Đề tài Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thụy Khê trong điều kiện hội nhập AFTA

doc 85 trang nguyendu 8390
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thụy Khê trong điều kiện hội nhập AFTA", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_danh_gia_kha_nang_canh_tranh_cua_cong_ty_giay_thuy_kh.doc

Nội dung text: Đề tài Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thụy Khê trong điều kiện hội nhập AFTA

  1. Lời mở đầu Trong xu hướng hội nhập hoá, toàn cầu hoá về kinh tế các nước và nền kinh tế và thế giới, hoạt động kinh tế trở nên hêt sức quan trọng, tạo tiền đề thúc đẩy nền kinh tế các quốc gia cũng như thế giới phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Cùng với sự hình thành các khu vực Thương mại tự do như EU, NAFTA, các nước ASEAN cũng đang hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN (ASEAN FREETRADEAREA – AFTA). Mở ra cho các nước trong khu vực những cơ hội và thách thức hết sức to lớn. trong đó Việt Nam chúng ta. Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các nướcdoanh nghiệp sản xuất giầy xuất khẩu cần thấy được điểm mạnh điểm yếu, đánh giá khă năng cạnh tranh cũng như vị thế của mình khi Việt Nam tham gia AFTA từ đó để đề ra các giải pháp nhằm phát huy điểm mạnh hạn chế điểm yếu, gia tăng khả năng cạnh tranh của mình. Xuất phát từ đòi hỏi này cũng như tình hình thực tế nơi cơ sở thực tập của mình, tôi chọn đề tài: "Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thụỵ Khê trong điều kiện hội nhập AFTA" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình nhằm đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty trong điều kiện hôị nhập AFTA từ đó đưa ra một số định hướng, giải pháp cho công ty cũng như cơ quan quản lý trực tiếp là Sở công nghiệp Hà Nội những kiến nghị nhằm giúp công ty gia tăng khả năng cạnh tranh của mình. Nội dung của đề tài bao gồm 3 chương. Chương I : Lý luận chung về tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và hội nhập AFTA. Chương II: Đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA. Chương III: Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA. 1
  2. Chương I Lý luận chung về tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và hội nhập AFTA. A. Cạnh tranh. I. Một số lý luận chung trong nền kinh tế thị trường. 1. Thị trường - kinh tế thị trường - cơ chế thị trường và các quy luật của thị trường. Khái niệm thị trường cho đến nay đã có rất nhiều trong quá trình phát triển của nó. Mỗi khái niệm tiếp cận dưới một góc độ khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là để trả lời câu hỏi: Thị trường là gì? - Theo quan điểm của hội quản trị Hoa Kỳ: “Thị trường là tổng hợp các lực lượng trong đó người mua và người bán thực hiện cách quyết định chuyển giao hàng hoá và dịch vụ từ người bán sang người mua". - Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau để tiến hành các cuộc mua bán nhằm thoả mãn nhu cầu của mỗi bên. - Thị trường là tổng thể cung cầu đối với một loại hàng hoá trên thị trường vận động theo những quy luật riêng và điều tiết thị trường thông qua quan hệ cung cầu, đây là định nghĩa mang nhiều tính lý thuyết. - Ta cũng có thể nói rằng thị trường là nơi hàng hoá thực hiện các chức năng trao đổi của nó. Theo Mác thị trường là biểu hiện của sự phân công lao động của xã hội là một trong những khâu của quả trình tái sản xuất mở rộng, là lỉnh vực lưu thông hàng hoá là nơi gặp gở của cung và cầu. Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thị trường của doanh nghiệp là tập hợp các khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó tức là nơi khách hàng đang mua và có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp vận dụng cho khái niệm thị trường quốc tế của doanh nghiệp, ta có khái niệm “thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó“. Bên cạnh đó nói tới thị trường đi liền với nó là khái niệm kinh tế thị trường, Cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà các vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào là do thị 2
  3. trường quyết định. Nói cách khác nền kinh tế thị trường là nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết, đó là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các qui luật kinh tế vốn có. Nền kinh tế thị trường là cách thức tổ chức nền kinh tế xã hội trong đó các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều thể hiện thông qua hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ của từng thành viên , chủ thể là hướng vào việc tìm kiếm lợi ích theo sự dẫn dắt của giá trị thị trường, cơ chế thị trường thì ta định nghĩa cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ môi trường động lực và các qui luật kinh tế chi phối sự vận động của cơ chế thị trường. Các qui luật này bao gồm qui luật giá trị,m qui luật cung cầu qui luật lưu thông, qui luật cạnh tranh. Các qui luật trên đều có vị trí, vai trò độc lập song lại có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra sự vận động của thị trường, chi phối sự hoạt động của các chủ thể kinh tế. Vì vậy, bất cứ một chủ thể nào hoạt động trong nền kinh tế đều không thể không tính tới qui luật này, đặc biệt là các qui luật cạnh tranh. - Qui luật giá trị: Qui định hàng hoá được sản xuất ra và trao đổi trên cơ sở hao phí hao phí lao động xã hội cần thiết tức là mức chi phí bình quân trong xã hội . - Qui luật cung cầu: Nêu ra mối quan hệ giữa nhu cầu cung ứng trên thị trường. Qui luật này qui định cung và cầu luôn có xu hướng chuyển dịch xích lại gần nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường. - Qui luật lưu thông tiền tệ: Xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng số giá cả hàng hoá chia cho số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ cùng loại. - Qui luật cạnh tranh: Tồn tại tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá qui luật cạnh tranh biểu hiện sự cạnh tranh giữa người bán và người mua giữa người bán và người bán giữa người mua với người mua và luôn diễn ra mọi nơi mọi lúc trong tất cả các hoạt động kinh tế trên thị trường. Do đó trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp các chủ thể kinh tế luôn phải năng động đáp ứng nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp này luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để tồn tại, phát triển và trong cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm đạt tới lợi nhuận cao nhất. 3
  4. 2. Cạnh tranh - đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là thuộc tính quan trọng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự đấu tranh gay gắt quyết định giữa các nhà sản xuất, kinh doanh vời nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm chiếm được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo ra điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó, nói tới cạnh tranh là ta không thể không nói đến các nhân tố cấu thành cạnh tranh. Cạnh tranh chỉ xẩy ra khi có đủ ba yếu tố sau đây: Một là, các chủ thể kinh tế tham gia cạnh tranh, tức là những người có cung và có cầu về hàng hoá và dịch vụ. Hai là, đối tượng để thực hiện sự cạnh tranh tức là hàng hoá dịch vụ. Ba là, môi trường cho cạnh tranh đó chính là thị trường. Tuỳ theo từng góc độ tiếp cận chúng ta có thể phân cạnh tranh theo các nội dung khác nhau: + Theo chủ thể tham gia trên thị trường, cạnh tranh được chia làm ba loại : Một là, Cạnh tranh giữa người bán và người mua. Hai là, cạnh tranh giữa người mua với người bán. Ba là, cạnh tranh giữa người bán với người bán. Cạnh tranh giữa người babs với ngươi mua là cuộc cạnh tranh diễn ra dưới hình thức sẽ bán đắt, người bán luôn mong muốn bán sản phẩm, dịch vụ của mình với giá cao. Trong khi người mua lại muốn mua với giá thấp. Sự cạnh tranh được thực hiện trong quá trình vẫn thường gọi là quá trình "mặc cả” với mức giá chấp nhận là giá thống nhất giữa người bán và người mua. Cạnh tranh giữa người mua với nhau là cuộc cạnh tranh trên cơ sở qui luật cung cầu. Khi mức cung của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó nhỏ hơn mức cầu hoặc thay đổi thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Và giá cả của hàng hoá, dịch vụ đó sẽ tăng lên. Ta vẫn biết rằng đường cầu của mỗi cá thể không hoàn toàn giống đường tổng cầu nên nếu người nào đưa ra được giá chung thống nhất phù hợp nhất thì người đó sẽ thắng trong cuộc cạnh tranh này. Cạnh tranh giũa người bán với người bán là cuộc cạnh tranh giữa những người cung cấp, hàng hoá, dịch vụ ra thị trường nhằm bán được nhiều hàng hoá,dịch vụ. Đối với mỗi doanh nghiệp đây là ý nghĩa sống còn, trong điều kiện quốc tế hoá , khu vực hoá thì hội nhập thì cuộc cạnh tranh này lại càng khốc liệt hơn. 4
  5. Theo phạm vi ngành kinh tế: Michael Porter đã chia cạnh tranh thành năm nhân tố cạnh tranh. 1) Cạnh tranh giữa những người mới đi vào sản xuất kinh doanh ở ngành công nghiệp đối với những doanh nghiệp của ngành. Sự xuất hiện của các công ty mới tham gia vào thị trường có khả năng chiếm lĩnh thị trường ( thị phần) của các công ty khác, để hạn chế sự cạnh tranh giữa các đối thủ này các doanh nghiệp thường dựng lên các hàng rào như. + Mở rộng khối lượng sản xuất của công ty để giản chi phí. + Dị biệt hoá sản phẩm. + Mở rộng khả năng cung cấp vốn. + Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối tăng đầu tư vốn. + Mở rộng các dịch vụ bổ sung. Ngoài ra có thể lựa chọ địa điểm thích hợp nhằm khai thác sự hỗ trợ của chính phủ và chon lựa đungs đắn thị trường nguyên liệu và thị trường sản phẩm. 2) Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất và các nhà cung cấp. Sự cạnh tranh ảnh hưởng đến doanh nghiệp về khía cạnh sinh lợi, tăng giá hoặc giảm giá, giảm chất lượng hàng hoá khi tiến hành giao dịch với công ty. 3) Cạnh tranh giữa doanh nghiệp và những người mua. Khách hàng có thể mặc cả thông qua sức ép làm giảm giá, giảm khối lượng hàng hoá mua từ công ty hoặc đưa ra yêu cầu chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá. 4) Cạnh tranh giữa các sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm thay thế khi giá cả của sản phẩm, dịch vụ tăng lên thì khách hàng có xu hướng sử dụng sản phẩm dịch vụ thay thế sự cạnh tranh này đe doạ sự mất mát về thị trường của công ty. Các công ty đưa ra thị trường những sản phẩm có khả năng khác biệt hoá cao độ so với sản phẩm của công ty hoặc tạo ra các điều kiện ưu đãi hơn về các dịch vụ hay các điều kiện tài chính. 5) Cạnh tranh trong mọi bộ ngành. Trong điều kiện này các công ty cạnh tranh với nhau khốc liệt về giá cả, sự khác biệt hoá về sản phẩm hoặc sự đổi mới về sản phẩm giữa các công ty hiện đang cùng tồn tại trong thị trường. Sự cạnh tranh này ngày càng gay gắt là do các đối thủ cạnh tranh nhiều và gần như cân bằng; do sự tăng trưởng của ngành công nghiệp hiện đại ở mức độ thấp ; do các loại chi phí ngày càng tăng ; do chưa quan tâm tới quá trình khác biệt hóa sản phẩm hoặc các chi tiết về chi phí do sự thay đổi của các nhà cung 5
  6. cấp ; do các đối thủ cạnh tranh có chiến lược kinh doanh đa dạng, có xuất xứ khác nhau ; do các hàng rào kinh tế làm cho công ty khó có thể tự do di chuyển giữa các ngành. 3. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Chính sự cạnh tranh đã tạo ra động lực cho nền kinh tế phát triển tạo nên sức thu hút, hấp dẫn cho nền kinh tế, không có cạnh tranh thì sẽ không có cơ chế thị trường, cạnh tranh chính là sự thể hiện tính tự do ưu việt của nền kinh tế thị trường, nó luôn luôn thúc đẩy cac doanh nghiệp ngày càng hòan thiện các sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp đánh giá nhìn lại bản thân mình, phát huy điểm mạnh , khắc phục điểm yếu vận dụng cơ hội, vượt qua được những khó khăn thử thách. Vì vậy cạnh tranh lành mạnh luôn là mục tiêu mà xã hội thị trường và bản thân mỗi doanh nghiệp mong muốn duy trì đạt tới. Cạnh tranh là nhân tố kích thích tạo nguồn cho doanh nghiệp phát triển. Nhưng mặt khác, cạnh tranh cũng rất khắc nghiệt. Cạnh tranh chỉ thực sự giúp đỡ cho những doanh nghiệp có đủ khả năng, năng lực buộc các doanh nghiệp phải cố gắng không ngừng nghỉ nó sẵn sàng loại bỏ không khón nhượng những kẻ lười nhác không còn đủ khả năng thích nghi, sinh hoạt. Cạnh tranh diễn ra ở khắp nơi ta có thể nói rằng sự hiện diện của cạnh tranh là hữu hình mà cũng có thể nói là vô tình. Cạnh tranh lúc diễn ra công khai lúc diễn ra ngấm ngầm lúc dữ dội, lúc phẳng lặng giữa mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế mỗi doanh nghiệp nào biết nắm bắt cơ hội tìm được hướng đi đúng đắn. Xét riêng đến các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để tăng lợi nhuận mở rộng thị trường hoạt động họ tìm cách vươn ra thị trường nước ngoài. Đối với doanh nghiệp của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay phương thức kinh doanh quốc tế chủ yếu vẫn là xuất khẩu. Tuy nhiên thị trường nước ngoài với những đối thủ cạnh tranh rất mạnh về tiềm lực. Ví vậy muốn tăng gia xuất khẩu thì phải tăng khả năng cạnh tranh của chính mình nhằm chiếm và giữ lấy cho mình một thị phần nhất định hay nói cách khác tăng kgả năng cạnh tranh là biên pháp nhàm tăng khả năqng xuất khẩu. Như vậy, rõ ràng cạnh tranh sẽ có tác động mạnh thực sự có tinh thần cầu thị, có đạo đức kinh doanh tạo ra cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trên thị trường. 6
  7. II. Mô hình phân tích khă năng cạnh tranh của các doanh nghiệp (mô hình SWOT). Mô hình SWOT là viết tắt của chữ Streng ths (các điểm mạnh) Oppotunities (các cơ hội) Weaknesses (Các điểm yếu), Threates (Các thách thức). Trên cơ sở phân tích 4 nhân tố trên để tìm ra các điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp cũng như cơ hội, thách thức đối với doanh nghiệp trên thị trường. Để từ đó các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trên thị trường ở thời điểm hiện nay và giúp cho doanh nghiệp để ra được những chiến lược đúng đắn trong giai đoạn trước mắt và tương lai sau này. Sơ đồ mô hình phân tích khả năng cạnh tranh. Phân tích bên ngoài Phân tích bên trong Cơ hội (O) Điểm mạnh ( S) thách thức(T) Điểm yếu (W) Lựa chọ chiến lược cho Doanh nghiệp 1. Phân tích bên ngoài: Đây là sự phân tích các yếu tố của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra các cơ hội cũng như các thách thức đối với doanh nghiệp. Các yếu tố bên ngoài có thể là yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị , yếu tố pháp luật, yếu tố văn hoá xã hội, yếu tố khoa học công nghệ, yếu tố tự nhiên Các yếu tố này là tác động gián tiếp khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu phân tích các yếu tố của môi trường bên ngoài để tăng cơ hội, giảm thách thức hạn chế rủi ro một cách tối thiểu cho doanh nghiệp và trên cơ sở phân tích đó lựa chọn chiến lược hợp lý cho doanh nghiệp. 7
  8. 2. Phân tích bên trong. Đây là sự phân tích các yếu tố bên trong của doanh nghiệp hay là các nhân tố nội tại của doanh nghiệp việc phân tích tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau: - Cơ cấu tổ chức. - Đội ngũ cán bộ quản lý. - Khả năng tài chính. - Trình độ công nghệ Từ việc phân tích những yếu tố trên, Doanh nghiệp sẽ tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp sẽ biết mình sẽ đứng ở đâu trên thị trường, thị phần hiện tại của các doanh nghiệp là bao nhiêu, khả năng tăng thị phần của doanh nghiệp trong thời gian sắp tới, khả năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai một kẻ chiến thắng là kẻ biết mình, biết người có như vậy doanh nghiệp mới biết được đâu là những mặt, những yếu tố đã đang và sẽ gây ảnh hưởng cản trở cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Có biết được nhược điểm và những điểm mạnh của mình thì doanh nghiệp mới biết được cách để khắc phục, giải quyết vấn đề đang và sẽ đặt ra đối với Doanh nghiệp. 3. Mô hình đa giác cạnh tranh Đứng trước một thị trường và các đối thủ cạnh tranh, Các doanh nghiệp cần thiết lập được một bản đánh giá tương đối về các điểm mạnh và các điểm yếu của mình. Điều này đặt ra hai vấn đề chính: Một mặt doanh nghiệp có những năng lực nào vượt trội và mặt khác, tình trạng hiện tại hoặc tiềm năng của các doanh nghiệp như thế nào. Phân tích khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tức là nghiên cứu những nguồn lực mà doanh nghiệp có từ môi trường khu vực và trong nước. Phương pháp có thể được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh là dùng đồ thị dưới dạng đa giác cạnh tranh đa giác này mô tả khả năng của doanh nghiệp theo các yếu tố trong mối quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoặc một tập hợp các đối thủ cạnh tranh để xây dựng một phân tích về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi chồng sơ đồ này lên nhau ta có thể thu được nhanh chóng những ưu thế tương đối của doanh nghiệp. 8
  9. Sản xuất Quan niệm Giá cả đối thủ cạnh tranh Tài chính Trước bán hàng Cô ng ty Ngoại giao Sau bán hàng Bán hàng Hình Mô hình đa giác cạnh tranh Các yếu tố xuất phát từ khả năng của doanh nghiệp. - Chất lượng sản phẩm: Đây là yếu tố quan trọng nhất được đánh giá một cách khách quan bằng những định mức, những yêu cầu khác nhau về thị trường nước ngoài. - Giá cả cũng là một loại công cụ dùng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cùng với chất lượng và các điều kiện như nhau thì giá cả thấp hơn khả năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ cao hơn. - Bán hàng xét theo góc độ phương pháp và các phương tiện thương mại, cách thức bán hàng của doanh nghiệp. - Ngoại giao là khả năng điều hành theo hướng tích cực những mối liên hệ với các nhân tố của môi trường điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh của mình. Đây là những tiền đề cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình và mở rộng thị trường. - Trước bán hàng là khả năng dự báo nhu cầu của thị trường và áp dụng các hoạt động thành thạo để thuyết phục khách hàng và khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng tôt nhất thì doanh nghiệp không những đứng vững trên thị trường mà còn có thể mở rộng thị trường của mình. - Tài chính theo nghĩa là các nguồn tài chính hiện có và có thể huy động một cách nhanh chóng . doanh nghiệp có thể mở rộng và sản xuất kinh doanh tăng cường hoạt động nghiên cứu triển khai, mở rộng thị trường đều phải dựa trên nguồn tài chính hiện có và khả năng huy động nhanh chóng. 9
  10. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào cũng đều phải chịu sự tác động của môi trường xung quanh và chiụ sự tác động từ chính bản thân doanh nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác của môi trương xung quanh doanh nghiệp. Nhìn chung có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, song tóm gọn lại đều có ba nhóm nhân tố cơ bản sau. - Môi trường vĩ mô. - Môi trường ngành: Mô hình 5 sức mạnh của Michael porter. - doanh nghiệp,. 1. Môi trường vĩ mô. Môi trường vĩ mô chính là môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều nhân tố phức tạp ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Môi trường đó chính là tổng thể các nhân tố cơ bản : Nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị và pháp luật, nhan tố xã hội , nhân tố tự nhiên, nhân tố công nghệ. Mỗi hnhân tố này tác động và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng có thể là cơ hội hoặc thách thức đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải có sự am hiểu về các nhân tố trên và đưa ra cách ứng xử cho phù họp đối với những đòi hỏi; những biến động của chúng đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì vấn đề này cần được coi trọng. a. Nhân tố kinh tế. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là nhân tố quan trọng nhất trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, Một nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên đồng nghĩa với một tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc dộ tích luỹ vốn đầu tư trong nền kinh tế cũng tăng lên , mức độ hấp dẫn đầu tư và ngoài cũng sẽ tăng lên cao, sự cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Thị trường được mở rộng đây chính là cơ hội tố cho những doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự hoàn thiện mình, không ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Nhưng nó cũng chính là thách thức đối với những doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng, không có chiến lược hợp lý. 10
  11. Chạy đua không khoan nhượng đối với tất cả các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp nước ngoài cũng như doanh nghiệp ở trong nước dù là doanh nghiệp đó đang hoạt động ở thị trường nội địa hay thị trường nước ngoài. Và ngược lại khi nền kinh tế bị suy thoái, bất ổn định , tâm lý người dân hoang mang, sức mua của người dân giảm sút , các doanh nghiệp phải giảm sản lượng phải tìm mọi cách để giữ khách hàng, lợi nhuận doanh số cũng sẽ giảm theo trong lúc đó sự cạnh tranh trên thị trường lại càng trở nên khốc liệt hơn. Các yếu tố của nhân tố kinh tế như tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ lạm phát tỷ giá hối đoái cũng tác động đến khả năng tài chính của doanh nghiệp. b. Nhân tố chính trị và pháp luật. Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cứ doanh nghiệp nào, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Chính trị và pháp luật là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là trong nước hay nước ngoài. Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn định, phát triển thực sự lâu dài và lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh trực tiếp đến hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi thị trường đều có hệ thống pháp luật riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đặc biệt đối với từng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng của quan hệ giữa các chính phủ, các hiệp định kinh tế quốc tế Các doanh nghiệp này cũng đặc biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia. Sự khác biệt này có thể sẽ làm tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp những đièu này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động, chính sách kế hoạch chiến lược phát triển, loại hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường. Vì vậy, các doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định một môi trường pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Khuyến khích phát triển, tham gioa khả năng cạnh tranh. c. Nhân tố xã hội : Nhân tố xã hội thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian nên đôi khi khó nhận biết nhưng lại qui định các đặc tính của thị trường mà 11
  12. bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải tính đến khi tham gia vào thị trường đó cho dù có muốn sống hay không. Nhân tố xã hội có thể bao gồm. -Lối sống, phong tục, tập quán. -Thái độ tiêu dùng. -Trình độ dân trí. -Ngôn ngữ. -Tôn giáo. -Thẩm mỹ Chúng quyết định hành vi của người tiêu dùng, quan điểm của họ về sản phẩm, dịch vụ, chúng là những điều mà không ai có thể đi ngược lại được nếu muốn tồn tại trong thị trường đó. Ví dụ như ở những thị trường luôn có tư tưởng đề cao sản phẩm nội địa như ấn Độ, Nhật Bản thì các sản phẩm ngoại nhập sẽ kém khả năng cạnh tranh so với các Doanh nghiệp của quốc gia đó. Sự khác biệt về xã hội sẽ dẫn đến việc liệu sản phẩm của Doanh nghiệp khi xuất sang thị trường nước ngoài đó có được thị trường đó chấp nhận hay không cũng như việc liệu doanh nghiệp đó có đủ khả năng đáp được yêu cầu của thị trường mới hay không. Vì vậy các doanh nghiệp phải tìm hiếu nghiên cứu kỹ các yếu tố xã hội tại thị trường mới cũng như thị trường truyền thống để từ đó tiến hành phân đoạn thị trường, đưa ra được những giải pháp riêng. Đáp ứng thị trường tốt nhất yêu cầu của thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. d. Nhân tố tự nhiên. Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở trung tâm công nghiệp hay gần nhất nguồn nguyên liệu, nhân lực trình độ cao, lành nghề hay các trục đường giao thông quan trọng sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển, giảm được chi phí. Các vấn đề ô nhiểm môi trường, thiếu năng lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với các nguồn lực có hạn khiến cho xã hội cũng như các doanh nghiệp phải thay đôỉ quyết định và các biên pháp hoạt động liên quan. e. Nhân tố công nghệ. Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất ra cũng đều phải gắn với một công nghệ nhất định. Công nghệ sản xuất đó sẽ quyết định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi 12
  13. phí cá biệt của từng doanh nghiệp từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin một cách chính xác và có hiệu quả nhất trong thời đại hiện nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn thành công cũng cần có một hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ, truyền phát thông tin một cách chính xác, đầy đú nhanh chóng hiệu quả về thị trường và đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, khó học công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như thị trường doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng khoa học công nghệ là tiền đề cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. 2. Môi trường ngành. Môi trường ngành là môi trường bao gồm các doanh nghiệp trong cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường ngành còn được hiểu là môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp sự tác động của môi trường ngành ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là điều không thể phủ nhận. Môi trường ngành bao gồm năm nhân tố cơ bản là : đối thủ cạnh tranh, người mua, người cung cấp, các đối thủ tiềm ẩn và các đối thủ thay thế. Đó là nhân tố thuộc mô hình 5 sức mạnh của Michael porte. Sự am hiểu các nguồn sức ép cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhân ra mặt mạnh mặt yếu cũng như các cơ hội và thách thức mà doanh nghiệp ngành đó đã và đang và sẽ gặp phải. Đối thủ mới tiềm năng Các đối thủ cạnh tranh trong ngành Sự Nhà cung cạnh tranh giữa các Người cấp doanh nghiệp có mua trong ngành Các mặt hàng và dịch vụ thay thế 13
  14. a. Đối thủ cạnh tranh. Sự am hiểu về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp. Cha ông ta đã có câu “biết mình biết trăm trận trăm thắng" Do đó doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối thủ cạnh tranh. Có thể thấy trước hết là đối thủ cạnh tranh quyết định mức độ cuộc tranh đua để giành lợi thế trong ngành và trên thị trường nói chung. Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số lương các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp đưa ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ và tăng thi phần nâng cao khả năng cạnh tranh. b. Khách hàng . Câu nói “khách hàng là thương đế” luôn luôn đúng đối với mọi doanh nghiệp bất cứ một doanh nghiệp nào cũng không được quyên rằng khách hàng luôn luôn đúng nếu họ muốn thành công, chiếm lĩnh thị trường. Những khách hàng mua sản phẩm của một ngành hay một doanh nghiệp nào đó thì họ có thể làm giảm lợi nhuận của ngành đấy, của doanh nghiệp đấy bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm hặc dịch vụ cao hơn, hoặc có thể bằng cách dùng doanh nghiệp này chống lại doanh nghiệp kia. Vì vậy, trong thực tế khách hàng thường có quyền lực trong các trường hợp sau. Khi có nhu cầu khách hàng là ít hơn so với lương cung trên thị trường về sản phẩm nào đó thì họ có quyền quyết định về gía cả. Các sản phẩm mà khách hàng mua phá tỷ lệ đáng kể trong chi tiêu của người mua. Nếu sản phẩm đó chiếm một tỷ trọng hơn trong chi tiêu của người mua thì gía cả là một vấn đề quan trọng đối với khách hàng đó. Do đó họ sẽ mua với giá có lợi và sẽ chọn mua những sản phẩm có giá trị thích hợp. Những sản phẩm mà khách hàng mua trong khi không được cung cấp đầy đủ về thông tín và chủng loại, chất lượng, đặc tính, hình thức, kiếu dáng của sản phẩm thì họ có xu hướng đánh dòng các sản phẩm cùng loại trên thị trường với nhau họ sẽ có xu hướng thiên về hướng bất lợi cho doanh nghiệp vì họ không thể đánh giá cũng như hiểu chính xác được rõ giá trị của sản phẩm doanh nghiệp sản xuất. Khách hàng phải chịu chi phí đặt cọc do đó chi phí đặt cọc rõ ràng buộc khách hàng với người bán nhất định. 14
  15. Khách hàng có thu nhập thấp tạo ra áp lực phải giảm chi tiêu cho việc mua bán của mình. Khách hàng cố gắng khép kín sản xuất tức là họ cố gắng trở thành người cung cấp cho chính mình. Mặt khác khi khách hàng có đầy đủ thông tin và nhu cầu giá cả thị trường hiện hành và chi phí của người cung cấp thì quyền “mặc cả” của họ càng lớn. c. Nhà cung cấp. Sức ép của nhà cung cấp liên doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Họ có thể chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp do sự độc quyền của một số nhà cung cấp những nguyên vật liệu chi tiết đặc dụng họ có thể tạo ra sức ép lên doanh nghiệp bằng việc thay đổi gía cả, chất lượng nguyên vật liệu. được cung cấp Những thay đổi này có thể làm tăng hoặc giảm chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm và lợi nhuận từ đó tác động tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. d. Đối thủ tiềm năng. Đối thủ tiềm năng là những người sẽ đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở ngành doanh nghiệp đang hoạt động hoặc ở những ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ thay thế. Họ có khả năng mở rộng hoạt động chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp, họ có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Đứng trước nguy cơ này, các doanh nghiệp phải cùng liên kết và dựng lên các hàng rào chắc vô hình và hữu hình đối vơi các đối thủ cạnh tranh tièem năng. e. Sức ép của sản phẩm thay thế. Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại với nhu cầu thị trường. Phần lớn các sản phẩm thay thế mới là kết quả của sự tiến bộ về công nghệ. Muốn đạt được thành công các doanh nghiệp cần phải chú ý và giành nguồn lực để phát triển hay vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình. 3. Doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp sức mạnh từ các nguồn lực hiện có và có thể huy động được với doanh nghiệp. Khả năng cạnh 15
  16. tranh của doanh nghiệp được thể hiện chủ yếu qua nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính tổ chức, kinh nghiệm. a. Nguồn nhân lực. Ngày nay thông thường khi đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, người ta thường đánh giá trước tiên nguồn nhân lực của doanh nghiệp: Yếu tố nhân lực được coi là tài sản vô cùng quý báu cho sự phát triển thành công của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Với một đội ngũ nhân lực tốt, doanh nghiệp có thể được làm đựợc tốt tất cả những gì như mong muốn, đội ngũ nhân lực này sẽ làm tăng các nguồn lực khác cho doanh nghiệp khác lên một cách nhanh chóng, trí tuệ chất xám là những thứ vô cùng quý giá. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, ưu viêt hơn với giá thành thấp nhất, đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa doanh nghiệp vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh. Một đội ngũ công nghiệp lãnh đạo, quản lý giàu kinh nghiệm, trình độ cao, năng động, linh hoạt và hiểu biết sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ là lợi ích trước nmắt như tăng doanh thu, tăng lợi nhuận mà cả uy tín của doanh nghiệp. Họ sẽ đưa ra nhiều ý tưởng chiến lược sáng tạo phù hợp với sự phát triển và trưởng thành của doanh nghiệp cũng như phù hợp với sự thay đổi của thị trường. Bên cạnh đó nguồn nhân lực của một doanh nghiệp phải đồng bộ sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ công nghiệp của doanh nghiệp là từ những nhóm người khác nhau mà còn xuất phát từ năng lực tổng hợp riêng thu được từ việc kết hợp nguồn nhân lực về mặt vật chất, tổ chức trình độ tay nghề, ý thức kỹ luật, lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. b. Nguồn lực vất chất. Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao năng lực sản xuất, làm tăng khả năng của doanh nghiệp lên rất nhiều với một cơ sở vật chất tốt , chất lượng sản phẩm sẽ được nâng lên cao hơn cùng với việc hạ giá thành sản phẩm kéo theo sự giảm giá bán trên thị trường. Khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ rất lớn, ngược lại không một doanh nghiệp nào lại có khả năng cạnh tranh cao khi mà công nghề sản xuất lạc hậu, maúy móc thiết bị cũ kỹ sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí sản xuất. Nguồn lực vật chất có thể là: 16
  17. - Tình trạng trình độ máy móc công nghệ , khả năng áp dụng công nghệ mối tác động đến chất lượng, kiểu dáng, hình thức giá thành sản phẩm. - Mạng lưới phân phối: Phương tiện vận tải, cách thức tiếp cận khách hàng . - Nguồn cung cấp: ảnh hưởng đến chi phí lâu dài và đầu ra trong việc đảm bảo cho sản xuất được liên tục, ổn định. - Vị trí địa lý của doanh nghiệp cũng có thể tác động đến chi phí sản xuất, (đất đai, nhà cửa, lao động, ) nguồn nguyên liệu, sự thuận tiện của khách hàng. c. Nguồn lực tài chính. Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng sản xuất cũng như là chỉ tieu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị , nguyên liệu hay phân phối, quảng cáo cho sản phẩm đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng trang bị công nghệ máy móc hiện đại, Bởi vì bất có một hoạt động đầu tư mua saqứm trang thiết bị nào cũng phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính hùng mạnh sẽ có khả năng trang bị dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giáthành sản phẩm, giá bán sản phẩm tổ chức các hoạt động quảng cáo khuyến mại mạnh mẽ nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh, doanh nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ một thời gian ngắn để hạ giá thành sản phẩm nhằm giữ vững và mở rộng thị phần cho doanh nghiệp để tăng giá, thu lợi nhuận nhiều hơn. Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản lý. Không chỉ vậy trong nền kinh tế thị trường, trở thành biểu tượng cho sự giàu có phát đạt, sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp nguồn tài chính vững chắc sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp dành được sự tin cậy, đầu tư từ phía khách hàng lẫn nhà đầu tư nước ngoài. Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự có và các nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính không chỉ gồm các tài sản lưu động và tài sản cố định của doanh nghiệp, mà gồm cả các khoản vay, khoản nhập sẽ có trong tương lai và cả giá trị uy tín của doanh nghiệp đó trên thị trường. Vốn tự có có thể do các thành viên sáng lập đóng góp hoặc do 17
  18. một phần lợi nhuận được để lại từ đầu tư, hoặc vốn góp thêm của các cổ đông sau này. Vốn vay có thể được huy động từ ngân hàng các tổ chức tài chính các đơn vị quen biết. Thiếu nguồn tài chính cần thiết , doanh nghiệp có thể bị phá sản, sụp đỗ bất cứ lúc nào. Tài chính được coi là phương tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ cạnh tranh . Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới các đối thủ hùng mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường. d. Tổ chức. Mỗi doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chứcđịnh hướng cho phần lớn các công việc trong doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện của doanh nghiệp. Cơ cấu nề nếp tổ chức có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạt động thực hiện chiến lược hoặc thúc đẩy các hoạt động đó không phát huy tính năng động sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có cơ cấu tổ chức hợp lý, năng động sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn các doanh nghiệp khác. e. Kinh nghiệm. Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác nhu cầu trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ động trong việc sản xuất kinh doanh không bị ứ đọng vốn, tồn kho qúa nhiều sản phẩm tiết kiệm được nhiều chi phí khác. Vì vậy, có thể nói, kinh nghiệm là thứ vô cùng quí giá đối với sự hoạt động thành công của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động chức năng khác của doanh nghiệp có khả năng thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của người lãnh đạo doanh nghiệp, của các cán bộ quản lý bộ phận 18
  19. I. Môi trường vĩ mô. 1. Nhân tố kinh tế. 2. Nhân tố chính trị và pháp luật. 3.Nhân tố xã hội . 4. Nhân tố tự nhiên. 5. Nhân tố công nghệ. II. Môi trường ngành 1. Nhà cung cấp. 2. Khách hàng . 3.Đối thủ cạnh tranh. 4. sản phẩm thay thế. 5. Đối thủ tiềm năng. III. Doanh nghiệp. 1. Nguồn nhân lực. 2. Nguồn lực vật chất. 3. Nguồn lực tài chính. 4. Tổ chức. 5. Kinh nghiệm. B. AFTA và hội nhập AFTA. 1. Cơ sở hình thành AFTA. Quá trình quốc tế hoá đời sỗng kinh tế thế giới đang diễn ra ở nhữn nơi cấp độ khác nhau, với xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực hoá. Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trường thế giới thống nhất một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu , là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu, là việc giải quyết các vấn 19
  20. đề kinh tế – xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề, dân số tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái trong khi đó khu vực hoá kinh tế chỉ diễn ra trongmột thời gian địa lý nhaqát định dưới nhiều hình thức như: Khu vực mậu dịch tự do , đông minh liên minh, thuế quan, đồng minh tiền tề, thị trường chung, đồng minh kinh tế nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển từng bước xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển tư bản , lực lương lao động hàng hoá dịch vụ tiến tới tự do toàn cầu nhữnh di chuyển mối liên hệ giữa các nước thành vien trong khu vực. ở những quốc gia có kinh tế thị trường phát triển, thì xu hướng tham gia hội nhập voà nền kinh tế trong khu vực bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng. Việc tham gia mạnh mẽ và rông rãi các khối liên minh kinh tế khu vực, tiến tới sự nhất thể hoá cao trog thông qua văn bản, hiệp định ký kết đã đưa lại cho các quốc gia trong liên minh sự ổn định hợp tác cùng phát triển. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương mại cũng như các gánh vác các nghĩa vụ về tài chính giảm thuế cũng như giảm miễn phí khác Tình hình này trong quá khứ, hiện tại và tương lai đang đặt ra cho các quốc gia đang phát triển trên thế giới nói chung các quốc gia Đông Nam á nói riêng những cơ hội và thách thức mới. Sự hình thành kiên kết giữa các quốc gia đang phát triển, ngoài mục tiêu hợp tác , hỗ trợ nhau phát triển còn nhằm mục tiêu chống lại các chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước công nghiệp phát triển. Việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực và sự hội nhập của từng quốc gia vào nền kinh tế các nước trong khu vực vời nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng khu vực liên kết và hình thức liên kết. Khu vực mậu dịch tự do hay khu buôn bán tự do là giai đoạn đầu của quá trình hội nhập kinh tế khu vực. Đây là một liên minh quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia nhằm mục đích tự do hoá buôn bán đối một hoặc một số nhóm mặt hàng náo đó. đặc trưng của khu vực mậu dịch tự do là xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo ra một thị trường thống nhất của khu vực. Nhưng mỗi quốc gia là thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập đối với các quốc gia ngoài liên minh. Sự hôi nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực đang đưa lại những lợi ích khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên. Một quốc gia nào đó gia nhập hội các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đua lại những kết quả chủ yếu sau. 20
  21. Một là, Tạo lập quan hệ mậu dịch nối giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trong liên minh với các nước các khu vực khác trên thế giới : cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Cũng trong điều kiện này lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước như là luôn nhận được sự ưu đãi. Do đó hàng hoá hạ xuống làm người dân ở nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hoá lớn hơn với mức chi phí thấp hơn. Hai là, hội nhập kinh tế khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch, sự chuyển biến này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan , và khi đó các điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn trước. Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp tục thu vốn, công nghề trình độ quản lý từ các quốc gia khác nhau trong liên minh. Về lâu dài tự do hoá thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng năng suất lao động. Để tiến thêm một bước nữa tới tự do thương mại toàn diện và để phản ứng với xu thế hội nhập kinh tế khu vực đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, ngày 27/28 tháng 1 năm 1992 các nước ASEAN đã thoả thuận thiết lâp khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm trong 15 năm, kể từ 1.1.1993, thuế của các nước trong khu vực sẽ được giảm xuống ở mức 0 – 5% và các hàng rào phí thuế quan với một diện rộng các sản phẩm chế tạo. Năm 1994, các nước ASEAN đã rút ngắn thời gian quá trình đó còn lại 10 năm, tức là thuế giảm xuống còn 0 – 5% vào năm 2003. AFTA không phải là một liên minh thuế quan trong nuớc ASEAN vẫn được tự do riêng để dặt thuế với những nước còn lại trên thế giới. 2. Nội dung chủ yếu của AFTA. 2.1. CEPT ( Kế hoạch thuế ưu đãi có hiệu lực chung ) CEPT là một cột chính để thành lập AFTA. CEPT ( Common Effective Preferential Tarif). Được đưa ra nhằm thoả thuận các nước thành viên ASEAN trong việc giảm thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống 0- 5% đồng thời loại bỏ những hạn chế về định lượng các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 năm bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành 1/1/2003 đồng thời các nước thành viên cũng sẽ đi đến thống nhất giữa các danh mục biếu thuế và các thủ tục hải quan để thực hiện CEPT. 21
  22. Các nước ASEAN đã nêu ra 15 nhóm sản phẩm giảm thuế nhanh với mức thuế ưu đãi phải đạt 0 – 5 % trong thời gian dài nhất là 7 năm ( 5 năm đối với hàng hoá chọn thuế thấp ) 15 nhóm sản phẩm Đồ nhựa Đá quý và đồ trang sức Sản phẩm cao su Cực âm dòng Sản phẩm da Hàng điện tử Bột giấy Nội thất bằng gỗ và mây Hàng dệt Hoa chất Dàu thực vật Dược phẩm Xi măng Phân bón Sản phẩm gốm và thuỷ tinh Đối với nhóm giảm thông thường tốc độ giảm hơn và những hàng hoá chịu thuế cao hơn thì việc giảm thuế có thể thực hiện trong 15 năm. Ban đầu, người ta dự tính có thể áp dụng CEPT cho tất cả các hàng hoá chế tạo nhưng cho phép thực hiện ngoại lệ đối với các hàng hoá dễ bị tổn thương và khó tính cạnh tranh trực tiếp. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp hạn chế buôn bán là cần thiết để đảm bảo an toàn an ninh quốc gia, sức khoẻ và truyền thống văn hoá. Và việc loại bỏ ra khỏi CEPT các sản phẩm chỉ mang tính tạm thời. Một nước thành viên laọi bỏ tạm thời một sản phẩm thì sẽ không còn tư cách để hướng sự xâm nhập ưu đãi cho sản phẩm đó vào thị trường các quốc gia thành viên khác. Việc đình chỉ ưu đãi chỉ phù hợp với điều XIX của GRATT ( hành động khẩn cấp về nhập khẩu các sản phẩm đặc biệt ) . Năm 1994 ASEAN đồng ý với tiến trình giảm thuế như sau. 1) Đối với hàng hoá theo thời gian thực hiện bình thường. - Thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 20% vào ngày 1/11/1998 và sau đó còn 0 – 5%vào ngày 1/1/2003. - Thuế suất đã ở dưới mức 20% sẽ được giảm xuống 0 – 5% vào ngày1/1/2000. 2) Đi với hàng hoá theo thời gian thực hiện nhanh. - Thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 0 – 5% vào 1/1/2000. - Thuế suất đã ở dưới mức 20% sẽ được giảm còn 0 – 5% vào ngày1/1/1998. 22
  23. * Danh sách các cửa hàng tạm thời không thuộc CEPT sẽ bị loại bỏ những sản phẩm hiện đang nằm ngoài CEPT theo chu kỳ sẽ được đặt vào danh sách CEPT vào thời gian bắt đầu từ 1/1/1995. * Những nông sản thô hoặc chưa qua chế biến bây giờ sẽ được đưa vào CEPT Trước đây loại sản phẩm này nằm trong kế hoạch mậu dịch ưu đãi (PTA). * Sẽ thành lập một đơn vị AFTA trong ban thư ký ASEAN và trong tất cả các nước thành viên để đảm bảo một sự phối hợp giải quyết tốt hơn những vấn đề CEPT. Phạm vi áp dụng của CEPT . CEPT áp dụng cho tất cả các hàng hoá chế tạo là của ASEAN bao gồm tư liệu sản xuất, nông sản chế biến và những sản phẩm phi nông nghiệp khác . Một hàng hoá đạt tiêu chuẩn của ASEAN nếu ít nhất đạt 40% nghuyên vật liẹu của nó xuất xứ từ bất kỳ một nuức thành viên ASEAN nào đó. Trên thực tế, yêu cầu này thấp hơn yêu cầu hàm lượng địa phương của hầu hết các klhối mậu dịch tự do khác như 50% giá trị tăng thêm địa phương trong khối AFTA và trong hiệp định New Zealand – Australia, AFTA yêu cầu giá trị vật tư và chi phí chế biến trực tiếp phải xuất phát từ khối. Theo quyết định thông qua năm 1994, những nông sản thô hoặc chưa qua chế biến sẽ phải đáp ứng tiêu chuẩn trên, dịch vụ được loại ra khỏi CEPT. Nguyên tắc xuất xứ của ASEAN có nghĩa là có sự nhất trí chuyển hướng mậu dịch và đầu tư sang nông nghiệp, công nghiệp chế tạo và các ngành khác. - Việc tham gia CEPT sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại. Tham gia AFTA sẽ có một tác động trực tiếp nhất tới yếu tố gía cả của hàng hoá, bởi vì việc cắt giảm thuế, đơn giản hoá thủ tục buôn bán thì giá bán của hàng hoá sẽ hạ hơn. Các yếu tố khác như chất lượng, mẫu mã cũng sẽ thay đổi do sức ép cạnh tranh trong nội bộ AFTA. Đặc biệt, tác động của khu vực mậu dịch tự do sẽ rõ ràng nhất trong điều kiện các nước thành viên có điều kiện phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế và buôn bán tương tự nhau như ASEAN. Tính cạnh tranh sẽ rất mạnh khi sự thay đổi thuế quan sẽ có tác dụng quyết định. Đồng thời khả năng tạo lập sự hợp tác và chuyên môn hoá cũng lớn. Xu hướng chung phân bố sản xuất là chuyến các cơ sở sản xuất từ nơi có giá thành cao sang nơi có gi thành thấp. Mức chênh lậch giá thành càng lớn thì luồng di chuyển càng mạnh khi các hàng rào thuế quan bị xoá bỏ. 23
  24. Việt Nam chúng ta khi tham gia AFTA, sẽ có thuận lợi hơn cho xuất khẩu hàng hoá sang các nước ASEAN vì các hàng rào bảo hộ của các nước đó cũng được cắt giảm tương tự khi Việt Nam cắt giảm hàng rào bảo hộ của mình. Một thị trường lớn nằm kế bên , có các đòi hỏi về chất lượng không phải quá cao, với các ưu đãi sẽ được mở rộng ra cho các Doanh nghiệp Việt Nam. CEPT sẽ là một tác nhân quan trọng không những thúc đẩy cải tiến kỹ thuật công nghề và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất, mà hơn thế còn điều chế cơ cấu sản xuất bằng cách ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh tranh. Việc tham gia AFTA sẽ đặt một cươ sở công nghiệp non yếu của Việt Nam trước một thực tế phải cạnh tranh trên thị trường nước mình trong một thé bất lợi. Do cơ cấu mặt hàng sản xuất của ASEAN tương đối giống nhau và Việt Nam ở vào tình thế nền sản xuất trong nước không còn được bảo hộ mạnh mẽ như trước sẽ có nguy cơ tiêu diệt một số ngành trong nước với 100% vốn của Việt Nam, thị trường trong nước sẽ bị chen lấn bởi sản phẩm xuất khẩu trong khuôn khổ AFTA cũng như những liên doanh sản xuất tại Việt Nam có sự đầu tư vốn của các Doanh nghiệp ASEAN về 15 nhóm sản phẩm tương tự. 2.2. Những hàng thuế quan (NTBS), hạn chế số lượng(ORS) và các biện pháp khác. CEPT chỉ là một bộ phận của AFTA đã phát sinh hiệu lực, tuy nhiên thuế không phải là cản trở duy nhất và quan trọng nhất đối với buôn bán khu vực. Cần gạt bỏ nhiều hàng rào phi thuế quan và hạn chế số lượng . - NTBS của Việt Nam bao gồm: + Giâý phép hoạt động cho các nhà xuất khẩu và nhập khẩu, chỉ có các doanh nghiệp thuộc Bộ Thương Mại được thực hiện các hoạt động ngoại thương. + Giấy phép xuất nhập khẩu, áp dụng đối với một số loại hàng hoá. + Giáy chứng nhận của một số tổ chức có thẩm quyền áp dụng với các loại hàng hoá đặc biệt. - ORS của Việt Nam bao gồm: + Qua ta. + Các hàng hoá và như yếu phẩm do chính phủ kiểm soát đẻ tạo cân bằng cơ sở giữa cung và cầu trong nền kinh tế quốc dân. 24
  25. 2.3. Mục tiêu kinh tế của AFTA. Mỗi một quốc gia tham gia vào AFTA đều đặt ra cho mình những mục tiêu nhất định phù hợp với đặc thù của nước mình tuy nhiên tất cả họ đều có những mục tiêu chung đó là: - Tự do hóa thương mại trong ASEAN thông qua việc giảm dần thuế quan nội bộ khu vực và NTBS. - Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực bằng cách mở rộng một thị trường phối hợp rộng hơn. - Làm thích ứng với những điều kiện kinh tế đang thay đổi dặc biệt là quá trình thành lập các khối thương mại trên thế giới. 2.4. Danh mục sản phẩm theo chương trình CEPT của Việt Nam. Khi tham gia vào AFTA các quốc gia có thể đưa ra danh mục CEPT và lịch trình cắt giảm của riêng mình. Hơn nữa, Việt Nam là nước gia nhập ASEAN sau lên được gia hạn thêm 3 năm nữa có danh mục CEPT và lịch trình cắt giảm có đặc điểm: Danh mục CEPT được chia ra làm 3 loại. - Danh mục các mặt hàng giảm thuế theo hai kênh nhanh và thông thường. - Danh mục loại trữ tạm thời và loại trữ chung. - Các sản phẩm chưa qua chế biến nhạy cảm. Trong 3211 mặt hàng chịu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Thì 53.1% hiện có mức thuế thấp hơn 5% ( chủ yếu là nguyên liệu thô dùng cho sản xuất trong nước các mặt hàng chế tạo có mức thuế cao hơn để bảo vệ công nghiệp trong nước) do vậy việc tham gia CEPT không có tác độgn mạnh đến thuế nhập khẩu. Danh mục các mặt hàng giảm thuế gồm 1633 mặt hàng, chiếm 50.5% danh mục hàng nhập khẩu Việt Nam. Danh mục ngoại tệ tạm thời bao gồm 1168mặt hàng chiếm 36% danh mục hàng nhập khẩu. II. Sự hội nhập AFTA của Việt Nam. 1. Thực tiễn thực hiện AFTA : Về tiến trình cắt giảm thuế Việt Nam nói chung không thực hiện tiến trình cắt giảm nhanh tuy nhiên đối với những sản phẩm đang có thuế xuất 0 - 5%, tức là đã thoả mãn mục tiêu của CEPT, ta có thể thực hiện vào tién trình 25
  26. cắt giảm nhanh đối với sản phẩm có thuế suất cao hơn 5% trong doanh mục cát giảm thuế quan hướng thực hiện bước cắt giảm đầu tiên thực tế bắt đầu từ năm 1998 để đảm bảo cho nguốn thu và hôc trợ một phần cho sản xuất trong nước. Trong hai năm 1996 - 1997 Việt Nam đã thực hiện hi cải cách thuế, trong đó đối với chính sách thuế áp dụng cho hàng nhập khẩu, Việt Nam đã thực hiện việc phân tích hai loại thuế là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng trước khi tiến hành cát giảm thuế nhập khẩu thực sự từ 1998. Do đó, mức thuế nhập khẩu giảm trên phần thuế nhập khẩu còn lại là thấp so với mức phải giảm nếu không có sự phân tích hai loại thuế trên. Có thể nói, Việt Nam thực hiện nghiêm tục và rất thận trọng việc giảm thuế quan để tránh ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, và làm giảm được giá hàng nhập khẩu góp phần cải thiện điều kiện kinh doanh và tiêu dùng trong nước, còn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi khi xuất khẩu hàng sang các nước ASEAN. Về các biện pháp phi thuế quan thì ở Việt Nam còn rất đơn giản chỉ là giấy phép và hạn ngạch. Để thực hiện được việc giảm thuế và bỏ hàng rào phi thuế quan Việt Nam đã và đang phối hợp các nước ASEAN để thống nhất các danh mục biểu thuế, có hệ thống định dạng hải quan, quy trình thủ tục hải quan, v.v Có thể nói, việc Việt Nam hoàn thành AFTA vào năm 2006 là hoàn toàn khả thi. Kết luận này căn cứ vào lộ trình AFTA của Việt Nam kết hợp với chương trình cải cách thuế và các chính sách như đã phân tích ở trên. 2. Khả năng Việt Nam hoàn thành CEPT vào năm 2003. Để thực hiện được điểm có lợi cho từng quốc gia trong việc thực hiện AFTA là tăng khả năng xuất khẩu và thu hút đầu tư trong khối và ngoài khối. Do vậy, để Việt Nam tham gia vào AFTA vào 2003 vừa tận dụng được những lợi thế trên vừa phù hợp với định hướng chiến lược các ngành kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng rộng và sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính sự hội nhập này là một yếu tố quốc tế tạo nên sức bật cho nền kinh tế Nếu Việt Nam hoàn thành CEPT vào năm 2003 thì nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu không giảm nhiều so với nếu hoàn thành vào năm 2006, vì thuế xuất bình quân đối với hàng nhập từ ASEAN là 13%, nếu giảm xuống 5% vào năm 2000 thì mức giảm thungân sách chỉ là 8%đsối với 50% hàng 26
  27. nhập khẩu là hàng thuộc CEPT.Trái lạ, nếu khp\ối lương hàng nhập khẩu từ ASEAN tăng thì đủ bù lại mức giảm thu ngân sách trên. Do vậy việc Việt Nam hoàn tất giảm thuế theo ce vào năm 2003 không gây thiệt hại lớn cho ngân sách sơ với nếu vàop năm 2006. Mặt khác, việc giảm thuế sẽ làm giảm giá bán hàng ở Việt Nam: người tiêu dùng có lợi, doanh nghiệp nhập nguyên liệu, máy móc có lợi, các nhà đầu tư thay vì xuất khẩu hàng vào Việt Nam sẽ đầu tư trực tiếp vào đây để giữ thị phần. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với hàng ché biến nhập từ ASEAN, buộc họ phải vươn lên. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vươn lên, song không thể thựuc hiện bất kỳ mộtchính sách bảo hộ mậu dịch nào. Các doanh nghiệp chủ động vươn lên trong cạnh tranh là điều tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam. Cái lợi lớn nhất nếu Việt Nam tham gia AFTA vào năm 2003 là đầu tư nước ngoài tăng rõ rệt, ngành công nghiệp chế biến Việt Nam sớm hướng mạnh xuất khẩu sang ASEAN. Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sẽ tính đến thị trường hàng công nghiệp chế biếm xuất khẩu cho thị trường ASEAN, để hưởng lợi từ AFTA. Thị trường hàng công nghiệp chế biến ASEAN khi lớn, rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam phải nắm lấy cơ hội này để có thể phát triển nhanh công nghiệp chế biến xuất khẩu. Một số nhà kinh tế Việt Nam cho rằng, thời cơ này chưa hề có trước đây, và tận dụng cơ hội này từ năm 1997 – 2003 Việt Nam có thể thu hút được 21 tỷ USD FDY ( trung bình 3 tỷ USD/năm ), và cứ một đồng vốn FDY sẽ tác động làm cho 4 đồng vốn trong nước hoạt động theo, thì số vốn trong nước sẽ được huy động và phát huy tác dụng là 84 tỷ USD. Đây là nguồn lực to lớn thúc đảy công nghiệp chế biến Việt Nam phát triển. Tham gia AFTA vào năm 2003 cũng có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam chuyển dich cơ cấu kinh tế nhanh hơn, thị trường Việt Nam hội nhập nhanh hơn vào thị trường khu vực, một thị trường chung về hàng công nghiệp chế biến hình thành. Trên cơ sở này, các nước ASEAN có thể hợp tác và chuyên môn hoá khu vực. Nếu Việt Nam không chuyển đổi cơ cấu, không phát triển nhanh công nghiệp chế biến thì Việt Nam tam gia AFTA không có ý nghĩa gì lớn , tài nguyên vv là nơi mà các chủ đầu tư nước ngoài rất quan tâm khi phát triển công nghiệp chế biến đầu tư vào ASEAN. 27
  28. Định hướng chiến lược phát triển các ngành vào xuất khẩu sang ASEAN mà trọng tâm là công nghiệp chế biến đòi hỏi tất cả các biện pháp kinh tế vĩ mô như thuế thương mại , tài chính đều cần được thay đổi để đảm bảo cho việc thực hiện những thành công chiến lược đó . Sự tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN trong thời gian qua do thực hiện những chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu - chính là nguyen nhân tạo ra AFTA và cũng là tác động ngược lại của AFTA đối vopứi kinh tế trong nước - đó là sự chứng minh rõ nét nhất cho sự cần thiết phải có chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam, trong đó công nghiệp chế biến là trọng tâm. Chúng ta sẽ thất bại nếu hội nhập kinh tế với bên ngoài mà chiến lược kinh tế lại là thay thế nhập khẩu như trước đây hoặc duy trì song song với mức độ như nhau cả chiến lược thay thế nhập khẩu hưỡng vào xuất khẩu ( như hiện nay). Chúng ta ( trước 3 năm so với hạn 2006) như các nước thành viên khác vì đó là phương án tích cực nhất , chủ động mang lại lợi ích phát triển cho Việt Nam. Việc này đồi hỏi nhiều cố gắng trong việc đổi mới chính sách kinh tế. Càng chậm tham gia vào AFTA thì những lợi ích thu được từ AFTA càng ít, nền kinh tế rơi vào thế bị động trong quan hệ kinh tế quốc tế. 50.5% danh mục hàng nhập khẩu Việt Nam. Danh mục ngoại tệ tạm thời gồm 1168 mặt hàng chiếm 36% danh mục hàng nhập khẩu. III. AFTA với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Việc hình thành khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA )trực tiếp ảnh hưởng ngay tại xuất khẩu, nhập khẩu, , đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không dừng lại ở đó, mà nó còn tác động cả vào công cuộc phát triển kinh tế của nước ta. Các nhà kinh tế, chính trị trong và ngời nước đều có nhận định rằng nếu Việt Nam nhập cuộc và hoà nhập vào thế giới bằng việc tham gia có hiệu quả và hợp lý váo các hoạt động của ASEAN thì sự phát triển kinh tế chắc chắn sẽ thành đạt. Thời gian này kéo dài bao lâu phụ thuộc chon hướng và thực hinj chuyển hưỡng cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Đây là thời cơ lịch sử là thách thức của đất nước. 1. AFTA với sự phát triển thương mại. AFTA là mô hình được xây dựng theo nguyên tắc và nội dung cơ bản của hệ thống thương mại toàn thế giới (WTO) hướng theo mô hình châu âu. 28
  29. Chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị định 91/CP ngày 18/12/1995về việc thực hiện chương trình thuế quan ưu đãi chung – CEPT .Việt Nam cũng đã công bố danh sách và các bước cắt giảm thuế ở trong nước với việc cắt giảm thuế quan là hoàn toàn hợp lý. Tính hợp lý đó nhằm mục đích chủ động hội nhập với các nước ASEAN, thực hiện đường lối mở cửa của nền kinh tế , đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hiện nay cơ cấu xuất khẩu của nước ta chưa hợp lý còn nhiều mặt hàng thô hàng nguyên liệu chưa chế biến hoặc mức chế biến thấp như dầu thô , than, thiếc , cao su, gạo. Hàng Việt Nam xuất cho các nước ASEAN chiếm khoảng ẳ khả năng xuất khẩu và nhập khẩu từ ASEAN 1/3 khả năng xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu lớn là dầu thô ngày càng tăng trogn lúc ngành lọc dầu chưa hình thành ở trong nước. Với cơ cấu xuất nhập khẩu như vậy chúng ta hầu như chưa được CEPT tạo thuận lợi , vì sản phẩm đưa vào chương trình CEPT là hàng công nghiệp chế biến gồm cả tư liệu sản xuất hàng nông sản chế biến mà Việt Nam còn chưa có ưư thế. Tại hội nghị cấp cao tháng 12/95 đề cập tới hàng nông sản chưa chế biến được chính thức đưa vào chương trình CEPT. Để thực hiện CEPT, Việt Nam đã có chương trình của bộ Thương mại phối hợp với Bộ tài Chính, đảm bảo 4 nguyên tắc. - không gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách. - Bảo hộ hợp lý nếu sản xuất trong nước. - Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao công nghệ , đổi mới kỹ thuật cho nền sản xuất trong nước. - Hoà nhập với ASEAN để tranh thủ ưu đãi mở rộng thị trường và thu hút đầu tư nước ngoài. 2. Chương trình về thuế. Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện 3 luật thuế ( thuế giá trị gia tăng – VAT, thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân) , trong đó tôn trọng nguyên tắc không làm giảm nguồn thu ngân sách Mục tiêu chủ yếu của việc ban hành luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta là: - Thúc đẩy sản xuất và kinh doanh phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu . - Đảm bảo huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. 29
  30. - Khắc phục việc thu thuế cùng của luật thuế doanh thu. - Hoàn thiện chính sách hệ thống thuế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cắt giảm thuế theo ưu đãi của CEPT trước mắt chủ yếu là các mặt hàng công nghiệp chế biến. Các mặt hàng này ta chưa có khả năng cạnh tranh khối lương cũng nhỏ. Hàng công nghiệp chưa qua chế biến. Các mặt hàng này ta chưa có khả năng cạnh tranh khối lư3ơng cũng nhỏ. Hàng nông nghiệp chưa qua chế biến được hưởng sự ưu đãi đó 3. AFTA và CEPT đối với các ngành kinh tế trong nước. Việc thực hiện AFTA và CEPT cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành các bộ thuộc lĩnh vực sản xuất lưu thông và các ngành quản lý. Điều quan trọng là ổn định sự phát triển sản xuất nhưng cần tạo điều kiện để đổi mới cơ cấu sản xuất theo hướng công nghiệp hoá , đi từng bước đi thích hợp, đáp ứng thị trường nước ngoài, các yếu tố cần thiết trong đổi mới cơ cấu phù hợp với vốn, kỹ thuật công nghệ và thị trường. Theo tinh thần đó, cần xem xét việc gì có thể làm được sớm cần làm trong thời gian ngắn nhất, như việc chế biến nông sản chẳng hạn, không cần vốn lớn chỉ cần thị trường chấp nhận và có lợi thấ so sánh, có lãi, nên có thể làm trước. Việt Nam đã tham gia AFTA như đã trình bày có tác đọng mạnh mẽ đến toàn Bộ Thương Mại, đầu tư cơ cấu sản xuất và cả toàn bộ qua trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Xem xét trên khía cạnh một doanh nghiệp tác động của AFTA là xem xát về khả năng cạnh tranh ở trong nước, thị trường ASEAN và thị trường ngoài ASEAN từ những cơ hội và thách thức mà AFTA mở ra. 30
  31. Chương II đánh giá về khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thuỵ Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA I. Thực trạng kinh doanh của công ty 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Giầy Thụy Khuê. 1.1. Lịch sử hình thành. Công ty Giầy Thụy Khuê là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Sở công nghiệp – Hà Nội có chức năng và nhiệm vụ là: sản xuất và kinh doanh mặt hàng giày dép các loại. Địa chỉ của Công ty Giầy Thụy Khuê được đặt ở 2 nơi: * Văn phòng giao dịch của công ty: Số 152 phố Thuỵ Khuê Hà Nội. * Cơ sở sản xuất: Khu A2 xã phù diễn – huyện Từ Liêm – Hà Nội. * Việc đặt văn phòng và cơ sở sản xuất của công ty ở những vị trí khác nhau rất thuận lợi cho việc giao dịch, tiêu thụ sản phẩm của công ty, cũng như việc thu hút nguồn nhân lực dồi dào của các vùng lân cận và làm việc tại công ty. Lĩnh vực sản xuất chủ yếu của công ty là sản xuất kinh doanh các loại giày dép phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Quá trình hình thành và phát triển của công ty có thể khái quát như sau: Tiền thân của công ty là xí nghiệp quân nhu X3, ra đời vào tháng1/1957 chuyên sản xuất giầy vải và mũ cứng cung cấp cho bộ đội, trải qua chặng đường gần nửa thế kỷ, lúc nhập vào (1978) từ xí nghiệp X30 thành xí nghiệp giày vải thượng đình, doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chống mỹ cứu nước và xây dưng XHCN. Do nhu cầu phát triển của ngành ngày 1/4/1989 một phân xưởng xí nghiệp của giày cvải thượng đình được UBND thành phố Hà Nội cho tách ra thành Giày vải Thuỵ Khuê theo quyết định số 93/QĐUB ký ngày 7/1/1989 của UBND thành phố Hà Nội. Năm 1992 xí nghiệp chuyển tên thành Công ty Giầy Thụy Khuê với tên giao dịch quốc tế Thuy Khue SHOES COMPANY ( JTK). khi mới tách ra công ty có 650 ấn bộ công nhân viên, giá trị tài sản gồm có vốn cố định 256 triệu đồng và vốn lưu động là 200 triệu đồng bằng vật tư và bán thành phẩm. Lúc đó có hai phân xưởng sản xuất, số nhà xưởng sản xuất hầu hết là nhà cấp 4 cũ nát, thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu, sản xuất chủ yếu bằng phương pháp 31
  32. thủ công sản phẩm mỗi năm chỉ đạt trên dưới 400000 sản phẩm, phân lớn ra công mũ giày cho liên Xô ( cũ ) và là sản phẩm cấp thấp. Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, hơn nữa là một doanh nghiệp trẻ mới được thành lập với đặc thù nhiệm vụ sản xuất kinh doanh giày dép là một mặt hàng dân dụng phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, khí hậu, mùa vụ, sức sống dân cư song công ty vẫn không ngừng đổi mới đầu tư mua trang thiết bị máy móc hiện đại để mở rộng sản xuất kinh doanh, bên cạnh đó Công ty Giầy Thụy Khuê rất chú trọng tời nguồn nhân lực, công ty đã xác định lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm bảo chất lượng lao động sẽ mang lại kết quả cao, số lương và chất lượng lao động sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất hiệu quả máy móc thiết bị của công ty. Do đó những năm qua công ty không ngừng lớn mạnh cả về số lương và chất lượng. Hiện nay tổng số lao động của công ty là 2156 người trong đó có 87% lượng lao động trế khoẻ, có trình độ tiếp thu những công nghề sản xuất tiên tiến. Trong nhũng năm gần đây công ty đã không ngừng nâng cao và cải thiện điều kiện làm việc. Đối với các phòng ban và nghiệp vụ nhân viên được làm việc trong điều kiện khá tốt. Có đày đủ thiết bị văn phòng kể cả hệ thống thông tin liên lạc, từng phòng có gắn máy điều hoà nhiệt độ. Đối với công nhân sản xuất trực tiếp được làm việc trong môi trường an toàn có đủ hệ thống chiếu sáng, quạt máy và đủ m,áy móc chuyên dùng thay thế cho những công việc nặng nhọc. Hiện nay công ty có 6 dây chuyền sản xuất và 20 0000m2 nhà xưởng. Về thu nhập của người lao động: đây là một trong những mục tiêu cơ bản hàng đầu của công ty. Trong những năm gần đây công ty không ngừng nâng cao và cải tiến đời sống người lao động, lương tháng bình quân năm 1995 là 404.000 đồng, năm 1996 là 460.000 đồng năm 1997 là 535.000 đồng năm 1998 là 596.000đồng năm 1999 là 600.000 đồng. Như vậy do chú trọng tới việc đầu tư máu móc thiết bị hiện đại và không ngừng phát triển nguồn nhân lực của mình, nên từ chỗ công ty chỉ sản xuất được mặt hàng giày dép cấp thấp chủ yếu têu thụ thị trường nội địa, đến nay sản phẩm của công ty đa dạng phong phú về màu sắc, chủng loại , chất lượng sản phẩm được nâng cao, khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm từ chỗ công ty có rất ít khách hàng nhất là khách hàng nước ngoài thì đến nay sản phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều nơi trên thị trường thế giới như thị trường EU , úc, Bắc mỹ 32
  33. * Tài sản Công ty Giầy Thụy Khuê: Với quá trình phát triển như vậy tính đến năm 2000quy mo sản xuất kinh doanh của công ty là: - Tổng số vốn kinh doanh 32198725000 đồng. - Vốn ngân sách cấp: 11271321080đồng. - Vốn vay 19269187000đồng. - Vốn tự bổ sung :1658217000đồng. 1.2. Chức năng nhiệm vụ của công ty: 1.2.1. Chức năng Công ty Giầy Thụy Khuê ( JTK) có chức năng chính là sản xuất kinh doanh các loại giày dép và một số mặt hàng khác ù cao su phục vụ do tiêu dùng và xuất khẩu. Ngoài ra công ty còn có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp theo giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu số 2051081 cấp ngày 18/12/1992. Phạm vi kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty là: * Xuất khẩu: các loại giày dép và mặt hàng công ty sản xuất ra. * Nhập khẩu: vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất của công ty. Công ty thực hiện ché độ hạch toán kinh doanh độc lập trên cơ sở lấy thu bù chi, khai thác các nguồn vật tư, nhân lực, tài nguyên của dất nước đẩy mạnh hoạt động sản xuất tăng thu ngoại tệ góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. 1.2.2. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty. Là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng. Công ty Giầy Thụy Khuê có vai trò quan trọng trogn sự nghiệp xây dựng thủ đô Hà Nội và ngành giày dép Việt Nam. Nhiệm vụ của công ty được thể hiện: - Thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở chủ động và tuân thủ ngiêm chỉnh các quy định của luật pháp. - Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, kiến nghị và đề xuất với Sở Công nghiệp Hà Nội giải quyết các vấn đề vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh. - Tuân thủ luật pháp nhà nước về quản lý tài chính, quản lý xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại, nghiêm chỉnh thực hiện cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương và các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh của công ty. 33
  34. - Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đồng thời tự tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, đầu tư vào hoạt động đổi mới trang thiết bị tự bù đắp chi phí, tự cân đối xuất nhập khẩu, đảm bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi và hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước nghiên cứu thực hiện có hiệu quả nâng cao các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm do công ty sản xuất ra, kinh doanh làm tăng sức cạnh tranh và mở rộng doanh thu tiêu thụ. - Quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và theo kịp sự đổi mới của đất nước. 1.3. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty: Xuất phát từ tình hình, đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu của thị trường và để phù hợp với sự phát tiển của mình, công ty đã không ngừng nâng cao, hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý. Đến nay bộ máy tổ chức quản lýcủa công ty được chia làm 3 cấp : Công ty, Xưởng- Phân xưởng sản xuất. Hệ thống lãnh đạo của Công ty bao gồm Ban giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ giúp việc cho giám đốc trong việc tiến hành chỉ đạo quản lý. -Ban giám đốc gồm : +Tổng giám đốc . + Phó tổng giám đốc phụ trách kỹ thuật. + Phó tổng giám đốc phụ trách kinh doanh. - Hệ thống các phòng ban bao gồm. + Phòng tổ chức + Phòng tài vụ kế toán +Phòng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu + Phòng cung ứng vật tư + Phòng cơ năng + Phòng kỹ thuật - Ba xí nghiệp: + Xí nghiệp giày xuất khẩu số I + Xí nghiệp giày xuất khẩu số II + Xí nghiệp giày xuất khẩu số III - Một trung tâm thương mại và chuyển giao công nghệ: 152 – Tây Hồ – Hà Nội . Mô hình tổ chức quản lý của Công ty là mô hình trực tuyến, chức năng. Đứng đầu là Giám đốc Công ty sau đó là các phòng ban nghiệp vụ và sau là các đơn vị thành viên trực thuộc. 34
  35. 2. Kết quả kinh doanh của công ty trong giai đoạn vừa qua. Trong những năm gần đây công ty đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ. Công ty đã không ngừng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về số lương lẫn chất lượng. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua được thể hiện thông qua biểu dưới đây. Bảng: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty JTK: Đơn vị So sánh Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 tính 00/99 99/98 98/97 1. Tổng số sản phẩm 1000 đôi 2416 3266 4117 5171 25,6 35,21 20,42 sản xuất 2.Tổng Tr. đồng 56.097 73.500 85.995 101.904 18,5 17,00 31,02 doanh thu 3. Tổnh chi Tr. đồng 50.289 66030 77396 92156,8 19,07 17,2 31,30 phí 4. Doanh thu Tr. đồng 5808 7470 8599 9992,04 16,2 15,11 28,79 thừa 5. Doanh thu Tr. đồng 54.199 71.800 84.000 96154,8 14,47 17,00 32,67 xuất khẩu 6.Nộp ngân Tr. đồng 930 1075 1247 1425,32 14,3 11,6 15,6 sách 7. Lợi nhuận Tr. Dồng 4878 6.395 7352 9747,28 32,58 14,96 31,09 8. Lao động Người 1636 1829 2156 2394 11,03 17,9 11,8 9. Thu nhập Đồng 535.000 569.000 600.000 700.000 16,06 11,4 16,3 bình quân 10. Tỷ suất lợi nhuận % 8,96 88,7 8,55 9,56 doanh thu Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2000 – 1997 JTK. Mặc dù hoạt động kinh doanh trong điều kiện hết sức khố khăn, co hẹp về tài chính, thị trường biến động , cạnh tranh gay gắt nhưng công ty đã naqưng động trong việc thực hiện đường lối chính sách đúng đắn nên đã đạt được những thành quả nhất định. Qua biểu trên ta thấy trong 4 năm 97 – 2000 công ty đã phấn đấu thực hiện chính sách các kết quả sản xuất kinh doanh như sau: - Về sản lương sản phẩm sản xuất. 36
  36. Năm 1998 vượt năm 1997 là 35,2% năm 1999 vượt năm 1998 là 20,4% và năm 2000 vượt năm 1999 là 0%. Như vầy, số lượng sản phẩm sản xuất của công ty tăng nhanh qua các năm. Điều này cghững tỏ sức sản xuất của công ty càng ngày càng được mở rộng . Có được thành tích này là do công ty đã không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất, cải tiến , thiết bị tăng dây chuyền và người lao động sử dụng , thu hút thêm nhiều lao động mới vào làm việc tại công ty. - Về doanh thu: Qua số liệu trên ta thấy không chỉ có số lượng sản phẩm sản xuất tăng nhanh mà doanh thu bán hàng cũng tăng đáng kể qua các năm 1998 tăng so với năm 1997 là 31,02%, năm 1999 tăng so với năm 1998 là 17% và năm 2000 so với năm 1999 là 18,5 %. Dièu này cho thấy sản phẩm sản xuất của công ty ngày càng được khách hàng tiếp nhận hơn - Về chi phí và lợi nhuận: Trong năm 1998công ty đã tiết kiệm trong việc tiết kiệm chi phí để thu mức lợi nhuận đạt 31,9% nhưng năm 1999 do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhân làm cho mức lợi nhuận chỉ tăng 15% đến năm 2000 lợi nhuận của công ty lại tăng và đạt 32,58% - Thu nhập bình quân đầu người của công ty đã được cải thiện qua các năm. Năm 1998/1997 tăng 16,39%, năm 1999/1998 tăng 11,4%, năm 2000/1999 tăng 16,66 %. Có được kết quả này là do công ty đã không ngừng quan tâm tới lợi ích của các cán bộ công nhân viên trong công ty và đã sử dụng đòn bẩy kinh tế khuyến khích người lao động hăng say làm việc. - Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hoạt động chủ yếu của công ty cho nên việc tăng doanh thu xuất khẩu là một nhân tố tích cực để nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường Nhìn chung, các mặt hàng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đều tăng qua các năm tuy tốc độ tăng không đều. Nhưng nhìn chung cũng đã thể hiện được một sự phát triển của công ty. 3. Đặc điểm về mặt hàng giày. Ngành giày là ngành công nghiệp nhẹ, sản phẩm của ngành vừa phục vụ cho sản xuất vùa phục vụ cho tiêu dùng. đối tượng phục vụ của ngành giầy rất rộng lớn bởi nhu cầu về loại sản phẩm của khách hàng rất đa dạng cho các mục đích sử dụng sản phẩm giày là sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của mọi đối tượng khách hàng . Mặt khác sản phẩm giày phụ thuộc nhiều vào 37
  37. mục đích sử dụng và thời tiết, do đó công ty đã chú trọng sản xuất những sản phẩm chất lượng và yêu cầu kỹ thuật cao – công nghệ phức tạp giá trị kinh tế của sản phẩm cao. Sản phẩm chính của công ty là giày dép các loại dùng cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa ( % sản xuất làm ra dành cho xuất khẩu ) đây là mặt hàng dân dụng phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố thời tiết khí hậu và mục đích sử dụng của khách hàng . Vì thế để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng, công ty đã tung ra thị trường những mặt hàng giày dép chủ yếu sau: - Giầy vải cao cấp dùng để du lịch và thể thao. - Giày vải nữ thời trang cao cấp. - Giày da xuất khẩu cho các loại. - Dép giả da xuất khẩu các loại. Do có sự cải tiến về công nghệ sản xuất cũng như làm tốt các công tác quản lý kỹ thuật nên sản phẩm của công ty có chất lượng tương đương với sản phẩm Của những nước đứng đầu châu á. Đặc điểm sản phẩm của công ty có ảnh hưởng rất lớn trong hoạt động nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Đặc biệt sản phẩm của công ty chủ yếu là xuất khẩu, đây là một đặc điểm có vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Đặc điểm này được thể hiện qua biểu sau. Biểu: Kết quả xuất khẩu của Công ty Giầy Thụy Khuê. 38
  38. 4. Thực trạng về nhân lực: Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh do đó công ty đã xác định: lao động là yếu tố hàng đầu để sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm bảo chất lượng, số lượng lao động sẽ mang lại kết quả cao vì yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động, đến hiệu quả của máy móc thiết bị, do đó trong những năm qua lực lượng lao động của công ty không ngừng lớn mạnh cả về chất lượng và số lượng Trình độ Trình độ Bậc thợ Số đào Số thợ Tổng số Năm đại học trung cấp bình tạo huấn giỏi CBCNV ( người ) ( người ) quân luyện ( người ) 1995 1200 14 32 2,1/6 645 64 1996 1420 39 48 2,6/6 1092 75 1997 1036 49 48 2,78/6 1085 88 1998 1029 62 46 2,83/6 1.216 132 1999 2156 80 76 2,9/6 1617 150 2000 2394 88 82 3,1/6 1783 167 Ngày mới tách ra số cán bộ công nhân viên của công ty chỉ có 650 người do nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố lao động, nhất là đối với sản xuất giày nên số lương lao động của công ty không ngừng tăng lên. Hiện nay tổng số lao động của công ty là 2394 người trong đó 88% lực lượng lao động của công ty là những người trẻ khoẻ có kiến thức văn hoá, tiếp thu tốt công nghệ sản xuất tiến tiến lao động trực tiếp của công ty là 2224 người chiếm 92,9% tổng số lao động. Hầu hết các công nhân viên của công ty đã qua lớp đào tạo dài hạn hay ngắn hạn của ngành. Số công nhân có trình độ tay nghề bậc 6/7 là 126 người chiếm 5,67%trình độ bậc 5/7 là 138 người chiếm 6,2% trình độ tay nghề 3/7 là 513 người chiếm 23,06%. Số còn lại là lao động thủ công đã qua lớp đào tạo tay nghề từ 3 – 6 tháng do công ty tổ chức. Số lao động gián tiếp là 170 người chiếm 17,1 % trong đó 88 người đã tôt nghiệp đại học . Bậc thợ bình quân của công ty qua các năm ngày càng tăng cao chứng tỏ chất lượng lao động càng được chú ý dào tạo, huấn luyện và nâng cao. Về nguồn lao động thì chủ yếu thu hut từ các nguồn sau: 40
  39. - Từ các trường đại học trung học và chuyên nghiệp, về làm cho các phòng ban tài chính, phụ trách kỹ thuật tai công ty. - Con em các cán bộ công nhân viên trong ngành tuyển dụng vào làm tại công ty. - Tuyển qua các trung tâm giới thiệu việc làm Về thu nhập của con người lao động trong công ty đã không ngừng nâng cao và cải thiện đời sống người lao động. Lương thàng trung bình của người lao động hàng năm 1995 là 403.000 đồng, năm 1996 là 500.000 đồng, năm 1997 là 535.000 đồng năm 1998 là 596.000 đồng năm 1999 là 600.000 đồng năm 2000 là 700.000 đồng. Như vậy do chú trong tới việc đầu tư máy móc và thiết bị hiện đại và không ngừng phát triển nguồn nhân lực nên từ chỗ công ty chỉ sản xuất một số sản phẩm cấp thấp chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ nội địa đến nay, sản phẩm công ty rất đa dạng , phong phú về màu sắc chủng loại, chất lượng sản phẩm được nâng cao, được khách hàng trong và ngoài nước tín dụng, sản phẩm của công ty đã có mặt ở thị trường khó tính trên thế giới. 5. Thực trạng về công nghệ. Từ ngày tách ra thành một công ty làm ăn độc lập với những dây chuyền cũ, lạc hậu không thích ứng với thời cuộc đứng trước tình hình đó ban giám đốc công ty đã tìm ra phương hướng đi riêng cho mình, tìm đối tác làm ăn, ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Hiện nay dây chuyền sản xuất chủ yếu của công ty đều nhập từ Đài Loan, Hàn Quốc phù hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam về kỹ thuật và sử dụng nhân công nhiều. Đến nay công ty đã đầu tư 6 dây chuyền sản xuất, công suất 3.5 triệu đôi/ năm trong đó gồm hai dây chuyền sản xuất giày dép thời trang, 4 dây chuyền sản xuất giày thể thao, giày vải cao cấp xuất khẩu giày bảo vệ lao động và các sản phẩm may mặc, cao su hoá. Đây là dây chuyền hoàn toàn khép kín từ khâu may mũ, giày vào form; cắt gián “ 02” ( đường viền quanh đế giày) , các dây chuyền có tính tự động hoá, trong công xưởng công nhân không phải đi lại hệ thống chuyền chạy điều khắp nơi. Chính đặc điểm qui định này trong công nghệ sản xuất giày đảm bảo hơn cho dây chuyền sản xuất cân đối nhịp nhàng, cho phé p doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa các yếu tố vật chất trong sản xuất, nhờ đó mà góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 41
  40. Quy trình công nghệ sản xuất giầy của Công ty Giầy Thụy Khuê có thể biểu diễn theo sơ đồ sau. Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất giầy của Công ty Giầy Thụy Khuê. Nguyên vật liệu Cao su tự nhiên Nguyên liệu hoá chất Vải, mus, chỉ, oze Sơ luyện Hỗn luyện Bồi, vải, mus Ra hình Cắt Cắt may Dán mặt gò Gò, dán, ép In Lưu hoá Thu hoá Đóng gói bao bì Nhập kho Xuất hàng Quy trình sản xuất giầy có thể được hiểu như sau; - Vải ( vải bạt, vải các loại ) đưa vào cắt may thành mũ giầy sau đó dập Oze. - Crêp ( cao su, hoá chất) đưa vào cán luyện , đúc dập ra đế giầy. 42
  41. - Mũi giầy vải kết hợp với đế cao su hoặc nhựa tổng hợp để đưa xuống gỗ lắp ráp , lònh mũi giầy để cho vào form giầy, quết kao vải để dán giầy, ráp đế giầy và các chi tiết khác rồi đưa và gò. - Gò mũi mang gót đế dán cao su làm phản giầy sau đó dán đường trang trí lên giầy được sản phẩm giầy sống, lưu hoá trong 128 – 135 o C được giầy chín công đoạn cuối cùng là xâu dây giầy vào kiểm nghiệm chất lượng và đóng gói. II. Phân tích tình hình kinh doanh của công ty. 1. Về mặt hàng. Sau thời kỳ Liên Xô và các nước đông âu tan rã, công ty đã gặp rất nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm trước đây chủ yếu là mũ, giầy vải giầy bảo hộ. Đòi hỏi đặt ra đối với công ty trong thời gian đó là rất lớn. Thứ nhất là về công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất của công ty hết sức lạc hậu. Mà trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt một doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải tìm cách nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tối ưu. Muốn cạnh tranh thắng lợi thì chất lượng sản phẩm phẩi tốt giá không quá cao có nghĩa là phải có giá thành thấp , để thực hiện được điều này thì một điều kiện hết sức quan trọng là phải có công nghệ tiên tiến . Nhiều giải pháp lớn được đề ra và thực hiện trong đó có giải pháp về sản xuất kết hợp và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới về sản xuất là biện pháp hàng đầu. Công ty đã hợp tác với các đối tác P.D.G củaThái Lan, Arc của Hàn Quốc Thứ hai, là nguyên vật liệu đầu vào ban đầu hầu hết các nguyên vật liệu như vải cao su , nhựa, da ni lông , hoá chất được nhập khẩu từ bên ngoài . đây là một khó khăn lớn cho công ty vì việc nhập các loại nguyên vật liệu từ nước ngoài thừơng thì giá cao, phải phụ thuộc vào ngân hàng. Dần dần công ty đã chuyển hướng khai thác nguồn nguyên vật liệu từ trong nước, từ các công ty như : - Công ty dệt 8/3. - Công ty cao su sao vàng. - Mặt lớp vạn thành Thứ 3 là vốn sản xuất ban đầu công ty chỉ có 256 triệu đồng vốn cố định và vốn lưu động có 200 triệu đồng bằng vật tư và bằng bán thành phẩm. 43
  42. Cho đến nay tổng vốn kinh doanh của công ty lên đến 32.198.725.000 đồng trong đó vốn chủ sở hữu là 12.929.538.000 đồng vốn vay 19.269.187.000 đồng . Là một doanh nghiệp nhà nước nên hàng năm công ty cũng được nâng cấp vốn dưới dạng cho vay với lãi suất ưu đãi. Như vây, trong quá trình phát triển của mình công ty đã tạo ra được những sự tiến bộ theo một hướng đi riêng chính điều này đã tạo nên đặc điểm riêng về cả cơ cấu mặt hàng của công ty. Mười năm phát triển cũng là một chặng đường khá dài đối với một doanh nghiệp sản xuất, với hình thức chủ yếu là gia công xuất khẩu cho đối tác nước ngoài , công ty đã dần xây dựng quan hệ tạo ra cho mình những khách hàng truyền thống. Cũng chính vì hình thức kinh doanh chủ yếu là gia công xuất khẩu nên cơ cấu mặt hàng của công ty được xây dựng trên cơ sở khách hàng truyền thống. điều này được hiếu theo cách khách hàng đưa ra những mẫu mã kiếu dáng , yêu cầu về chất lượng đặt hàng cho công ty từ đó công ty xây dựng nền cho mình cơ cấu mặt hàng để sản xuất và tiêu thụ trong nước và thị trường ở nước khác. 2. Về thị trường. Là một doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh giầy xuất khẩu công ty giầyThuỵ Khuê đã bắt đầu coi trọng đến công tác phát triển thị trường cũng như việc xác định mục tiêu của công tác đó. Thị trường xuất khẩu của công ty khá rộng, công ty có quan hệ hơn 20 nước trên thế giới. a. Thị trường xuất khẩu. - Thị trường EU. Đây là thị trường chính của công ty chiếm tỷ trong lớn đối với bạn hàng thường xuyên là Đức, Anh, Pháp, Mỹ, trên thị trường này công ty đã khẳng định được chỗ đứng của mình ngày càng đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe và thoả mãn nhu cầu của khách hàng quốc tế. 44
  43. Biểu một số thị trường chủ yếu của Công ty. Đơn vị tính 100USD: Nước xuất Tỷ trọng 1997 1998 1999 2000 khẩu 97 98 99 200 1. Tây âu 4.514,35 5353,23 2628,84 7086,19 95,90 94,58 94,06 93,48 Đức 2.679 2877,28 3550,16 3969,11 95,90 94,58 53,61 52,36 Pháp 520,9 273,56 417,2 439,66 56,91 51,38 6,3 5,8 Anh 357,2 985,41 887,37 877,81 10,68 6,6 13,4 11,58 Ailen 286,7 516,76 557,59 660,26 7,59 17,41 8,42 8,71 Bỉ 129,25 135,58 207,27 225,14 6,09 9,13 3,13 2,97 Hà lan 258,5 280,73 341,71 391,15 3,39 2,36 5,16 5,62 áo 61,1 61,12 89,4 102,34 5,49 4,96 1,35 1,43 Bồ đào nha 28,2 36,22 41,72 47,76 1,29 1,08 0,63 0,67 Thuỵ sỹ 42,3 45,58 55,62 63,68 0,60 0,64 0,84 0,9 Phần lan 9,5 11,88 13,91 17,43 0,9 0,81 0,21 0,23 2. Thị trường 192,7 306,77 393,36 494,24 0,2 0,2 5,94 6,52 khác Cana đa 51,7 202,06 237,74 273,65 4,1 3,57 3,58 3,61 úc 141 104,71 132,31 212,25 3,00 1,85 2,3 2,8 Tổng cộng 4.707,05 5.660 6622,2 7580,43 100 100 100 100 Nguồn báo cáo thực hiện qua các năm của JTK. Với 15 nước thành viên , EU là một thị trường lớn đối với sản phẩm giầy mà công ty đang tiếp tục khai thác trong những năm gần đây sản phẩm giầy của công ty xuất sang thị trường này tăng lên đáng kể và chiếm tỷ trọng lớn ( trên 90%) doanh thu xuất khẩu luôn đạt được mức tăng trưởng từ 1,4 đén 1,5 lần, trong đó thị trường ở đứ Anh, Pháp là ba thị trường lớn và thường xuyên của công ty với giá trị khả năng xuất khẩu sang thị trường này không ngừng tăng và mở rộng đặc biệt là thị trường Đức chiếm 52,10% sang đến năm 1998 chiếm và tiếp tục tăng trong các năm 99 và 2000. Hai thị trường Anh và Pháp vẫn là hai thị trường chủ yếu nhưn có xu hướng giảm nhẹ. Thị trường Pháp năm 1997 chiếm 11,02% năm 1998 chiếm 6,6% năm 1999 chiếm6,3% và năm 2000 chiếm 11,6% tỷ trọng ở các thị trường này có xu hướng giảm nhẹ là do công ty đang có xu hướng mở rộng sang các thị trường mới như Hylap, Hà lan, áo, công ty nắm bắt được những đặc điểm của thị trường EU nên đã gia tăng thị phần ở thị trường này. 45
  44. Đặc điểm của thị trường này là. - Khi tham gia vào EU Việt Nam được hưỏng quy chế ưu đãi chung. Theo quy định này, các hàng hoá của Việt Nam được hưởng quy chế ưu đãi thuế quan theo hệ thống ưu đãi phổ cập của EU đây là thuận lợi lớn mà một số quốc gia đứng đầu về sản phẩm sản xuất giầy như Hàn Quốc, Đài Loan không có được. EU là thị trường đầy tiềm năng có mức tiêu dùng giầy cao nhất thế giới là 6 đôi / người / năm. Khu vực này có điều kiện khí hậu lạnh người dân đã quen với việc sử dụng giầy hàng ngày. Mặt khác là do đặc điểm của sản phẩm giầy luôn gắn bó với các trào lưu mốt, thời trang mà một số nước trong khối EU là những trung tâm thời trang của thế giới nên thị trường này rất cao đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao về mẫu mã và phù hợp. - Thị trường Bắc Mỹ. Ngoài EU, bắc mỹ cũng là một thị trường lớn của công ty đặc biệt trong đó có Canada và Mỹ là hai thị trường có tiềm năng năm 1997 xuất khẩu sang Cana đa chiếm 4,94% năm 1998 là 3,57% năm 1999 3,95% và sang năm 2000 tăng lên 3,61%. Đặc trưng đòi về giầy của dân chúng Mỹ trước hết là các loại giầy thể thao giầy cho việc nghỉ ngơi thư giản , giầy tiện nghi. Tuy nhiên khu vực thị trường lại đòi hỏi rất khắt khe với chất lượng mẫu mã của sản phẩm. Tháng 7/2000 Việt Nam và Mỹ đã ký hiệp định thương mại song phương đây là cơ sở cho Việt Nam có thể có được quy chế toứi huệ quốc (MFN) của mỹ, mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có doanh nghiệp thuộc gngành giầy da nên trong tương lai thị phần cho công ty ở khu vực này sẽ tăng lên mạnh mẽ. - Thị trường khác. Ngoài ra công ty còn xuất sản phẩm của mình ra các nước Châu á và Châu úc. Khu vực Châu á được coi là khu vực năng động nhất thế giới với tốc độ phát triển cao. Thị trường Châu á với số dân rất lớn nhưng mức tiêu dùng giầy chưa cao 0,5 – 2 đôi / năm. Với các nước Châu á do điều kiện tự nhiên rất giống với Việt Nam, mang truyền thống văn hoá á đông không cách xa nhau lắm nên giảm được chi phí vận chuyển, hàng hoá của công ty xuất sang Châu á có nhiều thuận lợi hơn. Song thị trường Châu á lại mang tính cạnh tranh khốc liệt về mặt hàng giâỳ do có nhiều nước cùng sản xuất đặc biệt là Trung 46
  45. Quốc, Đài loan, Hàn Quốc. úc cũng là một thị trường có quy mô của công ty Năm 97 thị trường này chiếm 2,3% và năm 2000 chiếm 2,8%. b. Thị trường trong nước. Thị trường trong nước của công ty chưa phát triển mạnh vẫn thổi nổi lượng giầy tiêu thụ của người dân hàng năm không cao, đối tác chủ yếu của công ty là các công ty tại thành phố Hồ Chí minh. Trong nước hiện nay chưa có rất nhiều công ty sản xuất giày dép như Thượng Đình, Thăng Long, Bittis nên sự cạnh tranh khá mạnh trong tương lai công ty cần có chính sách đúng để chiếm lĩnh thị trường trong nước. III. Tác động của hội nhập AFTA đối với các doanh nghiệp Việt Nam và đối với công ty giày dép thuỵ khuê. 1. Tác động của doanh nghiệp Việt Nam. 1.1. Vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam. a. Về mậu dịch. Trong thời gian trước đây, Việt Nam chủ yếu luồn lách với các nước Liên Xô cũ và đông âu. Hàng hoá xuất khẩu thường là nông sản thô thông qua các nghệ địch thủ ký kết giữa các chính phủ. Toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu nằm trong tay các doanh nghiệp trong nước. Tù khi thực hiện chính sách đổi mới vào năm 1986 số lượng các bạn hàng buôn bán với Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Quan hệ thương mại Việt Nam- ASEAN tăng mạnh với tốc độ khoảng 27%/ năm và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân thương mại. Thương mại Việt Nam – ASEAN chiếm 1/3 kim ngạch ngoại thương của Việt Nam và trong đó xuất khẩu chiếm 1:4 và nhập khẩu chiếm 1/3. Quan hệ thương mạo trong khu vực vẫn nằm trong tay các doanh nghiệp nhà nước . Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là nông sản thô, thực phẩm chiếm 48% nhiên liẹu chiếm 34% và các mặt hàng chế tạo 18% . Nghĩa là khi tham gia vào CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế ít hơn các doanh nghiệp các nước trong khu vực. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN bao gồm Dỗu thô, đậu, cao su, chè ngô, hạt dièu, tiêu, rau quả tươi, thuỷ sản, thép, gỗ, thiếc, hàng thủ công, như vậy trong số các sản phẩm này có rất ít các sản phẩm được coi là hàng công nghiệp chế biến , mặt hàng được ưu đãi thuế quan ở 47
  46. mức cao và tiến hành nhanh nhất. Các nh này chỉ có tính chất bổ sung cơ cấu kinh tế của các quốc gia ASEAN chứ không có vị thế cạnh tranh thực sự. Khoảng cách giữa mức thuế hiện hành và mức thuế dưới 5 % sau khi thực hiện AFTA. đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến nmà doanh nghiệp Việt Nam có thể tăng cường trong tương lai gần như đồ nhựa, da, cao su, dệt may, đá quý, Mức độ cạnh tranh giữa các hàng hoá của ASEAN trên thị trường nội địa sẽ ngày càng trở nên gay gắt hơn khi AFTA được thực hiện đầy đủ. Đối với quan hệ thương mại Việt Nam và giữa các nước ngoài ASEAN thì lợi ích thu được đối với doanh nghiệp sản xuất là giảm giá thành sản xuất nhờ mua được vật tư đầu vào vopứi giá hạ hơn từ các nước ASEAN góp phần tăng cường khối lượng hàng hoá xuất khẩu. Tuy nhiên các nước ASEAN cũng xuất khẩu ra thị trường thế giới những sản phẩm tương tự Việt Nam cho nên họ cũng tăng sức cạnh tranh khi gia nhập AFTA. b. Về sản xuất. Như đã đề cập ở trên, hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu ở Việt Nam chỉ chiếm trên 18% tổng kim ngạch xuất khẩu, một con số rất khiêm tốn nếu đem so sánh với các con số tương ứng với các nước ASEAN khác. Các mặt hàng công nghiệp chế tạo của Việt Nam hầu như chưa có mặt trên thị trường ASEAN, ngược lại hàng hoá công nghiệp chế tạo ASEAN đã thâm nhập khá sâu sắc vào trong số 15 nhóm hàng giảm thuế nhanh các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới khó có thể có sản phẩm để xuất khẩu. Hàng hoá do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất vẫn chưa có chất lượng được tin cậy, lại vừa chưa gây được ấn tượng vì hình thức kiểu dáng. Các doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh ở những ngành sử dụng nhiều lao động do tiền lương ở Việt Nam tương đối thấp hơn so với các nước ASEAN khác. Tuy nhiên sản phẩm của các ngành này lại không được tiêu thụ chủ yếu ở ASEAN mà xuất sang các nước thuộc khu vực khác. Do vậy việc tham gia AFTA chưa có tác động quan trọng đến các doanh nghiệp sử dụng người lao động. 1.2. Những cơ hội và thách thức của hội nhập AFTA đối với các doanh nghiệp Việt Nam. a. Cơ hội. - Thứ nhất, tham gia vào AFTA sẽ tạo sức ép được buộc doanh nghiệp Việt Nam phải tự đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh 48
  47. doanh, tích cực áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và cung cách làm ăn mới, hơn nữa gia nhập AFTA cũng bắt buộc, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào những ngành được hưởng ưu đãi và ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh tranh. Sức ép to lớn từ phía AFTA đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải đuổi kịp và vượt các nước ASEAN về chất lượng, mẫu mã giá cả hàng hoá trong vòng 5 – 8 năm, nếu không sẽ phá sản và trao thị trường Việt Nam cho đối thủ trong khu vực. Thứ hai, Các doanh nghiệp Việt Nam có thể hạ giá thành sản phẩm do mua được những nguyên liệu đầu vào rẻ hơn. đây là cơ hội không dễ có được đối với bất cứ một doanh nghiệp nào. Những khó khăn do khan hiếm nguyên vật liệu sẽ bị loại bỏ khi gia nhập AFTA, nếu các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt cơ hội này họ có thể vượt lên cạnh tranh tôt với các đối thủ trong khu vực. Thứ ba, Doanh nghiệp Việt Nam sẽ trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp Việt Nam xưa nay làm ăn thua lỗ nhưng vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bới những doanh nghiệp nước ngoài hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng . Nền sản xuất trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích ứng hơn đối với điều kiện quốc tế thay đổi. b. Thách thức. - Các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam đang sử dụng những công nghệ lạc hậu, cũ kỹ sẽ chịu sức ép cạnh tranh rất lợi từ những sản phẩm có công nghệ tương đối cao của ASEAN. Không loại trừ một số trường hợp hàng hoá Việt Nam sẽ bị đánh bật ngay trên thị trường Việt Nam. - Tham gia AFTA có nghĩa là nhà nước Việt Nam phải từ bỏ các khoản thu ngân sách nhất định do giảm thuế nhaạo khẩu và giảm thu năng suất có thể ảnh hưởng ngay lập tức tới các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các ngành sản xuất mang tính chiến lưọc đang được trợ cấp. 2. Tác động đối với Công ty Giầy Thụy Khuê. a. Về nguồn nguyên liệu. Nguyên vật liệu là một yếu tố quan trọng tạo nên sản phẩm, chất lượng sản phẩm góp phần vào việc làm hạ giá thành sản phẩm. Nguyên vật liệu của công ty bao gồm rất nhiều loại như vải, cao su, nhựa, da , ni lon, hiện nay phần lớn hoạt động sản xuất giày dép cuả công ty 49
  48. là làm hàng gia công cho nước ngoài nên nhiều loại nguyên liệu hóa chất đều phải nhập từ nước ngoài vào. Bên cạnh việc nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài vào , Công ty còn khai thác nguồn nguyên vật liệu ở trong nước thông qua các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Những năm gần đây dây vải sợi trong nước đã có nhiều tiến bộ về chất lượng đãb đáp ưngs được phần nào vải sợi có chất lượng cao để phục vụ hàng xuất khẩu. Các công ty đã hợp tác chặt chẽ với các công ty như. + Công ty dệt 8/3, công ty dệt kim Hà Nội, công ty dệt 19/5. + Công ty cao su sao vàng. + Mút xốp vạn thành. + Đế đức sơn. + Tổ hợp dệt tân thành. Các công ty này tuy đã đáp ứng được yêu cầu về mặt số lượng , chất lượng, nhưng còn một số điểm tồn tại như đôi khi còn chậm chạp, giá cao, chưa theo kịp sự thay đổi của mốt giầy. Ngoài nguồn nguyên vật liệu trong nước. Công ty còn nhập một số lượng lớn các nguyên vật liệu ở nước ngoài. Việc phải nhập nguyên liệu từ nguồn nước ngoài do nhiều nguyên nhân bắt buộc công ty phải nhập như là: - Do yêu cầu của chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu, vì vậy phải nhập khẩu nguyên vật liệu nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm. - Do nguồn nguyên vật liệu trong nước chưa đáp ứng đủ số lượng và chất lượng nguyên vật liệu. Biểu cơ cấu nguyên vật liệu nhập ngoại. Tên hàng 1997 1998 1999 2000 Vải, da 1.508.230 1.149.880 1.207.379 1.326.154 Hoá chất 962.700 1657.180 1740.039 1.796.710 Nguyên liệu khác 738.070 574.940 603.687 738.253 Tổng 3.209.000 3.382.000 3.551.105 3.861.117 Khi tham gia vào AFTA, về mặt nguyên vật liệu công ty chịu những tác động sau. Thứ nhất, về các Nguyên vật liệu nhập khẩu. Khi hoàn thành AFTA giá các sản phẩm nhập khẩu sẽ giảm xuống còn 0 – 5% nên giá các sản phẩm nhập khẩu chắc chắn sẽ giảm. Các nước trong khu vực ASEAN sẽ cung cấp 50
  49. một số lượng lớn hơn về Nguyên vật liệu cho công ty đảm bảo chất lượng và giá giảm hơn hiện nay. Thứ hai, về Nguyên vật liệu trong nước. Khi hoàn thành AFTA các doanh nghiệp trong nước sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp thuộc các quốc gia ASEAN nên họ phải cải tiến công nghệ, giảm giá thành nâng cao chất lượng nên công ty sẽ có được những Nguyên vật liệu tốt hơn với giá hạ hơn. b. Về công nghệ . Chúng ta biết rằng Châu á phát triển theo mô hình “đàn nhạc” dẫn đầu là Nhật Bản sau đó là các nước NIEs trong đó có XINGAPO tiếp theo là các nước NIEs thứ hai , sự di chuyển công nghề theo hiệu ứng “chảy tràn”có nghĩa là công nghệ được di chuyển cũng theo thứ tự từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn – khi tham gia vào AFTA với các hàng rào được dỡ bỏ sự di chuyển công nghệ sản xuất lài càng mạnh mẽ hơn . Việt Nam chúng ta là nước đi sau nên có điều kiện tiếp thu công nghệ tiên tiến hơn. Công ty Giầy Thụy Khuê cũng nằm trong bối cảnh này nên cũng tiếp thu được những công nghệ sản xuất giày dép hiện đại , các mẫu mã kiểu dáng công nghiệp cũng như các sở hữu công nghiệp khác tao điều kiện hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. c. Về kinh tế. Khi tham gia AFTA các điều kiện thương mại sẽ thuện lợi hơn cho các thành viên. Theo nguyên tắc xuất xứ hàng hoá của ASEAN sẽ được hưởng các điều kiện ưu đãi từ các quốc gia thành viên vì vậy sẽ có những luồng đầu tư từ bên ngoài vào nhất là từ các nước phát triển để tận dụng các nguồn vật liệu, lao động từ ASEAN và phát triển thị trường ở khu vực ASEAN kéo theo nó là các kinh nghiệm quản lý, phát triển thị trường không những thế các đối tác của các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển hơn Việt Nam cũng xâm nhập vào Việt Nam mạnh mẽ hơn ở họ có những kinh nghiệm mà bên phía các doanh nghiệp Việt Nam cần học tập. Tác động này ảnh hưởng đến toàn bộ các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường trong đó Công ty Giầy Thụy Khuê. d. Về đối tác. Khi tham gia AFTA, môi trường cạnh tranh trong nước sẽ khốc liệt hơn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưỏng ngày càng ít hơn sự trợ cáp của nhà nước , chính điều kiện cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém 51
  50. , điều này sẽ làm giảm bớt đi những đối tác trong nước, các đối tác nước ngoài sẽ xâm nhập vào Việt Nam điều này làm tăng về số lượng các đối tác nước ngoài. Hơn nữa, AFTA sẽ làm tăng tính chuyên môn hoá giữa các quốc gia có nghĩa là mỗi một quốc gia sẽ sản xuất một số mặt hàng hoá nhất định mà mình có lợi thế để cung cấp cho các quốc gia thành viên điều này làm thay đổi về chất trong quan hệ giữa công ty và các đối tác của mình. IV. Đánh giá về khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA. Như đã phân tích ở trên khi tham gia hội nhập AFTA có tác động mạnh mẽ đến Công ty Giầy Thụy Khuê nó đem lại những cơ hội cũng như các thách thức đối với công ty điều này có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty. A. Theo mô hình SWOT. 1. Về hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu giày dép là một trong những hoạt động chính chủ yếu của công ty, nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của công ty. Đối với Công ty Giầy Thụy Khuê thì vấn đề chính là giá cả và chất lượng mặt hàng giày dép, do công ty chưa có uy tín trên thị trường quốc tế cho nên vấn đề nhãn hiệu không phải là vấn đề quan trọng cần chú ý ngay. Trong những lĩnh vực này thì chúng ta có thể chỉ ra những điểm mạnh điểm yếu của công ty như sau. * Mặt mạnh: quy mô của công ty không qua lớn, hoạt động sinh hoạt để thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Công ty có trụ sở chính , cơ sở sản xuất sản xuất ở Hà Nội điều này sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho việc đối tác nước ngoài iđến tìm hiểu , ký kết hợp đồng làm ăn vì Hà Nội là trung tâm văn hoá - kinh tế – chính trị của các nước, các đoàn thương gia nước ngoài thường đến thủ đô để tìm hiểu tìm kiếm các đối tác làm ăn trong tất cả các lĩnh vực cũng như môi trường đầu tư, Hà Nội có vị trí thuận lợi gần cảng Hải Phòng , do đó mà được vận chuyển giao hàng cho các đối tác nước ngoài sẽ gặp nhiều thuận lợi. 52
  51. * Mặt yếu: công ty còn bị động trong kinh doanh do phụ thuộc vào đối tác trong nước và nước ngoài. Mẫu mã do nước ngoài đưa sang chứ chưa có mẫu mã chom riêng bản thân mình , công ty thường tốn nhiều thời gian và chi phí cho việc vận chuyển vì công ty không có đội ngũ vận tải chuyên nghiệp thường phải đi thuê. Kho bãi của công ty chưa đủ lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh. 2. Về nhân sự. Nhân sự là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi hoạt động của mỗi doanh nghiệp nếu chỉ nói đén lao động sản xuất trực tiếp của công ty thì không có gì phải bàn nhưng nói đến lao động gián tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh , giao dịch tìm kiếm khách hàng thì lại là một vấn đề khác. * Mặt mạnh: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo công ty đa phần là những người có kinh ngiệm lâu năm . có trình độ chuyên môn kỹ thuật có mối quan hệ rộng. * Mặt yếu: Số lượng người có trình độ cao ít ở trình độ cao học công ty không có một người nào, số lượng người có trình độ đại học còn chưa cao, một số trong đó không được đào tạo thích ứng với cơ chế thị trường. Do đó, một số cán bộ trẻ được đào tạo trong cơ chế mới không phát huy được năng lực cũng như không kết hợp được với kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ lâu năm giầu kinh nghiệm trên. 3. Về tài chính. Mặt mạnh về tài chính là cơ cấu tài chính linh hoạt được nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi, công ty có thể huiy động vốn với nhièu nguồn khác nhau. Vốn lưu động nhiều nguồn vốn vay khá lớn số lượng chu kỳ sản xuất tương đối ngắn nên thời gian quay vòng vốn ngắn. Mặt yếu: Vốn chủ sở hữu chủ yếu là ngân sách cấp chiếm 88% nên khi tham AFTA nguồn vốn này có thể sẽ bị giảm do sự giảm sút nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu. 4. Về Marketing. Marketing là khâu quan trọng đưa khách hàng đến với công ty là con đường để công ty chiếm lĩnh thị trường đồng thời là một trong những cách để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hoạt động Marketing có 53