Đề tài Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội

doc 49 trang nguyendu 4330
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_cac_bien_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_su_dung_von_luu.doc

Nội dung text: Đề tài Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội

  1. Lời nói đầu Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã có sự biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Nước ta đang bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì nhu cầu về vốn càng trở nên cấp bách hơn. Nhưng khi đã có vốn rồi thì việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả cũng là vấn đề rất quan trọng. Việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Ngày nay một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp đó phải biết sử dụng vốn triệt để và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh mà đặc biệt là vốn lưu động. Vốn lưu động là bộ phận rất quan trọng trong vốn sản xuất kinh doanh và nó thường chiếm tỷ trọng rất lớn ở những doanh nghiệp thương mại. Có thể nói trong doanh nghiệp thương mại vốn lưu động là bộ phận sinh lời nhiều nhất. Chỉ khi nào doanh nghiệp hoạt động có hiệuquả thì doanh nghiệp đó mới có vốn để tái đầu tư giản đơn và tái đầu tư mở rộng nhằm đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho doanh nghiệp trong hành lang pháp lý về tài chính và tín dụng mà nhà nước đã quy định. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, là sự sống còn của các doanh nghiệp khi tìm chỗ đứng trong nền kinh tế thị trường. Do đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đang là vấn đề bức thiết đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong thực tế hiện nay ở Việt Nam hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề đang được quan tâm. Nhìn chung hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của các doanh nghiệp ở Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước còn đang ở mức thấp so với các doanh nghiệp trên thế giới. Nếu chúng ta không có giải pháp kịp thời để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính thì các doanh nghiệp sẽ khó đứng vững được trong môi trường cạnh tranh quốc tế và sẽ dẫn đến nguy cơ tụt hậu. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, qua thời gian thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên
  2. hướng dẫn cùng tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến thông qua đó nghiên cứu: “Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội”. Đề tài nghiên cứu gồm 3 phần: Chương I: Cơ sở lý luận về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp thương mại. Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội. Chương III: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội.
  3. Chương I Cơ sở lý luận về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp thương mại I. Vốn lưu động trong doanh nghiệp thương mại 1. Khái niệm về vốn lưu động Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn lưu thông để đảm bảo quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành bình thường. Tài sản lưu động của doanh nghiệp là những tài sản tiền tệ hoặc có thể chuyển thành tiền tệ trong chu kỳ kinh doanh. Nó bao gồm: - Vốn bằng tiền, bao gồm: + Tiền mặt tại quỹ (gồm cả ngân phiếu) + Tiền gửi ngân hàng + Tiền đang chuyển - Hàng tồn kho: Các loại tài sản hàng tồn kho được phân loại theo vật tư của quy trình kinh doanh của doanh nghiệp thương mại bao gồm: + Hàng tồn kho + Hàng đang đi trên đường + Hàng gửi bán Trong nền kinh tế thị trường tài sản hàng tồn kho còn bao gồm cả phần dự phòng giảm giá hàng hoá tồn kho. - ứng trước và trả trước: Là những khoản ứng và thanh toán trước cho các nhà cung ứng theo hợp đồng kinh doanh, các khoản tạm ứng khác. - Các khoản phải thu: Bao gồm: + Phải thu từ khách hàng: Thanh toán với người mua, trong kinh doanh hiện đại nợ phải thu từ khách hàng là những khoản nợ có nguồn gốc từ việc bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ và các khoản phải thu khác như hạ giá chiết khấu, giảm giá các khoản phải thu. + Phải thu nội bộ: Các khoản tạm ứng cho các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
  4. - Đầu tư tài chính ngắn hạn: Gồm các cổ phiếu, trái phiếu thương phiếu ngắn hạn mà doanh nghiệp đã mua nhằm mục đích sinh lời từ việc thu lợi tức, cổ tức và giá trị chứng khoán ngắn hạn. Những tài sản này cũng xem như tiền có thể sử dụng ngay được vì qua thị trường chứng khoán cấp II ta có thể chuyển nhượng để thu tiền và bất cứ lúc nào. - Chi sự nghiệp: là những khoản chi một lần nhưng được phân bổ cho nhiều thời kỳ khác nhau. Đặc điểm nổi bật nhất của vốn lưu động là tham gia trực tiếp và hoàn toàn không ngừng, luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện. Quá trình thay đổi hình thái biểu hiện của vốn lưu động gắn liền với mua bán hàng hoá và sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp và do đó tạo nên quá trình vận động của vốn trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, sự vận đọng của vốn trải qua hai giai đoạn: + Giai đoạn 1: Doanh nghiệp phải ứng ra một số lượng tiền nhất định để mua vật tư hàng hoá từ nhiều nguồn khác nhau về dự trữ. VLĐ được chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hoá. + Giai đoạn 2: Doanh nghiệp dùng hàng hoá dự trữ bán cho khách hàng để thu tiền về vốn từ hình thái hàng hoá được chuyển sang hình thái tiền tệ. Trong cùng một thời điểm vốn lưu động tồn tại dưới cả hai hình thái. Cũng do vốn lưu động luôn vận động nên kết cấu của vốn lưu động luôn biến đổi và phản ánh sự vận động không ngừng của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Phân loại vốn lưu động Để phân loại vốn lưu động ta có thể dựa vào một số chỉ tiêu sau: a) Dựa vào sự vận động của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh: VLĐ được chia làm 3 phần: Vốn lưu động trong khâu dự trữ, VLĐ trong khâu lưu thông, VLĐ trong khâu sản xuất. - VLĐ trong khâu dự trữ: Đối với các doanh nghiệp dịch vụ VLĐ trong khâu dự trữ bao gồm: Vốn dự trữ vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục.
  5. - VLĐ trong khâu sản xuất: Trong doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp dịch vụ không mang tính chất sản xuất thì không có vốn lưu động vận động ở khâu này. Đối với các doanh nghiệp dịch vụ mang tính chất sản xuất VLĐ này bao gồm: + Vốn về sản phẩm dở dang đang chế tạo: là giá trị sản phẩm dở dàng dùng trong quá trình sản xuất, xây dựng hoặc đang nằm trên các địa điểm làm việc đợi chế biến tiếp, chi phí trồng trọt dở dang + Vốn bán thành phẩm tự chế: cũng là giá trị các sản phẩm dở dang nhưng khác sản phẩm đang chế tạo ở chỗ đã hoàn thành giai đoạn chế biến nhất định. + Vốn và phí tổn đợi phân bổ (chi phí trả trước) là những phí tổn chi ra trong kỳ, nhưng có tác dụng cho nhiều kỳ sản xuất vì thế chưa tính hết vào giá thành mà sẽ tính vào giá thành các kỳ sau: - VLĐ trong khâu lưu thông bao gồm: + Vốn thành phẩm biểu hiện bằng tiền số sản phẩm đã nhập kho và chuẩn bị các công tác tiêu thụ. + Vốn bằng tiền bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển và tiền gửi ngân hàng. + Vốn thanh toán là những khoản phải thu tạm ứng phát sinh trong quá trình mua bán vật tư hàng hoá hoặc thanh toán nội bộ. Theo cách phân loại này có thể thấy vốn nằm trong quá trình dự trữ nguyên vật liệu và vốn nằm trong khâu lưu thông không tham gia trực tiếp vào sản xuất. Phải chú ý tăng khối lượng sản phẩm đang chế tạo với mức hợp lý vì số vốn này tham gia trực tiếp vào việc tạo nên giá trị mới. b) Phân loại theo hình thái biểu hiện: VLĐ được chia làm 2 loại - Vật tư hàng hoá: là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên nhiên liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm - Vốn bằng tiền. c) Phân loại theo nguồn hình thành và quyền sở hữu: - Vốn chủ sở hữu: gồm 3 phần:
  6. + Vốn đóng góp của các chủ đầu tư để mở rộng hoặc thành lập doanh nghiệp. Chủ sở hữu doanh nghiệp có thể là nhà nước, cá nhân hoặc các tổ chức tham gia liên doanh, các cổ đông mua hoặc nắm giữ cổ phiếu. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi mới thành lập phải có đủ vốn pháp định. Trong mỗi lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác nhau thì VLĐ của doanh nghiệp là khác nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn có số vốn điều lệ, đây là số vốn thực có của doanh nghiệp và số vốn này phải lớn hơn hoặc bằng số vốn pháp định. + Vốn được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Sau mỗi kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ xác định được kết quả kinh doanh của kỳ đó. Một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các đối tượng liên quan. Một phần khác được bổ sung vào vốn kinh doanh mà chủ yếu là vốn lưu động và đây là một bộ phận của vốn chủ sở hữu. + Các khoản chênhlệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỉ giá chưa xử lý và các quỹ được hình thành trong hoạt động sản xuất kinh doanh như quỹ phúc lợi quỹ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Những doanh nghiệp nhà nước vốn hoạt động là do nhà nước cấp ngay từ khi mới thành lập trên cơ sở bảo toàn và phát triển vốn. - Vốn vay: Với điều kiện kinh tế như hiện nay, quy mô kinh doanh ngày nay có xu hướng mở rộng, nhu cầu sử dụng vốn ngày càng phát triển. Do vậy nguồn vốn chủ sở hữu chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu vốn kinh doanh. Để có đủ vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải chủ động tạo ra cho mình nguồn vốn để kinh doanh. Một biện pháp hữu hiệu nhất là đi vay vốn. Hình thức đi vay của doanh nghiệp là: Vay ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế hoặc của các cá nhân hay vay của các tổ chức tín dụng nhằm tạo ra một lượng vốn cao hơn để đáp ứng nhu cầu về vốn khi thực hiện hợp đồng phù hợp với lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp mà không trái với pháp luật. Với mỗi hình thức vay vốn lại có những điều kiện xây dựng ràng buộc khác nhau. Nếu doanh nghiệp vay của tổ chức tín dụng ngân hàng thì điều kiện để xét vốn vay là doanh nghiệp phải làm ăn có lãi, có tài sản thế chấp mà số tài sản này chưa đem ra thế chấp. Sau 1 chu kỳ hoặc một khoảng thời gian nhất định doanh nghiệp phải hoàn trả tiền vay vốn.
  7. Ngoài việc vay vốn của tổ chức tín dụng, của ngân hàng, cá nhân qua việc phát hành cổ phiếu, còn xuất hiện việc vay vốn lẫn nhau mà thực chất là chiếm dụng vốn lẫn nhau. Như vậy việc vay vốn sẽ tạo điều kiện thuận lợi, nắm bắt được cơ hội kinh doanh và phát triển lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Vốn liên doanh: Ngoài vốn tự có, vốn vay doanh nghiệp có thể huy động thêm bằng hình thức góp vốn liên doanh, với hình thức nhận góp vốn liên doanh tức là doanh nghiệp cùng hợp tác với nhau trong vấn đề kinh doanh nhằm mục đích hai bên cùng có lợi. - Vốn khác: Trên thực tế hoạt động kinh doanh có những khoản phải trả phải nộp: như nợ phải trả người bán, phải trả nội bộ, thuế và các khoản nộp ngân sách nhưng chưa đến kỳ phải trả, những khoản người mua phải trả tiền trước, tiền lương, tiền bảo hiểm, y tế, kinh phí công đoàn Những khoản này được coi như là vốn tự có của doanh nghiệp mặc dù doanh nghiệp không có quyền sở hữu, những vẫn được quyền sử dụng tạm thời vào hoạt động kinh doanh mà không phải trả bất kỳ một khoản ký gửi nào. Với các phân loại vốn như trên tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý vốn mà doanh nghiệp nắm giữ đồng thời cho thấy quy mô của từng loại vốn để từ đó có kế hoạch khai thác một cách chủ động, tích cực góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. d) Kết cấu vốn lưu động Kết cấu VLĐ thực chất là tỉ trọng từng khoản vốn trong tổng nguồn VLĐ của doanh nghiệp. Thông qua kết cấu của VLĐ cho thấy sự phân bổ của vốn trong từng giai đoạn luân chuyển hoặc trong từng nguồn vốn, từ đó doanh nghiệp xác định được phương hướng và trọng điểm quản lý vốn nhằm đáp ứng kịp thời đối với từng thời kỳ kinh doanh. Kết cấu của VLĐ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: đặc điểm ngành nghề kinh doanh, trình độ tổ chức. Vì vậy trong doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng khác nhau, nó phụ thuộc vào các nhóm nhân tố sau: - Nhóm nhân tố về mua sắm vật tư và tiêu thụ sản phẩm: Các doanh nghiệp hàng năm phải sử dụng nhiều loại vật tư khác nhau. Nếu khoảng cách giữa các doanh nghiệp và các đơn vị bán hàng xa hoặc gần, kỳ hạn bán hàng,
  8. chủng loại, số lượng và giá cả phù hợp với yêu cầu thì có sự thay đổi đến tỷ trọng VLĐ bỏ vào khâu dự trữ. Điều kiện tiêu thụ sản phẩm cũng ảnh hưởng nhất định đến kết cấu VLĐ. Khối lượng tiêu thụ sản phẩm mỗi lần nhiều hay ít, khoảng cách giữa các doanh nghiệp với các đơn vị mua hàng dài hay ngắn đều trực tiếp ảnh hưởng tới tỷ trọng thành phẩm và hàng hoá xuất ra nhờ ngân hàng thu hộ. - Nhóm nhân tố về mặt thanh toán: Nếu sử dụng phương thức thanh toán hợp lý, giải quyết thanh toán kịp thời thì tỉ trọng vốn trong khâu lưu thông sẽ thay đổi. Đặc biệt trong xây lắp việc sử dụng các thể thức thanh toán khác nhau tổ chức thủ tục thanh toán, tình hình chấp hành kỷ luật thanh toán có ảnh hưởng nhiều đến tỷ trọng vốn bỏ vào khâu sản xuất và khâu lưu thông. Ngoài các nhân tố nêu trên, kết cấu VLĐ còn lệ thuộc vào tính chất thời vụ sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý doanh nghiệp. Tìm hiểu thành phần cũng như nghiên cứu kết cấu nội dung vốn lưu động là rất cần thiết đối với việc sử dụng chính xác và có hiệu quả số vốn đó trong mỗi doanh nghiệp. 3. Vai trò của vốn lưu động Vốn lưu động được coi là nguồn lực quan trọng nhất trong doanh nghiệp. Vốn là tiền đề vật chất không thể thiếu đối với sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp. Trước hết vốn là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp thực hiện thủ tục pháp lý thành lập. Tiếp theo khi bắt đầu sản xuất kinh doanh phải có vốn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và VLĐ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Với sự cạnh tranh trong nền kinh tế ngày càng khốc liệt thì vốn là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Nếu thừa nhận vốn doanh nghiệp không thể chủ động trong sản xuất kinh doanh, cũng như không thể mở rộng quy mô và khi đó doanh nghiệp sẽ bị cạnh tranh bởi các đối thủ khác mạnh hơn, như vậy quy mô kinh doanh sẽ bị thu hẹp thậm chí dẫn tới phá sản. VLĐ còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình hoạt động của hàng hoá, cũng như phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ bán hàng của doanh nghiệp. Mặt khác vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh thời gian lưu thong có hợp lý hay không. Do đó thông qua tình hình luân chuyển VLĐ của doanh nghiệp, các nhà hàng quản doanh nghiệp có thể đánh
  9. giá kịp thời đối với các mặt hàng mua sắm dự trữ sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ, do vậy việc quản lý vốn có ý nghĩa quan trọng. Sử dụng vốn hợp lý sẽ cho phép khai thác tối đa năng lực hoạt động của TSLĐ góp phần hạ thấp chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tóm lại VLĐ có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, việc tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề sử dụng vốn lưu động là vấn đề cần thiết nhằm đưa ra những biện pháp tối ưu phục vụ cho chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp. II. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại 1. Hiệu quả kinh doanh Hiệu quả kinh doanh được hiểu là chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối tương quan so sánh giữa kết quả đạt được theo mục tiêu đã xác định với chi phí bỏ ra để đạt được mục tiêu đó. Trong quá trình kinh doanh nếu chi phí bỏ ra ít nhưng kết quả thu được lại cao thì có nghĩa hiệu quả kinh doanh tốt và ngược lại. Để hoạt động, doanh nghiệp thương mại phải có các mục tiêu hành động của mình trong từng thời kỳ, đó có thể là các mục tiêu xã hội cũng có thể là các mục tiêu kinh tế của chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp luôn tìm cách để đạt các mục tiêu đó với chi phí thấp nhất đó là hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên hai khía cạnh sau: Hiệu quả xã hội: Thể hiện sự đóng góp của doanh nghiệp trong việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội như tăng cường các khoản phúc lợi tạo công ăn việc làm cho nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh doanh là hiệu quả chỉ xét trên phương diện kinh tế của hoạt động kinh doanh. Nó mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được lợi ích đó. Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh mối quan hệ đạt được giữa kết quả về mặt kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó:
  10. Hiệu quả = Error! Kết quả của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường là đạt được doanh thu hoặc lợi nhuận trong kỳ. Chi phí cho hoạt động kinh doanh là số lượng vốn đầu tư để đạt được kết quả đó. 2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp thương mại Một trong những vấn đề quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là phải thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phản ánh tình hình sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp, được thể hiện bằng mối quan hệ giữa kết quả hoạt động kinh doanh với số vốn lưu động đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. Hiệu quả sử dụng VLĐ = Error! Như ta đã biết VLĐ tiếp diễn không ngừng, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ gọi là chu chuyển VLĐ, thời gian của một kỳ luân chuẩn biểu thị tốc độ chu chuẩn VLĐ hay còn gọi là hiệu suất luân chuyển VLĐ. Hiệu suất luân chuyển VLĐ biểu hiện trình độ nghệ thuật sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp. Nó thường biểu thị qua 2 chỉ tiêu. Số lớn luân chuyển VLĐ trong kỳ và số ngày để hoàn thành một lần luân chuyển còn gọi là kỳ luân chuyển bình quân). Sử dụng hiệu quả VLĐ mang tính cấp thiết đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. VLĐ là một bộ phận quan trọng của tổng nguồn vốn, là yếu tố không thể của quá trình sản xuất kinh doanh nhất là trong doanh nghiệp thương mại. Việc sử dụng VLĐ không tốt có thể không thể không bảo tồn được vốn, quy mô bị thu hẹp, ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất và nhu vậy ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. VLĐ vận động không ngừng trong các giai đoạn cùng với hình thái biểu hiện phức tạp, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh phải có những biện pháp quản lý và sử dụng VLĐ thích hợp. 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ Trong nền kinh tế thị trường thì VLĐ đối với các doanh nghiệp luôn là một vấn đề bức xúc đặt ra. Có thể coi VLĐ như là nhựa sống tuần hoàn trong doanh nghiệp. Vì vạy doanh nghiệp muốn hoạt động và phát triển được thì
  11. VLĐ không thể thiếu và phải liên tục tuần hoàn, liên tục lưu thông. Một doanh nghiệp thiếu vốn thì không thể hoạt động được, nhưng nếu có vốn mà sử dụng kém hiệu quả, để mất dần đồng vốn thì doanh nghiệp sẽ đi vào bế tắc. Điều đó nói lên rằng VLĐ có ý kiến sống còn đối với các doanh nghiệp và nó có vai trò tuyệt đối tới sự thành bại của doanh nghiệp. Ngày nay các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì yêu cầu về VLĐ là lớn, như nguồn kinh tế thị trường cũng tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, giúp doanh nghiệp có thể tự chủ về tài chính có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy mà vấn đề đặt ra là đòi hỏi đồng vốn sử dụng vào kinh doanh phải có hiệu quả và hiệu quả tối đa. Trên góc độ tài chính doanh nghiệp phải quan tâm đến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn từ đó xem xét tình hình sử dụng VLĐ của doanh nghiệp để có các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các chỉ tiêu hiệu quả bao gồm: 3.1. Hệ số thanh toán: Hệ số này dùng để xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với khoản phải trả ngắn hạn, gồm hệ số thanh toán hiện tại và hệ số thanh toán nhanh. - Hệ số khả năng thanh toán hiện tại là thước đo khả năng có thể trả nợ của doanh nghiệp, nó chỉ ra phạm vi quy mô mà các yêu sách của dư nợ được trang trải bằng tài khoản lưu động có thể chuyển thành tiền trong kỳ phù hợp với thời hạn nợ phải trả: Hệ số khả năng;thanh toán hiện thờiError! Bookmark not defined. = Error! Đây là tỷ lệ giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn. Đó là một trong những thước đo tốt nhất được sử dụng thường xuyên trong đo lường về sức mạnh tài chính. Hệ số đó trả lời câu hỏi: Doanh nghiệp có đủ tài sản lưu động để trả các khoản nợ ngắn hạn không? - Hệ số thanh toán nhanh: là thước đo khả năng trả nợ ngay, không được dựa vào bán vật tư hay hàng hoá (kể cả sản phẩm) là một đặc trưng tài chính quan trọng của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này trả lời câu hỏi: Nếu thu thập bán hàng không còn nữa thì doanh nghiệp có thể trả được nợ ngắn hạn không? Căn cứ vào các nguồn tiền
  12. có thể huy động nhanh và các khoản có thể dễ dàng chuyển thanh tiền bao gồm: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn. 3.2. Hệ số phục vụ vốn lưu động Hệ số này cho biết với một đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu. Biểu hiện của hệ số này là mối quan hệ giữa doanh thu đạt được trong kỳ với VLĐ bình quân sử dụng trong kỳ: M ___ HVLĐ = V LD V V V V V 1 / 2 2 3 n / 2 LD n 1 Trong đó: HVLĐ : Hệ số phục vụ vốn lưu động M: Tổng doanh thu trong kỳ V LD : Vốn lưu động bình quân trong kỳ V1 Vn : Vốn lưu động tại các thời điểm kiểm kê n : số thời điểm kiểm kê Hệ số phục vụ VLĐ càng cao tức là với 1 đồng VLĐ bỏ ra có thể đem lại nhiều đồng doanh thu. Khi đó hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đánh giá là tốt và ngược lại. 3.3. Tốc độ chu chuyển VLĐ Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sự tuần hoà của vốn diễn ra liên tục lặp đi lặp lại mang tính chất chu kỳ gọi là chu chuyển vốn lưu động. Tốc độ chu chuyển VLĐ phản ánh tổng quát quá trình quản lý, trình độ chuyên môn tổ chức của cán bộ từ khâu mua đến khâu bán. Thời gian của vòng chu chuyển VLĐ được quyết định bằng tổng số thời gian lưu thông từ kỳ tuần hoàn này đến kỳ tuần hoàn tiếp theo. Thời gian của vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì tốc độ chu chuyển vốn càng nhanh và ngược lại. Tốc độ chu chuyển VLĐ được thể hiện thông qua 2 chỉ tiêu sau:
  13. - Số vòng chu chuyển VLĐ MGV L = ___ V LD Trong đó: L : số vòng chu chuyển VLĐ trong kỳ MGV : Tổng mức doanh thu trong kỳ theo giá vốn V LD : Vốn lưu động bình quân trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ rằng số vốn lưu động chu chuyển càng nhanh, hoạt động kinh doanh được đánh giá là tốt. - Số ngày chu chuyển vốn lưu động phản ánh độ dài một vòng quay của VLĐ, chỉ tiêu này được xác định dựa vào số ngày quy ước trong kỳ và tổng số vòng quay trong kỳ đó. V LD N = ___ MGV Trong đó: N- Số ngày chu chuyển VLĐ V LD MGV: doanh thu theo giá vốn bình quân 1 ngày trong kỳ. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ VLĐ chu chuyển càng nhanh, tức là hàng hoá ít bị ứ đọng, bộ phận vốn bằng tiền được quản lý chặt chẽ. Như vậy hai chỉ tiêu số vòng và số ngày chu chuyển thực chất là giống nhau chỉ khác nhau về cách thể hiện. Khi số vòng chu chuyển VLĐ tăng thì số ngày chu chuyển VLĐ giảm. Nhìn chung vốn lưu động quay càng nhiều vòng trong một chu kỳ kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. 3.4. Hệ số bảo toàn vốn lưu động Bảo toàn vốn lưu động có nghĩa là sau một thời gian hoạt động vốn của doanh nghiệp bảo đảm toàn vẹn không bị thâm hụt, thất thoát. Nói cách khác, đến kỳ kiểm tra VLĐ của doanh nghiệp vẫn đảm bảo tương ứng với số tài sản lưu động ban đầu theo thời giá hiện tại. Bảo toàn và phát triển VLĐ là một trong những chỉ tiêu quan trọng đối với từng doanh nghiệp, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển VLĐ trong doanh nghiệp chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau, những nhân tố xấu
  14. có thể làm giảm VLĐ và làm ảnh hưởng tới quy mô kinh doanh. Chính vì điều này mà việc bảo toàn và phát triển vốn trở thành nguyên tắc bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện. Đối với doanh nghiệp nhà nước bảo toàn vốn là yêu cầu của chế độ hạch toán và là chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước. Để đánh giá mức độ bảo toàn VLĐ ta cần xác định số VLĐ hiện có và số VLĐ phải bảo toàn đến cuối kỳ. Trong đó số VLĐ hiện có ở cuối kỳ trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp sau khi đã điều chỉnh chênh lệch giá của tài sản lưu động theo thời giá. Các khoản chênh lệch giá đó được xác định trong mọi trường hợp thay đổi giá trị vật tư hàng hoá do Nhà nước quy định hoặc vật tư hàng hoá mua theo giá thoả thuận trên thị trường. Vốn lưu động phải bảo toàn đến cuối kỳ được xác định như sau: Vốn lưu động phải; bảo toàn đến cuối kỳ = Vốn lưu động;đầu kỳ x Hệ số điều chỉnh b ì nh quân;giá trị tài sản lưu động Sau khi xác định được VLĐ hiện có cuối kỳ và VLĐ phải bảo toàn cuối kỳ ta so sánh chúng với nhau: Hệ số bảo toàn VLĐ = Error! Nếu hệ số này > 1 thì doanh nghiệp đã bảo toàn và phát triển VLĐ. Ngược lại nếu hệ số này < 1 doanh nghiệp không bảo toàn được VLĐ nghĩa là sau khi loại trừ ảnh hưởng của giá VLĐ của doanh nghiệp bị thâm hụt. Khi sử dụng hệ số bảo toàn VLĐ thì chưa thể đánh giá được mức độ hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp mà chỉ đánh giá được tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 3.5. Hệ số sinh lời của VLĐ Hệ số doanh lợi của vốn lưu động. Đây là chỉ tiêu chất lượng rất quan trọng, phản ánh rõ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết một đồng VLĐ sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận? Hệ số doanh lợi VLĐ = Error! Hệ số sinh lời bao gồm các chỉ tiêu: - Tỷ suất lợi nhuận doanh thu.
  15. Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Nó thể hiện, khi thực hiện một đồng doanh thu thuần trong kỳ doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu = Error! - Hệ số khả năng sinh lời của vốn kinh doanh không tính tới ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh: chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để vốn hàng hoá dự trữ quay trọn một vòng. Chỉ tiêu vòng quay vốn hàng hoá dự trữ và số ngày chu chuyển vốn hàng hoá dự trữ và có quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau, vòng quay tăng thì ngày chu chuyển giảm và ngược lại: - Vòng quay các khoản thu: phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp: Vòng quay các khoản phải thu được xác định như sau: Vòng quay các khoản phải thu = Error! Kỳ thu tiền bình quân = Error! Nếu hệ số vòng quay các khoản phải thu cao thể hiện doanh nghiệp thu hồi nhanh các khoản nợ. Trong khi kinh doanh doanh nghiệp nên đánh giá nghiên cứu kỹ những khoản phải thu thông qua việc đánh giá khả năng tài chính của khachs hàng hoặc uy tín của họ nhằm đưa ra phương thức kinh doanh thích hợp. - Vòng quay các khoản phải trả Số vòng quay các khoản phải trả = Error! Kỳ trả tiền bình quân = Error!Error! Bookmark not defined. Số ngày phân tích trong kỳ thường tính bằng 1 năm bằng 360 ngày. Nếu vòng quay các khoản phải trả thấp doanh nghiệp đã tận dụng được một số vốn tạm thời để bổ sung cho vốn kinh doanh: - Tỷ lệ các khoản phải thu; so với các khoản phải trả = Error! x 100 Chỉ tiêu này cho ta biết tỷ lệ càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp chiếm dụng vốn càng nhiều và ngược lại.
  16. - Hệ số phục vụ vốn công cụ, dụng cụ, nguyên vật liệu: Hệ số này phản ánh một đồng vốn công cụ, dụng cụ, nguyên vật liệu bỏ ra thì hoạt động kinh doanh sẽ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu. Hệ số phục vụ vốn; công cụ Doanh thu;Vốn công cụ dụng cụ = NVL dụng cụ Hệ số khả năng sinh lời;vốn kinh doanh = Error!‘ Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doan. Nó phản ánh mỗi đồng vốn sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận ròng;của vốn kinh doanh = Error! - Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Đây là chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan tâm, hệ số này đo lường mức lợi nhuận thu được lên mỗi đồng vốn chủ sở hữu trong kỳ. Tỷ suất lợi nhuận; vốn chủ sở h ữ u = Error! Ngoài bốn chỉ tiêu chung phân tích trên để thấy rõ được hiệu quả sử dụng vốn lưu động ta xem xét các chỉ tiêu sau: - Hệ số vòng quay vốn hàng hoá dự trữ: hàng hoá dự trữ được coi là bộ phận chủ yếu của VLĐ trong doanh nghiệp, do vậy tốc đọ chu chuyển hàng hoá tồn kho có ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của toàn bộ VLĐ và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho cho ta biết số vòng quay bình quân của hàng hoá được bán ra. Hệ số vòng quay vốn hàng hoá dự trữ được xác định theo công thức: Hệ số vòng quay;vốn hàng hoá dự tr ữ = Error! Hệ số vòng quay vốn hàng hoá dự trứ mà cao làm cho doanh nghiệp củng cố lòng tin vào khả năng thanh toán. Ngược lại hệ số này thấp gợi lên tình hình doanh nghiệp bị ứ đọng vật tư hàng hoá vì không cần dùng hoặc dự trữ quá nhiều hoặc sản phẩm bị tiêu thụ chậm vì sản xuất chưa bán sát nhu cầu thị trường. Hệ số này phụ thuộc vào các yếu tố như phương thức bán hàng, phương thức bảo quản, kết cấu hàng tồn kho. Như vậy từng doanh nghiệp phải có những biện pháp quản lý hàng tồn kho phù hợp nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Số ngày chu chuyển;vốn hàng hoá dự tr ữ = Error!
  17. Lượng vốn này thường chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng vốn lưu động. Nhưng đôi khi nó ảnh hưởng đến việc tiêu thụ hàng hoá tức là ảnh hưởng tới doanh thu. Nếu hệ số phục vụ vốn công cụ, dụng cụ càng cao thì hiệu quả sử dụng VLĐ tốt và ngược lại. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng là cơ sở tìm ra những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ rất phức tạp và đa dạng nhưng chung quy lại người ta phân thành hai loại: * Nhóm nhân tố có hể lượng hoá được * Nhóm nhân tố không thể lượng hoá được 1. Nhóm nhân tố có thể lượng hoá được - Doanh thu trong kỳ: Cùng một lượng VLĐ, nếu như doanh thu trong kỳ càng cao thì hiệu quả sử dụng VLĐ là tốt và ngược lại. Nếu doanh thu trong kỳ thấp thì hiệu quả sử dụng VLĐ là kém. Từ đó có thể thấy rằng việc tăng doanh thu hay tăng mức lưu chuyển hàng hoá là mục tiêu phân đấu của mọi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc tăng mức lưu chuyển hàng hoá có thể kéo theo chi phí kinh doanh tăng. Nhưng nếu tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí thì vẫn đảm bảo có lãi tức là việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả. - Chi phí kinh doanh: Có thể hiểu chi phí kinh doanh là đảm bảo tốt nhất quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở sử dụng hợp lý tiết kiệm mọi nguồn vật tư, tiền vốn, sức lao động của doanh nghiệp để đạt được lợi nhuận tối đa trong khuôn khổ pháp luật, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Để quản lý tốt chi phí kinh doanh, các doanh nghiệp lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh, lập kế hoạch tài chính là hình thức hoá tiền tệ tính toán các chỉ tiêu về chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế hoặch, cùng các biện pháp phấn đấu thực hiện kế hoạch đó, kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh là những mục tiêu phấn đấu của đơn vị, đồng thời cũng là căn cứ để đơn vị cải tiến công tác quản lý kinh doanh, thực hiện chế độ tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh, hạ
  18. giá thành sản phẩm hàng hoá, tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp trong kỳ. Chi phí kinh doanh là nhân tố tương quan tỉ lệ nghịch với hiệu quả sử dụng vốn ta nhận thấy từ chỉ tiêu: Hệ số sinh lời;VLĐ trong kỳ = Error! Nếu tổng số vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ là một số cố định. Khi tổng chi phí thực tế đã chi trong kỳ tăng (giảm) sẽ trực tiếp làm cho hệ só sinh lời của VLĐ trong kỳ đó giảm (tăng) tức là hiệu quả sử dụng VLĐ giảm (tăng). - Lượng tiền mặt tồn quỹ trong doanh nghiệp có thể ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là bộ phận VLĐ giúp doanh nghiệp thanh toán với khách hàng, tận dụng thời cơ trong kinh doanh, giao dịch với ngân hàng và tổ chức tín dụng. Nếu lượng tiền này nhỏ hơn mức trung bình cần thiết thì không đủ để doanh nghiệp chi tiêu trong những ngày không giao dịch với ngân hàng. Còn nếu lượng tiền này lớn hơn mức trung bình cần thiết thì sẽ gây ra thừa tiền trong quỹ, lãng phí vốn. - Mức dự trữ hàng hoá: Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được liên tục, thường xuyên, tốc độ quay vốn nhanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có mức dự trữ hàng hoá phù hợp với quy mô kinh doanh. Nếu vốn dự trữ hàng hoá thực tế nhỏ hơn mức tối thiểu cần thiết thì doanh nghiệp sẽ thiếu hàng để bán ra, hoạt động bán hàng bị gián đoạn, doanh thu đạt được không được tối đa, dẫn đến hiệu quả sử dụng VLĐ không tốt. Còn nếu dự trữ hàng hoá thực tế lớn hơn mức dự trữ cao nhất thì hàng hoá bị ứ đọng trong kho gây lãng phí vốn mặc dù doanh thu có thể đạt được như dự tính. - Tốc độ luân chuyển của VLĐ: Với mức lợi nhuận đạt được ở mỗi vòng quay vốn là cố định. Tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ sẽ phụ thuộc vào số vòng quay vốn ở kỳ kinh doanh đó. Như vậy tổng lợi nhuận trong mỗi kỳ kinh doanh trên một lượng VLĐ cho biết trước có quan hệ tương quan tỷ lệ thuận với số vòng quay của VLĐ trong kỳ đó. 2. Các nhân tố không thể lượng hoá được
  19. Đó là những nhân tố mang tính định tính và mức độ tác động của chúng đối với hiệu quả sử dụng VLĐ là không thể tính được. VLĐ của doanh nghiệp trong cùng một lúc được phân bố trên khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình vận dụng đó VLĐ chịu tác động của nhiều nhân tố làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. a) Xét về mặt khách quan Hiệu quả sử dụng VLđ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số nhân tố sau: + Lạm phát: Do tác động của nền kinh tế thị trường có lạm phát là cho sức mua của đồng tiền sụt giảm hay giá cả của các loại vật tư hàng hoá tăng lên Vì vậy nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại tài sản đó thì sẽ làm cho VLĐ giảm dần theo tốc độ trượt giá của tiền tệ. + Rủi ro: Do rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, cùng cạnh tranh Khi kinh tế thị trường không ổn định, sức mua có hạn thì càng làm tăng khả năng rủi ro của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải gặp nhiều rủi ro do thiên tai gây ra như: hoả hoạn, bão lụt mà các doanh nghiệp khó có thể tránh được. + Yếu tố sản xuất tiêu dùng: chu kỳ, tính thời vụ của sản xuất và tiêu dùng ảnh hưởng trực tiếp tới mức lưu chuyển hàng hoá. Những hàng hoá có chu kỳ sản xuất dài vốn hàng hoá lớn sẽ làm cho tốc độ chu chuyển VLĐ chậm và ngược lại bên cạnh sự phân bổ hàng hoá giữa nơi sản xuất và tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển hàng hoá. Nếu sự phân bố này là hợp lý sẽ tạo điều kiện rút ngắn thời gian lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ chu chuyển tăng hiệu quả sử dụng VLĐ. + Nhu cầu thị trường, giá cả hàng hoá dịch vụ. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nhu cầu về thị trường và giá cả hàng hoá và dịch vụ là những biến số rất khó xác định. Sự thay đổi của cũng cũng ảnh hưởng đến hiệu quả việc sử dụng vốn hay lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Chẳng hạn, có sự biến động lớn về sức mua đối với một hàng hoá nào đó mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Nếu sức mua mặt hàng này giảm doanh nghiệp sẽ đạt mức doanh thu và lợi nhuận thấp làm cho hiệu quả sử dụng VLĐ
  20. thấp. Ngược lại doanh nghiệp sẽ đạt được mức doanh thu về lợi nhuận cao hơn. + Giá cả cũng tác động tương tự như vậy, sự thay đổi giá cả có thể cho sự biến động đột ngột của nhu cầu hoặc số lượng cung ứng. Giá cả thay đổi sẽ làm tăng lên hoặc giảm đi mức độ lãi mf doanh nghiệp thu được trên một đơn vị hàng hoá tiêu thụ. + Các chính sách kinh tế của nhà nước: Để thưc hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, nhà nước đưa ra chính sách kinh tế phù hợ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phù hợp với từng thời kỳ, giai doạn phát triển của nền kinh tế. + Các chính sách thuế, đây là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, thuế có tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì đây là khoản chi phí bắt buộc. Nếu nhà nước đóng thuế thấp đối với ngành kinh doanh của doanh nghiệp thì lợi nhuận thu được nhiều hơn, doanh nghiệp có xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh. Ngược lại với mức thuế cao, lợi nhuận giảm, doanh nghiệp không muốn mở rộng quy mô kinh doanh mà còn thu hẹp dần quy mô hoạt động. Bên cạnh chính sách thuế còn có các chính sách khác ảnh hưởng tới việc kinh doanh như chính sách xuất nhập khẩu, chính sách thuộc tiêu chuẩn b) Xét về mặt chủ quan Đó là những nhân tố chủ quan của chính bản thân doanh nghiệp làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VLĐ cũng như quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xác định nhu cầu vốn lưu động: Do xác định nhu cầu VLĐ thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Việc lựa chọn phương án đầu tư: Là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá, dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu của ngườitiêu dùng, đồng thời có giá thành hạ thì doanh nghiệp thực hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay VLĐ. Ngược lại sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp làm ra có chất lượng kém, không phù
  21. hợp với thị hiếu của khách hàng dẫn đến hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được làm cho VLĐ bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Trình độ tổ chức nhân sự trong doanh nghiệp. Việc tổ chức nhân sự có ảnh hưởng trực tiếp đến điều hành mọi hoạt động trong doanh nghiệp. Nếu bố trí đúng người đúng việc, mọi hoạt động diễn ra một cách nhịp nhàng, ăn khớp với nhau, người quản lý không phải mất thời gian chỉnh đốn, nhắc nhở nhân viên của mình. Nhưng nếu bố trí người không đúng vị trí thì các hoạt động không thể diễn ra một cách bình thường được. Khi mọi hoạt động đã nhịp nhàng thì chắc chắn mọi hiệu quả sẽ đạt được và hiệu quả sử dụng các yếu tố dần đạt đến mức độ tối ưu v.v Uy tín trong kinh doanh: Trong điều kiện hiện nay sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tạo dựng cho mình chữ tín trong kinh doanh. Có như vậy doanh nghiệp mới đẩy nhanh được tiêu thụ hàng hoá, thuận lợi trong việc tham gia các hợp đồng kinh doanh, tạo được nhiều mối làm ăn tốt đẹp, tạo dựng được uy tín trên thị trường. Trình độ tổ chức lưu chuyển hàng hoá: Để đưa hàng hoá đến được tay người tiêu dùng, doanh nghiệp thương mại phải bỏ ra một lượng chi phí nào đó và tổ chức một quy trình mua vào, dự trữ, bán ra. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách giảm chi phí và nâng số vòng vốn quya thì phải tổ chức tốt quá trình mua vào, dự trữ và bán ra. Quy trình này được quyết định bởi trình độ tổ chức lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp và khả năng cơ giới hoá. Trên đây là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến công tác tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có thể có các nguyên nhân khác ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Để hạn chế những tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả tổ chức và sử dụng vốn lưu động. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu xem xét một cách kỹ lưỡng sự ảnh hưởng của từng nhân tố tìm ra nguyên nhân nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu đẩy mạnh việc tổ chức và nâng cao hiệu quả đồng vốn mang lại la cao nhất.
  22. Chương II Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội I. Tổng quan về công ty 1. Quá trình thành lập và phát triển Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc quản lý của Tổng công ty máy và phụ tùng và Bộ Thương mại, hoạt động chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu máy móc hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội được thành lập ngày 19/12/1997 với quyết định số 1390QĐ/TMTC của Bộ Thương mại. Trụ sở giao dịch nhà B2 Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Tên cơ quan sáng lập là Tổng công ty máy và phụ tùng Hà Nội. Ngày 10/2/1998 công ty được cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh, và trụ sở giao dịch được chuyển về số 8 phố Tràng Thi - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội (theo Quyết định 1295/QĐ-BTM ngày 29/10/1998 của Bộ Thương mại). Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội bắt đầu hoạt động kinh doanh từ ngày 18/11/1998 với số vốn ban đầu là 3.823.000.000 đồng. Trong đó: vốn cố định là 823.000.000đồng và vốn lưu động là 3.000.000.000đồng. Tên giao dịch quốc tế của Công ty là Nachinoimpost Hà Nội. Kể từ ngày thành lập và bắt đầu hoạt động công ty đã trải qua những bước thăng trầm trong kinh doanh và dần tìm được chỗ đứng của mình trên thương trường. Trong những ngày đầu thành lập công ty vừa kinh doanh vừa cải tạo cơ sở làm việc, vốn ít đội ngũ cán bộ công nhân viên đông và gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công ăn việc làm. Song với sự nỗ lực của toàn bộ CBCNV của công ty được sự quan tâm giúp đỡ của lãnh đạo Tổng công ty, Đảng uỷ cơ quan Bộ thương mại, công đoàn ngành và ban chấp hành công đoàn Tổng công ty đã giúp cho Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội có những bước trưởng thành lớn trong suốt 4 năm kể ngày công ty thành lập. Đến nay công ty đã có số vốn là 5,6 tỷ đồng, số nhân viên là 128 người, với số vốn bình quân trên đầu người là 40 triệu đồng/người. 2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty 2.1. Chức năng Chức năng của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội - Xuất nhập khẩu máy móc, phụ tùng, hàng nông lâm sản: cà phê, lúa gạo, cao su
  23. - Tham gia sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực máy móc và dịch vụ. - Xuất nhập khẩu uỷ thác - Liên doanh liên kết với các đơn vị, doanh nghiệp trong và ngoài nước. - Kinh doanh, cho thuê bất động sản, văn phòng, nhà xưởng. 2.2. Nhiệm vụ - Nhiệm vụ chung: Kinh doanh xuất nhập khẩu, phụ tùng máy móc, tư liệu sản xuất, vật liệu xây dựng, hàng công nghiệp tiêu dùng, các dịch vụ tư vấn, dịch vụ thương mại, cho thuê cơ sở nhà xưởng, kho tàng bến bãi, thiết bị xe máy, dịch vụ vận tải, sửa chữa đại tu lắp ráp ô tô, xe máy, đại lý xăng dầu. - Nhiệm vụ cụ thể + Thăm dò thị trường trong cả nước, nắm bắt nhu cầu xuất nhập khẩu từ đó ban lãnh đạo công ty sẽ đưa ra những quyết định thực hiện. + Tổ chức và thực hiện dịch vụ giao nhận vận tải, dịch vụ tư vấn, dịch vụ thương mại và các dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác. 3. Đặc điểm cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội 3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng dựa trên nguyên tắc thống nhất chỉ huy, cơ cấu tổ chức được mô hình theo sơ đồ sau: Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty Giám đốc P. Giám đốc 1 P. Giám đốc 2 Phòng kinh doanh Phòng xuất nhập khẩu Kế toán tài chính Phòng kế hoạch thị trường Các cửa hàng
  24. Việc tổ chức sản xuất kinh doanh khoa học hợp lý phù hợp với công nghệ kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp là việc hết sức quan trọng. Gắn với mỗi loại hình kinh doanh khác nhau, công nghệ khác nhau đòi hỏi việc tổ chức bộ máy quản lý khác nhau, yêu cầu của bộ máy kế toán phải phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có như vậy kinh doanh mới đạt hiệu quả cao. Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có tài khoản và con dấu bao gồm tài khoản tiền Việt Nam và tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng. Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của từng bộ phận trong công ty - Giám đốc công ty: Do Tổng công ty máy và phụ tùng bổ nhiệm. Giám đốc có nhiệm vụ tổ chức điều hành mọi hoạt động của công ty đồng thời là người đại diện quyền lợi và nghĩa vụ của công ty trước cơ quan quản lý cấp trên và trước pháp luật. - Giúp việc cho giám đốc là hai phó giám đốc điều hành một số lĩnh vực của công ty theo sự phân công của giám đốc đồng thời tham mưu cho giám đốc trong lĩnh vực xây dựng kế hoạch chiến lược sản xuất kinh doanh. - Dưới ban điều hành của công ty có các phòng ban chức năng và các cửa hàng trực thuộc công ty. Các phòng ban chức năng của công ty làm công tác tham mưu, tác nghiệp theo kế hoạch phân công của giám đốc. Đứng đầu các phòng ban chức năng, nghiệp vụ là các trưởng phòng. Họ là những người tiếp nhận chỉ thị của giám đốc, phân công và hướng dẫn nhân viên cấp dưới trong phòng của mình thực hiện nhiệm vụ theo các chỉ thị được giao. + Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Đảm đương toàn bộ công tác xuất nhập khẩu tại công ty: Nhập nguyên vật liệu, máy móc Có kế hoạch xuất nhập khẩu để phòng kế toán cân đối kế hoạch thu chi ngoại tệ, xây dựng dự thảo hợp đồng xuất nhập khẩu Ngoài ra còn tập trung vào dịch vụ đặc biệt theo sự chỉ đạo của công ty. + Phòng kế hoạch đầu tư: Phòng này có nhiệm vụ vạch ra kế hoạch hoạt động tham mưu cho tổng giám đốc trong việc xây dựng kế hoạch của công ty. Tìm kiếm hoạt động đầu tư quản lý kinh doanh.
  25. + Phòng tổ chức hành chính tham mưu cho giám đốc về công tác tổ chức cán bộ, thực hiện sắp xếp lực lượng cán bộ, lao động, tiền lương. Quản lý lưu trữ hồ sơ tài liệu của công ty. Tổ chức đào tạo cán bộ, tuyên truyền chỉ đạo. + Các cửa hàng kinh doanh: Kinh doanh các mặt hàng của công ty. + Phòng kế toán tài chính: Có đầy đủ chức năng nhiệm vụ theo luật và pháp lệnh kinh tế nhà nước quy định. Ghi chép đầy đủ và phản ánh một cách chính xác, kịp thời, liên tục về tình hình quản lý và sử dụng tài sản và nguồn vốn của công ty. Thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán. + Phòng kế hoạch thị trường: Có nhiệm vụ tiếp cận và mở rộng thị trường cho công ty, tìm kiếm khách hàng, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty. Với cơ cấu tổ chức như trên, Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội luôn đảm bảo sự thống nhất, nhất quán mệnh lệnh đưa xuống được rõ ràng, nhanh chóng và không bị chồng chéo, phân tách rõ ràng trách nhiệm của từng bộ phận. Các phòng ban chức năng đảm bảo công tác tham mưu cho hoạt động của công ty. 3.2. Tình hình lao động Tình hình lao động của công ty được thể hiện qua bảng 1 (từ năm 1999- 2000). Bảng 1 ngang Qua số liệu bảng 1 ta thấy: Số lượng và kết cấu lao động của công ty trong 2 năm 1999 và 2000 là 121 người so với năm 1999 là 118 người tăng 3 người, tỷ lệ 2000 so với 1999 đạt 102,54% nguyên nhân là do công ty mới tuyển dụng thêm một số nhân viên mới trong năm 2000. Nếu phân theo giới tính: Lao động nam năm 1999 đạt 48,3% trong khi đó lao động nữ chiếm 51,75 so với năm 2000 lao động nam giảm 5 người tương ứng còn 91,22% so với năm 1999, chiếm tỷ trọng 42,97%. Lao động nữ trong công ty vẫn tăng 8 người với tỷ lệ tăng là 13,11%. Lao động nữ chiếm tỷ trọng là 57,03%. Nếu phân theo trình độ:
  26. Năm 1999 số cán bộ trên đại học là 6 người chiếm tỉ trọng là 5,08%, năm 2000 là 7 người chiếm tỉ lệ là 5,78% lao động của công ty. So với năm 1999 tăng 1 người với tỉ lệ tăng là 16,67%. Số cán bộ có trình độ đại học 1999 là 18 người chiếm tỷ trọng là 15,25%. Năm 2000 là 19 người chiếm tỷ trọng là 15,7%. So với năm 1999 tăng 1 người với tỷ lệ là 5,55%. Số lao động trung cấp 15 người chiếm 12,71% và đông nhất là lao động phổ thông 79 người chiếm 66,96% năm 1999. So với năm 1999 năm 2000 thì số lao động phổ thông không có sự thay đổi, lao động trung cấp tăng 1 người chiếm tỷ trọng 13,22%. Như vậy ta thấy kết cấu lao động trong 2 năm 1999-2000 tạm hợp lý. Số cán bộ có trình độ cao chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Đây chính là thế mạnh của công ty. Sang đến năm 2001 tổng số lao động tăng 128 người tăng 7 người tương ứng với 105,78% so với năm 2000. Sở dĩ có sự thay đổi này là do tình hình phát triển của công ty, đồng thời bù đắp cán bộ do đặc điểm tuổi đời trung bình của cán bộ công nhân viên toàn công ty là trên 40 tuổi. Vì vậy công tác kế toán hoá cán bộ là nhiệm vụ và mục tiêu phân đấu của công ty, lực lượng công nhân lao động giảm 1 người nhưng vẫn chiếm tỉ trọng là 60,94%. Số cán bộ có trình độ trên đại học tăng 4 người tương ứng 15714% so với năm 2000, chiếm tỉ trọng 8,6%. Số cán bộ có trình độ đại học tăng 2 người tương ứng 110,52% so với năm 2000 chiếm tỷ trọng 16,4%. Số cán bộ có trình độ trung cấp tăng 2 người tương ứng 112,5% so với năm 2000 chiếm tỷ trọng là 14,06%. Đây là những con số đáng mừng cho hoạt động của công ty trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế. Tuy nhiên công ty không ngừng đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công nhân viên để đáp ứng cho mục tiêu nhiệm vụ đề ra. 4. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 4.1. Phân tích kế quả hoạt động kinh doanh theo doanh thu Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội là một trong những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các mặt hàng mà công ty kinh doanh rất đa dạng về mặt hàng, phong phú về chủng loại. Dưới đây là một số mặt
  27. hàng chủ lực chiếm tỉ trọng lớn và là những mặt hàng truyền thống của công ty trong những năm qua. Qua bảng số liệu 2 ta thấy: Trong 2 năm 2000 và 2001 tình hình các mặt hàng bán ra của công ty tương đối ổn định và có xu hướng tăng. Nguyên nhân là do thị trường trong nước ổn định và mức tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn không có dấu hiệu suy giảm nên nhu cầu các sản phẩm phục vụ nền kinh tế quốc dân không ngừng tăng tạo điều kiện để công ty thực hiện mục tiêu bán ra của mình. Cụ thể: Bảng 2: Các mặt hàng chủ yếu bán ra của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 So sánh tính Chênh lệch Tỉ lệ % Ô tô các loại cái 45 48 3 6,67 Săm lốp ô tô bộ 908 974 66 7,26 Máy xây dựng cái - 12 - - Phụ tùng các loại trđ 18.207 22.394 4.187 22,9 Cao su trđ - 3.350 - - Nhôm, thép, kẽm trđ 4.578 5.580 1.002 21,89 Sản lượng ô tô các loại năm 2000 là 45 xe sang đến năm 2001 là 48 chiếc tăng 3 xe tương ứng với tỷ lệ là 6,67%. Săm lốp các lại năm 2001 cũng bán ra được nhiều hơn so với năm 2000. Mức tiêu thụ năm 2001 là 974 bộ tăng 66 bộ với tỷ lệ là 7,26% so với năm 2000, phụ tùng các loại năm 2000 bán ra được 18.027 triệu đồng nhưng đến năm 2001 lượng bán ra tăng 22.394 triệu so với năm 2000 tăng 4.187 triệu đồng với mức tăng là 22,5%. Nhôm, thép, kẽm trong năm 2001 cũng có mức tăng khá cao đạt 5580 triệu đồng tăng 1002 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 21,89% so với năm 2000. Ngoài ra các mặt hàng mới của công ty như máy xây dựng, cao su cũng được công ty quan tâm, trong năm 2001 doanh thu bán các mặt hàng này có kết quả khả quan cụ thể: máy xây dựng năm 2001 bán được 12 cái với doanh
  28. thu là 5020 triệu đồng còn mặt hàng cao su mức bán ra đạt 3350 triệu đồng. Đây là những dấu hiệu thuận lợi để công ty mở rộng thị trường của các mặt hàng này. Công ty đã có nhiều cố gắng để không ngừng nâng cao công tác bán hàng nhằm đạt được doanh thu cao đáp ứng được chỉ tiêu mà công ty đề ra. b) Phân tích tình hình bán hàng theo doanh thu trên từng thị trường Bảng 3: Doanh thu bán hàng của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội ở các thị trường Đơn vị: triệu đồng Các chỉ tiêu 2000 2001 So sánh Giá trị TT (%) Giá trị TT (%) Giá trị TT (%) TT % Tổng doanh thu 68.620 100 85.000 100 16.380 23,87 - Trong đó: - DT bán hàng TT nội địa 58.620 85,42 69.600 81,88 10.980 18,73 -3,54 - DT từ hoạt động XNK 6.800 9,91 12.600 14,82 5-800 85,29 +4,91 (quy ra VNĐ) - DT từ sản xuất, dịch vụ 3.200 4,67 2.800 3,3 -400 -12,5 -1,37 Căn cứ vào bảng số liệu 3 ta có nhận xét sau: Tổng doanh thu của công ty trong 2 năm đạt kết quả khả quan. Tổng doanh thu năm 2001 đạt 85.000 tr.đ tăng 16.380 trđ tương ứng với tỉ lệ tăng là 23,87% so với năm 2000. Có được điều này là do công ty đã nỗ lực tìm kiếm khách hàng cộng với tình hình thị trường trong nước ổn định và đặc biệt là hiệp định thương mại Việt Mỹ chính thức có hiệu lực và việc Trung Quốc gia nhập WTO đã tạo hướng đi mới cho công ty trong hoạt động xuất nhập khẩu. Cụ thể ta thấy các nhân tố ảnh hưởng đến tổng doanh thu của công ty: Doanh thu bán hàng trong nước năm 2001 đạt 69.600 triệu đồng chiếm tỉ trọng 81,88% trong tổng doanh thu tăng 10.980 triệu đồng tương ứng với tỉ lệ tăng là 18,73% so với năm 2000 nhưng tỉ trọng lại giảm 3,54%. Trong khi đó doanh thu từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2001 đạt 12.600 triệu đồng chiếm tỉ trọng 14,82% tổng doanh thu so với năm 2000 tăng 5800 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 85,29% đồng thời tỉ trọng tăng 4,91%. Điều này cho thấy công ty đang dần có thế mạnh trong hoạt động xuất nhập khẩu.
  29. Mặt khác đó là việc công ty tham gia thị trường xuất nhập khẩu đây chính là lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty. Tuy nhiên doanh thu từ hoạt động cnk năm 2001 đạt 2800 triệu đồng và chiếm tỉ trọng 3,5% trong tổng doanh thu so với năm 2000 giảm 400 triệu đồng tương ứng với giá trị giảm là 12,5% và tỉ trọng cũng giảm 13,7% trong tổng doanh thu. Nguyên nhân là do trong năm 2001 công ty gặp khó khăn trong việc tham gia ký kết các hợp đồng hợp tác sản xuất, dịch vụ, bên cạnh đó cũng có nhiều công ty khác cạnh tranh với công ty trong lĩnh vực này làm cho khách hàng của công ty bị phân tán dần. Mặc dù vậy tổng doanh thu của công ty năm 2001 vẫn tăng là do doanh thu từ các lĩnh vực chiếm tỉ trọng lớn trong tồng doanh thu đều tăng. Tóm lại thông qua bảng số liệu 2 năm ta thấy tình hình doanh thu của tổng công ty là tương đối tốt. Cơ cấu thị trường được điều chỉnh kịp thời nắm bắt được yêu cầu của thị trường cũng như xác định được hướng đi cho tổng công ty. c) Phân tích doanh thu bán hàng của công ty theo loại hình kinh doanh Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội hoạt động chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, sản xuất, mua bán đều nhằm phục vụ cho xuất nhập khẩu. Vậy ta có thể xét tình hìh kinh doanh của công ty theo quá trình hoạt động xuất nhập khẩu trong 2 năm vừa qua. Bảng 4: Doanh thu bán hàng theo loại hình kinh doanh Đơn vị: Triệu USD So sánh Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Giá trị Tỉ lệ I. Xuất khẩu 0,670 0,996 0,326 48,65 - Xuất khẩu kinh doanh 0,545 0,766 0,221 40,55 - Xuất khẩu uỷ thác 0,125 0,230 0,105 84,00 II. Nhập khẩu 22,015 7 -15,015 -68,20 - Xuất khẩu kinh doanh 1,605 2,05 0,445 27,72 - Xuất khẩu uỷ thác 20,41 4,95 -15,46 -75,74 Tổng cộng 22,685 7,996 -14,689 64,74 Thông qua bảng số liệu trên ta có nhận xét:
  30. Năm 2000, tổng doanh thu của công ty tính bằng ngoại tệ USD đạt 22,685 triệu USD. Trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 0,670 triệu USD. Xuất khẩu kinh doanh chiếm tỉ trọng lớn đạt 0,545 triệu USD. Xuất khẩu uỷ thác chỉđạt 0,125 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt được 22,56 triệu USD. Tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty bao giờ cũng lớn hơn tổng kim ngạch xuất khẩu. Lý do là do nghiệp vụ, mục đích của công ty. Thứ hai là do đặc điểm cơ cấu ngành hàng. Trong đó nhập khẩu uỷ thác đạt 20,41 triệu USD, nhập khẩu kinh doanh chỉ đạt 1,605 triệu USD. Sang đến năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 0,996 triệu USD tăng 0,326 triệu USD với tỉ lệ tăng là 48,65% so với năm 2000. Trong đó xk kinh doanh đạt 0,766 triệu USD tăng 0,221 triệu đô với tỷ lệ tăng là 40,55% và xuất khẩu uỷ thác đạt 0,230 triệu USD tăng 0,105 triệu USD với tỉ lệ tăng là 84% so với năm 2000. Có được điều này là do công ty trong năm 2001 đã rất chú trọng tới công tác xuất khẩu, đã nghiên cứu và giao dịch, chào bán rất nhiều mặt hàng, kết quả đã xuất được một số mặt hàng như: đá xây dựng, hoa quả khô. Một số hàng có giá trị như gạo, cao su, cà phê, bao PP Công ty đã có nguồn hàng và đối tác xuất khẩu, nhưng giá thế giới giảm nên chưa xuất khẩu được. Năm 2002 công ty sẽ cố gắng khắc phục tình trạng này để tăng thêm kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên so với năm 2000 công tác xuất khẩu đã có bước tiến đáng kể tạo đà cho năm 2002. Trong năm nay tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty chỉ đạt 7 triệu USD giảm mạnh so với năm 2000 là 15,045 triệu USD với tỉ lệ giảm là 68,20%. Nhập khẩu uỷ thác chỉ đạt 4,95% triệu USD giảm so với năm 2000 là 15,46 triệu USD với tỉ lệ giảm là 75,74%, trong khi đó nhập khẩu kn đạt 2,05 triệu USD tăng 0,445 triệu USD tương ứng với tỉ lệ tăng là 27,72% so với năm 2000. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do chính sách mở rộng xuất nhập khẩu của nhà nước (việc nhập khẩu uỷ thác giảm đi rõ rệt. Các dự án lớn đều phải đầu tư trọn gói cả xây dựng và lắp đặt thiết bị, thiết bị lẻ các đơn vị tự nhập khẩu không qua nhập khẩu uỷ thác. Nhập khẩu kinh doanh cũng khó khăn do tỉ giá USD và EURO thay đổi thất thường, các chủ hàng trong nước không có vốn thường mua chịu trả chậm từ 1 đến 3 tháng không có bảo lãnh ngân hàng nên rủi ro rất lớn, lãi suất thấp.
  31. Bên cạnh đó công ty còn gặp phải sự cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như các doanh nghiệp tư nhân tham gia nhập khẩu. Tóm lại qua số liệu 2 năm về tình hình hoạt động xuất nhập khẩu ta thấy rằng tổng công ty đã có những nỗ lực nhằm mở rộng thị trường hoạt động sản xuất kinh doanh. 4.2. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo lợi nhuậncủa công ty Bảng 5: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (lãi, lỗ) Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Thực hiện Thực hiện So sánh 2000 2001 Giá trị Tỉ lệ 1. Tổng doanh thu thuần 68.620 85.000 16.380 23,87 2. Giá vốn hàng bán 64.965 81.093 16.128 24,82 3. Lợi nhuận gộp 3.655 3.907 252 6,89 4. Tỉ suất lợi nhuận gộp/DTT (%) 5,32 4,59 -0,73 - 5. Tổng chi phí: 3.460 3.697 237 6,84 - Chi phí bán hàng 720 850 130 18,05 - Chi phí quản lý 2.740 2.847 107 3,9 6. Lợi tức trước thuế 195 210 15 7,69 7. Thuế lợi tức phải nộp (35%) 68,25 73,5 5,25 7,69 8. Lợi tức sau thuế 126,75 136,5 9,75 7,69 9. Tỉ suất chi phí/DTT (%) 5,642 4,35 -0,692 - 10. Tỉ suất LN trước thuế/DTT (%) 0,284 0,247 -0,037 - 11. Tỉ suất LN sau thuế/DTT (%) 1,1847 0,16058 -0,02412 - 12. Lương bình quân 1người/năm 13,44 11,4 -2,04 -15,17 Căn cứ vào bảng số liệu 5 ta có nhận xét sau: Lợi tức sau thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty năm 2001 so với năm 2000 tăng 9,75 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 7,69%. Nguyên nhân là do công ty đã nỗ lực mở rộng thị trường, thay đổi cơ cấu thị trường hợp lý. Để thấy rõ được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty như thế nào
  32. trong 2 năm ta dựa vào việc phân tích cụ thể những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, ta thấy rằng: Tổng doanh thu thuần năm 2001 tăng 16.380 triệu đồng tương ứng tỉ lệ tăng là 23,87%. Nguyên nhân là do trong năm 2001 ngoài việc kinh doanh các mặt hàng truyền thống, công ty còn phát triển kinh doanh các mặt hàng khác như: cao su, gạo, sắt thép, hàng dệt may, gốm sứ, hàng thực phẩm, hoa quả tươi do đó phần nào đã làm cho doanh số bán ra năm 2001 tăng. Tương ứng như vậy giá vốn hàng bán tăng 16.128 triệu đồng tương ứng tăng 24,82%, tỉ lệ tăng của giá vốn hàng bán tăng nhanh hơn tỉ lệ tăng của doanh thu. Điều này làm cho lãi gộp của công ty tăng chậm, lợi nhuận gộp năm 2001 đạt 3.907 triệu đồng tăng 252 triệu đồng tương tứng tỉ lệ tăng là 6,89% so với năm 2000. Tuy lãi gộp tăng nhưng tỉ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu thuần giảm so với năm 2000 là 0,73%. Tỷ suất lợi nhuận gộp giảm kéo theo tỉ suất lợi nhuận trước thuế và sau thuế cũng giảm tương ứng là 0,037% và 0,02412%. Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ kinh doanh doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh tế càng cao. Như vậy tuy lợi nhuận năm 2001 tăng nhưng hiệu quả kinh tế lại không được tốt. Trong công tác quản lý chi phí: Tổng chi phí năm 2001 tăng 237 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 6,84% so với năm 2000. Trong đó chi phí bán hàng tăng 130 triệu đồng tương ứng với tỉ lệ tăng là 18,05%. Chi phí quản lý cũng tăng 107 triệu đồng tương ứng tăng là 3,9%. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng chi phí của công ty năm 2001 là tốt hơn năm 2000 do tỷ suất chi phí giảm 0,692. Đây là điều kiện thuận lợi của công ty. Do vậy nguyên nhân chính làm cho hiệu quả kinh tế năm 2001 không cao là do giá vốn hàng bán quá cao từ đó làm giảm lợi nhuận của công ty. Công ty cần phải cố gắng nghiên cứu lựa chọn những nguồn hàng hợp lý hơn để có được hiệu quả kinh tế cao hơn nữa trong những năm tới. Thông qua bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội ttong 2 năm 2000 và 2001 ta có thể thấy được sự tăng trưởng công ty không đều doanh thu tăng nhưng lợi nhuận tăng không nhiều. Nhưng cũng thấy rõ được sự nỗ lực của ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên công ty trong việc quản lý, nắm bắt thị trường và sự hăng say lao động nhằm nâng cao uy tín và vị thế của công ty trên thương trường.
  33. II. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội 1. Tình hình tổ chức, quản lý sử dụng vốn của Công ty Trước đây thời bao cấp các doanh nghiệp được ngân sách nhà nước cấp toàn bộ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp kinh doanh lỗ thì lại được nhà nước bù lỗ. Vì vậy không chú trọng khâu quản lý vốn sao cho tiết kiệm, hiệu quả. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ giao một phần vốn còn lại doanh nghiệp tự tạo thêm nguồn vốn cho mình và phải hoạt động sao cho để bảo toàn được vốn nhà nước đã giao. Điều này làm cho các doanh nghiệp nhà nước nói chung và Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn. Tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội vốn tự có ban đầu không được nhiều nên vấn đề đặt ra là công ty cần phải tổ chức công tác huy động, quản lý và sử dụng vốn như thế nào để đạt được hiệu quả kinh doanh. Dưới sự chỉ đạo của giám đốc và kế toán trưởng vốn kinh doanh của công ty nói chung và vốn lưu động nói riêng được quản lý tương đối chặt chẽ. Do vốn kinh doanh không nhièu nên khâu tổ chức đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá rất được coi trọng. Tuy nhiên nếu quá coi trọng doanh số mà lợi nhuận thu được thấp thì việc sử dụng đồng vốn chưa tốt. Ngoài ra trực tiếp thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá, công ty còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động dịch vụ khác như vận tải, tư vấn Công ty rất coi trọng tới hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng. Trong khâu quản lý vốn bằng tiền: Đầu quý kế toán trưởng lập kế hoạch thu chi tiền tệ (đầu tuần, đầu tháng) khi thu được tiền bán hàng về thủ quỹ nộp ngay vào tài khoản tiền ngân hàng, tiền mặt tại quỹ chỉ đủ thoả mãn nhu cầu chi tiêu tiền mặt ở công ty. Cuối ngày kế toán thanh toán và thủ quỹ đối chiếu sổ sách với nhau, tránh hiện tượng gian lận, mọi khoản thu chi tiền mặt, gửi tiền và rút tiền ngân hàng đều có chứng từ xác nhận như: phiếu thu, phiếu chi, séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi Để tăng tốc độ thu hồi tiền công ty áp dụng các biện pháp.
  34. + Khuyến khích khách hàng thanh toán sớm bằng cách chia lại cho khách hàng mối lợi như áp dụng chính sách chiết khấu với các khoản nợ được thanh toán trước hay đúng hạn. + Đôn đốc thu hồi nợ: Kế toán công nợ có trách nhiệm nắm chính xác số dư của từng khách hàng. Nếu đến hạn mà khách hàng không trả nợ tiền thì kế toán phải gọi điện, gửi công văn đến nhắc nhở, nếu vẫn chưa trả lời thì trực tiếp đến đòi nợ. Để giảm tốc độ chi tiêu công ty đáo hạn các khoản nộp ngân sách nhà nước, gia hạn nợ các khoản vay ngắn hạn. Để đi vào xem xét chi tiết và phân tích vốn lưu động của công ty, trước hết ta phải xem xét cơ cấu và nguồn hình thành lên vốn của công ty. Bảng 6 ngang Nhìn vào bảng cơ cấu và nguồn vốn kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội ta thấy tổng vốn kinh doanh bình quân năm 2001 so với năm 2000 tăng lên 315.641.000 đồng với tỉ lệ tăng 0,0875%. Trong đó vốn cố định bình quân có chiều hướng giảm năm 2000 số vốn cố định là 8.581.616 nghìn đôngf thì năm 2001 giảm xuống còn 6.987.386.000 đồng với tỉ lệ giảm là 18,57% tương ứng với số tiền giảm là 1.594.230.000 đồng, có tình trạng này là do năm 2001 công ty thanh lý một số máy móc cũ để chuẩn bị đầu tư những trang thiết bị hiện đại hơn phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Về vốn lưu động bình quân thì năm 2001 tăng so với năm 2000 là 1.909.871.000đồng với tốc độ tăng là 6,95% đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty. Có được số vốn kinh doanh bình quân trên là do một số nguồn hình thành đó là: Số vốn chủ sở hữu của công ty năm 2001 so với năm 2000 tăng lên 1.362.100.000 đồng với tỉ lệ tăng là 9,56% nguồn vốn vay của năm 2001 giảm so với năm 2000 là 88.898.000 đồng với tốc độ giảm là 0,064% và các nguồn hình thành vốn khác cũng giảm so với năm 2000 là 957.561.000 đồng với tỉ lệ giảm là 12,1%. Nhìn chung qua phân tích ta thấy nguồn vốn kinh doanh của công ty là hợp lý đảm bảo cho quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ trong nước, đảm bảo cho việc thanh toán và tự chủ về vốn trong kinh doanh. 2. Cơ cấu vốn lưu động của công ty Với bất kỳ một doanh nghiệp nào, nếu chỉ cần có nhiều vốn đề tồn tại và phát triển thì chưa đủ, điều quan trọng là số vốn đó được sử dụng như thế nào
  35. và được phân bổ vào các bộ phận có liên quan có hợp lý hay không, có đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không. Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội để thấy được tình hình dự trữ hàng hoá vật tư cũng như lượng tiền dự trữ của công ty có đảm bảo cho hoạt động của công ty được bình thường và đem lại hiệu quả hay không. Bảng 7 ngang Qua bảng số liệu trên ta thấy vốn lưu động của công ty năm 2001 tăng 12,52% so với năm 2000 với số tiền tăng là 3.749.941 đồng. Trong đó vốn lưu động tăng lên chủ yếu là do tăng các khoản phải thu là 13.500.000 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 45,07% thì sang năm 2001 các khoản phải thu là 1.554.168 nghìn đòng với tốc độ tăng là 11,22%. Một khoản tăng tương đối mạnh đó là vốn bằng tiền nếu năm 2000 với số tiền là 7.684.381 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 25,65% thì sang năm 2001 đã tăng thêm 1.296.991 nghìn đồng với tốc độ tăng là 16,37% và chiếm tỉ trọng là 26,64% trong tổng vốn lưu động của công ty. Với một công ty thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu là chủ yếu thì các khoản vốn thuộc về tài sản lưu động là rất quan trọng đối với hoạt động của mình nên công ty phải thực hiện các chỉ tiêu đề ra để thu hồi hoặc dự trữ các khoản này cho phù hợp. Trong năm qua lượng hàng tồn kho của công ty tăng khá nhanh là công ty đang kinh doanh một số mặt hàng mới nhưng do giá thế giới giảm mạnh nên công ty chưa xuất khẩu được làm cho hàng tồn kho năm 2001 tăng 754.108 nghìn đồng với tỉ lệ tăng là 24,12% so với năm 2000. Công ty nên chú ý hơn nữa đến lượng hàng dự trữ, không nên dự trữ quá nhiều hàng, tránh tình trạng hàng hoá bị hao hụt, mất giá, lỗi thời. Vì vậy việc xác định một lượng hàng phù hợp là quan trọng đối với các công ty kinh doanh trong điều kiện kinh tế như hiện nay. Như vậy từ bảng trên ta thấy vốn lưu động của công ty chủ yếu phân bổ vào các khoản phải thu, khoản này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu động và có chiều hướng tăng lên trong năm 2001. Ngoài ra nó cũng phân bổ một phần vào vốn bằng tiền, khoản này chiếm tỉ trọng tương đối và cũng tăng lên trong năm 2001. Trong năm vừa qua các khoản tạm ứng, ký quỹ và ký cược ngắn hạn của công ty đã thu hồi được, do vậy khoản tài sản lưu động khác uỷ thác tăng lên so với năm 2000. Do vậy ta có thể thấy được công ty thực hiệnhd kinh doanh đạt mức kế hoạch đề ra. Nhưng để đánh giá chính xác tình hình sử
  36. dụng vốn lưu động ta phải xem xét từng khoản thuộc về tài sản lưu động. Trước hết ta xét khoản vốn bằng tiền của công ty. 2.1. Tình hình sử dụng vốn bằng tiền của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội Mọi doanh nghiệp đều cần một lượng tiền mặt dự trữ nhất định cho việc kinh doanh. Việc dự trữ tiền mặt luôn chứa đựng hai vấn đề tính lợi ích và tính rủi ro. Bởi nếu chấp nhận tính lợi ích cao lượng tiền dự trữ ít thì rủi ro rất lớn. Ngược lại, nếu dự trữ tiền mặt lớn thì rủi ro thấp nhưng sinh lời không cao bởi lượng tiền nhàn rỗi không có khả năng sinh lời. Bảng 8: Tình hìh vốn bằng tiền của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội Đơn vị: nghìn đồng Năm 2000 Năm 2001 So sánh Các chỉ tiêu Số tiền TT (%) Số tiền TT (%) Số tiền TT (%) 1. Tiền mặt 971.743 12,64 1.451.472 16,16 479.729 49,36 2. Tiền gửi ngân hàng 65.787.238 75,31 6.523.687 72,63 736.449 12,72 3. Tiền đang chuyển 925.400 12,05 1.006.213 11,21 80.813 8,73 Tổng cộng 7.684.381 100 8.981.372 100 1.296.991 16,87 Từ bảng số liệu trên ta thấy vốn bằng tiền của công ty tăng lên 16,87% chủ yếu là do tiền gửi ngân hàng tăng trong năm qua khoản này đã tăng 12,72% về số tiền là 736.449 nghìn đồng, rõ ràng khoản này tăng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới vốn bằng tiền của công ty vì nó chiếm tới 75,31% năm 2000 và 72,63% năm 2001. Với chức năng hoạt động xuất nhập khẩu là chủ yếu thì tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ, tiền gửi ngân hàng tăng lên làm cho số tiền lãi gửi từ ngân hàng thường xuyên về nhập quỹ. Đồng thời tiền mặt của công ty cũng tăng lên 479.729 nghìn đồng với tỉ lệ tăng là 49,36% làm cho công ty tăng cường khả năng thanh toán các khoản phát sinh thường xuyên như: chi phí về mua bán hàng hoá, chi phí vận chuyển, trả lương công nhân viên Đối với khoản tiền đang cũng tăng 80.813 nghìn đồng với tốc độ tăng 8,73% góp phần làm cho khoản vốn bằng tiền tăng lên. Nhưng khoản tiền mặt ở công ty mà tăng lên nhiều là không tốt vì nó có thể tăng một lượng tiền nhàn rỗi không có khả năng sinh lời cao nếu công ty không sử dụng hết số tiền mặt
  37. trong một thời gian nhất định. Nhìn chung có thể nói khoản vốn bằng tiền của công ty tăng lên thì khả năng thanh toán tức thời cũng tăng lên. Như đã phân tích ở khoản vốn bằng tiền của công ty chiếm tỉ trọng 26,64% trong tổng tài sản lưu động năm 2001. Để biết được việc duy trì lượng vốn bằng tiền như thế nào có hợp lý hay không ta xem khả năng thanh toán tức thời của công ty thông qua chỉ tiêu hệ số thanh toán tức thời: Hệ số thanh toán tức thời = Error! Hệ số thanh toán tức thời năm 2000: 0,4 Hệ số thanh toán tức thời năm 2001: 0,5 Căn cứ vào hệ số thanh toán tức thời ta thấy năm 2001 công ty tự chủ hơn trong việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn cũng như các khoản cần thanh toán ngay. Là một công ty hoạt động chủ yếu là xuất nhập khẩu nên công ty quan hệ với rất nhiều ngân hàng Hà Nội (Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng ngoại thương Hà Nội ). Cũng chính vì sự đa dạng đó mà việc quản lý tiền mặt của công ty cũng rất phức tạp, phải theo dõi từng ngày từng giờ. Công ty không có tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng như không có khoản đầu tư vào mục chứng khoán nào bởi trên thực tế nhu cầu tiền mặt tại công ty diễn ra thường xuyên. Do vậy, công ty hầu như không có tiền nhàn rỗi mà phải thường xuyên vay ngắn hạn ngân hàng để thanh toán cho hàng xuất nhập khẩu với một số ngoại tệ lớn vì hàng của công ty chủ yếu là xe ô ô các loại, phụ tùng thiết bị, máy công cụ Ngoài ra năm 2001 công ty còn xuất thêm một số mặt hàng: cao su, đá xây dựng, hoa quả khô, về hàng nhập cũng sử dụng những ngoại tệ để thanh toán. Khi xuất các mặt hàng đi ngoại tệ thu về công ty chỉ được sử dụng 50% trong tổng ngoại tê còn laị 50% phải gửi lại ngân hàng (theo quyết định 63/CP ngày 17/8/1999 và quyết định 173/TTg ngày 12/9/1998 về việc sử dụng ngoại tệ) đã phần nào làm cho công ty khá bị động trong việc sủ dụng vốn. Để cho hoạt động kinh doanh được diễn ra thường xuyên liên tục thì phỉa làm cho vốn lưu động tăng vòng chu chuyển. Vấn đề tiền mặt rất được chú trọng vì công ty thường xuyên xuất hiện nhu cầu ngắn hạn như tạm nhập tái xuất, nhu cầu chi trả lương tất cả đều cần tiền mặt. Hơn thế nữa để chủ động trong kinh doanh và đảm bảo an toàn trong thanh toán thì việc duy trì một số dư nhất định nào
  38. đó trên tài khoản vốn bằng tiền là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên trên thực tế tại công ty rất ít khi có tiền mặt tồn đọng trên tài khoản quá lâu vì công ty sẽ chuyển ngay ra để trả nợ ngắn hạn khi nó vượt quá một giới hạn nào đó so với nhu cầu dự tính trong ngắn hạn. Phải nói rằng công tác ngân quỹ được công ty đã và đang rất coi trọng, hàng ngày công ty có kế toán thanh toán chuyên theo dõi tình hình số dư trên tất cả các tài khoản của công ty ở tất cả các ngân hàng và kết hợp đối chiếu với nhu cầu thu chi dự tính để lập trừ ngân quỹ từ đó có thể đưa ra quyết định vay thêm hay trả nợ một cách kịp thời nhất vì mục tiêu an toàn, hợp lý hiệu quả và sinh lời. Như ta đã biết tỉ lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt là rất thấp thậm chí có thể bằng không. Hơn nữa do sức mua của đồng tiền luôn có xu hướng giảm đi do chịu ảnh hưởng của lạm phát, do đó có thể nói tỉ lệ sinh lời thực của tiền mặt là một số âm. Bởi vậy việc duy trì mức tiền mặt hợp lý nhằm thoả mãn các nhu cầu chi tiêu tiền mặt của doanh nghiệp là một vấn đề rất quan trọng liên quan đến hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. Việc nắm giữ tiền mặt là một động cơ phòng ngừa, tiền mặt được tồn trữ nhằm mục đích duy trì khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp ở mọi thời điểm. 2.2. Tình hình các khoản phải thu Phải thu là một bộ phận chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng số vốn lưu động của công ty. Hơn thế nữa nó lại liên quan trực tiếp đến chu kỳ vận động của vốn lưu động và cũng là chu kỳ tạo ra lợi nhuận cho công ty. Do vậy, quản lý các khoản phải thu là một vấn đề đang cần được quan tâm đặc biệt của công ty nhất là trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay chính ra quản lý các khoản phải thu đang trở thành một “công cụ” để chiến đấu trong cạnh tranh của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Các khoản phải thu của công ty bao gồm: Phải thu khách hàng phải thu tạm ứng, trả trước người bán, phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác. Trong các khoản phải thu thì khoản phải thu của khách hàng luôn chiếm tỉ trọng cao và là trọng taam của công tác quản lý khoản phải thu, để theo dõi chi tiết các khoản phải thu ta có bảng phân tích: Bảng 9: Cơ cấu các khoản phải thu của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội Đơn vị: 1000 đồng
  39. Năm 2000 Năm 2001 So sánh Các chỉ tiêu Số tiền TT (%) Số tiền TT (%) Số tiền TT (%) 1. Phải thu khách hàng 11.534.400 85,44 12.476.068 83,09 941.668 8,16 2. Phải trả người bán 816.750 6,05 937.138 6,24 120.388 14,73 3. Tạm ứng 853.200 6,32 805.965 5,37 -46.235 -5,42 4. Phải thu nội bộ 210.600 1,56 598.728 3,98 388.128 184,3 5. Phải thu khác 25.050 0,63 196.219 1,32 111.169 130,71 6. Tổng 13.500.000 100 15.015.108 100 1.515.108 11,22 Qua số liệu trên ta thấy tình hình các khoản phải thu năm 2001 so với năm 2000 là 1.515.168 nghìn đồng với tỉ lệ tăng là 11,22%. Trong đó khoản phải thu từ khách hàng tăng lên từ năm 2000 là 11.534.400 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 85,44% đến năm 2001 là 12.476.068 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 83,09%. Năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 941.668 nghìn đồng với tốc độ tăng là 8,16% đây là loại tài sản mang lại không ít rủi ro cho công ty. Do vậy việc quản lý khoản phải thu khách hàng hoàn toàn phụ thuộc vào chủ quan của công ty và là một vấn đề thực sự phải quan tâm. Trên thực tế Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội khoản mục này boa gồm 2 bộ phận là phải thu do bán hàng nhập khẩu và phải thu do xuất khẩu. Nhưng ở đây vấn đề cần được quan tâm và cũng là rủi ro lớn nhất cho công ty là khoản phải thu do bán hàng nhập khẩu còn đối với khoản do xuất khẩu thường khá an toàn và thời gian thu nợ rất nhanh. Công ty thường nhận được chấp nhận thanh toán ngay từ phía nhà nhập khẩu thông qua các chi nhánh ngân hàng đại diện của họ tại Việt Nam ngay khi hàng hoá được chứng nhận là đã tới bến. Vả lại với việc áp dụng rộng rãi hình thức thanh toán bằng L/c thì độ an toàn rất cao, do vậy các khoản này công ty thường không theo dõi trong thời gian. Vấn đề khó khăn ở đây là khoản phải thu do bán hàng nhập khẩu, công ty nhập khẩu rất nhiều mặt hàng như: Nhôm, thép, kẽm, máy móc thiết bị, ô tô các loại, máy công cụ, săm lốp ô tô Do thị trường hoặc do cơ chế thay đổi nên năm 2001 công ty đã bán được hàng nhập khẩu không nhiều và tổng giá trị nhập khẩu thấp hơn năm 2000. Bởi vậy các mặt hàng nhập khẩu thấp hơn năm 2000. Bởi vậy các mặt hàng nhập khẩu bán trên thị trường nội địa có thời gian nhận nợ khá dài và hầu như ít có điều kiện đảm
  40. bảo thanh toán, do vậy mà rủi ro vẫn ở mức cao. Để tránh được điều đó công ty phải quản lý khoản này chặt chẽ. Khi bán hàng hoặc mua hàng có đầy đủ các chứng từ hoá đơn cần thiết cho việc thanh toán. Khoản trả trước người bán tăng 120.388 nghìn đồng so với năm 2000 và tỉ lệ tăng 14,73% khoản này là do công ty ứng tiền ra trước để mua các sản phẩm, nguyên vật liệu đầu vào. Đối với khoản tạm ứng năm 2000 với số tiền là 853.200 nghìn đồng chiếm tỉ trọng là 6,32% đến năm 2001 số tiền là 806.965 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 5,37%. Như vậy số tiền tạm ứng năm 2001 giảm so với năm 2000 là 46.235 nghìn đồng với tốc độ giảm 5,42%. Khoản này chủ yếu phát sinh là do công nhân viên tạm ứng lương. Năm 2001 khoản thu nội bộ tăng lên với số tiền 388.128 nghìn đồng với tỉ lệ tăng 184,3%, khoản này tăng thêm là do tổng công ty máy và phụ tùng cấp thêm vốn kinh doanh cho công ty và tăng một số khoản phải thu nội bộ khác nhằm tăng quy mô hoạt động của công ty. Các khoản phải thu khác năm 2000 là 85.050 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 0,63% và năm 2001 là 196.219 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 1,32%. Ta thấy khoản phải thu khác tăng so với năm 2000 là 111.169 nghìn đồng với tốc độ 130,71%. Khoản này tăng chủ yếu là do phát sinh các khoản phải thu tiền phạt do công nhân làm hỏng tài sản của công ty, làm hàng hoá quy cách các khoản phải thu do chi hộ người lao động, thu do thanh lý tài sản. Nhìn chung các khoản phải thu năm 2001 tăng lên so với năm 2000. Để đánh giá chính xác hơn tình hình phải thu của công ty ta xem xét chỉ tiêu sau. Bảng 10: Tình hình các khoản phải thu Đơn vị: 1000đ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 1. Doanh thu thuần (nđ) 68.520.000 85.000.000 2. Các khoản phải thu (nđ) 13.500.000 15.015.118 3. Hệ số vòng quay (vòng) 5,08 5,66 Tình hình các khoản phải thu phụ thuộc vào chính sách tín dụng của công ty. Chính sách tín dụng có vai trò quan trọng góp phần vào sự tăng
  41. trưởng và phát triển của công ty. Chính sách này được coi như là mục tiêu tăng lượng hàng hoá tiêu thụ trong khuôn khổ, việc mở rộng thị trường tiêu thụ làm tăng doanh lợi cho công ty. Để đảm bảo sự an toàn giữa rủi ro và tính lợi ích, công ty cần nghiên cứu kỹ đối với khách hàng, kết hợp với khả năng tài chính của công ty đã xác định một sự an toàn thích hợp. ở đây chúng ta chỉ xét tốc độ thu hồi công nợ của công ty, khả năng này thể hiện qua chỉ tiêu hệ số vòng quay các khâu phải thu. Hệ số vòng quay;khoản phải thu = Error! Qua bảng số phân tích ta có nhận xét: Năm 2001 số vòng quay các khoản phải tu tăng lên so với năm 2000 từ 5,08 vòng lên 5,66 vòng. Điều này chứng tỏ năm 2001 công ty đã đẩy mạnh quá trình thu hồi các khoản công nợ phải thu, công nợ phải trả để tránh tình trạng nợ quá hạn chưa đòi được và công nợ dây dưa không có khả năng thanh toán. Nếu làm tốt công tác này sẽ góp phần làm cho cho vốn lưu động hoạt động hiệu quả hơn. 2.3. Tình hình hàng tồn kho Đối với một doanh nghiệp thương mại với chức năng lưu chuyển hàng hoá là chủ yếu thì hàng tồn kho đóng một vai trò quan trọng trong vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc xác định một lượng hàng tồn kho hợp lý là vấn đề cần thiết và luôn thường trực đối với doanh nghiệp. Chúng ta đều biết đối với một số mặt hàng theo thời vụ, đối với những mặt hàng này để đảm bảo nhu cầu bán doanh nghiệp cần phải có kế hoạch thu mua trong mùa và dụ trữ đủ bán khi mặt hàng này là lớn. Nhưng đối với mặt hàng sản xuất quanh năm thì không nhất thiết phải dự trữ nhiều để tránh những khoản phí do dự trữ hàng hoá. Tuy nhiên nếu dự trữ quá ít thì sẽ làm cho hiệu quả kinh doanh giảm. Do vậy việc xác định đúng đắn mức dự trữ hàng hoá là điều rất quan trọng. Như đã phân tích ở trên trong năm qua hàng tồn kho của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội tăng lên đó là do công ty đang kinh doanh một số mặt hàng mới vì giá thế giới giảm nên chưa xuất khẩu được. Nhưng công ty cũng cần xem xét lượng hàng dự trữ hàng hoá để đáp ứng tốt nhu cầu bán của mình. Để thấy được tốc độ chu chuyển hàng tồn kho của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội xét bảng sau. Bảng 11: Tình hình hàng tồn kho của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
  42. Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2000 1. Giá vốn hàng bán 64.965.015 81.093.17 2. Hàng tồn kho bình quân (nđ) 3.126.010 3.880.118 3. Số vòng chu chuyển (vòng) 21,95 21,90 4. Số ngày chu chuyển (ngày) 16,4 16,43 5. Doanh thu thuần 68.620.000 85.000.000 Số vòng chu chuyển hàng tồn kho = Error! Số vòng chu chuyển hàng tồn kho = Error! Bảng trên cho thấy số lần chu chuyển hàng tồn kho năm 2000 là 21,95 vòng sang năm 2001 là 21,90 vòng. Đây là tốc độ chu chuyển trung bình. Số ngày chu chuyển của hai năm cùng là 16,4 ngày cho một vòng chu chuyển. Như vậy tốc độ chu chuyển hàng tồn kho của công ty là không cao và không có xu hướng tăng lên trong năm 2001, từ đó có thể thấy được vốn lưu động ở bộ phận hàng tồn kho của công ty được luân chuyển không nhanh, nó sẽ ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển của vốn lưu động. 3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại các doanh nghiệp là một vấn đề quan trọng và được sự quan tâm rất nhiều của nhà quản lý doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chỉ có thể đạt được khi doanh nghiệp sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta dùng hệ thống chỉ tiêu đánh giá một cách toàn diện và cụ thể. Vốn lưu động tham gia vào hoạt động kinh doanh. Các chỉ tiêu này tính bằng con số cụ thể và chính xác, nó phản ánh trình độ tổ chức, quản lý và sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp mà hầu hết các chỉ tiêu này được trình bày ở chương I. Trên thực tế nếu doanh nghiệp đánh giá đúng thực trạng sử dụng vốn lưu động thì sẽ đưa ra được các biện pháp kịp thơì và chính xác nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Bảng 12 ngang
  43. Qua bảng số liệu trên ta có những đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty như sau: cứ 1 đồng vốn lưu động bỏ ra công ty thu được 2,63 đồng doanh thu năm 2000 và năm 2001 là 2,04 đồng doanh thu, như vậy so với năm 2000 thì năm 2001 tăng lên 0,41 đồng với tốc độ tăng 15,58%. Trong đó mức doanh thu thuần trên một đồng vốn lưu động năm 2001 tăng với tỉ lệ 16,06% với mức tiền tăng là 0,4 đồng doanh thu thuần. Để xét xem việc sử dụng vốn lưu động có thực sự đạt hiệu quả không chúng ta xét hệ số sinh lời của vốn lưu động. Nhìn vào bảng ta thấy mức lợi nhuận gộp của công ty thu trên một đồng vốn lưu động tăng lên 0,001 đồng có tỉ lệ tăng 0,75% so với năm 2000. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh thực hiện trên một đồng vốn lưu động năm 2000 là 0,108 đồng doanh thu và năm 2001 là 0,10 đồng doanh thu tăng lên 0,001 đồng với tốc độ tăng là 0,925%. Trong năm 2000 cứ một đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu được 0,0071 đồng tổng lợi nhuận trước thuế và năm 2001 cũng thu được 0,071 đồng tổng lợi nhuận trước thuế trên một đồng vốn lưu động bỏ ra. Nhìn chung hệ số phục hồi vốn lưu động và hệ số sinh lời vốn lưu động của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội năm 2001 tốt hơn năm 2000. Việc tăng các hệ số này là do năm 2001 công ty đã kinh doanh một số mặt hàng mới làm cho doanh số bán ra tăng. Tuy nhiên mức tăng của các hệ số này chưa cao là vì hàng tồn kho và giá vốn hàng bán năm 2001 tăng cao làm cho lợi nhuận của công ty tăng không nhiều chính vì vậy làm cho hệ số sinh lời của vốn lưu động tăng không nhiều thậm chí hệ số lợi nhuận trước thuế trên vốn lưu động của công ty chúng ta hãy sử dụng chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết trong một chu kỳ kinh doanh vốn lưu động quay trở về trạng thái ban đầu là bao nhiêu lần như vậy chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Căn cứ vào bảng số liệu ta thấy trong năm 2000 số vòng luân chuyển vốn lưu động là 2,498 vòng sang năm 2001 là 2,89 vòng tăng 9,392 vòng với tốc độ tăng là 15,7%, do vậy năm 2001 công ty sử dụng vốn lưu động hiệu quả hơn năm 2000. Thông qua số ngày luân chuyển của vốn lưu động ta biết được số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện một vòng luân chuyển. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Nếu năm 2000 số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng là 144,11 ngày thì năm 2001 giảm xuống 114,56 ngày 1 vòng so với năm 2000 thì số ngày giảm 19,55 ngày tương đương với tỷ lệ giảm là 13,56%. Như vậy
  44. chỉ tiêu này càng cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong năm qua là tốt hơn năm 2000. Tóm lại số vòng luân chuyển vốn lưu động năm 2001 tăng lên so với năm 2000 đó là do số vòng luân chuyển của các khoản phải thu tăng lên đã làm cho khả năng thu hồi các khoản công nợ nhanh chóng. Mặt khác số vòng luân chuyển hàng tồn kho giảm cũng phần nào ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển vốn lưu động do vậy trong năm tới công ty phải chú ý hơn nữa về việc quản lý hàng tồn kho sao cho có hiệu quả hơn. Như vậy ta có thể đánh giá được năm 2001 công ty sử dụng vốn lưu động hiệu quả hơn năm 2000 mặc dù có nguyên nhân khách quan như tình hình không thuận lợi do tỉ giá biến động, vốn vay khó khăn nhưng công ty đã khắc phục và hoàn thành kế hoạch đề ra. III. Đánh giá chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty 1. Các kết quả đạt được Nhìn chung qua số liệu phân tích trên ta thấy công ty sử dụng vốn có hiệu quả hơn năm 2000. Trong nưam qua công ty vẫn sử dụng được quy mô hoạt động nhất là kinh doanh xuất nhập khẩu, tiếp tục củng cố và phát triển các lĩnh vực mới mở mang dần các hoạt động này đi vào nề nếp. Trên lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu đây vẫn là hoạt động chính yếu của công ty trong năm 2001 tuy tổng giá trị kim ngạch có giảm sút so với năm 2000 nhưng sự giảm sút này thuộc về nhập khẩu còn kim ngạch xuất khẩu năm nay tăng 41,65% so với năm 2000. Điều đó cho ta thấy công ty sử dụng vốn hợp lý trong các khâu kinh doanh của mình, biết vận dụng linh hoạt nguồn vốn hiện có tạo đà cho sự phát triển của mình. Nguyên nhân của sự tăng trưởng này là do công ty chỉ đạo sát sao các phòng nghiệp vụ vừa giữ mối quan hệ với bạn hàng cũ, vừa tích cực tìm hiếm mở rộng thị trường tiêu thụ mới tạo mọi điều kiện để làm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu như gạo, cao su, cà phê, bao PP Trong kinh doanh đã có chuyển biến mạnh từ uỷ thác sang tự doanh, đây là kết hợp giữa việc phát huy ưu thế của công ty với yêu cầu khách quan của thị trường, nó cũng đòi hỏi trách nhiệm và trình độ quản lý nghiệp vụ cao hơn. Ngoài ra công ty cũng có thêm các hình thức kinh doanh mới là tham gia dự thầu cung cấp hàng hoá trong nước và nhập khẩu. Hoạt động kinh doanh của công ty đã mang lại tổng lãi năm 2001 cao hơn
  45. năm 2000. Công ty đã tiếp tục truyền thống làm ăn có lãi, lành mạnh về tài chính, bảo toàn và phát triển vốn cho nhà nước, đóng góp nghĩa vụ đầy đủ và kịp thời. Trong công tác quản lý về sử dụng vốn lưu động công ty đã đạt được một số thành công sau: Nói chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong năm 2001 có hiệu quả hơn năm 2000 được thể hiện qua những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty năm 2001 thường cao hơn năm 2000 tuy rằng mức tăng là không cao nhưng có thể nói rằng đây chính là thành công của công ty. Trong công tác quản lý và sử dụng các khoản phải thu của công ty cũng đạt được một số hiệu quả nhất định. Đây là khoản vốn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng vốn lưu động của công ty vì vậy sử dụng và quản lý có hiệu quả các khoản phải thu sẽ có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Trong năm 2001 số vòng qua các khoản phải thu tăng lên so với năm 2000, điều này chứng tỏ năm 2001 đã đẩy mạnh quá trình thu hồi các khoản công nợ phải thu, công nợ phải trả để tránh tình trạng nợ quá hạn chưa đòi được và công nợ dây dưa không có khả năng thanh toán. Đây là sự cố gắng của công ty mặc dù hiệu quả đạt được chưa phải là cao hy vọng rằng trong các năm tiếp theo công ty sẽ thành công hơn nữa trong khâu quản lý và sử dụng khoản vốn này. Cũng trong năm qua công ty đã cố gắng đáp ứng nhu cầu vốn lưu động cho sự tăng trưởng nhanh chóng của hoạt động sản xuất kinh doanh công ty bằng nhiều biện pháp khác nhau đã luôn đảm bảo một lượng vốn lưu động thường xuyên do vậy mà công ty có đủ khả năng để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Chính sự quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn lưu động của công ty không những giúp công ty vượt qua những khó khăn trở ngại mà còn góp phần không nhỏ trong việc phát triển mở rộng hoạt động sản xuất của công ty. + Hạn chế cần khắc phục Qua số liệu phân tích và đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong 2 năm 2000 và 2001 ta thấy công ty có sự phát triển theo chiều hướng chưa tốt sức mua tăng nhưng lợi nhuận đạt chưa cao, điều này thể hiện ở
  46. doanh thu năm 2001 tăng rất cao nhưng lợi nhuận tăng rất chậm. Sự phát triển này chưa đạt tới đích so với tiềm lực hiện có của công ty. Điều này có thể do hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Tuy rằng năm 2000 nhưng hiệu quả đạt được không cao hơn là mấy có thể là do: Hàng tồn kho (dự trữ) chiếm tỉ trọng cao trong tổng vốn lưu động mà trong năm 2001 lượng hàng tồn kho tăng cao hơn năm 2000. Ngoài ra công tác quản trị hàng tồn kho còn chịu ảnh hưởng lớn bởi nguyên nhân khách quan là các loại hàng dự trữ kém phẩm chất, mất phẩm chất tồn tại từ năm trước góp phần làm tăng lượng hàng hoá tồn kho mà không đem lại hiêụ quả cho công ty. Các chỉ tiêu mức doanh thu trên trị giá vốn hàng bán, và lợi nhuận gộp trên trị giá vốn đều giảm điều này chứng tỏ trong năm 2001 giá vốn hàng bán của công ty tăng nhanh hơn cả tốc độ tăng của doanh thu điều này sẽ làm cho lợi nhuận của công ty đạt được là không cao. Do vậy trong khâu này công ty đã không tìm được nguồn hàng rẻ hơn để nâng cao lợi nhuận trong công ty đây chính là hạn chế của công ty. Vốn bằng tiền của công ty cũng quá lớn nó ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động do không đưa lượng vốn bằng tiền này vào quá trình lưu thông. Điều này làm cho lợi nhuận của cong ty bị giảm sút vì tiềm mặt cất quỹ không những không sinh lợi nhuận mà còn bị mất giá do lạm phát. Ngoài ra trong cơ chế quản lý nội bộ và điều hành sản xuất kinh doanh công ty đã luôn thể hiện sự chắc chắn cẩn trọng và ý thức tuân thủ pháp luật cao, trong cơ chế phân phối công ty còn duy trì tỉ lệ “bao cấp” khá cao và phổ biến. Đây là một nét truyền thống và riêng biệt được hình thành rõ nét từ nhiều năm hoạt động của công ty. Trước yêu cầu hiện tại của thị trường việc tiếp tục duy trì và phát huy truyền thống này rõ ràng là cần thiết song việc phải giảm liều lượng để có sự mềm dẻo linh hoạt hơn, thích ứng hơn với các chuyển biến nhanh của thị trường cũng rất bức thiết. Ví dụ trong cơ chế phân phối lương thưởng cũng cần có chính sách động viên tốt hơn đối với các cá nhân và tập thể có đóng góp cho công ty dần dần giảm tỉ lệ “bao cấp” để khắc phục tâm lý trong chờ ỷ lại không chịu suy nghĩ đóng góp vào cái chung của một bộ phận CBCNV hiện nay. - Việc áp dụng khoa học kỹ thuật, nhất là tin học trong sản xuất kinh doanh còn dè dặt.
  47. - Cần tiếp tục nghiên cứu tìm tòi xây dựng các chương trình, giải pháp cụ thể, định hướng cụ thể để thích ứng với thị trường trong và ngoài nước. 3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế. - Công ty đã thực hiện công tác đổi mới quản lý doanh nghiệp: Thực hiện Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 3, khoá IX và quyết định 183/2001/QG-TTg ngỳ 20/11/2001 của Chính phủ trong năm qua công ty đã có nhiều đổi mới trong công tác quản lý và điều hành: Ban lãnh đạo hoạt động theo đúng quy chế, đã thực hiện giao ban của lãnh đạo tổng công ty với giám đốc công ty theo quý có sơ kết và xác định trách nhiệm từng đơn vị đối với thực hiện kế hoạch, việc kiểm tra, kiểm soát và xét duyệt thực hiện quyết toán được tiến hành nhằm ổn định tài chính, tạo nguồn vốn và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ ngân sách nhà nước. Sự chỉ đạo điều hành được sâu sát, động viên kịp thời các đơn vị vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Trong quản lý đã tạo điều kiện để các đơn vị chủ động, xây dựng nâng cấp các đơn vị cơ sở, mở rộng kinh doanh về mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh, ban hành quy chế thưởng xuất khẩu, hoa hồng, tiền lương các đơn vị có thể tăng trưởng về mọi mặt từ sản xuất kinh doanh dịch vụ. Năm 2001 tổ chức mạng lưới kinh doanh đã thực sự phát huy hiệu quả đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của toàn công ty, trình tự thủ tục thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật của tổng công ty. - Công ty đã tổ chức kiểm tra báo cáo quyết toán tài chính năm 2000 tình hình quản lý và sử dụng vốn, tài sản tại công ty, tình hình thực hiện các quy chế: Quy chế quản lý tài sản cố định và đầu tư xây dựng cơ bản, quy chế về công tác cán bộ và công tác lao động tiền lương. Giải quyết kịp thời khách quan các đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cán bộ và đã báo cáo thanh tra Bộ Thương mại. - Phòng Tài chính kế toán của công ty đã có nhiều cố gắng trong việc mở rộng và tạo dựng tốt mối quan hệ với các ngân hàng nên đã đáp ứng kịp thời vốn cho kinh doanh, cho các dự án đầu tư, Tổng công ty đã giới thiệu coi ngân hàng có chế mềm dẻo trong cho vay để Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội tiếp xúc trực tiếp ký các hạn mức tín dụng với các điều kiện ưu đãi. Tổ chức tổng hợp xong quyết toán năm 2001. Đã tổ chức kiểm tra tình hình hoạt động năm 2001 của toàn công ty. Qua kiểm tra đã yêu cầu công ty xử lý hàng hoá
  48. tài sản kém mất phẩm chất, đôn đốc giải quyết công nợ, công ty đã áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt giải quyết bước đầu đã có kết quả. Bên cạnh đó công ty gặp phải một số hạn chế cần khắc phục là do một số nguyên nhân sau: - Công tác quản trị hàng tồn kho của công ty chịu ảnh hưởng lớn bởi nguyên nhân khách quan đó là các loại hàng hoá dự trữ kém phẩm chất tổn tại từ các năm trước góp phần làm tăng dự trữ kém phẩm chât tồn tại từ các năm trước góp phần làm tăng lượng hàng tồn kho mà không đem lại hiệu quả cho công ty. Chính vì vậy đã làm ảnh hưởng đến việc quản trị hàng tồn kho và từ đó có những ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. - Các khoản phải thu của công ty luôn luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng số vốn lưu động. Điều này biểu hiện việc kém hiệu quả trong công tác quản trị các khoản phải thu. Nguyên nhân là do chưa có chính sách tín dụng hợp lý như các biện pháp hữu hiệu để thu hồi các khoản phải thu làm mất một lượng vốn lưu động cần thiết cho nhu cầu tài chính. Công tác quản lý tiền mặt của công ty cũng chưa tốt đó là nguyên nhân dẫn đến việc làm giảm hiệu quả vốn lưu động do tiền mặt cất quỹ không những không sinh lợi nhuận mà còn lại bị mất giá do lạm phát. Cũng trong năm qua công ty không gặp phải khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn hàng, làm cho trị giá vốn hàng bán tăng rất cao. Điều này có thể là do công tác tìm kiếm bạn hàng, những nhà cung cấp của bộ phận cán bộ phụ trách chưa tốt hoặc cũng có thể là do những nguyên nhân khác quan như sự không ổn định của thị trường thế giới hay là sự biến động thất thường của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của công ty cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong khâu này. Ngoài ra cơ thể còn một số nguyên nhân khác của những thành tựu cũng như hạnchế mà công ty đang gặp phải. Thế nhưng phải nói rằng trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay mà công ty kinh doanh vốn có lãi đây là một thành công của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội.