bao nhiêu, nếu như không bám sát nhu cầu thị trường. Hơn nữa nếu chi phí sản xuất của nó lại quá lớn, giá cao quá thì người mua không thể mua được mặc dù người ta rất thích dùng nó. Do vậy mong muốn hay nhu cầu tiềm năng không thể biến thành nhu cầu hiện thực, thành sức mua đối với hàng hoá. Chừng nào nhà kinh doanh đoán biết được khách hàng sẽ cần loại hàng hoá nào với những đặc điểm gì và đặc trưng quan trọng nhất? Để tạo ra nó người ta phải tổn phí bao nhiêu, tương ứng với nó là mức giá nào? thì khi đó họ mới thực sự nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng và mới hy vọng đem lại hiệu quả trong kinh doanh. 2.2. Cung của thị trường Cung của một loại hàng hoá hoặc dịch vụ là khối lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán sẵn sàng bán ở một mức giá nhất định với các điều kiện khác không thay đổi. Trên thị trường chỉ có những loại hàng hoá có nhu cầu mới được cung ứng và phải chú ý hàng hoá được cung ứng không phải là bằng bất cứ giá nào mà phải căn cứ vào khả năng sẵn sàng bán. Cần phải nhận thấy rằng điều mấu chốt mà người tiêu dùng quan tâm khi mua một loại hàng hoá hay dịch vụ chính là những lợi ích do việc tiêu dùng hàng hoá dịch vụ đó đem lại. Như vậy những hàng hoá và dịch vụ mà người kinh doanh đem cung ứng chỉ là phương tiện truyền tải những lợi ích mà người tiêu dùng chờ đợi. Do vậy nhiệm vụ đặt ra cho các nhà kinh doanh là phải xác định nhu cầu, lợi ích của người tiêu dùng để từ đó sản xuất và cung ứng những hàng hoá và dịch vụ để có thể bảo đảm tốt nhất những lợi ích cho người tiêu dùng. 12
  13. 2.3. Giá cả thị trường Về mặt giá trị, giá cả là biểu hiện bằng tiền mà người mua phải trả cho người bán để có được giá trị sử dụng của một loại hàng hoá dịch vụ nào đó. Giá cả trên thị trường được xác định bằng sự gặp gỡ giữa cung và cầu. Nó phản ánh việc đáp ứng nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ, luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các nguồn lực có hạn của xã hội và phải được trả giá. Đối với người tiêu dùng giá hàng hoá luôn được coi là yếu tố đầu tiên để họ đánh giá phần lợi thu được và chi phí phải bỏ ra để sở hữu và tiêu dùng hàng hoá. Vì vậy những quyết định về giá luôn giữ vai trò quan trọng và phức tạp nhất mà doanh nghiệp phải đối mặt. Thông thường thị trường xác định giá trần của hàng hoá, mặc dù vậy trong một số thị trường doanh nghiệp có thể thay đổi giá cả, khi đó doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa giá cả về nhu cầu, tốc độ co giãn của cầu đối với giá. 2. Các nhân tố ảnh hưởng 2.1. Vĩ mô * Nhân khẩu học Nhân khẩu học nghiên cứu dân cư theo các quan điểm con người, qui mô và tốc độ tăng dân số, mật độ, sự di chuyển dân cư, trình độ học vấn - Thị trường vốn do con người hợp thành. Mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh cũng xuất phát từ nhu cầu của con người, nhằm phục vụ con người và hướng tới con người. Qui mô và tốc độ tăng dân số phản ánh trực tiếp qui mô nhu cầu khái quát trong hiện tại và tương lai và do đó nó cũng thể hiện sự phát triển hay suy thoái của thị trường. Dân số tăng kéo theo nhu cầu của con người cũng tăng và thị trường cũng tăng với sức mua khá lớn, nhưng nếu sức mua giảm sút thì thị trường sẽ bị thu hẹp. Sự gia tăng số người có học vấn làm sinh động thêm thị trường hàng hoá chất lượng cao. Sự thay đổi về cơ cấu tuổi tác trong dân cư sẽ dẫn tới tình trạng thay đổi cơ cấu khách hàng tiềm năng theo độ tuổi. Những thay đổi này 13
  14. sẽ tác động quan trọng đến cơ cấu tiêu dùng và nhu cầu về các loại hàng hoá. * Kinh tế Môi trường kinh tế trước hết được phản ánh qua tình hình phát triển và tốc độ tăng trưởng kinh tế chung về cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng. Tình hình đó có thể tạo nên tính hấp dẫn về thị trường và sức mua khác nhau đối với các thị trường khác nhau. Bởi vì ngoài bản thân con người ra thì sức mua của họ cũng rất quan trọng đối với các thị trường. Nói chung sức mua phụ thuộc vào mức thu nhập hiện tại, giá cả hàng hoá số tiền tiết kiệm, khả năng vay nợ của khách hàng, tỉ lệ thất nghiệp, lãi suất vay tín dụng. Môi trường kinh tế cũng ảnh hưởng tới cơ cấu chỉ tiêu của người tiêu dùng. Những người thuộc tầng lớp thượng lưu thường là thị trường tiêu thụ của các mặt hàng xa xỉ và ngược lại tầng lớp hạ lưu trong xã hội buộc phải tính toán từng xu ngay cả khi mua sắm thứ không thể dùng. Trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng thì cơ hội phát triển thị trường sẽ thuận lợi hơn rất nhiều so với thời kỳ nền kinh tế suy thoái. * Tự nhiên Môi trường tự nhiên bao gồm hệ thống các yếu tố tự nhiên (khí hậu, đất đai, nguyên vật liệu, năng lượng dùng cho sản xuất ) ảnh hưởng nhiều mặt tới các nguồn lực đầu vào cần thiết cho các doanh nghiệp và do vậy chúng ta có thể gây biến động lớn trên thị trường. Sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu thô, sự gia tăng chi phí năng lượng, sự cạn kiệt những nguyên liệu không phục hồi như dầu mỏ, than đá, các loại khoáng sản khác ngày càng trở nên nghiêm trọng. Xu thế chung đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm kiếm, nghiên cứu sử dụng các nguồn năng lượng thay thế. Hoạt động công nghiệp hầu như bao giờ cũng gây tổn hại cho môi trường. Các nhà chức trách đang lên tiếng kêu gọi mọi người cùng suy nghĩ về cách loại trừ các chất thải độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất và cả trong quá trình sử dụng sản phẩm. Ngày nay ý thức bảo vệ môi trường của người dân đang lên cao nên đòi hỏi các doanh nghiệp phải tạo ra những sản 14
  15. phẩm có độ an toàn cao về sinh học và môi trường, mặc dù giá cả có tăng lên nhưng người tiêu dùng vẫn chấp nhận, thị trường về các sản phẩm mạnh nhiều chất độc hại tới môi trường qua đó thu hẹp lại và thị trường công nghệ xử lý các chất thải được mở rộng hơn. * Công nghệ kỹ thuật Khoa học kỹ thuật và khoa học ứng dụng là lực lượng mang đầy kịch tính. Nó chứa đựng trong đó các bí quyết dẫn đến thành công cho các doanh nghiệp. Hệ thống khoa học công nghệ đã sinh ra cả những điều kì diệu lẫn những nỗi khủng khiếp cho nhân loại. Môi trường công nghệ gây tác động mạnh mẽ tới sức sáng tạo sản phẩm và cơ hội tìm kiếm thị trường mới. Sự cạnh tranh về kỹ thuật công nghệ mới không chỉ cho phép các doanh nghiệp giành thắng lợi mà còn thay đổi bản chất của quá trình cạnh tranh bởi vì chúng có ảnh hưởng lớn lao tới chi phí sản xuất và năng suất lao động. Mỗi khi trên thị trường xuất hiện một công nghệ mới sẽ làm mất đi vị trí vốn có của kỹ thuật cũ, máy photocopy đã gây thiệt hại cho nền sản xuất giấy than, còn vô tuyến truyền hình lại gây hại cho ngành chiếu phim Ngày nay khoa học kỹ thuật đang không ngừng tiến bộ và làm xuất hiện thêm những khả năng vô tận như thị trường năng lượng mặt trời, thị trường máy vi tính các loại, thị trường thuốc và dụng cụ y tế với tính năng thần kỳ chữa các loại bệnh hiểm nghèo như ung thư, gan, phổi, thay đổi gen ADN Do vậy các doanh nghiệp cần phải nắm bắt và hiểu rõ được bản chất của những thay đổi trong môi trường công nghệ kỹ thuật cùng nhiều phương thức khác nhau mà một công nghệ mới có thể phục vụ cho nhu cầu của con người. Mặt khác phải cảnh giác, kịp thời phát hiện các khả năng xấu có thể gây ra thiệt hại tới người tiêu dùng. * Chính trị Môi trường chính trị bao gồm hệ thống luật pháp, các công cụ chính sách của nhà nước, cũng như cơ chế điều hành quản lý của chính phủ. Tất cả đều tác động đến thị trường thông qua sự khuyến khích hay hạn chế các doanh 15
  16. nghiệp tham gia vào thị trường. Luật pháp ra đời là để điều tiết hoạt động kinh doanh. Nó bảo vệ lợi ích cho doanh nghiệp trước sự cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ cho người tiêu dùng trước những việc làm gian dối như sản xuất hàng hoá kém chất lượng, quảng cáo không đúng sự thật, đánh lừa khách hàng bằng thủ đoạn bao bì nhãn gói và mức giá cả, bảo vệ lợi ích tối cao của xã hội chống lại sự lộng hành của các nhà sản xuất. Môi trường chính trị ảnh hưởng rất lớn tới thị trường. Chẳng hạn như việc điều hành xuất nhập khẩu của chính phủ, nếu số lượng, giá cả, thời điểm hàng nhập khẩu không được điều hành tốt đều có thể làm cho thị trường trong nước biến động. * Văn hoá xã hội Môi trường văn hoá bao gồm các nhân tố đa dạng như phong tục tập quán, các giá trị văn hoá truyền thống, thái độ, thị hiếu, thói quen, đinh hướng tiêu dùng của mỗi dân tộc. Những giá trị văn hoá đôi khi trở thành "Hàng rào gai góc" đối với việc thâm nhập thị trường của doanh nghiệp. Các giá trị văn hoá truyền thống khó thay đổi tác động mạnh mẽ tới thái độ, hành vi mua và tiêu dùng hàng hoá của cá nhân, nhóm người. Tuy nhiên những giá trị văn hoá mang tính thứ phát thì dễ thay đổi hơn và sẽ tạo ra cơ hội thị trường hay khuynh hướng tiêu dùng mới. Do vậy các doanh nghiệp cần phải chú ý thích đáng tới yếu tố văn hoá trước khi tiến hành xâm nhập hay phát triển thị trường nào đó. Ngày nay đặc trưng môi trường văn hoá ở Việt Nam đang thay đổi theo xu hướng tôn trọng các giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời mong muốn thoả mãn nhu cầu một cách nhanh chóng và có định hướng trí tuệ trong các sản phẩm tiêu dùng. 2.2. Vi mô * Nhóm nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp Nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về tiêu dùng hàng hoá của thị trường. Công việc này thành công hay không lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố và lực lượng. 16
  17. Trước hết là các chính sách và định hướng phát triển do ban lãnh đạo doanh nghiệp vạch ra. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn cụ thể, từng thực trạng kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà họ có những kế hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài hạn phù hợp. Đối với một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì bộ phận lãnh đạo phải đưa ra mục tiêu, chiến lược, phương châm và quyết định trên cơ sở lợi ích chung của tập thể và chúng phải chứa đựng trong đó thế mạnh tổng hợp của mọi bộ phận. Phòng tài chính quan tâm đến vấn đề vốn và hiệu quả sử dụng vốn, phòng vật tư chú trọng giải quyết việc bảo đảm cung cấp đủ, đúng thành phẩm, bán thành phẩm cần thiết, phòng kế toán theo dõi chặt chẽ các khoản thu chi, phòng thiết kế kỹ thuật bảo đảm về chất lượng, độ an toàn, độ bền đẹp cho sản phẩm Tất cả phải được tập hợp, hợp tác chặt chẽ với phòng thị trường. * Các nhà cung cấp Những người cung ứng là các tổ chức và các cá nhân bảo đảm cung cấp cho doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh những yếu tố cần thiết để sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ nhất định. Để sản xuất thì người sản xuất phải luôn theo dõi đầy đủ các thông tin có liên quan đến thực trạng số lượng, chất lượng, giá cả hiện tại và tương lai của các yếu tố nguồn lực cho sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Nguồn lực khan hiếm, giá cả tăng, trước mắt có thể làm xấu đi cơ hội thị trường cho việc kinh doanh những hàng hoá và dịch vụ nhất định thậm chí phải ngừng sản xuất. * Khách hàng Khách hàng của doanh nghiệp là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp bởi vì khách hàng tạo nên thị trường, qui mô khách hàng tạo nên qui mô thị trường. Khách hàng có thể là người tiêu dùng, các tổ chức mua bán thương mại, nhà buôn bán trung gian, các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế. Nhu cầu của họ luôn luôn biến đổi và do đó người bán cần nghiên cứu kỹ những biến động đó. * Các trung gian phân phối và tiêu thụ 17
  18. Những người trung gian và các hãng phân phối chuyên nghiệp đóng vai trò rất quan trọng hỗ trợ cho doanh nghiệp đi lên, tiêu thụ và phổ biến hàng hoá đối với khách hàng. Họ có thể là những người môi giới thương mại, đại lý, người bán buôn, bán lẻ, tổ chức dịch vụ Marketing lưu thông hàng hoá tổ chức tài chính tín dụng. Những tổ chức này có ảnh hưởng trực tiếp tới hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường, ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ, tính sáng tạo và chi phí, vì vậy điều nên làm đối với các doanh nghiệp là cần phải cân nhắc cẩn thận trước khi quyết định cộng tác với một loại hình trung gian phân phối cụ thể nào. Cần phải tiến hành đánh giá hoạt động của họ để tránh bị ràng buộc đồng thời thiết lập những mối quan hệ bền vững với những tổ chức có tính quyết định nhất đối với mình. * Các đối thủ cạnh tranh Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế. Mỗi quyết định của đối thủ cạnh tranh đều ảnh hưởng đến thị trường nói chung và đến doanh nghiệp nói riêng. Nhiều doanh nghiệp cứ lầm tưởng người tiêu dùng có nhu cầu về giá trị hàng hoá của mình nhưng về bản chất là họ cần giá trị sử dụng hàng hoá đó và trên thị trường có rất nhiều sản phẩm thay thế cho họ lựa chọn, đôi khi các nhu cầu này bị triệt tiêu nhau, tức sự thành công của doanh nghiệp này lại chính là thất bại của doanh nghiệp khác, sự phát triển thị trường của doanh nghiệp này lại chính là sự thu hẹp thị trường của doanh nghiệp khác và ngược lại. Vì vậy mọi quyết định của doanh nghiệp không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh. IV. Cơ chế thị trường và vai trò của nó đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường 1. Đặc trưng của cơ chế thị trường Kinh tế tư bản là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Đến lượt 18
  19. mình cơ chế thị trường là cơ chế của nền sản xuất hàng hoá ở đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó sẽ xuất hiện cơ chế thị trường, hay nói cách khác cơ chế thị trường là cơ chế tạo môi trường cho các quy luật của nền sản xuất hàng hoá hoạt động. Đó là môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận thông qua các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả, quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật khách hàng Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung, cầu và giá cả thị trường. Về bản chất, cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự do, nó có một số đặc trưng chủ yếu sau: * Các vấn đề liên quan đến việc phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất như lao động, vốn, đất đai, công nghệ, nguyên nhiên liệu về cơ bản được quyết định một cách khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị * Cơ chế thị trường đòi hỏi chất lượng sản phẩm ngày càng tăng nhằm thu được thắng lợi trong cạnh tranh. Về lâu dài thì cạnh tranh về chất lượng vẫn gay go và mang tính quyết định. Ngày nay, chất lượng sản phẩm không chỉ bó hẹp qua một số thông số như bền, đẹp, tính cơ lý cao mà còn thể hiện rất nhiều qua hình thức, kiểu dáng, mẫu mã, bao bì, mầu sắc và các dịch vụ kèm theo. Nói chung sản phẩm hàng hoá nào đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của người tiêu dùng nhiều hơn thì sản phẩm hàng hoá đó có chất lượng cao hơn và ngược lại. * Cơ chế thị trường mặt hàng sản xuất phải thường xuyên đổi mới hình thức mẫu mã tương ứng với nhu cầu mới của thị trường. Con người thường nhanh chán những thứ đang thịnh hành và họ đi tìm kiếm sự đa dạng, đơn giản chỉ bởi sự đa dạng trong cuộc sống. Doanh nghiệp nào không nắm bắt kịp những thay đổi này sẽ bị đẩy ra ngoài thị trường nhường chỗ cho những sản phẩm thay thế khác. Do đó không có một loại hàng hoá nào có thể tồn tại mãi trên thị trường với mẫu mã cũ rích. Vì thế một yêu cầu đặt ra cho các nhà sản xuất kinh doanh là phải thường xuyên thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, rút ngắn 19
  20. chu kỳ sống sản phẩm. Điều này có thể lý giải bởi tâm lý đa dạng của con người. * Cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự thay đổi về kỹ thuật công nghệ để có thể phát huy được thế mạnh trong cạnh tranh. Thắng lợi trong cạnh tranh trong cơ chế thị trường phụ thuộc rất lớn vào trình độ sản xuất, đôi khi nó là nhân tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh cả về giá cả, chất lượng sản phẩm, qui cách mẫu mã sản phẩm. Điều này đã được C.Mác nêu: "Sự khác nhau của các thời đại kinh tế không phải là sản xuất ra cái gì mà là sản xuất bằng cách nào". Vì vậy cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự đổi mới cải tiến kỹ thuật để có thể phát huy được thế mạnh trong cạnh tranh. * Cơ chế thị trường đòi hỏi trình độ tay nghề của công nhân ngày càng cao để sản xuất sản phẩm với chất lượng tốt. Điều này hoàn toàn hợp với lôgic phát triển. Khoa học công nghệ càng phát triển sau bao nhiêu thì đòi hỏi kĩ năng của người lao động càng phải cao bấy nhiêu để có thể làm chủ được nó. Đây là một vấn đề mang ý nghĩa thực tiễn vô cùng lớn đối với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. * Cơ chế thị trường đòi hỏi trong phân phối phải có sự đãi ngộ thoả đáng đối với công nhân có trình độ chuyên môn, kỹ thuật và tay nghề cao. C. Mác đã từng nói: "Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn". Vì thế để công bằng và làm hài lòng những người đã có nhiều công lao động góp vào quá trình phát triển của doanh nghiệp thì buộc các doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp khuyến khích cả về vật chất lẫn tinh thần. * Cơ chế thị trường đòi hỏi phải tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ để phục vụ một cách kịp thời nhất đối với khách hàng. Phân phối là một mắt xích quan trọng giúp cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục, không có phân phối thì không thể thực hiện được hoạt động sản xuất. Để thực hiện tốt chức năng phân phối đòi hỏi doanh nghiệp phải tiếp cận và phục vụ khách hàng một cách tốt nhất, kịp thời nhất. Muốn vậy doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường, cung cấp sản phẩm theo nhu cầu, thực hiện các hoạt động dịch vụ 20
  21. cả trước, trong và sau khi bán. 2. Vai trò của cơ chế thị trường Trong cơ chế thị trường các nhà sản xuất phải tự ấn định ra các mục tiêu phương hướng hoạt động cũng như các công cụ để thực hiện mục tiêu đó một cách hiệu quả nhất. Họ được tự chủ trong việc sản xuất cái gì, với số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào, mua nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ở đâu. Điều đó được gọi là sự tự do kinh doanh, tuy nhiên họ vẫn bị ràng buộc bởi sợi dây vô hình và chính nó đã chi phối phần nào hoạt động của họ. Đó là quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Như vậy cơ chế thị trường có tác động điều tiết các hoạt động của các doanh nghiệp, hướng hoạt động của họ ngày càng trở nên hoàn thiện và hiệu quả hơn để có thể đứng vững rên thương trường. Cơ chế thị trường thúc đẩy các doanh nghiệp phải tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp để hạ giá thành sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh về giá. Có thể vì khả năng thanh toán không cho phép mà khách hàng đã không có được quyết định tiêu dùng theo đúng nhu cầu mong muốn của họ. Cùng một loại hàng hoá, sản phẩm trên thị trường có cùng chất lượng và sự tiện dụng như nhau thì chắc rằng họ sẽ tìm đến với những sản phẩm có giá cả thuộc nhóm thấp nhất. Cơ chế thị trường góp phần thúc đẩy sự phân công lao động trong xã hội. Để duy trì và mở rộng thị trường, các doanh nghiệp phải biết phát huy những lợi thế so sánh của mình, đó có thể là các lợi thế mà doanh nghiệp khác không có hoặc có nhưng lại yếu hơn. Hay nói cách khác, mỗi doanh nghiệp tự tạo cho mình nét đặc thù không giống ai, tìm cách lách vào những phần trống trên thị trường mà chưa có một đối thủ nào đặt chân tới. Như vậy sự phân công lao động bắt đầu hình thành từ những ý tưởng đó. Cơ chế thị trường góp phần nâng cao chất lượng của hàng hoá, dịch vụ trong xã hội. Cuộc cạnh tranh về chất lượng, lâu dài vẫn luôn là gay go và quyết liệt nhất. Những sản phẩm kém chất lượng đang dần biến mất khỏi thị trường nhường chỗ cho những sản 21
  22. phẩm có chất lượng tốt hơn. Trong những hàng hoá cùng mức giá cả thì người tiêu dùng sẵn sàng chọn những thứ có chất lượng cao hơn. Ngày nay chất lượng hàng hoá và dịch vụ không chỉ là độ bền hay tính cơ lý hoá cao nữa mà còn được thể hiện qua hình dáng mầu sắc, mẫu mã, bao gói, dịch vụ kèm theo. Cuộc sống của con người ngày càng trở nên gấp gáp đòi hỏi cần được tiết kiệm về không gian và thời gian. Các loại máy móc, phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc hiện đại đã thay nhau ra đời vì nhu cầu đó. Hay có thể nói cơ chế thị trường thúc đẩy sự tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng, làm tăng năng suất lao động, tăng số lượng sản phẩm qua đó làm tăng của cải vật chất cho toàn xã hội. Phần thứ hai Phân tích thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông I. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông 1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty Cùng với sự hình thành và phát triển của đất nước, là sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của rất nhiều công ty, xí nghiệp, liên doanh, liên hiệp xí nghiệp Sự xuất hiện hàng loạt các loại hình kinh doanh trên bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn, từ trình độ phát triển khoa học, kỹ thuật từ nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt của xã hội ngày càng cao. Nhớ lại vào khoảng năm 1959 Bộ Công nghiệp nhẹ giao trách nhiệm cho một đoàn cán bộ công nhân đi học nghề làm bóng đèn phích nước tại Trung Quốc, dẫn đoàn cán bộ công nhân 22
  23. này đi là: Ông Nguyễn Quang Kiêm (nguyên giám đốc đầu tiên của nhà máy). Sau 2 năm thực tập, nhờ trí thông minh và cần cù của công nhân và cán bộ Việt Nam và lòng nhiệt tình chỉ bảo của cán bộ và công nhân nước bạn. Công ty đã bỏ khung ban đầu sản xuất ra những sản phẩm đầu tiên cho đất nước đồng thời đào tạo một số thợ mới từ các thiết bị chuyên dụng mà anh chị em đi thực tập đã sản xuất nhiều ngày trên nước bạn. Người xưa có nói "Vạn sự khởi đầu nan" tuy được chính phủ và Bộ công nghiệp nhẹ rất quan tâm (Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị và Bộ trưởng Kha Vang Cân đã về dự lễ cắt băng khánh thành nhà máy) nhưng vì nhà máy đang trong thời kỳ hoàn chỉnh việc xây dựng nên bước đầu nhà máy vừa sản xuất vừa hoàn chỉnh công trình. Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông đặt trụ sở tại 15 Hạ Đình - Thanh Xuân - Hà Nội với mặt bằng xây dựng là 20.690 m2 và 52 hạng mục công trình không kể hệ thống sân bãi và cây xanh. Đây là điểm thuận lợi cho việc giao dịch của Công ty. Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông thuộc Tổng Công ty sành sứ Việt Nam trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ. Nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông khởi công xây dựng vào tháng 3 năm 1961 do Trung Quốc giúp đỡ xây dựng. Sau 2 năm xây dựng, đầu năm 1963 nhà máy cắt băng khánh thành và chính thức đi vào sản xuất, đến tháng 6 năm 1994 được nâng cấp từ nhà máy lên thành công ty. Trong giai đoạn xây dựng tháng 3 năm 1961 thực chất nhà máy đã được khảo sát trước đó trùng với thời gian Bộ công nghiệp nhẹ cử đoàn cán bộ sang Trung Quốc học nghề. Theo thiết kế ban đầu Công ty chỉ sản xuất 1 ca với sản lượng bóng đèn chiếu sáng thường là 1,5 triệu cái/năm; bóng đèn ôtô là 0,4 triệu cái/năm; phích nước nóng 0,2 triệu cái/năm; đèn huỳnh quang và phụ kiện 5 vạn cái/năm, nhưng đến mãi 12 năm sau nhà máy mới đạt được công suất thiết kế ban đầu (nghĩa là đến tận năm 1975). Theo công văn số 292 CNN-TTCP ngày 24/3/1993 của Bộ trưởng bộ công nghiệp nhẹ quyết định thành lập lại công ty. Sau thời kỳ đổi mới và sự nỗ 23
  24. lực phấn đấu không mệt mỏi tháng 6 năm 1994 nhà máy đã được nâng cấp thành Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông theo quyết định số 667- QĐTCNĐ của Bộ công nghiệp nhẹ. Qui mô của Công ty là doanh nghiệp loại 1 theo quyết định xếp hạng 122 QĐ-TCCB ngày 26/1 của Bộ công nghiệp nhẹ. Kể từ ngày cắt băng khánh thành đưa vào sản xuất cho đến nay, nhà máy đã biết bao thăng trầm từ sản xuất nhỏ theo bao cấp, lại bị chiến tranh tàn phá, bom đạn Mỹ đã phá huỷ nhà xưởng. Thiết bị vật tư sản xuất kỹ thuật gần như bị phủ định. Với hàng ngàn cán bộ công nhân viên (CBCNV) cùng với vật tư thiết bị - kỹ thuật chuyên sơ tán theo lệnh trên phân tán thành 3 cơ sở (C1, C2, C3). Vừa chiến đấu vừa sản xuất, tất cả tập trung xây dựng phấn đấu duy trì sự tồn tại và thực hiện mọi nghĩa vụ, chi viện phục vụ cho tuyền tuyến như C2 sản xuất bóng đèn ôtô đáp ứng nhu cầu quốc phòng. Khó khăn chồng chất nhưng đều hướng theo Đảng "thắng không kiêu, bại không nản" luôn vững vàng tin tưởng thực hiện theo đường lối chủ trương của Bác - Đảng đã vạch ra. Với sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ xí nghiệp qua từng thời kỳ mặc dù có những thời điểm mâu thuẫn theo kiểu cá nhân phi thực tế, song mọi hành động gây mất đoàn kết đều bị CBCNV phủ định và đấu tranh cho sự đoàn kết ấy, đồng tâm nhất trí phấn đấu cho nhà máy luôn phát triển không ngừng, thực sự rạng rỡ. Với hơn ba thập kỷ qua do cơ chế bao cấp điều tiết gây sự trì trệ cho sản xuất và đời sống. Bước vào thời kỳ chuyển đổi cơ chế, bỡ ngỡ lúng túng, lo lắng là điều không thể tránh được nhưng với quyết tâm làm theo lời Bác khó khăn mấy có chí vẫn làm nên. Từ tình trạng Công ty phải đóng cửa 6 tháng liền vì hàng ngoại tràn lan không tiêu thụ được đến duy trì sản xuất liên tục, sản lượng tăng từ 3-5 lần để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Từ một cơ sở kinh doanh thua lỗ, tiến tới hàng năm làm ăn ngày càng có lãi, nộp ngân sách ngày càng tăng. Từ tình trạng chất lượng sản phẩm kém, nhân dân kêu ca, bị hàng ngoại lấn át nhưng đã vươn lên hai năm liền 1993 và 1994 là cơ sở duy nhất ở phía bắc được lựa chọn vào Topten '93 và Topten '94 (mười mặt hàng tiêu dùng Việt Nam được ưa thích nhất). 5 năm trước 1990-1994 là quá trình 24
  25. vươn lên của Công ty, khẳng định sự đứng vững và phát triển trong cơ chế mới. Với thành tích phấn đấu tháng 9/1994 Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tăng huân chương lao động hạng nhất cho tập thể cán bộ công nhân viên chức Công ty và huân chương hạng ba cho cá nhân giám đốc Công ty. Đảng bộ Công ty liên tục trong các năm 1991, 1992, 1993 và 1994 đã được công nhận tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh. Công ty đã hai năm liền được Bộ công nghiệp nhẹ tặng cờ "Đơn vị thi đua xuất sắc". Công ty đã được lựa chọn là một trong hai đơn vị của Bộ công nghiệp nhẹ tặng cờ xuất sắc về an toàn, bảo hộ lao động và chăm sóc điều kiện làm việc cho công nhân trong 5 năm 1990-1994. Nguồn gốc của mọi thay đổi hôm nay bắt nguồn từ đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam - Đảng do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Có được cuộc sống hôm nay đảng bộ và toàn thể công nhân Rạng Đông đã ra sức thi đua "Học tập và làm theo lời Bác dạy" thực hiện tốt những điều Bác đã căn dặn trong dịp Bác về thăm Công ty 28/4/1964. Nhờ công ơn trời biển của Người, cán bộ đảng viên, công nhân lao động Rạng Đông đã tổ chức long trọng lễ đón tượng đài Bác về Công ty mình. Có lẽ không có ngày nào, lư hương đặt trước tượng đài Bác Hồ không ngát hương thơm vì các đoàn khách trong vàn goài nước đã đến làm việc với Công ty, các tổ chức sản xuất, các đơn vị trong Công ty, các đại hội của Công ty đều đến báo cáo với Bác công việc mình làm dâng lên Bác những thành tích mà mình đã đạt được. Sau một thời gian lúng túng không dài, Công ty đã xác định đúng đắn phương hướng sản xuất kinh doanh của Công ty đó là "Tập trung mọi nỗ lực, phát huy thế mạnh độc đáo của mình, nâng cao sản lượng, nâng cao một mức hợp lý về chất lượng, hạ giá thành hai mặt hàng bóng đèn tròn và phích nước, đồng thời sản xuất bóng đèn huỳnh quang tạo thế vững vàng 3 chân về 3 sản phẩm chính của Công ty đó là bóng đèn tròn, phích nước và đèn huỳnh quang. Để tổ chức thực hiện được phương hướng sản phẩm kinh doanh này, Công ty 25
  26. đã có một số thành công bước đầu trong vận dụng những tư tưởng mới của nghị quyết Đảng trong tập trung chỉ đạo điều hành theo mục tiêu. + Với kinh nghiệm lượng định và dự đoán đúng được xu hướng phát triển với ý chí và khát vọng quyết đưa Công ty vượt qua khó khăn, trong từng thời kỳ và đối với từng khâu Công ty đã xây dựng những mục tiêu cụ thể đúng vừa đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu vươn lên, vừa có khả năng phấn đấu vươn lên và có khả năng thực hiện thực tiễn trong thực hiện. + Lề lối và phong cách làm việc đã biến đổi về chất: giảm mệnh lệnh hành chính, tăng việc trao đổi gợi mở, khuyến nghị tham gia ý kiến, giải quyết tốt mối quan hệ ngang, chủ động phối hợp và chủ yếu làm biện pháp kinh tế: lấy lợi ích hài hoà làm động lực tạo khả năng, phát huy tính chủ động ở mọi cấp để đạt được mục tiêu. Đó là công tác hạch toán kinh tế nội bộ đã được triển khai, nâng dần trình độ từ thấp đến cao, mở rộng từ sản xuất trực tiếp sang các bộ phận phục vụ như động lực, nhà ăn ca, + Bộ máy cán bộ giúp giám đốc điều hành công việc được sắp xếp lại gọn nhẹ, giảm dần đầu mối và có hiệu lực cán bộ ở các vị trí then chốt thiết yếu của dây chuyền công tác chính đã được sàng lọc, lựa chọn và bố trí đúng. Sau 5 năm chuyển đổi sang nền kinh tế mới Công ty đã có một tài sản vô giá đó là một đội ngũ cán bộ có ý chí quyết tâm cao, đoàn kết, chủ đống tổ chức; một đội ngũ dày dạn kinh nghiệm, tâm huyết, trách nhiệm cao với công việc chung và đời sống quần chúng. Trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng Công ty trải qua 3 giai đoạn: - Giai đoạn I (1990-1993) Khai thác triệt để khả năng tiềm năng lao động sản xuất sắp xếp và bố trí lại lao động sản xuất. - Giai đoạn II (1994-1997) Giai đoạn đổi mới công nghệ đòi hỏi nhiều vốn và con người có trình độ 26
  27. cao nhưng khả năng của Công ty có hạn do đó Công ty đã không theo con đường này và quyết định chọn con đường là đi theo chiều sâu, đầu tư vào đúng cái mình có và có khả năng làm nhất. Năm 1994 Công ty đã động viên công nhân cho Công ty vay tiền nhàn rỗi để đầu tư vào máy thổi tự động được trên 8 tỉ đồng. Cũng vì đầu tư vào máy thổi tự động mà phân xưởng đã dư hơn 200 công nhân lao động. Trong hơn 200 công nhân lao động thì có một số người về hưu và nghỉ việc do không có khả năng lao động. Năm 1994 đúng năm kỉ niệm 30 năm ngày Bác Hồ về thăm Công ty, Công ty đã liên doanh với Công ty Tân á và SEES-MEGA Đài Loan sản xuất thêm mặt hàng đèn huỳnh quang để đáp ứng nhu cầu thị trường thay thế hàng nhập khẩu hàng năm từ 10-15 triệu đèn từ các nước trong khu vực Đông Nam á và Trung Quốc kỹ thuật sản xuất bóng đèn cũng không hơn mình. Đèn huỳnh quang nhãn hiệu "Rạng Đông" sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế tương đương với "JIS" của Nhật Bản có tuổi thọ dài đạt từ 7500h trở lên, quang thông cao, tiết kiệm điện. - Giai đoạn III (từ năm 1998 đến nay) Giai đoạn đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị. Thời gian phấn đấu trong vòng 3 năm, tập trung vào 3 loại: công nghệ bóng đèn tròn, phích nước và bóng đèn huỳnh quang. Nâng 3 loại này lên trình độ trung bình của khu vực. Ngày 25/8/2000 Công ty đã hoàn thành công trình trong 3 năm đề ra. Kết quả bóng đèn tròn hiện nay đã xong 3 dây chuyền 2600 cái/giờ trong khi đó cả vùng Đông Nam á có 8 dây chuyền thì Việt Nam có 3 dây chuyền. Qua đó có thể thấy rõ sự phát triển không ngừng của Công ty. Nhưng một số dây chuyền khác lại tương đối thấp như dây chuyền lắp đèn huỳnh quang ở Việt Nam là 2- 2,5 giây/1SP. Trong đó ở Mỹ là 1 giây/1SP. ở nước ta căn bản có 9 dây chuyền sản xuất bóng đèn huỳnh quang do đó năng suất cũng tương đối cao. Ngày 25-8 vừa qua dây chuyền sản xuất phích nước với công nghệ hiện đại đã hoàn thành và đưa công suất lên rất cao so với trước đạt 3,5 giây/1SP còn công suất hiện nay đạt được 4,5-5 triệu SP/năm. 27
  28. Nhìn chung qua ba giai đoạn phát triển Công ty cho đến nay Công ty đã vươn lên và đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sự tăng trưởng trong 10 năm qua của Công ty nhìn chung có thể khẳng định là sự tăng trưởng đều đặn liên tục với tốc độ cao. Đó là sự tăng trưởng có hiệu quả, có chất lượng về sản xuất kinh doanh, về sản phẩm và cả uy tín của Công ty. Nó còn phản ánh cả chất lượng, trình độ công nghệ của các dây chuyền sản xuất chủ yếu được từng bước được nâng cao. Đồng thời đó là sự tăng trưởng bền vững do động lực nội sinh, do nhân tố con người có ý thức tự lực tự cường, do hiệu quả của sản xuất kinh doanh tạo ra nguồn lực để đầu tư phát triển. * Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty là tổng hợp các bộ phận lao động quản lý khác nhau có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được bố trí thành những cấp, những khâu khác nhau nhằm đảm bảo các chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung của Công ty. Hiện nay Công ty bao gồm các phòng ban, phân xưởng sau: - Văn phòng giám đốc: 11người - Phòng điều hành sản xuất: 22 người - Phòng KCS: 22 người - Phòng bảo vệ: 46 người - Phòng quản lý kho: 36 người - Phòng thống kê kế toán: 15 người - Phòng dịch vụ đời sống: 43 người - Phòng thị trường: 91 người (Cả 4 chi nhánh) Các phân xưởng gồm - Phân xưởng cơ động: 55 người 28
  29. - Phân xưởng bóng đèn: 375 người - Phân xưởng phích nước: 368 người - Phân xưởng thuỷ tinh: 257 người - Phòng kỹ thuật: 77 người (gồm tổ sản xuất đèn thường, đèn huỳnh quang, dây dẫn, lắp dáp đèn huỳnh quang Compact) Sơ đồ 1. Cơ cấu cán bộ quản lý chung CBQL ở các cơ quan chức năng Cán bộ lãnh đạo CBQL Kinh tế Cán bộ chuyên môn CBQL kinh doanh Nhân viên thực hiện Sơ đồ 2. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty. 29
  30. Giám đốc Phó Giám đốc Phó Giám đốc kỹ thuật hành chính Phòng thống kê kế toán Phòng Phòng Các Phòng Phòng Phòng Phòng kỹ quản phân bảo vệ điều dịch vụ thị thuật lý kho xưởng hành đời trường KCS sản SX sống xuất Phân Phân Phân Phân Phân xưởng xưởng xưởng xưởng xưởng cơ bóng đột phích thủy động đèn dập nước tinh 30
  31. * Chức năng nhiệm vụ của bộ máy quản lý trong Công ty Trong Công ty tuỳ theo trách nhiệm cụ thể mà các phòng ban có các chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng lại phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo cho hoạt động của Công ty được thông suốt. - Giám đốc: là người chịu trách nhiệm cao nhất về điều hành sản xuất kinh doanh tại Công ty, lãnh đạo chung toàn Công ty. - Hai phó giám đốc: là người có nhiệm vụ giúp giám đốc chỉ đạo trực tiếp các bộ phận theo sự phân công hoặc uỷ quyền của giám đốc. - Phòng thống kê kế toán: giúp giám đốc chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác thống kê kế toán tài chính của Công ty. Thực hiện đúng các chế độ các quyết định về quản lý vốn và tài sản, các chế độ chính sách khác của nhà nước. - Phòng kỹ thuật KCS: chịu trách nhiệm phụ trách các qui trình sản xuất công nghệ đảm bảo chất lượng sản phẩm. - Phòng quản lý kho: có nhiệm vụ mua sắm cung cấp nguyên vật liệu phục vụ sản xuất và quản lý sản lượng sản phẩm đầu ra của Công ty. - Phòng bảo vệ: Có trách nhiệm trong công tác bảo vệ, tự vệ, phòng chống cháy nổ, giữ gìn an ninh trật tự trong sản xuất kinh doanh. - Phòng tổ chức điều hành sản xuất: bố trí sắp xếp lao động trong Công ty về số lượng, trình độ tay nghề từng phòng, ban, phân xưởng, thực hiện chế độ chính sách của nhà nước về tiền lương, đồng thời theo dõi sự biến động của thành phẩm và chỉ tiêu số lượng. - Phòng dịch vụ đời sống: có nhiệm vụ chăm lo sức khoẻ cho toàn cán bộ nhân viên và giúp đỡ các phòng ban chăm lo vệ sinh môi trường trong Công ty và chăm sóc mầm non. - Phòng thị trường: là nơi trực tiếp giao dịch với khách hàng viết hoá đơn bán hàng và chịu trách nhiệm về khâu tiêu thụ sản phẩm. 31
  32. * Chức năng, nhiệm vụ của các phân xưởng sản xuất - Phân xưởng cơ động: cung cấp, thể hơi thể khí, hơi áp lực, điện, máy nổ, làm tuần hoàn nước cho các phòng ban và các phân xưởng sản xuất. - Phân xưởng bóng đèn: có nhiệm vụ sản xuất, lắp ghép các loại bóng đèn huỳnh quang, bóng đèn tròn các loại từ 25W đến 30W. - Phân xưởng phích nước: Đột, dập quai vai nắp phích cuốn thản phích. Nấu, cán nhôm để dập quai vai nắp phích, lắp ráp phích hoàn chỉnh từ bán thành phẩm ruột phích chuyển qua. Chế tạo ra ruột phích để đưa sang phân xưởng dột dập lắp thành phích hoàn chỉnh. - Phân xưởng thuỷ tinh: nhiệm vụ là sản xuất các loại bán thành phẩm vỏ bóng đèn tròn, ống đèn huỳnh quang, bình phích và vỏ thuỷ tinh. Về trình độ công nghệ thì tất cả các qui trình sản xuất đề tương đối hiện đại. Dưới đây là một qui trính công nghệ sản xuất bóng đèn huỳnh quang hiện đại bậc nhất ở Việt Nam đang được sử dụng tại Công ty. 32
  33. Sơ đồ 3. Quy trình sản xuất đèn huỳnh quang ống loa Máy làm loa ống huỳnh quang Loa thành phẩm Tạo dạng Máy làm trụ số 1 Dây dẫn Máy làm trụ số 2 Rửa ống rút khí Tráng bột huỳnh quang Trụ thành phẩm số 1 Dây tóc Vít miệng Trụ thành phẩm số 2 Ruột khí Gắn đầu Quệt keo Đầu đèn Luyện nghiệm Bảo ôn Đóng gói Sản phẩm hoàn chỉnh 33
  34. 2. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông 2.1. Phương hướng và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hiện nay và những năm tiếp theo của Công ty Trong những năm tiếp theo Công ty đã xác định cho mình một phương hướng nhiệm vụ rõ ràng để có được bước đi vững vàng và phù hợp với bối cảnh thị trường có nhiều biến động. Nhất là đến năm 2006 AFTA sẽ áp dụng đối với tất cả các nước ASEAN khi đó sản phẩm của doanh nghiệp nói riêng và cả nước ta nói chung sẽ gặp không ít khó khăn do phải cạnh tranh với các sản phẩm của các công ty trong khu vực ASEAN và các nước trên thế giới. Biểu 1. Qui mô sản xuất kinh doanh của Công ty Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 1. Giá trị tổng sản lượng 112.374 167.077 217.912 2. Doanh thu (tr.đ) 108.805 140.010 184.818 3. Nộp ngân sách (tr.đ) 9.083 13.745 19.700 4. Lao động (người) 1.292 1.298 1.460 5. Thu nhập BQ/tháng/người 1.761 1.733 1.952 1000đ 6. Lợi nhuận thực hiện (tr.đ) 9.763 10.934 14.531 7. Tổng tài sản Để vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới. Đại hội Đảng bộ Công ty, hội nghị đại biểu công nhân viên chức và Đại hội công đoàn Công ty đã tập hợp trí tuệ, đông đảo CNVC đã đề ra các nghị quyết và định hướng chiến lược phát triển đến năm 2005 và các đề án xây dựng đội ngũ nhằm đáp ứng tình hình 34
  35. mới cụ thể là: - Phát triển và nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm hiện có. - Đa dạng hoá các loại sản phẩm (kể cả việc tự cung cấp các loại bán thành phẩm hiện nay đang nhập ngoại) phát triển các loại đèn mới, các chao chụp thiết bị chiếu sáng. - Mở rộng qui mô Công ty, nâng cấp và đổi mới cơ chế quản lý Công ty. - Phấn đấu đạt bằng được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh hiện tại để có nguồn tích luỹ từ đầu tư, chuẩn bị vững chắc cho mở rộng phát triển công ty đồng thời thực hiện thắng lợi mục tiêu trước mắt. - Trong các chiến lược bộ phận, chiến lược quan trọng nhất là cần phải triển khai thực hiện sớm, chiến lược con người, cần tập trung đánh giá thực trạng và điểm xuất phát của Công ty để bước vào thời kỳ mới. Trong những tháng đầu năm 2000 Công ty đã và sẽ tiếp tục chủ động mua sắm, nâng cấp dần các dây chuyền sản xuất hiện đại của các nước bạn thay thế lao động thủ công trước đây. Bên cạnh đó xây dựng thêm cơ sở hạ tầng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ công nhân viên trong biên chế thông qua các lớp đào tạo ngắn hạn để họ có thể đáp ứng yêu cầu của khoa học kỹ thuật công nghệ mới, cách quản lý mới. Công ty đã chủ động đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước, lấy thị trường tiêu thụ để làm mục tiêu sản xuất để từ đó có điều kiện làm lợi cho nhà nước, tăng dần lợi nhuận và nâng cao thu nhập cho người lao động. 2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật Máy móc thiết bị là một trong những yếu tố quan trọng trong dây chuyền công nghệ, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm. Theo thiết kế ban đầu nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông do nước bạn (Trung Quốc) giúp đỡ chỉ sản xuất một ca với máy móc thiết bị lạc hậu chủ yếu vẫn là thủ công, nhận thấy được tầm quan trọng của máy móc thiết bị, lãnh đạo Công ty đã dần dần từng bước kiện toàn tất cả hệ thống trang 35
  36. thiết bị từ lò ga đến bể chứa 300m3 việc cung cấp hơi, gió điện, nước trên cơ sở vận hành với độ tin cậy cao của thiết bị, cùng với thành phần khí ga ngày càng duy trì. Biểu 2. Một số công trình tiêu biểu của Công ty các năm qua Lĩnh vực sản Giai đoạn Công trình kỹ thuật tiêu biểu xuất thực hiện Thuỷ tinh 1977-1979 1. Nấu thuỷ tinh bằng là bể đốt dầu và đốt hơi than thay cho lò nồi bán khí 1982 2. Băng hấp bình phích dùng bức xạ nhiệt 1991-1993 3. Thiết kế các lò thuỷ tinh đốt bằng hơi than, hiệu suất khai thác cao, chất lượng ổn định. 1995 4. Đầu tư máy thổi vỏ bóng tự động 18 đầu khuôn Cơ động 1976-1980 1. Chế tạo lò GAZ theo kiểu Đức 350m3 giờ thay thế lò GAZ 60m3 giờ của Trung Quốc 1986-1988 2. Cải tiến van thải không lò GAS 1988 3. Đưa nguồn nước Hạ Đình về bề 300m3 1992-1993 4. Cải tiến công nghệ vận hành lò GAZ đảm bảo tuổi thọ của lò, tiết kiệm than, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng GAZ cao. Đột dập 1986-1987 1. Cuốn thân phích bằng thép lá tráng thiếc intipô phích có quai xách 36
  37. 1992-1993 2. Tự đúc cán nhôm, cải tạo hệ thống khuôn mẫu dập phụ tùng phích bằng nhôm dày 0,6mm. Thực hiện sử dụng nhóm tiết kiệm còn 181 kg/1000 SP. Bóng đèn 1976 1. Cơ giới hoá khâu sản xuất đèn ôtô nâng công suất đèn ôtô lên 1 triệu cái/năm 1978 2. Đưa dây tóc xoăn khép vào sản xuất bóng đèn thường thay cho xoắn đơn là bước nhảy vọt về chất lượng bóng đèn. 1979 3. Chế tạo đưa vào sản xuất đen thường 3 bằng dây chuyền 1896-1989 4. Thực hiện đề tài nâng cao chất lượng bóng đèn về tuổi thọ, về keo gắn đầu, về bao bì. 1992-1994 5. Chế tạo mới máy vít miệng cho dây chuyền đèn thường số 3 (1992) 6. Chế tạo đưa vào sản xuất dây chuyền đèn thường số 4 (1993-1994) 7. Thực hiện cuộc cách mạng về bao bì cho bóng đèn (1992-1993) 8. Củng cố thiết bị phụ tùng ổn định chất lượng bóng đèn trong sử dụng và giảm chi phí vật tư hệ số vỏ bóng 1993, hệ số dây dẫn 1,19 hệ số dây tóc 1,183. 37
  38. 9. Đầu tư các dây chuyền lắp ghép bóng đèn mới công suất 1200 cái/h với máy vít miệng 24, đầu máy rút khí 36 đầu và máy gắn đầu đèn, hàn thiếc và thông điện liên hoàn tự động (1994-1995). Phích nước 1979 1. Rút khí phích trên máy bàn tròn của Nhật Bản 1984-1985 2. Công nghệ trang trí vỏ phích với khắc hoạ bản giấy sơn mau khô Ankyd Melamin. 1982 3. Thực hiện đề tài nghiên cứu nâng cao chất lượng ruột phích nóng đưa băng ủ miệng phích vào sản xuất thay cho ủ rơm. 1986 4. Thực hiện đề tài thu hồi Ag NC3 5. Đưa vỏ phích intipơ vào sản xuất thay cho phun sơn - vỏ phích có quai xách, nâng cao một bước chất lượng vỏ phích. 1992 6. Đưa vào sản xuất vỏ phích in vân đá 1993 7. Thực hiện cải tiến công nghệ, giảm định mức sử dụng AgNC3 xuống còn 0,378 kg/1000SP. Thực hiện cuộc cách mạng bao bì. Để theo kịp với tiến trình phát triển chung của khu vực và trên thế giới cùng cả nước bước vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Công ty đã và đang xây dựng cho mình một chương trình đầu tư phát triển bao gồm lắp đặt các dây chuyền công nghệ hiện đại trong năm 2000 và tiếp tục hoàn thiện nâng cấp thêm các dây chuyền công nghệ cụ thể: 38
  39. - Lắp đặt dây chuyền sản xuất ruột phích mới 25/8/2000 - Lắp đặt dây chuyền lắp ghép đèn huỳnh quang 2 kế hoạch 7/11/2000 hoàn thành. - Lắp đặt dây chuyền lắp ghép đèn thường 2600 cái/h số 3 hoàn thành 15/8/2000. - Lắp đặt dây chuyền sản xuất dầu đèn 1/7/2000 hoàn thành. - Lắp đặt dây chuyền lắp ghép đèn huỳnh quang compact kế hoạch 1/10/2000 hoàn thành - Hoàn thiện dây chuyền đèn mầu, đèn nhỏ G40, C7 hoàn thành 15/6/2000. Nhìn chung so với mặt bằng máy móc thiết bị của nước ta hiện nay thì máy móc trang thiết bị của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông ở mức độ hiện đại không thua kém gì nước bạn. Điều này được thể hiện rất rõ trong thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty. 2.3. Nguồn cung ứng nguyên vật liệu Nguyên vật liệu là đối tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật hoá. Nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một quá trình sản xuất kinh doanh hay một chu kỳ sản xuất nhất định và toàn bộ giá trị nguyên vật liệu được chuyển vào chi phí kinh doanh trong kì. Để có thể sản xuất ra được các loại bóng đèn tròn, phích nước, đèn huỳnh quang và một số sản phẩm phụ khác cung cấp cho thị trường, Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông phải sử dụng rất nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau như Ag NC3, sơn mau khô, Ankyd Mêlomin, nhôm, thép lá trong thiếc intipô, thuỷ tinh (tự sản xuất hay nhập trong nước) Nhưng những vật tư chính, quyết định đến chất lượng sản phẩm như dây tóc, dây dẫn, bột huỳnh quang, bột điện tử, khí Argon, Silicon cho keo gắn đầu đèn, dùng thuỷ tinh chì nhập từ các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Tiệp Khắc 39
  40. Do vậy mà người cung cấp vật liệu rất phong phú, đa dạng. Điều này có những hạn chế nhất định trong định mức sản xuất của Công ty. Tất cả các nguyên vật liệu sau khi nhập, mua đều được khảo nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật. Biểu 3: Một số nguyên liệu nhập khẩu STT Tên nguyên vật liệu Chủng loại Đơn vị cung ứng 1 Kim loại màu Nhôm, đồng Công ty khí cụ điện 2 Kim loại đen Sắt thép VINAKIP 3 Các loại hoá chất Bột huỳnh quang, bột Nhật, Trung Quốc, điện tử, khí Argon Hàn Quốc, Hungari 4 Keo gắn Silicon 5 Bao bì Bìa caton Công ty Tân Trung Việt 2.4. Lao động Đi đôi với việc quản lý và sử dụng các biện pháp kinh doanh sản xuất có hiệu quả là yếu tố lao động. Lao động là một trong những yếu tố đầu vào giữ một vai trò rất quan trọng trong bất kỳ một doanh nghiệp nào, bởi nó là nguồn lực của mọi nguồn lực. Sử dụng hợp lý lao động sẽ cho ta một kết quả tốt nhất trong giai đoạn khó khăn hiện nay. Hành lang của công ty bước vào cơ chế mới là một di sản nặng nề của cơ chế bao cấp đó là một bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, trì trệ, một đội ngũ lao động đông đảo song thiếu động lực để thích ứng và năng động. Biện pháp đột phá lớn nhất là tiền để cho sự phát triển lớn mạnh của Công ty như ngày nay là trực tiếp tác động đến tâm tư tình cảm, đời sống của cả đội ngũ lao động của nhà máy hơn 30 năm tuổi. Công ty đã 40
  41. tiến hành công việc khó khăn đó một cách thận trọng, tương đối dân chủ và khách quan giải quyết hài hoà quyền lợi của người ở, người về, làm tốt tư tưởng và đặc biệt nhờ sự gương mẫu đầu tầu của nhiều cán bộ đảng viên. Ngày nay Công ty đã có một lực lượng lao động hùng hậu với hơn một ngàn lao động có tay nghề cao, ổn định và đặc biệt trong cơ cấu lao động của Công ty ngày càng có nhiều người có trình độ học vấn cao. Ngoài biện pháp nâng cao tay nghề Công ty còn tuyển thêm một số lao động và đặc biệt thông qua các phong trào thi đua mà đội ngũ công nhân viên đã từng bước nâng cao một cách đáng kể. Cụ thể có khoảng trên 300 lượt người được suy tôn danh hiệu "Lao động giỏi" tiêu biểu như các chú Đỗ Tiến Trang, Trần Đức Sơn, Trần Đức Trí, Trần Văn Hạnh là những lao động dẫn đầu về năng suất lao động ở phân xưởng thuỷ tinh. Chú Phạm Minh Tân là thợ cơ khí tài hoa, chú Nguyễn Đăng Trung là tổ trưởng quản lý giỏi của phân xưởng bóng đèn. Chú Nguyễn Hữu Khoan và Phạm Minh Toán là những tấm gương tận tuỵ bám máy, bám lò ở phân xưởng cơ động Từ đội ngũ, phong trào trên mà trong những năm qua Công ty đã có hàng trăm sáng kiến cỉa tiến kỹ thuật (58 sáng kiến năm 1954) làm lợi cho Công ty hàng tỷ đồng. 41
  42. Biểu 4: Số lượng cán bộ công nhân viên của Công ty đến 4/9/2000 Chỉ tiêu 1999 2000 Tuyệt đối Tỉ lệ Tổng số lao động 1.298 1160 + 162 1,124% Trong đó 1. Phân theo trình độ Trên đại học 24 29 +5 1,208% Đại học 59 62 +3 1,050% Cao đẳng 69 76 +7 1,101% Trung cấp 91 97 +6 1,065% Công nhân kĩ thuật 1056 1197 +141 1,133% 2. Phân theo đối tượng Lao động gián tiếp 222 256 +34 1,153% Lao động trực tiếp 0176 1204 +128 1,118% 3. Phân theo cơ cấu Lao động nam 794 879 +85 1,107% Lao động nữ 504 581 +77 1,152% Qua bảng trên ta thấy giữa năm 1999 và 2000 số lao động tăng lên 162 người trong đó có 21 người làm hành chính và 141 người là công nhân kỹ thuật. Do xu hướng những năm gần đây Công ty đang mở rộng phạm vi sản xuất các loại phụ kiện đi kèm các loại sản phẩm chính như máng đèn huỳnh quang, đui đèn, các loại đèn màu trang trí vì vậy mở ra cơ hội việc làm và 42
  43. thu hút một số công nhân từ các bộ phận sản xuất khác do lắp đặt máy móc, dây chuyền sản xuất tự động làm dư thừa. Ngoài ra còn thiếu thì bổ xung lao động bên ngoài. Nói chung qua 2 năm 1999, 2000 lao động của Công ty tương đối ổn định. Bậc thợ của Công ty trung bình năm 99 là 4,7/7 năm 200 là 4,85/7. Điều này có nghĩa là hàng năm trình độ tay nghề của công nhân được nâng cao hơn ngoài ra Công ty còn thường xuyên có 2 chuyên gia Trung Quốc cố vấn. 2.5. Tài chính Vốn sản xuất trong doanh nghiệp là hình thái giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch của doanh nghiệp. Vốn là nhân tố đầu vào không thể thiếu của doanh nghiệp và bản thân nó là kết quả đầu ra của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước kia các yếu tố đầu vào do các đơn vị nhà nước cấp phát. Ngày nay trong cơ chế thị trường thì việc mua sắm xây dựng hay lắp đặt các dây chuyền sản xuất, mở rộng qui mô sản xuất thì nhất thiết phải có vốn. Vốn dùng để đầu tư trang thiết bị máy móc, vốn chuyển giao công nghệ, vốn lưu động để chi phí tiền lương, vật tư và các chi phí khác. Theo bản thống kê số liệu về quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông (ngày 4/9/2000) ta có tình hình tăng giảm nguồn vốn của Công ty như sau: Biểu 5: Một số chỉ tiêu về vốn kinh doanh Chỉ tiêu ĐVT 1995 1996 So 19997 So 1998 So 1999 So 2000 So 1999 1995 1996 1997 1998 (%) (%) (%) (%) (%) Nguồn vốn 43
  44. - Kinh Tr.đ 17331 20007 115 34109 170 34746 101 37649 108 43510 115 doanh - Vốn NS Tr.đ 12056 11899 98 24765 208 24810 100,1 24810 100 24810 100 cấp - Vốn tự bổ 5275 8108 153 9344 115 9936 106 13709 137 18690 136 sung Như vậy qua bảng số liệu ta thấy rằng trong 3 năm 95, 96, 97 thì nguồn vốn kinh doanh của Công ty tăng lần lượt là 1,15 và 1,97 so với (95), năm 1998, 1999, 2000 nguồn vốn của Công ty tăng lần lượt là 1,08 và 1,25 so với năm 1998 và trong 2 năm tốc độ tăng lên là 17%. Nếu đi sâu phân tích ta thấy vốn ngân sách cấp năm 97 so với 95 tăng 2,05 lần nguồn vốn tự bổ sung tăng lên 97 so 95 là 1,77 lần. Trong 3 năm gần đây 1998, 1999, 2000 thì vốn ngân sách cấp hoàn toàn không tăng ở mức là 24819 (triệu đồng). Như vậy tăng 100% trong cơ cấu nguồn vốn kinh doanh hay nói cách khác là trong 3 năm trở lại dây nguồn vốn kinh doanh tăng lên chính là do tăng nguồn vốn tự bổ sung của Công ty chủ yếu là do Công ty làm ăn có lãi và hiệu quả. II. Phân tích thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông 1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất năm 2000 Trong năm 2000 vừa qua Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông có nỗ lực trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất, hầu hết các chỉ tiêu đều vượt so với kế hoạch đặt ra và nộp ngân sách tăng 5.700.000.000 đ so với kế hoạch. Biểu 6: Thực hiện kế hoạch sản xuất năm 2000 STT Chỉ tiêu ĐVT Kế hoạch Thực hiện % so với 2000 2000 kế hoạch 1 Giá trị tổng sản (tr.đ) 179.000 217.912 121,74 44
  45. lượng 2 Doanh số tiêu thụ (tr.đ) 159.500 203.300 127,46 3 Sản phẩm chủ yếu - Bóng đèn tròn 25.500 29.000 113,37 - Sản xuất phích 2.500 3159 122,6 Trđ phích H'chỉnh 2.200 2.515 114,13 - Bóng đèn H'quang 5.250 7.158 133,33 4 Nộp ngân sách 14.000 19.700 138,33 5 Lao động 1350 1464 6 Thu nhập 1.780 1.952 BQ/tháng/người 7 Lợi nhuận thực hiện 11.000 13.500 122,7 2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm chủ yếu năm 2000 tại Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông Biểu 7: Một số sản phẩm chủ yếu năm 2000 Tên sản ĐVT Tồn đầu Sản xuất Tiêu thụ Tồn cuối Tiêu thụ So sánh phẩm (SP) kỳ trong kỳ trong kỳ kỳ năm (%) 1999 Đèn tròn 1000 1.500 30.765 29.600 2665 23.063 128,3 Đèn 1000 650 7.000 6.850 800 4.827 141,9 H'quang Phích nước - Phích 1000 120 2450 2400 170 1806 132,9 hoàn 45
  46. chỉnh - Ruột 1000 10 800 785 25 695 12,9 phích Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty được lập ra cho các sản phẩm chính: bóng đèn tròn, bóng đèn huỳnh quang, phích nước trong đó có phích hoàn chỉnh và ruột phích. - Cột số lượng tiêu thụ năm 1999 được tập hợp từ "sổ chi tiết tiêu thụ" năm 1999 của Công ty. - Cột số lượng tiêu thụ trong kỳ được lập căn cứ vào các hợp đồng kinh tế đã kí kết và căn cứ vào nhu cầu thị trường làm kế hoạch. - Cột số lượng sản xuất trong kỳ được dựa vào kế hoạch tiêu thụ trong năm, dựa vào số dự đoán về dư đầu kỳ và nhu cầu đột xuất của khách hàng. - Cột số lượng tồn cuối kỳ được tính bằng cách lấy số lượng sản xuất trong kỳ trừ đi cột số lượng tiêu thụ trong kỳ và cộng tiếp với tồn đầu kỳ. Kế hoạch tiêu thụ hàn quí được lập đơn giản hơn vì trong các kế hoạch không có so sánh thực tế cùng quí của năm 1999. Dưới đây là biểu kế hoạch tiêu thụ sản phẩm dành cho quí IV năm 2000. Biểu 8: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm theo quý/tháng Tên sản phẩm Tồn đầu kỳ Sản xuất Tiêu thụ Tồn cuối Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 Đơn giá KH (1000 SP) trong kỳ trong kỳ kỳ (1000 (1000 SP) (1000 SP) (1000 SP) (đồng) (1000 SP) (1000 SP) SP) Đèn tròn 450 9050 9060 440 2900 3060 3100 2100 Đèn H'quang 230 2270 2190 310 620 700 870 7000 Phích nước 46
  47. - Phích hoàn 45 800 730 115 230 230 270 27500 chỉnh - Ruột phích 5 245 240 10 80 80 80 14.400 Việc lập kế hoạch của Công ty nhìn chung là thích hợp với đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Trong năm 2000 số lượng hàng hoá dự kiến tiêu thụ đã tăng lên hẳn so với số lượng tiêu thụ được năm 1999. Về số lượng tiêu thụ: số lượng dự kiến tiêu thụ năm 2000 tăng lên ở hầu hết các mặt hàng so với năm 1999. - Xét về bóng đèn tròn các loại: dự kiến năm 2000 sẽ tiêu thụ 29.600.000 chiếc tăng lên 6.537.000 sản phẩm so với thực hiện năm 1999 tức tỉ lệ tăng lên là 28,34%. - Xét về bóng đèn huỳnh quang: kế hoạch năm 2000 là sẽ tiêu thụ 6.850.000 sản phẩm đèn huỳnh quang. Số lượng này dự kiến sẽ vượt năm 1999 là 2.023.000 sản phẩm đèn huỳnh quang tức là tăng lên 41,9%. Đây là một tỉ lệ tăng rất cao. - Xét về phích hoàn chỉnh: năm 2000 dự kiến sẽ tiêu thụ 2.400.000 sản phẩm phích hoàn chỉnh. So với thực hiện năm 1999 là 1.806.000 sản phẩm thì tăng lên là 594.000 sản phẩm. Tức là tăng lên 32,9% so với năm 1999. - Về ruột phích: số lượng ruột phích tiêu thụ mỗi năm thường không nhiều lắm. Năm 1999 lượng ruột phích tiêu thụ là 695.000 sản phẩm mà năm 2000 sẽ tiêu thụ được 785.000 sản phẩm ruột phích tăng 90.000 ruột phích tức là tăng 12,94%. Kế hoạch năm 2000 dự tính tiêu thụ mạnh là sản phẩm đèn huỳnh quang. Do yêu cầu từ phía thị trường, người tiêu dùng hiện nay để sử dụng thắp sáng trong nhà, họ ưa chuộng đèn huỳnh quang hơn vì ánh sáng dịu. Hơn nữa dây chuyền sản xuất đèn huỳnh quang của Công ty lại là một dây chuyền hiện đại bậc nhất của Việt Nam tạo điều kiện nâng cao chất lượng, giảm chi phí sản 47
  48. xuất sản phẩm. Đó cũng là một thế mạnh của Công ty. 3. Phân tích tình hình tiêu thụ theo khu vực thị trường 48
  49. Biểu 9: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty ở một số khu vực thị trường Tên sản phẩm Đơn vị tính Năm 2000 1. Thị trường tại Hà Nội - Bóng đèn tròn Sản phẩm 17.775.475 - Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 3.950.117 - Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 1.023.436 - Ruột phích Sản phẩm 444.800 2. Thị trường tại Nam Định - Bóng đèn tròn Sản phẩm 1.232.000 - Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 37.325 - Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 64.433 - Ruột phích Sản phẩm 293.500 3. Thị trường tại Nghệ An - Bóng đèn tròn Sản phẩm 170.750 - Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 9.375 - Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 20.387 - Ruột phích Sản phẩm 19.625 4. Thị trường tại Hải Phòng - Bóng đèn tròn Sản phẩm 1.170.650 - Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 36.050 - Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 29.365 - Ruột phích Sản phẩm 455.750 5. Thị trường tại TP Hồ Chí Minh 49
  50. - Bóng đèn tròn Sản phẩm 863.600 - Bóng đèn huỳnh quang Sản phẩm 103.275 - Phích hoàn chỉnh Sản phẩm 638.718 - Ruột phích Sản phẩm 489.500 Nhìn vào tình hình các vùng thị trường của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông ta thấy thị phầm chiếm tỉ trọng lớn nhất đó là thị trường Hà Nội. Thị trường Hà Nội chiếm một lượng 17.775.000 bóng đèn tròn, 444.800 ruột phích, 1.023.436 phích hoàn chỉnh và đèn huỳnh quang chiếm 3.950.117 sản phẩm. Còn tại các thị trường khác như thị trường Nghệ An, thị trường thành phố Hồ Chí Minh tình hình tiêu thụ cũng gặp không ít trở ngại. Tại các khu vực này lượng sản phẩm tiêu thụ không được mạnh mẽ như các thị trường khác. Đó là yếu tố hoàn toàn bất lợi của Công ty. Cũng là do sự cạnh tranh gay gắt của sản phẩm do Công ty bóng đèn điện quang Hồ Chí Minh sản xuất và sản phẩm của các công ty tư nhân khác. Đồng thời do khoảng cách địa lý cũng tương đối xa xôi, nên việc vận chuyển sản phẩm, nhất là những sản phẩm thuỷ tinh thực sự không dễ dàng gì. Mà trong năm 2000 do thiên tai lũ lụt kéo dài nên đã gây khó khăn cho việc vận chuyển sản phẩm thông suốt cả nước. Do vậy để mở rộng hơn nữa các thị trường ở miền Nam, miền Trung vẫn là vấn đề cần giải quyết của công ty. 4. Phân tích tình hình thực hiện tiêu thụ sản phẩm Trong năm 2000 sản phẩm của Công ty đã được tiêu thụ rất mạnh mẽ. Điểm đáng lưu ý là cho đến tháng 11, tháng 12 năm 2000 Công ty lại sản xuất sản phẩm máng đèn huỳnh quang và đèn huỳnh quang compact và là lần đầu tiên đưa ra thị trường. Biểu 10: Tình hình thực hiện tiêu thụ sản phẩm năm 2000 Thực hiện tiêu thụ sản phẩm năm 2000 Đơn giá Doanh thu Số lượng 50
  51. Tên sản phẩm Tồn đầu Sản xuất Tiêu thụ Tồn cuối bình quân tiêu thụ tiêu thụ kỳ (1000 trong kỳ trong kỳ kỳ (1000 (đồng) năm 2000 năm 1999 SP) (1000 SP) (1000 SP) SP) (tr.đ) (1000 SP) Đèn tròn 1.442 29.000 27.638 2.804 1.953 53.973 23.063 Đèn H'quang 742 7.158 7.285 615 6.849 49.895 4.827 Phích nước - Phích hoàn 125 2.515 2.542 98 27.070 68.813 1.806 chỉnh - Ruột phích 0 828 812 16 14.239 11.562 695 Máng đèn 51,255 51,128 0,127 6122 313 H'quang Đèn huỳnh 32 11 21 39.363 433 quang Compact Cộng 184.989 Năm 2000 với nỗ lực phấn đấu trong công tác tiêu thụ sản phẩm, tổ chức việc bán hàng, sử dụng đòn bẩy tài chính Công ty đã đạt những kết quả sau: Bóng đèn tròn của Công ty đã tiêu thụ trong năm là 27.638.000 sản phẩm với đơn giá bình quân là 1953 đ/SP đạt doanh thu 53.975 triệu đồng. Nếu đem ra so sánh với tình hình thực hiện năm 1999 thì đều tăng lên cả sản lượng lẫn doanh thu. Sản lượng tăng 4.575.000 sản phẩm tức là tăng 19,83% so với năm 1999. Đây là việc cố gắng của Công ty. Về bóng đèn đèn huỳnh quang, sản lượng tiêu thụ năm 2000 là 7.285.000 sản phẩm tăng so với năm 1999 (tiêu thụ đạt 4.827.000 sản phẩm) là 2.458.000 sản phẩm. Một tỉ lệ tăng rất cao 50,92% so với năm 1999. Với tỉ lệ tăng như vậy nên doanh thu cũng tăng từ năm 1999 là 34.453 lên đến 49.895 triệu đồng tức là tăng 15.442 triệu đồng về số tương đối tăng lên là 44,82% so với năm 1999. Về sản phẩm phích hoàn chỉnh. Sản lượng tiêu thụ năm 1999 là 1.806.000 sản phẩm thì đến năm 2000, tiêu thụ được 2.542.000 sản phẩm và 51
  52. doanh thu tăng so với năm 1999 từ 49.289 triệu đồng đến 68.813 triệu đồng. Tức là tăng 19.524 triệu đồng về số tương đối và 39,61%. - Sản phẩm ruột phích về số lượng cũng tăng. Năm 1999 tiêu thụ được 695.000 sản phẩm thì đến năm 2000 tiêu thụ được 812.000 sản phẩm tăng 117.000 sản phẩm tức là tỉ lệ tăng là 15,2% so với năm 1999. Với tình hình tiêu thụ năm 2000 như vậy Công ty đã đạt được những kết quả tương đối tốt. Các sản phẩm đều có sự tăng trưởng cả về số lượng lẫn doanh thu trên từng sản phẩm tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có khác nhau. Tăng nhanh và mạnh hơn cả là bóng đèn huỳnh quang, sau đó là phích nước hoàn chỉnh. Bóng đèn tròn các loại cũng tăng nhưng với tốc độ chậm hơn so với các sản phẩm khác. Để xem xét tình hình cụ thể ta đi xem xét tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty qua các quí. Biểu 11: Tình hình tiêu thụ sản phẩm chủ yếu qua các quí năm 2000 Tên sản Quý I Quý II Quý III Quý IV phẩm Số lượng Đơn giá Số lượng Đơn giá Số lượng Đơn giá Số lượng Đơn giá (1000 SP) BQ (đồng) (1000 SP) BQ (đồng) (1000 SP) BQ (đồng) (1000 SP) BQ (đồng) Đèn tròn 8052 1985 5957 1975 5160 1934 8469 1917 Đèn HQ 1850 7029 1581 6.991 1622 6845 2232 6601 Phích nước - Phích 802 27119 467 26925 429 27181 844 27047 HC - Ruột 277 14498 154 14305 126 14071 255 14000 phích 52
  53. Máng đèn 51,128 6122 HQ Đèn HQ 11 39363 compact Quí I đầu năm 2000 sản phẩm được bán ra với một số lượng đáng kể gồm 8.052.000 sản phẩm đèn tròn các loại, 1.850.000 đèn huỳnh quang, 802.000 sản phẩm phích hoàn chỉnh và 277.000 sản phẩm ruột phích. Vào thời điểm này tiết trời đang là mùa xuân vẫn còn lạnh, nám nên nhu cầu về các sản phẩm của Công ty còn tương đối cao. Nước ta lại chủ yếu là nước nông nghiệp vào các tháng 1, 2, 3 đang là những ngày nông nhàn nên dân thường hay đi mua sắm, do vậy thời kỳ này công tác tiêu thụ sản phẩm đang ở chiều hướng có thuận lợi. Cho đến quí II và quí III, lượng sản phẩm đã bắt đầu giảm xuống. Bóng đèn tròn quí II chỉ tiêu thụ được 5.957.000 sản phẩm đến quí III giảm xuống 5.160.000 sản phẩm. Về sản phẩm phích hoàn chỉnh quí II tiêu thụ được 467.000 sản phẩm, quí III lại giảm xuống 429.000 sản phẩm còn ruột phích thì giảm mạnh quí II tiêu thụ được 154.000 sản phẩm, quí III tiêu thụ 126.000 sản phẩm. Vì vào các quí này thời tiết bắt đầu trở lên nóng, nhu cầu giữ nóng nước cũng giảm xuống. Hơn nữa đây là mùa mưa vì vậy ngành xây dựng cũng hẹp lại. Sự thu hẹp này cũng ảnh hưởng không ít tới nhu cầu về sản phẩm của Công ty. Vào hai quí II, quí III sản phẩm đã giảm rõ rệt so với quí I. Nhưng sang quí IV thì sản phẩm của Công ty lại trội dậy và đẩy ra rất nhanh. Bóng đèn tròn lên đến 8.469.000 sản phẩm, đèn huỳnh quang 2.232.000 sản phẩm, phích hoàn chỉnh 844.000 sản phẩm và ruột phích 255.000 sản phẩm, đó là đặc điểm của sản phẩm tạo nên, trong quí IV là thời gian giáp tết nên sức mua mạnh, lượng hàng bán ra được nhiều hơn. Để phục vụ cho tết cổ truyền các gia đình đều thực hiện việc trang trí nhà cửa nên việc mua các sản phẩm của 53
  54. Công ty được diễn ra liên tục thậm chí không những trang trí, họ còn mua dự phòng để trong dịp tết nếu dùng lâu bị hỏng cũng có đồ để thay thế. Tình hình tiêu thụ sản phẩm như vậy là do đặc điểm sản phẩm của Công ty có tính chất thời vụ nên điều hđó đã chi phối việc tiêu thụ các sản phẩm của Công ty. Để có được kết quả về công tác tiêu thụ sản phẩm như vậy, Công ty đã phải rất nỗ lực trong việc giữ và mở rộng thị trường, tìm các thị trường tiềm năng để khơi dậy nhằm tăng khối lượng sản phẩm bán ra. Đến nay thì thị trường của Công ty khá rộng phủ kín cả nước nhưng trên cùng một thị trường đều phải đấu tranh với các sản phẩm cùng loại do Công ty, đơn vị khác sản xuất việc cạnh tranh diễn ra trên nhiều khía cạnh như chất lượng giá cả Việc cạnh tranh này diễn ra rất quyết liệt đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh luôn hạ giá nhằm chiếm lĩnh thị trường. 5. Đánh giá chung về tình hình tiêu thụ sản phẩm 5.1. Thuận lợi Thứ nhất: nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của Công ty là khá rộng rãi. Vì những sản phẩm của Công ty là vật dụng thường xuyên trong gia đình nên lượng cầu về sản phẩm của Công ty là lớn. Bên cạnh đó sản phẩm của Công ty sản xuất ra có chất lượng tốt, được qua các khâu kiểm tra chặt chẽ nên đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Thứ hai: Về mặt công nghệ sản xuất các dây chuyền sản xuất của Công ty hiện đại, như dây chuyền sản xuất đèn huỳnh quang là một trong những dây chuyền hiện đại bậc nhất tại Việt Nam. Thứ ba: Công ty có đội ngũ công nhân tay nghề cao, có bề dày kinh nghiệm nhiều năm sản xuất, có trách nhiệm và nhiệt tình trong công việc. Đặc biệt là họ gắn bó với Công ty nên tạo ra một khối đoàn kết, một bầu không khí thoải mái trong công việc, thuận lợi cho sản xuất. Thứ tư: Một yếu tố quan trọng là Công ty có uy tín trong kinh doanh sau 54
  55. nhiều năm hoạt động Công ty thiết lập được một đội ngũ bạn hàng đáng tin cậy, gắn bó với Công ty trong nhiều năm. 5.2. Khó khăn Thứ nhất: Khó khăn trước hết là sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Để có chỗ đứng vững Công ty luôn phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh. Về bóng đèn có Công ty bóng đèn điện quang thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một đối thủ lớn của Công ty vì Công ty bóng đèn điện quang Hồ Chí Minh cũng là một doanh nghiệp có những điều kiện về công nghệ về kinh doanh, về chất lượng sản phẩm tương đối. Bên cạnh đó còn có các đối thủ khác như Công ty liên doanh Đông á cũng sản xuất bóng đèn huỳnh quang. Công ty tư nhân sản xuất bóng đèn Đại quang thành phố Hồ Chí Minh và các sản phẩm nhập ngoại của Philippin, Đức, Trung Quốc. Về phích nước Công ty phải cạnh tranh với các sản phẩm của các Công ty tư nhân sản xuất như sản phẩm phích ASEAN, phích 999 và các sản phẩm phích của Trung Quốc. Với một số lượng các đối thủ cạnh tranh như vậy, mà các đối thủ cạnh tranh luôn hạ giá bán gây nhiều ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Thứ hai: Vật tư của Công ty chủ yếu nhập ngoại nên giá đắt đòi hỏi nhiều về vốn. Trong những năm qua dưới sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế châu á giá cả vật tư đầu vào liên tục tăng lên nhưng do cạnh tranh giá đầu ra cũng phải giảm xuống. Do vậy điều đó đặt ra thách thức rất lớn đối với Công ty. Thứ ba suốt năm 1999 rồi đến năm 2000 thiên tai, lũ lụt miền trung kéo dài, hàng hoá bị ách tắc không lưu thông được trong cả nước. Vấn đề này cũng ảnh hưởng khá nhiều đến công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty. 55
  56. Phần ba Một số biện pháp cơ bản nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông I. Tăng cường nghiên cứu, xây dựng chiến lược thị trường Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn có quyết định đúng đắn thì phải dựa trên những thông tin thu thập chính xác. Trong công tác tiêu thụ muốn có một chiến lược sản phẩm hợp lý, một mạng lưới tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả nhất thì phải nghiên cứu thị trường về nhu cầu sản phẩm. Công tác nghiên cứu thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xác định phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn đồng thời nó cũng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh có thể thực hiện nhanh chóng, nhịp nhàng, tăng nhanh vòng quay vốn. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu được, doanh nghiệp còn nâng cao khả năng thích ứng của sản phẩm mình sản xuất ra với yêu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, nắm bắt, đón đầu các nhu cầu tiềm ẩn và cải tiến sản phẩm cho phù hợp. Do đó công tác nghiên cứu nhu cầu thị trường không thể thiếu được trong việc nâng cao hiệu quả của quá trình tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường. Một trong những tồn tại lớn nhất của Công ty hiện nay đó là công tác nghiên cứu thị trường chưa thật hiệu quả và hợp lý. Công ty cần phải khắc phục tình trạng phụ thuộc vào nhu cầu, thụ động trong sản xuất nhằm: - Xác định những thị trường, những khu vực bị bỏ trống mà doanh nghiệp có khả năng vươn tới và dung lượng nó. - Xác định tình hình cạnh tranh trên thị trường, xác định điểm mạnh, điểm yếu của Công ty cũng như của các đối thủ cạnh tranh. - Nghiên cứu tìm hiểu thăm dò khách hàng về chất lượng sản phẩm, giá 56
  57. ca ở mỗi vùng thị trường. Những đặc điểm nào của sản phẩm mà khách hàng khen chê. - Đối với những người trung gian: cách thức kí hợp đồng, thanh toán, vận chuyển như thế nào thì khách hàng thấy thoải mái chủ động trong tiêu thụ sản phẩm. Để nghiên cứu thị trường đạt kết quả tốt, bên cạnh những thông tin được thu thập chính xác, còn cần phải có một bộ phận nghiên cứu thị trường một cách chuyên tinh theo đúng chức năng của nó. Công ty nên tăng cường cho phòng kinh doanh bằng các biện pháp. + Về nhân sự: Công ty nên lựa chọn những người có năng lực chuyên môn làm công tác tiếp thị nghiên cứu thị trường bồi dưỡng và đào tạo cho họ những kĩ năng thu thập và xử lí thông tin và kiến thức Marketing. + Về trang bị: Công ty cần phải tiến hành lưu trữ thông tin bằng cách thêm trang bị hệ thống máy móc hiện đại. Như vậy sẽ cắt giảm nhiều thời gian trong việc tra cứu và xử lý thông tin, kết quả của nghiên cứu thị trường sẽ được đưa ra nhanh chóng và kịp thời. Xây dựng chiến lược thị trường là một việc làm rất khó khăn đòi hỏi phải tập hợp được lực lượng kiến thức cũng như kinh nghiệm trong toàn Công ty. Để làm được điều này Công ty phải tổ chức hẳn ban soạn thảo trong đó do giám đốc hoặc phó giám đốc làm trưởng ban, các thành viên phải được lựa chọn từ các phòng ban và có sự tham gia ý kiến của người lao động. Trong chiến lược thị trường này có một số vấn đề chính cần lưu ý đó là: - Nếu nêu được tầm quan trọng của chiến lược thị trường để mọi người trong toàn Công ty luôn ý thức và hành động vì nó. Trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh kiên quyết theo đuổi coi nó là kim chỉ nam cho mọi hành động. - Xác định đối tượng khách hàng của Công ty là toàn bộ cộng đồng dân cư ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam trong đó khách hàng ở khu vực miền Bắc là khách hàng mục tiêu cho Công ty. Còn khách hàng ở khu vực phía Nam, 57
  58. Trung là mục tiêu của sự mở rộng thị trường. - Xác định một cơ cấu sản phẩm tối ưu trong các mặt hàng chính là mục tiêu của sự đổi mới và phát triển sản xuất. II. Nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm hàng hoá và đa dạng hoá sản phẩm Đánh giá về chất lượng sản phẩm của Công ty ta có thể thấy là khá tốt nhưng đứng trước tình hình xã hội ngày càng văn minh thì sự đòi hỏi về chất lượng cao hơn. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong cạnh tranh đó cũng là chiến lược lâu dài mà Công ty cần phải quan tâm đến. Để nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nữa thì cần phải: 1. Tăng cường huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ Trong hai năm 1999, 2000 Công ty đã mạnh dạn đầu tư đổi mới rất nhiều khâu công nghệ. Vậy nhưng vẫn còn những khâu nằm trong tình trạng yếu kém. Chỉ cần một vài khâu công nghệ như vậy thôi thì năng suất làm việc sẽ không cao, chất lượng sản phẩm sẽ giảm xuống. Cần phải hoàn thiện các khâu công nghệ từ đó mới có thể ra đời những sản phẩm bền, đẹp tăng sức mạnh trong cạnh tranh. Mặc dù để có vốn đầu tư đổi mới công nghệ là rất khó khăn nhưng trước hết là phải triệt để tiết kiệm để tích luỹ vốn bên cạnh đó phải sử dụng những phương thức huy động vốn cần thiết để thay thế những dây chuyền cũ đã lạc hậu thành những dây chuyền mới hiện đại. Về việc huy động vốn có thể sử dụng các nguồn vốn như từ quĩ khấu hao, từ lợi nhuận để lại. Trước đây Công ty đã có hình thức huy động bằng cách vay vốn của CBCNV trong Công ty để đầu tư, đến cuối năm 1999 số vốn vay này lên đến 25 tỉ đồng. Cách làm này vừa tạo điều kiện có vốn để đầu tư, vừa tạo lên thêm sự gắn bó giữa CBCNV với Công ty. Đối với nguồn vốn từ ngân sách thì không nên trông chờ ỷ lại. Cần phải tự vận động đi lên. Ngoài ra Công ty có thể đi vay nhưng với điều kiện sản xuất kinh doanh cần phải thực hiện có hiệu quả. Về việc sử dụng máy móc, Công ty cần phải chú ý, đảm bảo tốt chế độ bảo dưỡng máy móc, thiết bị theo đúng yêu cầu thiết bị và thực trạng của máy. 58
  59. 2. Cần phải nâng cao năng lực sản xuất của công nhân, nâng cao tay nghề của họ Bởi vì đây là những người trực tiếp vận hành máy móc, thiết bị nên ngay cả trong điều kiện sản xuất tự động hoá thì máy móc vẫn chịu sự chi phối của người điều hành. Ngay như hiện nay Công ty trang bị khá nhiều máy móc kỹ thuật hiện đại, nhưng do dây chuyền mới nên việc công nhân làm chủ được còn khó khăn. Mà yêu cầu của việc sản xuất kinh doanh là liên tục. Do đó phải mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, tổ chức hội thảo, rút kinh nghiệm, báo cáo kinh nghiệm trong phạm vi từng phân xưởng cũng như trong toàn Công ty. Về mặt tài chính cần phải sử dụng tiền lương, tiền thưởng để khuyến khích công nhân. Thực hiện nâng lương cho những công nhân có tay nghề cao, thưởng một cách xứng đáng và hợp lý với công nhân có thành tích trong việc tăng năng suất, có các sáng kiến phục vụ cho sản xuất. Bên cạnh các hình thức thưởng thì cần phải có các hình thức phạt đối với những công nhân kém không chịu phấn đấu vươn lên làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Ngoài những biện pháp trên cần phải tăng cường khâu kiểm tra, tuyệt đối hạn chế sản xuất sản phẩm có chất lượng kém, tránh lọt những sản phẩm xấu ra ngoài. 3. Việc đa dạng hoá sản phẩm Hiện nay do nền kinh tế phát triển, rất nhiều người có thu nhập cao, có nhu cầu về sản phẩm cao cấp. Nếu sản phẩm chỉ có chất lượng thôi thì chưa đủ. Sản phẩm cần phải đẹp, nhiều chủng loại để thích hợp với nhu cầu đa dạng của thị trường. Công ty cần phải thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm bóng đèn, đèn trang trí nội thất, đèn chiếu sáng công cộng, đèn ôtô, xe máy. Cần phải chú trọng tới các sản phẩm có những yếu tố thích hợp với yêu cầu tiêu dùng hiện nay. Đặc biệt Công ty phải nghiên cứu chế tạo loại đèn huỳnh quang tiết kiệm điện hơn nữa để có thể cạnh tranh với các công ty khác. Hiện nay trên thị trường còn một số sản phẩm bóng đèn mà trong nước chưa sản 59
  60. xuất. Công ty nên xem xét khả năng, trong trường hợp có thể thì nên tiến hành sản xuất những loại sản phẩm này như sản phẩm đèn cao áp, đèn halogen. Đối với sản phẩm phích nước, loại phích vỏ sắt vẫn còn hiện tượng vỏ bình mau han, hình ảnh còn chưa được đẹp. Đối với hàng phích nhựa, vỏ bình tương đối đẹp nhưng khi dùng hay bị vết xước, gãy bản. Ngoài ra Công ty cũng sản xuất các phích như phích cao cấp, phích vân đá Trong thời gian tới Công ty cần phải xây dựng một số chủng loại phích nước mới sử dụng phụ tùng nhựa cao cấp hoặc vỏ nhựa cao cấp có ưu điểm nhẹ, đẹp, bền mầu. Hình ảnh trên phích đẹp lôi cuốn người tiêu dùng. III. Chính sách giá cả Công ty sản xuất ra những mặt hàng chính là những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của dân chúng nên một chính sách giá cả thống nhất được thông báo rộng rãi là một việc làm có ý nghĩa chiến lược trước mắt cũng như lâu dài. Tác dụng to lớn của chính sách này là: - Tạo ra rào cản rất lớn chống lại sự xâm nhập của các đối thủ cạnh tranh cũng như các cơ sở sản xuất hàng giả. Hơn nữa nếu như giá cả đó là tương đối rẻ so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thì đó sẽ là thách thức rất lớn đối với các đối thủ. - Giá cả thống nhất sẽ hạn chế các nhà bán lẻ đặt giá tuỳ tiện sản phẩm của Công ty. - Tạo ra một tâm lý tiêu dùng tốt vì trên thị trường có rất nhiều loại sản phẩm với giá rẻ có, đắt có mà chất lượng thì chưa thể đo lường ngay được. Nếu Công ty đưa ra mức giá thống nhất trên địa bàn toàn quốc thì mọi người sẽ có cảm giác an toàn khi tiêu dùng. Tuy nhiên việc xây dựng chính sách giá thống nhất với các sản phẩm cũng có một số nhược điểm có thể nhận thấy là: - Khó quản lý giá và quảng bá đến người tiêu dùng với phạm vi rộng lớn như vậy. 60
  61. - Khi theo đuổi chính sách này thì cũng đồng nghĩa với việc không theo đuổi chính sách giá linh hoạt mà ngày nay điều kiện kinh doanh luôn mang đến nhiều biến động, có thể kể đến sự biến động của tỷ giá hối đoái cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến giá thành phẩm của Công ty vì nguyên vật liệu chính chủ yếu Công ty phải nhập từ nước ngoài. - Nếu không đi kèm với chính sách phân phối hợp lý thì sẽ rất khó thuyết phục bạn hàng tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Các hạn chế này là không đáng kể song không phải là không thể khắc phục. Tuy vậy chúng ta cũng cần hiểu là sự thống nhất trong một giới hạn tương đối khi cần thiết để có thể điều chỉnh hợp lý. Bên cạnh chính sách giá cả thống nhất, Công ty nên tiếp tục theo đuổi chính sách phân biệt theo số lượng, theo mức thu nhập, khả năng thanh toán, theo thời vụ, bao bì, khoảng cách vận chuyển IV. Tích cực đẩy mạnh hoạt động truyền thông, xúc tiến Quảng cáo ngày càng trở nên phổ biến trong cuộc sống hàng ngày và là hoạt động không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường. Về quảng cáo Công ty cần phải xây dựng một chương trình quảng cáo sao cho hiệu quả mà ít tốn kém. Quảng cáo cần ngắn gọn dễ ghi nhớ, đem lại hình ảnh của Công ty cho người tiêu dùng. Đối với những khu vực phát triển nền quảng cáo qua báo chí, tivi, qua áp phích, panô, còn đối với các khu vực nông thôn xa thành thị nên quảng cáo chủ yếu qua tivi và đài phát thanh. Hàng năm Công ty nên tham gia các hội chợ triển lãm trên phạm vi toàn quốc. Những đợt triển lãm này là cơ hội để Công ty thực hiện được nhiều mục đích: quảng cáo, giới thiệu sản phẩm với khách hàng trong và ngoài nước, nắm bắt được thông tin từ phía người tiêu dùng, cơ hội tiếp cận với các lãnh đạo, các đơn vị khác một cách thoải mái để chào hàng, học tập kinh nghiệm, tìm kiếm được các bạn hàng. 61
  62. Kết luận Doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi phải hướng sự phục vụ của mình vào các đối tượng khách hàng và một trong những kim chỉ nam để hành động vì khách hàng là "khách hàng luôn luôn đúng". Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng thành công vì sự cạnh tranh trên thương trường, có kẻ thắng người thua đó là điều tất yếu nhưng chắc chắn rằng nếu doanh nghiệp biết tận dụng triệt để các thế mạnh của mình, tìm ra các kẽ hở của thị trường và xác lập một vị trí cạnh tranh có lợi nhất thì doanh nghiệp đó sẽ thành công. Với vấn đề trên, đề tài "Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông" đã trình bày một cách cụ thể, khoa học, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tiễn vấn đề nghiên cứu. Các vấn đề về lý luận cơ sở của thị trường như khái niệm, phân loại và phân đoạn thị trường, vai trò, chức năng của thị trường đã được trình bày ở Phần thứ nhất. Dựa trên cơ sở lý luận đó áp dụng cụ thể vào phân tích thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông ở Phần thứ hai, từ đó tìm ra những thuận lợi và khó khăn. Phần thứ ba tập trung vào giải quyết các vấn đề đã rút ra từ việc phân tích thực trạng ở Phần thứ hai. Qua đó rút ra các biện pháp cũng như các kiến nghị nhằm duy trì và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty nói riêng và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung: Tuy nhiên để không ngừng phát triển và mở rộng thị trường Công ty cần phải chuẩn bị nhiều mặt để phát huy tiềm năng sẵn có của mình. Trong tương lai Công ty phải tập trung nghiên cứu thị trường, đổi mới thêm máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Xây dựng thêm các đại lý bán hàng ở các tỉnh, quảng cáo, khuyếch trương, xây dựng hệ thống đo lường chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9000 và Công ty phải đào tạo đội ngũ cán 62
  63. bộ công nhân viên để nâng cao tay nghề và trình độ quản lý, sẵn sàng dẫn dắt Công ty phát triển hơn nữa trong tương lai. Qua một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu thực tế hạn hẹp cộng với kinh nghiệm quan sát thực tế còn non trẻ nên chắc chắn đề tài còn nhiều hạn chế nhất định. Em rất mong nhận sự góp ý và ý kiến từ phía các thầy cô, bạn bè. Nhân đây em xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới thầy Phan Đăng Tuất trong Khoa công nghiệp Trường đại học Kinh tế quốc dân, các cô chú, anh chị trong Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp những ý kiến quí báu tong quá trình em thực hiện bài chuyên đề này. 63
  64. Mục lục Trang Mở đầu 1 Phần thứ nhất. Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm 3 của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường I. Một số vấn đề cơ bản về thị trường 3 1. Khái niệm 3 2. Phân loại và phân đoạn thị trường 4 II. Vai trò và chức năng của thị trường 7 1. Vai trò của thị trường 7 2. Chức năng của thị trường 9 III. Các nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm của doanh 10 nghiệp trên thị trường 1. Các yếu tố cấu thành trên thị trường 10 2. Các nhân tố ảnh hưởng 12 IV. Cơ chế thị trường và vai trò của nó đối với các doanh nghiệp 17 trong cơ chế thị trường 1. Đặc trưng của cơ chế thị trường 17 2. Vai trò của cơ chế thị trường 18 Phần thứ hai . Phân tích thực trạng về thị trường tiêu thụ sản 20 phẩm ở công ty bóng đèn phích nước rạng đông I. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng đến 20 thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông 64
  65. 1. Quá trình hình thành và phát triển công ty 20 2. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến tiêu 30 thụ sản phẩm ở công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông II. Phân tích thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở công ty 39 bóng đèn phích nước Rạng Đông 1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất năm 2000 39 2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm chủ 40 yếu năm 2000 tại công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông 3. Phân tích tình hình tiêu thụ theo khu vực thị trường 42 4. Phân tích tình hình thực hiện tiêu thụ sản phẩm 44 5. Đánh giá chung về tình hình tiêu thụ sản phẩm 47 Phần ba. Một số biện pháp cơ bản nhằm duy trì và mở rộng thị 49 trường tiêu thụ sản phẩm của công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông I. Tăng cường nghiên cứu, xây dựng chiến lược thị trường 49 II. Nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm hàng hoá và đa dạng 50 hoá sản phẩm 1. Tăng cường huy động vốn đề đầu tư đổi mới công nghệ 51 2. Cần phải nâng cao năng lực sản xuất của công nhân, nâng cao 51 tay nghề của họ 3. Việc đa dạng hoá sản phẩm 52 III. Chính sách giá cả 52 IV. Tích cực đẩy mạnh hoạt động truyền thông, xúc tiến 53 Kết luận 55 65