Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại công ty bảo hiểm Hà nội để nghiên cứu

doc 52 trang nguyendu 4660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại công ty bảo hiểm Hà nội để nghiên cứu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docchuyen_de_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_kinh_doanh.doc

Nội dung text: Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại công ty bảo hiểm Hà nội để nghiên cứu

  1. Lời nói đầu Xã hội nào trên con đường phát triển của mình cũng luôn hướng tới sự phồn thịnh, ấm no về vật chất cùng với sự đảm bảo công bằng và phúc lợi xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, phải tiến hành nhiều hoạt động kinh tế- xã hội. Mỗi hoạt động có những đặc thù và chức năng riêng của mình. Nhưng có một hoạt động không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế mà ý nghĩa xã hội của nó cũng không thể phủ nhận. Đó là Bảo hiểm - một hoạt động dịch vụ tài chính dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Hàng năm nó mang lại một nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, lợi nhuận cho người kinh doanh bảo hiểm, đồng thời góp phần ổn định đời sống, sản xuất cho người tham gia. Nhờ có bảo hiểm, những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra với một người sẽ được bù đắp, san sẻ từ những khoản đóng góp của nhiều người. Do đó, nó là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức, giúp họ yên tâm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ năm 1990 đến 1996, tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành bảo hiểm thương mại Việt Nam đạt từ 35% đến 40%. Nghị định 100/CP ngày 18/2/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm đã mở ra một hướng đi mới cho ngành bảo hiểm Việt Nam, tạo điều kiện cho nhiều loại hình doanh nghiệp cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm mới ra đời và phát triển. Tại Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn được bắt đầu triển khai từ năm1989. Tuy nhiên, quá trình hoạt động và triển khai nghiệp vụ này chỉ đơn thuần thực hiện các chức năng kinh doanh của nó. Sau nghị định 100/CP với sự ra đời của hàng loạt các công ty bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau đã làm cho tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm trở lên gay gắt hơn, tính hiệu quả được chú trọng và đề cao hơn trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Làm thế nào để hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả cao cho công ty mà vẫn đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong lĩnh vực bảo hiểm hoả hoạn đang là mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó có Bảo Việt Hà Nội. Xuất phát từ thực tế đó và sau một thời gian công tác, tìm hiểu thực tế tại Phòng bảo hiểm Cháy và rủi ro hỗn hợp của công ty bảo hiểm Hà nội cùng
  2. với sự nhiệt tình, say mê nghề nghiệp, em đã chọn chuyên đề: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại công ty bảo hiểm Hà nội để nghiên cứu. Mục đích của chuyên đề nhằm trình bày một số nét cơ bản nhất về nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và thực tế kinh doanh nghiệp vụ trên tại BVHN. Bên cạnh đó, em cũng mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại BVHN. Chuyên đề được chia thành 3 phần: Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm hoả hoạn Chương II: Tình hình hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại Bảo Việt Hà Nội Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại công ty bảo hiểm Hà nội
  3. Chương I Khái quát chung về bảo hiểm hoả hoạn I. Lý luận chung về bảo hiểm 1. Sự ra đời và vai trò của bảo hiểm. a. Sự ra đời của bảo hiểm Cho đến nay, bảo hiểm không còn là khái niệm xa lạ đối với chúng ta. Hoạt động bảo hiểm liên tục phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, việc tìm hiểu xem bảo hiểm xuất hiện từ khi nào lại là điều khó khăn hơn nhiều. Nhìn chung, mọi ý kiến đều cho rằng bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại, gắn liền với sự phát triển của lịch sử loài người. Lịch sử loài người trước hết là lịch sử đấu tranh với thiên nhiên. Trong quá trình đó, con người phải từng bước chinh phục và cải tạo thiên nhiên, đồng thời cũng luôn phải chịu sự tác động của thiên nhiên, phải đương đầu với thiên tai và gánh chịu những hậu quả do thiên tai gây ra. Do đó, một mặt đấu tranh với thiên nhiên, mặt khác hạn chế tác hại và khắc phục hậu quả của thiên tai luôn là nhiệm vụ cấp bách của mọi thời đại. Thông thường người ta hạn chế bằng nhiều cách: tránh né rủi ro, tự đề phòng và tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, con người dần sớm nhận ra rằng việc dự trữ chung theo cộng đồng có hiệu quả hơn rất nhiều. Đây chính là tiền đề của bảo hiểm, nghĩa là nhiều người cùng nhau góp tiền hoặc lập ra một quỹ chung để khi có thiên tai hay tai nạn xảy ra bất ngờ gây tổn thât thì người ta sẽ lấy từ quỹ chung ra để bù đắp cho những người bị tai nạn bất ngờ đó. Khi cuộc sống ngày càng phát triển, yếu tố tác động đến đời sống con người không chỉ có thiên nhiên mà còn cả yếu tố xã hội nữa. Những tổn thất, không chỉ do thiên nhiên mà còn do cả chiến tranh khủng hoảng kinh tế. Trong hoàn cảnh đó, vấn đề thành lập quỹ chung để bù đắp tổn thất lại tỏ ra hữu hiệu hơn bao giờ hết. Cũng từ đó hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và tính ưu việt của nó được thể hiện ngày một rõ nét hơn.
  4. b. Vai trò của bảo hiểm trong đời sống xã hội Cho đến nay, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, bảo hiểm càng thể hiện rõ là nhu cầu không thể thiếu, là yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo cho quá trình tái sản xuất có thể tiến hành thường xuyên và liên tục, đồng thời góp phần ổn định đời sống của mọi thành viên trong xã hội. * Bảo hiểm bảo đảm cho các tổ chức và các doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Bảo hiểm là một yếu tố cấu thành tất yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những rủi ro ngoài ý muốn luôn đe doạ tới sự an toàn trong mỗi thời khắc của đời sống kinh tế xã hội. Xã hội càng phát triển, con người càng ứng dụng kỹ thuật cao vào cuộc sống cũng như cố gắng hạn chế các thiệt hại do thiên tai gây ra, thì rủi ro có thể thiệt hại cho chúng ta vẫn không thể giảm bớt, mà còn có xu hướng tăng lên. Những thiệt hại này mỗi tổ chức, doanh nghiệp, không thể tự gánh chịu tự trang trải. Họ luôn cần tới một chỗ dựa vững chắc: Bảo hiểm. Dựa trên nguyên tắc san sẻ rủi ro, bảo hiểm mang lại cho các tổ chức và các doanh nghiệp sự an tâm được bảo vệ và đền bù các mất mát, thiệt hại đối với con người, với tài sản, với công việc, tiền, lợi nhuận thuộc tổ chức và đơn vị đó. Tham gia bảo hiểm không nhằm triệt tiêu, né tránh rủi ro song chắc chắn sẽ góp phần đề phòng và giảm thiểu tổn thất, đảm bảo cho mọi doanh nghiệp tổ chức và doanh nghiệp phát triển vững mạnh. * Bảo hiểm góp phần hoàn thiện cuộc sống của mỗi chúng ta Cuộc sống của mỗi chúng ta, dù ở nông thôn hay thành thị, dù nghèo túng hay khá giả đều chứa chấp những yếu tố không định trước. Mọi nỗ lực của nhân loại luôn nhằm tới mục tiêu kiểm soát các yếu tố tác động tới con người, nâng cao mức sống tạo dựng sự ổn định lâu dài và hoàn thiện cuộc sống. Dù ở mức độ nào của sự phát triển, cuộc sống vẫn luôn tiềm ẩn những rủi ro không lường trước: Rủi ro chết bất ngờ, ốm đau, bệnh tật, tai nạn, trộm
  5. cắp, lũ lụt, đổ vỡ Tất cả những hiểm hoạ bất khả kháng luôn đe doạ chúng ta và tài sản của chúng ta vẫn hiện hữu và cũng chưa bao giờ bị loại trừ một cách tuyệt đối. Rủi ro chỉ có thể xử lý hoặc giảm thiểu nhiều hay ít tuỳ thuộc vào nỗ lực của xã hội và của mỗi chúng ta. Khi rủi ro xảy ra, trách nhiệm của tất cả chúng ta là giảm thiểu thiệt hại, phục hồi nhanh nhất mất mát về ổn định cuộc sống, mang lại sự bình yên và hạnh phúc cho con người. Con người sẽ có được sự tự tin, thanh thản tâm trí khi đã có bảo hiểm, sẽ được bồi thường tổn thất, mất mát, hay thực hiện các kế hoạch tài chính của mình. Tham gia bảo hiểm là thể hiện cuộc sống biết kế hoạch hóa của chúng ta và nó thực sự cần thiết đối với tất cả chúng ta. 2. Các loại hình bảo hiểm Căn cứ tính chất hoạt động, bảo hiểm chia thành bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội do nhà nước tổ chức và quản lý thống nhất (bộ Lao động thương binh xã hội và bộ Y tế ) chịu trách nhiệm. Bảo hiểm thương mại do bộ Tài chính quản lý (có nước do ngân hàng nhà nước quản lý. Bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh, do đó có nhiều tổ chức của các thành phần kinh tế cùng tham gia; Nhà nước quản lý hoạt động bảo hiểm thương mại thông qua luật, các văn bản pháp quy, các điều lệ; thông qua xét duyệt hình thành cũng như giải thể các tổ chức, kiểm tra hoạt động của các tổ chức có phù hợp với luật pháp điều lệ Bảo hiểm thương mại còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm kinh doanh, được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh và việc quản lý các rủi ro. Manh nha của hoạt động này có từ rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại. Xã hội ngày càng phát triển với các cuộc cách mạng công nghiệp, đến cuộc cách mạng thông tin thì bảo hiểm cũng ngày càng khẳng định vai trò của mình trong mọi hoạt động xã hội của con người bởi rủi ro nhiều hơn và các nhu cầu về an toàn cũng lớn hơn. Trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng như Việt Nam hiện nay có rất nhiều nghiệp vụ (sản phẩm) bảo hiểm khác nhau:
  6. Bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt; Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu; nội địa. Bảo hiểm thân tàu; Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu; Bảo hiểm xe cơ giới; Bảo hiểm tai nạn con người; Bảo hiểm xây dựng- lắp đặt; Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí; Bảo hiểm sinh mạng cá nhân ; Bảo hiểm nhân thọ; Bảo hiểm cây trồng; Bảo hiểm chăn nuôi; Bảo hiểm sắc đẹp; Các sản phẩm trên đều được phân loại theo từng đặc trưng riêng. Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và quản lý nghiệp vụ, sẽ có các tiêu thức khác nhau được lấy làm căn cứ phân loại. Chẳng hạn theo đối tượng bảo hiểm, các nghiệp vụ bảo hiểm có thể được sắp xếp vào các loại: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, hay bảo hiểm con người. Với các đặc trưng kỹ thuật tương đối giống nhau, người ta có thể ghép bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự vào trong bảo hiểm thiệt hại. Trong khi đó bảo hiểm con người có thể phân tích thành bảo hiểm con người phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ. Cũng căn cứ vào đối tượng được bảo hiểm, nhưng có thể sắp xếp các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại thành: bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm phi hàng hải, bảo hiểm trách nhiệm pháp lý, bảo hiểm xe cơ giới hoặc phân loại thành bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm phi nhân thọ trong đó bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các nghiệp vụ về bảo hiểm tài sản, về trách nhiệm dân sự, và các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ khác. a. Bảo hiểm tài sản: Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tài sản (cố định hay lưu động) của người được bảo hiểm. Ví dụ như: bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, bảo hiểm cho hàng hoá của chủ hàng trong quá trình vận chuyển
  7. b. Bảo hiểm con người Tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng được bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khoẻ của con người hoặc các sự kiện liên quan đến cuộc sống của con người và có ảnh hưởng đến cuộc sống của con người được xếp vào bảo hiểm con người. Đó là các nghiệp vụ bảo hiểm như: bảo hiểm tai nạn cá nhân, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm nằm viện phẫu thuật, bảo hiểm khách du lịch, bảo hiểm nhân thọ Đặc điểm chung của các loại bảo hiểm con người là khi thanh toán tiền bảo hiểm “nguyên tắc khoán” được áp dụng. Tức là về nguyên tắc chung, số tiền chi trả bảo hiểm sẽ dựa vào qui định chủ quan của hợp đồng và số tiền bảo hiểm được thoả thuận khi ký kết hợp đồng chứ không dựa vào thiệt hại thực tế. Tính mạng con người là vô giá, không thể xác định được bằng một khoản tiền nào đấy. Bởi vậy việc thanh toán tiền bảo hiểm trong các trong các nghiệp vụ bảo hiểm con người chỉ mang tính trợ giúp về tài chính khi không may gặp rủi ro. Trong bảo hiểm con người, thuật ngữ “chi trả bảo hiểm” được sử dụng thay thế cho “bồi thường bảo hiểm” trong bảo hiểm thiệt hại. Tuy nhiên trong các nghiệp vụ bảo hiểm con người, các chi phí y tế phát sinh cũng nằm trong phạm vi được bảo hiểm, cho nên thực tế bảo hiểm con người vẫn dựa vào các chi phí thực tế phát sinh để xác định số tiền chi trả và nguyên tắc bồi thường cũng được áp dụng kết hợp trong loại bảo hiểm này. Khác với các bảo hiểm tài sản, trong bảo hiểm con người mỗi một đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời được bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng với một hoặc nhiều người bảo hiểm khác nhau. Khi có sự cố bảo hiểm, việc trả tiền bảo hiểm của từng hợp đồng bảo hiểm độc lập nhau. Chẳng hạn anh A mua 2 hợp đồng bảo hiểm sinh mạng cá nhân với số tiền bảo hiểm là 10 triệu đồng và bảo hiểm nằm viện phẫu thuật với số tiền bảo hiểm là 5 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn anh bị thương nặng phải vào viện phẫu thuật sau đó chết. Trong trường hợp này người thừa kế hợp pháp của anh A sẽ nhận được khoản tiền cao nhất bằng 10+5 =15 triệu đồng. c. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và bảo hiểm con người còn có các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm như; bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới, bảo hiểm TN của chủ thuê lao động, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm
  8. trách nhiệm công cộng Theo luật dân sự, trách nhiệm dân sự của một chủ thể (như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp, chủ nghề nghiệp ) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại về tài sản, về con người gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó. Trách nhiệm dân sự bao gồm trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Thông thường các dịch vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm cho các trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên trong loại bảo hiểm này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự cần được bảo hiểm và cũng thường là người tham gia bảo hiểm. Còn người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm lại là những người thứ ba khác. Người thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự là những người có tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm và được quyền nhận bồi thường từ người bảo hiểm với tư cách là người thụ hưởng. Người thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với người được bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với người bảo hiểm. Mặc dù đối tượng bảo hiểm của lọại này là trừu tượng khi hợp đồng được ký kết. Tuy vậy, trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm vẫn căn cứ vào các thiệt hại thực tế xảy ra cho người thứ ba. Vì vậy bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng được coi là bảo hiểm thiệt hại như bảo hiểm tài sản và cũng áp dụng một số nguyên tắc như : nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc thế quyền hợp pháp. 3. Giới thiệu chung về bảo hiểm hoả hoạn Bảo hiểm hoả hoạn cũng như bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào khác, cũng đều ra đời bắt nguồn từ thực tế là con người luôn luôn phải vật lộn với rủi ro. Nhiều loại rủi ro được xuất hiện vẫn tồn tại và chi phối cuộc sống của con người. Hơn nữa, sự phát triển của con người phần nào đã hạn chế kiểm soát được rủi ro này nhưng lại làm tăng mức độ trầm trọng của rủi ro khác hoặc làm phát sinh nhiều loại rủi ro mới. Chính sự đe doạ trực tiếp của rủi ro mà bảo hiểm hoả hoạn ra đời như một tất yếu khách quan.
  9. Vào thời trung đại rồi phục hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có hệ thống phòng cháy nào hữu hiệu hơn hệ thống sử dụng từ thời các hoàng đế La Mã trị vì. Phải đến năm 1666, sau khi chứng kiến đám cháy khủng khiếp ở thủ đô Luân Đôn, người dân Anh mới nhận thức được tầm quan trọng của của việc thiết lập hệ thống phòng cháy-chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt hại một cách hữu hiệu. Đám cháy lớn kéo dài bảy ngày, tám đêm bắt đầu từ chủ nhật 2/9/1666 cho tới ngày 9/9/1666 đã để lại một tổn thất vô cùng to lớn: thiêu hủy hoàn toàn 13.200 ngôi nhà, 87 nhà thờ trong đó có cả trụ sở của Lloyd’s và nhà thờ Saint Paul. Mức độ nghiêm trọng của thảm họa này đã dẫn tới sự ra đời của công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên tại nước Anh. Vào năm 1667 văn phòng bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên được thành lập với tên gọi rất đơn giản “The fire office” với tiền thân là những người lính cứu hỏa Luân Đôn. Năm 1684, Công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên ra đời lấy tên là “Friendly Society Fire Office”, Công ty hoạt động trên nguyên tắc tương hỗ và hệ thống chi phí cố định, người được bảo hiểm phải chịu một phần thiệt hại xảy ra. Sau đó hàng loạt các công ty bảo hiểm hỏa hoạn khác ra đời ở Anh như: Amicable (1696), Sun (1710), Union (1714) và vẫn hoạt động cho đến ngày nay. Sau công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên ở Anh, bảo hiểm hỏa hoạn mở rộng sang các nước khác trên lục địa Châu Âu. Ngay từ năm 1677 tại Hambourg (Đức) đã thành lập quỹ hỏa hoạn đầu tiên của thành phố. Trong khoảng 200 năm ra đời và phát triển, bảo hiểm hỏa hoạn đã đáp ứng được nhu cầu khẩn thiết chống lại sức tàn phá của các vụ hỏa hoạn. Tại Việt Nam, bảo hiểm hỏa hoạn được bắt đầu thực hiện từ cuối những năm 1989. Tuy nhiên, quá trình hoạt động và triển khai hoạt động này chỉ đơn thuần thực hiện các chức năng kinh doanh của nó. Mãi đến năm 1993 sau khi có nghị định 100/CP, nghiệp vụ này mới thực sự phát triển ở nước ta. Mỗi năm nước ta xảy ra hàng nghìn vụ làm chết, bị thương hàng trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Đặc biệt số vụ cháy lớn ngày càng gia tăng, điển hình như: -Cháy chợ Đồng Xuân (14/7/1994) gây thiệt hại gần 140 tỷ đồng. Có 2364 hộ kinh doanh và hàng chục nghìn đại lý, khung chợ bị thiệt hại người
  10. kinh doanh lâm vào hoàn cảnh khó khăn do mất hết hàng hóa, tiền của không còn nơi làm việc. -Vụ cháy xí nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu Sông Bé (1995) thiệt hại gần 18 tỷ đồng. -Vụ cháy xí nghiệp giày An Đình - Hải Phòng (1996) thiệt hại khoảng 1 triệu đô la. -Vụ cháy kho xăng dầu 131 Thủy Nguyên - Hải Phòng ngày 26/6/1997 gây thiệt hại 31 tỷ đồng. -Năm 1997 còn một số vụ cháy lớn như là: Vụ cháy Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình (sản xuất giày Sông Bé) là 6,03 tỷ đồng; vụ cháy tại xí nghiệp dược Trà Vinh gần 2 tỷ đồng. -Những vụ cháy lớn trong năm 2000 có thể kể đến là vụ cháy Công ty may Hải Sơn với thiệt hại là 7,5 tỷ đồng; vụ cháy Công ty Muraya Việt Nam với thiệt hại là 6,25 tỷ đồng; vụ cháy ở Công ty TNHH Thịnh Khang với trị giá 6,2 tỷ đồng. Trước hết, bảo hiểm hỏa hoạn ra đời đáp ứng được nhu cầu cần được bảo vệ của con người trước những rủi ro như cháy có thể gặp trong cuộc sống. Mặt khác, giá trị tài sản của con người ngày càng tăng, vì vậy rủi ro hỏa hoạn có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống và tình trạng tài chính của con người. Cho dù có lạc quan đến đâu thì con người cũng không thể thờ ơ với những rủi ro có thể gây hậu quả nghiêm trọng như hỏa hoạn. Vì vậy bảo hiểm hỏa hoạn là sự đảm bảo tài chính chắc chắn nhất đối với tài sản của con người. Bảo hiểm hỏa hoạn ra đời không những bảo vệ tài sản cho những người tham gia bảo hiểm mà nó còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội được liên tục, không bị gián đoạn. Khi tham gia bảo hiểm, các doanh nghiệp còn được các công ty bảo hiểm tư vấn về các biện pháp phòng tránh tổn thất, tăng cường công tác phòng cháy-chữa cháy và thực hiện chính sách quản lý rủi ro nhằm bảo đảm an toàn cao nhất.
  11. Bên cạnh việc đem lại lợi ích cho các cá nhân và doanh nghiệp, bảo hiểm hỏa hoạn còn góp phần vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế xã hội. Bởi vì thông qua việc hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp an toàn, các công ty bảo hiểm đã góp phần hạn chế những tổn thất, giúp khách hàng có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh như mong muốn. Mặt khác, một phần không nhỏ nguồn phí bảo hiểm thu được từ các nghiệp vụ này được các công ty bảo hiểm đóng góp vào ngân sách Nhà nước để chính phủ sử dụng vào các mục đích xã hội khác. II. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn 1. Một số khái niệm cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm hỏa hoạn Hợp đồng bảo hiểm là một thỏa ước được ký kết bằng văn bản giữa một bên là công ty bảo hiểm và một bên là người được bảo hiểm, trong đó công ty bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp họ phải gánh chịu những tổn thất về tài chính do các sự cố đã được chấp nhận bởi công ty bảo hiểm, gây ra trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng trên cơ sở công ty bảo hiểm đã đồng ý và nhận được một khoản tiền do người được bảo hiểm thanh toán (khoản tiền này gọi là phí bảo hiểm). Cũng như các hợp đồng bảo hiểm khác, hợp đồng bảo hiểm cháy cũng có chung những đặc điểm giống nhau. Song việc ra đời bản quy tắc bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt theo Quyết định số 142/TCQĐ của Bộ Tài Chính trước kia và nay là Đơn tiêu chuẩn về bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệtđã có những sửa đổi, bổ sung nhất định để phù hợp với điều kiện Việt Nam. Theo qui tắc này, một số khái niệm được hiểu như sau: - Cháy : là phản ứng hóa học có tỏa nhiệt và phát ra ánh sáng. - Hỏa hoạn : là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài nguồn lửa chuyên dùng, gây thiệt hại cho tài sản và những người xung quanh. - Thiệt hại : là sự mất mát, hủy hoại hay hư hỏng của những tài sản được bảo hiểm tại địa điểm ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm.
  12. - Tổn thất : là toàn bộ thiệt hại về người và tài sản bị gây ra do các rủi ro được bảo hiểm. - Tổn thất toàn bộ thực tế: là tài sản được bảo hiểm bị phá hủy hoàn toàn hoặc nghiêm trọng đến mức không thể phục hồi lại trạng thái ban đầu. - Tổn thất toàn bộ ước tính: là tài sản được bảo hiểm bị phá hủy hoặc hư hỏng đến mức nếu sửa chữa, phục hồi thì chi phí sửa chữa, phục hồi bằng hoặc lớn hơn số tiền bảo hiểm. - Đơn vị rủi ro: là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với khoảng cách không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác, tuy khoảng cách gần nhất đảm bảo tối thiểu 10m nếu khoảng cách giữa các ngôi nhà hoặc nhà kho ngoài trời bằng vật liệu không cháy và 20m đối với các nhà kho ngoài trời bằng vật liệu dễ cháy. Việc xác định một đơn vị rủi ro một cách chính xác là cơ sở xác định mức định mức độ rủi ro cũng như là cơ sở để xác định mức phí. - Đối tượng bảo hiểm: bao gồm các tài sản là bất động sản, động sản (trừ phương tiện giao thông, vật nuôi cây trồng và tài sản đang trong quá trình xây dựng lắp đặt thuộc loại hình bảo hiểm khác). Cụ thể đối tượng bảo hiểm bao gồm: + Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai). + Máy móc thiết bị phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh. + Sản phẩm vật tư, hàng hóa dự trữ trong kho. + Nguyên vật liệu, sản phẩm làm dở, thành phẩm trên dây chuyền sản xuất. + Các loại tài sản khác - Giá trị bảo hiểm: + Giá trị bảo hiểm nhà cửa vật kiến trúc được xác định trên chi phí nguyên vật liệu và xây lắp tài sản đó trừ khấu hao trong thời gian đã sử dụng.
  13. Có thề dực trên thiết kế và bản dự toán, quyết toán xây dựng ban đầu làm cơ sở hoặc xác định mới cho từng phần nền móng, sàn nhà, tường, mái, trang trí nội thất. + Giá trị bảo hiểm của bất động sản khác: Máy móc thiết bị được xác định trên hái cả thị trường chi phí vận chuyển và lắp đặt của loại máy móc thiết bị cùng chủng loại, công suất, tính năng kỹ thuật, nơi sản xuất hoặc tương đương trừ đi khấu hao đã sử dụng. + Giá trị bảo hiểm của vật tư hàng hóa đồ dùng trong kho, trong dây chuyền sản xuất, trong cửa hàng, văn phòng, nhà ở được xác định bằng giá trị bình quân của các loại hàng hóa có mặt trong thời gian bảo hiểm. Các xác định bằng ước tính giá trị số dư bình quân hoặc số dư cao nhất và điều chỉnh theo số dư thực tế của từng tháng hoặc từng qua trong thời gian bảo hiểm. Nếu vật tư hàng mua, mua về để kinh doanh được bồi thường thêm lãi kinh doanh. Lãi kinh doanh được xác định bằng tỷ lệ lãi bình quân của người được bảo hiểm thu được đối với vật tư hàng hóa trước khi xảy ra tổn thất. - Số tiền bảo hiểm; là số tiền người tham gia bảo hiểm đăng ký với người bảo hiểm trên cơ sở giá trị bảo hiểm, là giới hạn bồi thường tối đa khi tài sản được bảo hiểm tổn thất toàn bộ. Số tiền bảo hiểm do người được bảo hiểm yêu cầu nhưng phải được sự chấp nhận của người bảo hiểm, nó có thể bằng, thấp hơn hoặc cao hơn giá trị bảo hiểm. - Phí bảo hiểm: là khoản tiền mà người tham gia nộp cho công ty bảo hiểm để bảo hiểm cho những rủi ro mà họ tham gia. Phí bảo hiểm chính là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Do vậy, việc tính toán mức phí vừa phù hợp với yêu cầu của khách hàng, vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh có lãi không phải là đơn giản. Trước khi đưa ra mức phí, công ty bảo hiểm cần cân nhắc kỹ vì đây là một trong những yếu tố cơ bản để cạnh tranh. Phí bảo hiểm được tính theo tỷ lệ phí bảo hiểm. Tỷ lệ phí tính riêng cho từng loại rủi ro. Đối với rủi ro hỏa hoạn việc định phí dựa trên các yếu tố sau: + Ngành nghề kinh doanh chính của người được bảo hiểm khi sử dụng những tài sản được bảo hiểm vào kinh doanh. + Vị trí địa lý của tài sản.
  14. + Độ bền vững của nhà xưởng vật kiến trúc. + Yếu tố sử dụng điện trong khu vực có tài sản được bảo hiểm. + Tính chất của hàng hóa vật tư và cách sắp xếp bảo quản hàng hóa trong kho. +Trang thiết bị và đôi ngũ tuần tra phòng chống cháy của người được bảo hiểm. - Thời hạn bảo hiểm: tùy theo yêu cầu của người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm trong một năm hoặc bảo hiểm ngắn hạn. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể đóng phí tiếp và yêu cầu tái tục bảo hiểm. Hiệu lực bảo hiểm được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. - Giám định và bồi thường tổn thất: khi rủi ro tổn thất xảy ra người được bảo hiểm phải gửi thông báo tổn thất và yêu cầu bồi thường cho người bảo hiểm trong đó có bản kê chi tiết ước tính giá trị tài sản bị tổn thất, làm cơ sở cho công việc giám định. Người bảo hiểm có thể yêu cầu người được bảo hiểm cho xem dấu vết của tài sản bị tổn thất bằng ảnh chụp hoặc tại hiện trường cũng như chứng minh tài sản đó thuộc quyền sở hữu của mình đang sử dụng cho đến trước khi xảy ra rủi ro tai nạn. + Đối với nhà cửa: cơ sở tính giá trị thiệt hại là chi phí sửa chữa. + Đối với máy móc thiết bị và tài sản khác; nếu tổn thất có thể sửa chữa được thì cơ sở tính là chi phí sửa chữa. Nếu không sửa chữa hoặc sửa chữa không kinh tế thì cơ sở tính là chi phí mua mới trừ đi giá trị khấu ha nếu bảo hiểm theo giá trị còn lại. + Đối với thành phẩm: Cơ sở tính là giá thành sản xuất bao gồm chi phí nguyên vật liệu, tiền công lao động, khấu hao tài sản cố định, chi phí quản lý, (nếu giá thành sản xuất cao hơn giá bán thì tính theo giá bán). + Đối với thành phẩm: Cơ sở tính là chi phí sản xuất tính đến thời điểm xảy ra tổn thất.
  15. + Đối với hàng hóa dự trữ trong kho và hàng hóa ở các cửa hàng: Cơ sở tính là giá mua(theo hóa đơn mua hàng). Căn cứ vào thiệt hại, số tiền bồi thường được xác định có tính đến việc áp dụng các loại quy tức bồi thường (quy tắc tỷ lệ đối với trường hợp bảo hiểm dưới giá trị và mức miễn thường) Nhìn chung số tiền bảo hiểm ghi trong đơn bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm cho cả thời hạn bảo hiểm. Sau mỗi lần bồi thường giới hạn trách nhiệm đó sẽ giảm đi một khoản bằng số tiền bồi thường đã trả (trừ khi người bảo hiểm đã đồng ý khôi phục lại số tiền bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã nộp thêm phí bổ sung tương ứng). 2. Rủi ro được bảo hiểm. Bảo hiểm hỏa hoạn là sự bảo trợ cho những tổn thất trực tiếp do hỏa hoạn gây ra, Còn rủi ro là những sự cố không chắc chắn xảy ra nhưng có thể gây hư hỏng, thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm. Trong bảo hiểm cháy, rủi ro được bảo hiểm bao gồm: a. Rủi ro cơ bản: bao gồm những rủi ro sẽ được bảo hiểm. - Hỏa hoạn (do cháy nổ hay bất kỳ nguyên nhân nào khác) nhưng loại trừ: + Động đất, núi lửa phun hoặc các biến động khác của thiên nhiên. + Thiệt hại gây ra do tài sản tự lên men hoặc tự tỏa nhiệt hoặc chịu tác động của một quá trình sử lý nhiệt. +Bất kỳ thiệt hại nào gây nên bởi hoặc do hậu quả của việc đốt rừng, bụi cây, đồng cỏ, hoang mạc, rừng nhiệt đới hoặc đốt cháy rừng với mục đích làm sạch ruộng đồng, đất đai dù ngẫu nhiên hay không. - Sét đánh: Chỉ bồi thường cho những thiệt hại xảy ra do sét đánh trực tiếp lên đối tượng bảo hiểm (làm biến dạng hoặc gây hỏa hoạn cho tài sản đó).
  16. - Nổ: Nồi hơi hoặc hơi đốt sử dụng với mục đích duy nhất là phục vụ sinh hoạt nhưng loại trừ những thiệt hại gây ra do động đất, núi lửa phun hoặc các biến động khác của thiên nhiên. b. Rủi ro phụ: Là những rủi ro từ bên ngoài, độc lập không nằm trong rủi ro cháy nhưng có thể được lựa chọn để bảo hiểm cùng với bảo hiểm cháy. - Máy bay, các phương tiện hàng không khác hoặc các thiết bị trên các phương tiện đó rơi vào tài sản được bảo hiểm gây thiệt hại. - Gây rối, đình công, bãi công, sa thải. - Động đất, núi lửa phun bao gồm cả lụt và nước biển tràn vào do hậu quả của động đất và núi lửa phun. - Giông bão, lũ lụt, mưa đá. - Vỡ hay tràn nước từ các từ các bể chứa nước, thiết bị chứa nước hoặc đuờng ống dẫn nước. - Hành động ác ý nhưng loại trừ những thiệt hại do trộm cắp hay cố gắng thực hiện hành động trộm cắp. 3. Rủi ro không được bảo hiểm Trong bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào, bên cạnh các rủi ro được bảo hiểm đều có các điểm loại trừ. Mặc dù người bảo hiểm cố gắng đáp ứng yêu cầu của khách hàng bằng việc mở rộng những rủi ro được bảo hiểm nhưng không phải tất cả các rủi ro có thể lựa chọn đều được người bảo hiểm chấp nhận. Tuy nhiên vẫn có một số điểm loại trừ có thể thương lượng được, người bảo hiểm tùy theo mức độ rủi ro mà thay đổi mức phí. Song những điểm loại trừ nêu dưới đây được áp dụng cho mọi rủi ro: + Những thiệt hại do gây rối, quần chúng nổi dậy, bãi công, sa thải công nhân, chiến tranh, xâm lược, hành động thù địch, hành động khiêu khích quân sự hoặc hiếu chiến của nước ngoài (dù có tuyên chiến hay không), nội chiến, cách mạng, đảo chính, lực lượng quân sự tiếm quyền, phong tỏa, giới nghiêm.
  17. + Những thiệt hại xảy ra đối với bất kỳ tài sản nào hoặc bất kỳ tổn thất hay chi phí có liên quan trực tiếp hay gián tiếp mà nguyên nhân gây ra có liên quan đến phóng xạ i-on hóa, nhiễm phóng xạ từ nguyên, nhiên liệu hạt nhân hoặc từ chất thải của nó; các thuộc tính phóng xạ độc, nổ hoặc các thuộc tính nguy hểm khác của thiết bị nổ hạt nhân hay các bộ phận của thiết bị đó. + Những tổn thất do hành động cố ý hoặc đồng lõa của người được bảo hiểm gây ra. + Những thiệt hại về hàng hóa nhận ủy thác hay ký gửi, tiền bạc, kim loại quý, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tem phiếu, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh doanh, hệ thống dữ liệu máy tính, hàng mẫu, bản vẽ hay tài liệu thiết kế (trừ khi những hạng mục này được xác định cụ thể là chúng được bảo hiểm theo Đơn bảo hiểm này). + Thiệt hại xảy ra đối với những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm hay lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải, trừ phần thiệt hại vượt quá số tiền được bồi thường hay lẽ ra được bồi thường theo đơn bảo hiểm hạng hải do có đơn bảo hiểm này. + Những thiệt hại đối với bất kỳ máy móc, khí cụ điện nào hay bất kỳ bộ phận nào của thiết bị điện chịu tác động trực tiếp do chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, dò điện hay bất kỳ nguyên nhân nào (kể cả sét). + Những thiệt hại gây ra do sự ô nhiễm, nhiễm bẩn ngoại trừ những thiệt hại đối với tài sản xảy ra do: - Ô nhiễm, nhiễm bẩn phát sinh từ những rủi ro được bảo hiểm. - Bất kỳ rủi ro được bảo hiểm nào mà chính những rủi ro ấy lại phát sinh từ ô nhiễm hay nhiễm bẩn. + Những thiệt hại mang tính hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào, trừ thiệt hại về tiền thuê nhà được xác nhận là được bảo hiểm trong giấy chứng nhận bảo hiểm. + Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba như đối tượng bảo hiểm bị cháy lan sang các tài sản khác không thuộc sở hữu của người được bảo hiểm.
  18. + Những thiệt hại trong phạm vi mức miễn bồi thường. Trên đây là những khái niệm cơ bản về bảo hiểm hỏa hoạn có thể giúp người đọc có một sự hiểu biết tổng quan về bảo hiểm hỏa hoạn. Những khái niệm cơ bản này còn là cơ sở để ta tiếp tục nghiên cứu tiếp trong các chương sau về tình hình thực tế của hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ này tại Công ty bảo hiểm Hà Nội.
  19. Chương ii Tình hình hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại Bảo Việt Hà Nội I. giới thiệu chung về công ty bảo việt hà nội 1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức của công ty Công ty bảo hiểm Hà Nội (gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội) được thành lập từ năm 1980 theo quyết định số 1125/ QĐ- TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ tài chính và trực thuộc Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, với nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Là một thành viên trong một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, Bảo Việt Hà Nội (BVHN ) có chức năng thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp, tham gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh và mọi thành viên khác trong địa bàn Hà Nội, nhằm bồi thường cho những người tham gia bảo hiểm không may gặp thiên tai, tai nạn bất ngờ gây thiệt hại, giúp các cá nhân, tổ chức đó nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống. Đến nay, BVHN đã không ngừng lớn mạnh và đã trở thành một trong bốn thành viên lớn mạnh nhất trong hệ thống 61 công ty bảo hiểm trực thuộc Bảo Việt. Trong 21 năm liên tục, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cán bộ công ty cũng luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty và Nhà nước giao cho. Năm nào cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh số và tỷ lệ tích luỹ, đóng góp không nhỏ vào thành tích chung của Tổng công ty và của ngành bảo hiểm nói chung. Hiện nay, BVHN đã thành lập các văn phòng trực thuộc tại tất cả các quận huyện trên địa bàn thành phố để kinh doanh khai thác các dịch vụ bảo hiểm. Hoạt động của các phòng bảo hiểm này không những giúp Công ty triển khai bảo hiểm trên phạm vi toàn thành phố mà còn hình thành một mạng lưới đảm bảo an toàn tài chính cho các thành viên tham gia bảo hiểm.
  20. Để phục vụ nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các tổ chức kinh tế, các nhà đầu tư cũng như mọi thành phần kinh tế khác, BVHN đã và đang tiến hành triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm sau: - Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và vận chuyển nội địa - Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu - Bảo hiểm cháy và rủi ro kỹ thuật - Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt - Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp - Bảo hiểm nhà tư nhân - Bảo hiểm thiết bị điện tử - Bảo hiểm vận chuyển tiền - Bảo hiểm trộm cướp - Bảo hiểm trách nhiệm công cộng, trách nhiệm sản phẩm - Bảo hiểm trách nhiệm của chủ lao động đối với người lao động - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và Bảo hiểm thân xe - Bảo hiểm nông nghiệp - Bảo hiểm tai nạn hành khách đi lại trên các phương tiện vận tải - Bảo hiểm con người - Bảo hiểm du lịch - Bảo hiểm học sinh Một số loại hình bảo hiểm khác Nhằm đảm bảo khả năng bồi thường cho khách hàng và năng lực nhận bảo hiểm cho các dự án đầu tư lớn, hiện nay BVHN thông qua Bảo Việt đã quan hệ với nhiều công ty tái bảo hiểm , các công ty giám định, điều tra tổn thất có uy tín trên toàn thế giới như Lloyd's, Commercial Union (UK), AIG, CIGNA (US), Tokyo Marine Trong những năm vừa qua, BVHN đã nhận được sự cộng tác giúp đỡ tận tình của các công ty này trong việc đánh giá, chấp nhận rủi ro, thanh tra và xử lý, khiếu nại Trong những năm gần đây, việc thị trường trong nước xuất hiện thêm nhiều công ty bảo hiểm bao gồm cả Nhà nước, cổ phần, liên doanh, 100% vốn nước ngoài và các văn phòng đại diện của nước ngoài tại Việt Nam buộc
  21. BVHN phải không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ của mình thì mới đảm bảo khả năng đứng vững trong cạnh tranh. Một trong những biện pháp quan trọng đó là thay đổi cơ cấu tổ chức văn phòng công ty. Theo cơ cấu tổ chức mới, song song với nhiệm vụ khách hàng, văn phòng công ty có chức năng quản lý và giám sát hoạt động của các văn phòng địa phương trực thuộc. Bởi vậy, ngoài các phòng ban phụ trách các vấn đề tổ chức nhân sự, kế toán những phòng nghiệp vụ ngoài nhiệm vụ trực tiếp tiến hành kinh doanh các nghiệp vụ trên địa bàn mà công ty phân cấp còn có chức năng giúp đỡ các văn phòng tại các quận, huyện trong việc quan hệ với khách hàng, cân nhắc chấp nhận bảo hiểm, phát hành hợp đồng và quy tắc bảo hiểm cũng như các hoạt động xử lý, giám định và khiếu nại bồi thường. Cơ cấu tổ chức mới của Bảo Việt Hà Nội được biểu hiện qua sơ đồ sau: Giám đốc Phó Phó Giám đốc Giám đốc BH BH Phòng Phòng BH BH BH Giám Phi hàng kiểm tổng kỹ cháy quốc định hàng hải tra nội hợp thuật & rủi phòng bồi hải bộ ro kỹ thường thuật Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng BH BH BH BH BH BH BH Hoàn Ba Đống Hai Thanh Gia Đông Kiếm Đình Đa Bà Xuân Lâm Anh
  22. 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của BVHN trong những năm gần đây ( 1997 - 2001) Địa bàn Hà Nội là nơi có mặt tất cả các công ty bảo hiểm đã được Nhà nước cấp giấy phép hoạt động, là nơi tập chung tất cả các chính sách canh tranh của các công ty bảo hiểm khác. Trong hoàn cảnh đó, BVHN cũng phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt với các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước, mỗi công ty đều có những thủ thuật, chính sách riêng như dùng áp lực hành chính, giảm phí, tăng hoa hồng, mở rộng phạm vi bảo hiểm một cách tuỳ tiện để giành giật khách hàng. Trước điều kiện khó khăn như vậy, công ty đã tổ chức phục vụ tốt khách hàng để giữ vững địa bàn và phát triển kinh doanh, đồng thời áp dụng linh hoạt chính sách của Nhà nước, các quy định của Tổng công ty vào hoạt động kinh doanh. Cùng với sự chỉ đạo hướng dẫn và hỗ trợ tích cực, kịp thời của các phòng ban trên Tổng công ty, sự ủng hộ và giúp đỡ có hiệu quả của các cấp chính quyền, đoàn thể và các cơ quan chức năng của Hà Nội, đặc biệt là sự tín nhiệm và mến mộ của khách hàng nên công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ biểu hiện qua bảng sau: Kết quả doanh thu theo nghiệp vụ của công ty BVHN giai đoạn ( 1997 - 2000 ) Đơn vị : Triệu đồng Nghiệp vụ bảo hiểm 1998 1999 2000 2001 Hàng xuất khẩu 946 173 2181 Hàng nhập khẩu 2129 983 1352 Hàng hoá vận chuyển nội địa 270 954 2043 1100 Thân tàu biển 69 128 662 272 TNDS của chủ tàu biển 48 260 146 507 Thân tàu sông 348 454 226 480 TNDS của chủ tàu sông 57 96 97 84 TNDS của chủ sân bay 820 859 874 288 TNDS ô tô 8450 10883 7850 8285
  23. TNDS xe máy 1800 1935 1458 2488 Vật chất xe ô tô 17000 17606 14058 14631 Vật chất xe máy 120 11 43 12 TN của chủ phương tiện đối với 600 354 216 134 hàng hoá TN của chủ phương tiện đối với 400 610 46 71 hành khách Tai nạn hành khách 1400 631 661 3030 Bảo hiểm du lịch 550 588 762 706 Toàn diện học sinh 8600 9201 8081 8371 Tai nạn con người 24/24 1400 1581 1555 2081 Hỗn hợp con người 8363 8931 9002 9008 Sinh mạng cá nhân 120 120 193 120 Đình sản 8 20 21 22 Hoả hoạn 7.183 8.191 11.643 7.908 Xây dựng lắp đặt 6300 5891 3892 4469 Trộm cắp 96 68 66 Đổ vỡ máy móc 189 194 130 Thiết bị điện tử 291 274 350 Máy móc xây dựng 38 46 52 Tài sản 338 308 400 Lòng trung thành 114 65 39 Gián đoan kinh doanh 400 505 309 240 Workmen 3400 3909 1480 898 TN đối với thiệt hại người và TS 1500 1753 2173 963 Bảo hiểm tiền 250 337 250 63 Trợ cấp nằm viện và phẫu thuật 10 62 59 125 Tổng cộng 79 918 83 132 74133 75 800
  24. Nguồn : Báo cáo tổng kết các năm ( 1997- 2000 ) của công ty BVHN Trong 5 năm qua, Công ty Bảo hiểm Hà Nội luôn cố gắng để hoàn thành mức kế hoạch Tổng công ty giao, những con số đó thể hiện sự nỗ lực hết mình của tập thể cán bộ nhân viên công ty trong điều kiện kinh doanh cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Tại Công ty bảo hiểm Hà Nội, nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn là một nghiệp vụ mạnh của công ty, đóng góp một phần không nhỏ vào tổng doanh thu phí bảo hiểm của công ty. Bảng 1: Cơ cấu doanh thu bảo hiểm hỏa hoạn tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn ( 1997 - 2001 ) Năm doanh thu bảo Doanh thu toàn Tỷ lệ doanh thu bảo hiểm hiểm hoả hoạn công ty hoả hoạn/toàn công ty 1997 6.098 66.427 9,18 1998 7.183 79.068 9.08 1999 8.191 87.653 9.34 2000 11.643 74.887 15.54 2001 7.908 75.800 10.43 Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp- Công ty BVHN Tỷ lệ doanh thu bảo hiểm cháy so với doanh thu toàn công ty ngày càng tăng. Từ chỗ chỉ chiếm 9.18% năm 1997 thì đến năm 2000 là 15.54% và năm 2001 là 10,43% doanh thu toàn công ty. Năm 1998, tỷ lệ này giảm đi một chút so với năm 1997 nguyên nhân là do ngành Ngân hàng xiết chặt thêm việ cho vay vốn sau những vụ đổ bể của một số doanh nghiệp lớn, làm cho nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh gặp khó khăn về tài chính. Điều đó tác động tiêu cực đến sự phát triển của bảo hiểm. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là do sự cạnh tranh ác liệt của một số doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước với việc một số công ty bảo hiểm sử dụng biện pháp không lành mạnh như gây áp lực hành chính, tăng hoa hồng, giảm phí một cách tùy tiện. Đến năm 2000 tỷ lệ này tăng lên đến 15, 54%, sở dĩ như vậy là do doanh thu của các nghiệp vụ khác giảm hoặc tăng không lớn như: Bảo hiểm trách nhiệm
  25. dân sự chủ xe cơ giới, Bảo hiểm toàn diện học sinh, Bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu trong khi bảo hiểm hỏa hoạn tăng mạnh. Năm 2001, tỷ lệ này giảm xuống còn 10,43%, nguyên nhân là do một số nghiệp vụ có số thu tăng lớn là: Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, Bảo hiểm tai nạn hành khách, Bảo hiểm tai nạn con người 24/24, Bảo hiểm thân tàu biển, Bảo hiểm thân tàu sông. Như vậy, có thể nói bảo hiểm hỏa hoạn là một nghiệp vụ quan trọng đem lại nguồn thu không nhỏ cho Bảo Việt Hà Nội. II.Triển vọng phát triển nghiệp vụ 1. Tình hình thị trường bảo hiểm Việt nam và thị trường bảo hiểm hỏa hoạn. Trước năm 1995, thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ duy nhất có Bảo Việt hoạt động. Với đường lối mở của của nhà nước, trong cơ chế thị trường thì việc nhà nước độc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm là điều khó có thể chấp nhận được. Chính vì thế, ngày 18/12/1993, nghị định 100/CP của Chính phủ ra đời cho phép các doanh nghiệp trong và ngoài nước được thành lập các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, mở chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam. Trước năm 2000, ngoài Bảo Việt ra thị trường bảo hiểm Việt Nam còn một loạt các công ty bảo hiểm khác như: - Bảo Minh (Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh) - PJICO (Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex). - Bảo Long (Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng). - Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINA RE). - Công ty môi giới bảo hiểm Inchinbrrock. - Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam(VIA). - Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC). - Công ty bảo hiểm liên hiệp (UIC). - Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI) - Các công ty và chi nhánh công ty bảo hiểm của Pháp, Nhật, Mỹ, Đức, Thụy Sĩ Theo thống kê từ ngành bảo hiểm, trên thị trường bảo hiểm hỏa hoạn, hiện nay bảo Việt đang chiếm thị phần lớn nhất với 38,37%; kế đó là Bảo
  26. Minh với 21,29%; Allianz-AGF chiếm 12,6% đứng thứ ba. Với tổng thu phí là 16,2 triệu USD bảo hiểm cháy trong năm 2000, đã có đến 10 doanh nghiệp cùng chia sẻ. Sau giai đoạn “chững lại” vào năm 1999, bước sang năm 2000, doanh thu phí bảo hiểm cháy đã có sự phục hồi, tiếp tục tăng trưởng. Theo các nguồn số liệu thu thập được ở thị trường, doanh thu phí bảo hiểm đạt được đã vượt kế hoạch dự kiến của các doanh nghiệp khoảng 1,7% và tăng hơn 2,35 triệu USD tương đương 16% so với năm 1999 như đánh giá dự kiến ban đầu. Những vụ cháy trong năm 2000 và đầu năm nay liên quan đến trách nhiệm của bảo hiểm thường ở các đơn vị rủi ro tới mức độ nhỏ và vừa. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng nên tiếp tục giảm phí bảo hiểm hỏa hoạn mặc dù hiện nay phí bảo hiểm của nghiệp vụ này đang giảm mạnh, thì sẽ giúp thu hút nhiều khách hàng hơn. Song trên thực tế, việc này không đơn giản vì thị trường ở Việt Nam mới được mở cửa, nhiều doanh nghiệp còn non trẻ so với các doan nghiệp ở thị phần bảo hiểm thế giới. Và các kỹ thuật cũng như nghiệp vụ còn hạn chế, việc tính toán và thiết lập các quỹ dự phòng cũng còn ở mức độ thấp. Trong khi các phương tiện và công tác phòng cháy-chữa cháy, hạn chế và khắc phục sự cố tái bảo hiểm tuy được quan tâm đặc biệt, song các nếu sự cố xảy ra ở các công trình cao ốc văn phòng, khách sạn liên quan đến bảo hiểm thì Việt Nam vẫn chưa có kinh nghiệm thực tiễn và cách thức tổ chức ứng cứu kịp thời. Và chính những điểm này ít nhiều đã làm cho phí bảo hiểm còn có vẻ cao hơn so với một số nước có trình độ về bảo hiểm cũng như phòng cháy-chữa cháy cao. Tuy vậy, các nhà bảo hiểm Việt Nam vẫn cho rằng họ phải nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng cao nhất, đông thời giảm phí bảo hiểm cũng như phải cải thiện hiệu quả kinh doanh vốn. 2. Những yếu tố tác động đến việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại Bảo Việt Hà Nội. a. Thuận lợi. Xu thế toàn cầu hóa đã tạo thêm điều kiện cho nhiều tập đoàn tài chính, các công ty đa quốc gia khổng lồ trên thế giới xâm nhập vào thị trường Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng khiến cho bộ mặt kinh tế thủ đô cso
  27. những biến chuyển rõ rệt. Cũng do tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh, Hà Nội đã, đang và sẽ xây dựng nhiều trụ sở thương mại, các khu biệt thự, khách sạn, siêu thị và các khu chợ lớn. Bên cạnh đó là tình hình giá cả ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức 2 con số, đời sống của đại đa số nhân dân thủ đô được cải thiện cả về mặt vật chất và tinh thần. Vì vậy đây là môi trường thuận lợi cho ngành bảo hiểm phát triển. Một thuận lợi nữa cho các công ty bảo hiểm khi tiến hành triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm là việc quản lý Nhà nước về hoạt động bảo hiểm có nhiều chuyển biến mạnh me trong thời gian qua. Thị trường bảo hiểm Việt Nam đần đi vào nền nếp và có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, những hiện tượng kinh doanh trái pháp luật dần đần đã bị loại trừ. Năm 1999, Cính phủ đã cho phép thành lập hiệp hội bảo hiểm Việt Nam theo Quyết định số 23/QĐ-BTCCBCP, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam với vai trò của mình sẽ góp phần làm lành mạnh hóa thị trường bảo hiểm. Đặc biệt là hiện nay, luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/4/2001- đây là văn bản pháp lý quan trọng nhất của thị trường bảo hiểm Việt Nam. b. Khó khăn. Bên cạnh những thuận lợi trên là những tồn tại và vướng mắc. Khó khăn lớn là nhiều doanh nghiệp và đại bộ phận dân cư Việt Nam còn hạn chế về khả năng tài chính để mua các loại hình bảo hiểm thiết yếu khác nhau. Chỉ riêng khu vực Đông Nam á, tính bình quân mỗi người dân Việt Nam mới bỏ ra 1,5 USD để mua bảo hiểm thì ở Thái Lan con số đó là 50 USD, ở Malaisia là 100 USD. Bên cạnh đó, việc các công ty bảo hiểm nước ngoài và liên doanh với nước ngoài được Nhà nước cho phép mở rộng lĩnh vực kinh doanh, có hoạt đọng thâm nhập thị trường mạnh mẽ làm cho thị trường bảo hiểm vốn đã có sự cạnh tranh mạnh nẽ giữa các công ty trong nước nay càng thêm khốc liệt. Do đó, sang năm 2001 hoạt động của công ty bảo hiểm Hà Nội càng gặp nhiều khó khă hơn do cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm cao hơn những năm trước, đặc biệt trên thị trường Hà Nội-nơi tập trung các chính sách cạnh tranh mạnh nhất của tất cả các công ty bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường và là nơi có có nhiều văn phòng đại diện của các công ty trong và ngoài nước.
  28. Những năm qua, với sự mở cửa của nhà nước, các doanh nghiệp, các ngàng đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ngày càng nhiều. Nhưng theo điều 9 chương 2 luật đàu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định rằng: “Tài sản của một xí nghiệp liên doanh được bảo hiểm tại công ty bảo hiểm hoặc tại các công ty bảo hiểm khác do hai bên thỏa thuận”, chon nên nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia bảo hiểm tài sản của họ tại các công ty bảo hiểm nước ngoài mà họ tín nhiệm chứ không phải các công ty bảo hiểm Việt Nam. Trình độ của cán bộ bảo hiểm ở nước ta còn thấp. Đây cũng là một vấn đề không thể xem nhẹ, nhất là đối với những nghiệp vụ còn khá mới ở nước ta như bảo hiểm hỏa hoạn. III. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại Công ty bảo hiểm Hà Nội từ 1997-2001. 1. Tình hình khai thác. Khai thác là công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào. Mục tiêu của công tác này là tác động được số đông người tham gia mà thực chất là tuyên truyền, vận động đối tượng và thuyết phục họ mua bảo hiểm. Trong khi các doanh nghiệp còn chưa thực sự quan tâm tới những rủi ro không lường trước được đối với tài sản của mình thì việc thuyết phục họ tham gia bảo hiểm sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn. Như vậy, việc làm tốt công tác khai thác càng có ý nghĩa hơn khi triển khai nghiệp vụ. Hàng năm Bảo Việt Hà Nội kết hợp với các cơ quan, ban ngành như: cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các bộ, ngành để tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm hỏa hoạn. Qua đó để thuyết phục khách hàng mua bảo hiểm. Do nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn là một nghiệp vụ có hiệu quả cao nên rất được chú trọng phát triển. Sau đây là kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại công ty từ năm 1997-2001 Bảng 2: tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn
  29. Số tiền bảo Doanh Năm Số đơn BH cấp Doanh thu Phí hiểm Thu/Đơn 1997 211 2.612.705 6.098 28,9 1998 282 2.804.773 7.183 25,47 1999 332 3.202.146 8.191 24,67 2000 380 5.821.500 11.643 30,64 2001 375 5.272.300 7.908 21,09 Nguồn số liệu: Công ty bảo hiểm Hà Nội Bảng 2 đã chỉ rõ việc khai thác từ năm 1997-2001 đều tăng đều đặn theo từng năm. Nhưng đến năm 2001 số doanh thu không những không tăng mà còn giảm so với năm 2000 Năm 1997, Bảo Việt Hà Nội mới chỉ nhận bảo hiểm cho 211 đơn vị thì đến năm 2000, số đơn vị được bảo hiểm đã lên tới 380 đơn vị. Bên cạnh đó số tiền bảo hiểm cũng tăng theo, từ 2.612.705 triệu đồng năm 1997 đến năm 2001 là 5.272.300 triệu đồng. Nguyên nhân của hiện tượng này là vì nên kinh tế Việt Nam trong những năm qua đang trên đà phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng GDP rất cao như năm 1997 đạt 9,34%; năm 1998 đạt 8,15%; năm 1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực nên tốc đọ tăng trưởng chỉ còn 5,83% và trong năm 1999, liên tiếp trong vòng một tháng (từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 12 năm 1999) hai lần thiên nhiên trút tai họa xuống mảnh đất và con người miền Trung gây thiệt hại nặng nề lên tới 4.000 tỷ đồng, tuy vậy tốc độ tăng trưởng GDP vẫn đạt 4,8%. một nguyên nhân nữa là do sự hiểu biết của các doanh nghiệp về sự cần thiết của bảo hiểm hỏa hoạn tăng, khách hàng tin tưởng và mua bảo hiểm ở công ty nên số tiền bảo hiểm tăng là hợp lý. Tuy nhiên, đến năm 2001, mặc dầu nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng trở lại, GDP đạt 6,75% nhưng số đơn mà công ty bảo hiểm Hà Nội cấp ra lại giảm xuống năm đơn và doanh thu phí thì giảm mạnh xuống còn 67,92% so với năm 2001. Sở dĩ số đơn bảo hiểm giảm không nhiều nhưng doanh thu giảm nhiều là do tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm hỏa hoạn là rất
  30. khốc liệt. Do nhiều doanh nghiệp đã áp dụng chính sách giảm phí tối đa, điều này dẫn đến việc Bảo Việt Hà Nội cũng phải giảm phí để giữ khách hàng nên tình hình doanh thu năm 2001 mới có kết quả như vậy. Hơn nữa, năm 2001 nhiều doanh nghiệp bảo hiểm được Nhà nước mở rộng lĩnh vực kinh doanh, đã cạnh tranh mạnh mẽ với công ty nên số đơn bảo hiểm cấp ra không tăng mà còn giảm so với năm 2000, doanh thu trung bình trên một đơn cũng giảm mạnh từ con số 30,64 triệu xuống còn 21,09 triệu. Sở dĩ, Bảo Việt Hà Nội đạt được kết quả như vậy là do những nguyên nhân chủ yếu sau: + Về khách quan: Công ty nhận được sự chỉ đạo, quan tâm của ban lãnh đạo Tổng công ty, sự hướng dẫn mạnh mẽ và có hiệu quả của các phòng ban trên Tổng công ty cùng với sự ủng hộ và giúp đỡ tận tình của các ngành, các cấp như và đặc biệt là sự ưu ái mến mộ của khách hàng bảo hiểm truyền thống nên mặc dù chịu sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ như Bảo Minh, PHICO, Bảo Long nhưng số đơn bảo hiểm cấp của nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn vẫn tăng khá ổn định. + Về chủ quan: Đối với việc xác định phương châm hoạt động kinh doanh”khách hàng là thượng đế”, Bảo Việt Hà Nội đã từng bước năng động trong việc thực hiện những biện pháp, đối sách linh hoạt, thích hợp dể xúc tiến đẩy mạnh qaun hệ với khách hàng thông qua việc thường xuyên trao đổi, thăm hỏi. Bên cạnh những thành quả đã đạt được vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục đó là: - Việc sử dụng hệ thống đại lý, cộng tác viên chưa được xây dựng thành chiến lược trong hoạt động khai thác. - Chưa tổ chức được công tác khai thác tận thu và chưa mở được nhiều khách hàng mới.
  31. - Chưa chú ý tình hình tổng hợp thị trường, tổng hợp và phân tích biện pháp của đối thủ cạnh tranh để chủ động đề xuất với lãnh đạo công ty có phương sách đối phó. Việc đôn đốc nợ phí chưa được sát sao. - Chưa áp dụng đầy đủ các khâu của quá trình Marketing, chỉ chú trọng tuyên truyền quảng cáo, thiếu tìm hiểu dự đoán thị trường và các biến động của môi trường xung quanh (môi trường king doanh). - Cuối cùng, do đây là nghiệp vụ mới, cán bộ làm công tác bảo hiểm hỏa hoạn chưa nhiều, chưa có kinh nghiệm nên chưa chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng. Như vậy có thể thấy rằng tuỳ còn có những điều phải khắc phục nhưng đến nay có thể nói Bảo Việt Hà Nội đã tìm được đúng con đường cho mình và đã thu được những kết quả đáng khích lệ. 2. Tình hình đề phòng hạn chế tổn thất: Đề phòng hạn chế tổn thất là những việc mà công ty phối hợp với khách hàng và các đối tác khác nhằm ngăn chặn, đề phòng hỏa hoạn xảy ra hoặc trường hợp xảy ra hỏa hoạn thì có thể hạn chế tổn thất ở mức độ thấp nhất nếu có thể. Đề phòng và hạn chế tổn thất là một trong những biện pháp hàng đầu, quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của các công ty bảo hiểm. Nếu việc đề phòng và hạn chế tổn thất được thực hiện tốt thì rủi ro hoả hoạn sẽ giảm đi, không xảy ra tổn thất, công ty sẽ không phải bồi thường, vì vậy sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh rất lớn cho công ty. Hơn nữa, Hà Nội là nơi tập trung đông dân cư, mật độ nhà cửa cao, nếu chẳng may có hoả hoạn xảy ra thì đám cháy sẽ lây lan, ảnh hưởng đến những khu vực xung quanh. Vì vậy, việc đề phòng hoả hoạn là rất cần thiết. Mục đích của bảo hiểm hỏa hoạn không chỉ là bồi thường, ổn định tài chính cho những người tham gia bảo hiểm mà còn nhằm hạn chế các vụ hỏa hoạn cũng như hậu quả của chúng. Để công tác đề phòng và hạn chế tổn thất đem lại hiệu quả, Công ty bảo hiểm Hà Nội đã phối hợp với người tham gia
  32. bảo hiểm và cảnh sát PCCC để cùng nhau tiến hành các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Hỏa hoạn có thể do nhiều nguyên nhân gây ra như: sét đánh, nổ của hóa chất hoặc máy móc do làm việc quá tải, sơ suất của con người. Do đó, việc đề phòng hỏa hoạn là biện pháp rất quan trọng để bảo vệ tài sản. Mục tiêu của của công tác phòng cháy chữa cháy là đề phòng hỏa hoạn phát sinh và không cho đám cháy lan rộng. Cùng với cảnh sát PCCC, công ty bảo hiểm Hà Nội đã hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy khu vực dễ xảy ra rủi ro, đè nghị họ có biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp lý. Hàng năm, Bảo Việt Hà Nội đã tổ chức các buổi gặp gỡ khách hàng để tuyên truyền về các biện pháp phòng cháy chữa cháy, đề phòng và hạn chế tổn thất. Bên cạnh đó công ty còn trợ giúp kinh phí cho khách hàng để khách hàng thực hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy. Hơn nữa công ty còn cử cán bộ, nhân viên xuống tận cơ sở sản xuất nghiên cứu và chỉ cho khách hàng thấy những nơi dễ xảy ra hỏa hoạn và hướng dẫn họ thực hiện các biện pháp đề phòng.
  33. Bảng 3: Tình hình chi đề phòng hạn chế tổn thất Đơn vị: Triệu đồng Tổng chi Chi tuyên truyền Chi hỗ trợ kinh phí Chi hội nghị Năm Mức chi Tỷ lệ %/ Mức chi Tỷ lệ %/ Mức Tỷ lệ %/ Tổng chi Tổng chi chi Tổng chi 1997 176,20 52,860 30,0 105,720 60,0 17,620 10,0 1998 203,79 61,137 30,0 122,274 60,0 20,379 10,0 1999 230,42 69,126 30,0 138,252 60,0 23,042 10,0 2000 260,68 74,435 29,0 150,870 57,8 34,735 13,2 2001 221,69 64,152 28,9 128,304 57,9 29,234 13,2 Nguồn số liệu: Công ty BVHN Như vậy có thể thấy hàng năm BVHN đã chi ra một khoản tiền lớn cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Việc chi này đã đem lại hiệu quả lớn cho công ty. Trong các khoản chi thì khoản chi hỗ trợ kinh phí là khoản chi lớn nhất, thường chiếm 60% trong các tổng chi. Điều đó cho thấy công ty đã rất quan tâm đến việc phối hợp cùng các doanh nghiệp trong công tác phòng cháy chữa cháy, không những hướng dẫn cho họ cách đề phòng cháy, chỉ cho họ những nơi có độ rủi ro cao mà công ty còn hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp để công tác phòng cháy được tiến hành tốt hơn. Một khoản chi khác cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đề phòng hạn chề tổn thất là chi tuyên truyền quảng cáo. Đây là khoản chi có tác dụng quan trọng không chỉ đối với việc khai thác mà còn góp phần hạn chế tổn thất khá hiệu quả. Khoản chi này thường chiếm khoảng 30% trong tổng chi đề phòng hạn chế tổn thất. Nhờ đó, số vụ cháy hàng năm hiện nay đã giảm xuống, số tiền bồi thường mà công ty phải chi hàng năm cũng giảm theo. Năm 97, số vụ cháy xảy ra là 7 vụ, đến năm 98 con số này đã giảm xuống còn 3 vụ. Nhưng đến
  34. năm 99, số vụ cháy lại là 9 vụ, nguyên nhân là do năm 99 có nhiều vụ cháy xảy ra nhất trong 5 năm trở lại đây. Năm 2000 giảm xuống còn 6 vụ và đến năm 2001 thì chỉ còn 4 vụ. Tóm lại, việc chi đề phòng hạn chế tổn thất ở công ty đã đem lại hiệu quả cao, làm giảm số chi bồi thường, do đó làm tăng lợi nhuận cho công ty. 3. Tình hình giám định và bồi thường Công tác giám định bồi thường là một khâu đặc biệt quan trọng, nó góp phần tạo nên uy tín của công ty đối với khách hàng và quyết đinh sự sống còn của công ty cũng như sự thành công hay thất bại của bất kỳ một nghiệp vụ bảo hiểm nào. Việc giám định được tiến hành khẩn trương và chính xác sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các khâu công việc khác đặc biệt là khâu bồi thường và trả tiền bảo hiểm. Hơn nữa, việc giám định có kết quả tốt, tìm ra được những nguyên nhân xảy ra rủi ro, từ đó sẽ có biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất hiệu quả hơn, nhờ vậy sẽ thúc đẩy quá trình khai thác. Trong điều kiện cạnh tranh trong khâu khai thác như hiện nay, Bảo Việt Hà Nội đã chú trọng nâng cao chất lượng công tác bồi thường để hỗ trợ cho khai thác và đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Do tầm quan trọng của công tác này, năm 2001 công tác giám định bồi thường đã được ban giám đốc đặc biệt quan tâm chỉ đạo. Với phần trích lập quỹ bồi thường chiếm khoảng 75% doanh thu phí là rất hợp lý cho các nhà bảo hiểm. Nó không những giúp cho việc nghiên cứu doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm có đủ khả năng chi trả bồi thường cho người tham gia bảo hiểm hay không, mà còn đánh giá sự phá sản hay thâm hụt lớn cho công ty bảo hiểm. Điều này giúp cho Bảo Việt Hà Nội óc khả năng chi trả những vụ tổn thất lớn. Điển hình năn 1998, Bảo Việt Hà Nội đã giải quyết bồi thường nhanh chóng cho trung tâm kỹ thuật đài truyền hình Việt nam với số tiền bồi thường khoảng 10,6 triệu đồng. Cũng trong năm 98, công ty đã giải quyết bồi thường cho liên doanh sản xuất xà phòng Level Haso với số tiền 426,89 triệu đồng. Ngoài ra Bảo Việt Hà Nội cũng bồi thường nhiều vụ cháy lớn khác như bồi thường vụ cháy ở khách sạn Sofitel Metropole (1998) với số tiền bồi thường 207,91 triệu đồng, công ty TNHH
  35. Transfield Việt nam với số tiền bồi thường 986,78 triệu đồng, LG Sel Việt nam với số tiền bồi thường 333,41 triệu đồng. Đến năm 2000, công ty đã giải quyết bồi thường cho các đơn vị sau: Xí nghiệp được và vật tư thú y TW số tiền 10,75 triệu đồng, khách sạn Mỹ Lan 53,4 triệu đồng vào năm 2001. Công ty đã bồi thường cho Daewoo Vietronics Plastics (DVC) số tiền 132 triệu đồng. Từ năm 1997-2000, tình hình giải quyết bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội được thể hiện qua bảng sau: Bảng 4: Thực tế bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn Đơn vị: triệu đồng Số vụ Bồi Số tiền bồi Số tiền bồi Quỹ dự trữ Tỷ lệ Năm thường thường thường bình bồi thường Bồi thường (vụ) (tr.đồng) quân/ vụ (tr.đồng) Thực tế (%) (tr. đồng) = (3) : (5) (1) (2) (3) (4) (5) (6) 1997 7 3 220,6 460,08 4.573,50 70,42 1998 3 541,2 150,40 5.387,25 8,37 1999 9 2.437,3 270,81 6.143,25 39,67 2000 6 660,0 110,00 8.732,25 7,55 2001 4 350,0 87,50 5.931,00 5,90 Nguồn số liệu: Công ty BVHN Năm 1997, Tỷ lệ bồi thường rât cao do xảy ra nhiều vụ cháy gây tổn thất, thiệt hại lớn như: vụ cháy chợ Đồng Xuân. Năm 1998 số tiền bồi thường giảm mạnh do công ty đã tập chung thực hiện tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất cho khách hàng. Hơn nưa, trong năm này trên địa bàn thành phố Hà Nội không xảy ra những vụ cháy lớn mang tính chất thảm hoạ. Tuy vậy, trong năm 1999, tỷ lệ này tăng khá nhanh từ 8,37%- 39,67% do trong năm 1999 xảy ra nhiều vụ cháy liên tiếp với mức độ tổn thất nghiêm trọng làm số tiền bồi thường tăng gấp 5,4 lần so với năm 1998 trong khi doanh thu chỉ tăng
  36. 1,14 lần. Năm 2000 con số này lại giảm xuống còn 666 triệu đồng và đến năm 2001 số tiền bồi thường chỉ là 350 triệu đồng. Để đạt được những kết quả bồi thường như năm 2000 và 2001 là do công ty đã phối hợp tốt với khách hàng trong công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Kết quả bồi thường trên đây trong điều kiện doanh thu tăng trưởng chậm đã Tuy nhiên trong công tác này vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế như là: - Việc hướng dẫn thủ tục ban đầu cho một số hồ sơ chưa được chu đáo do vậy còn phải hướng dẫn nhiều lần, khách hàng phải đi lại nhiều, ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Một số khâu trong dây truyền bồi thường đôi lúc còn chậm, dẫn đến việc giải quyết một hồ sơ bồi thường không đảm bảo thời gian như trong quy trình. - Một số vụ bồi thường lớn hoặc bồi thường cho các khách hàng chiến lược chưa được giải quyết nhanh, dứt điểm. Còn để khách hàng khiếu nại lên cơ quan cấp trên. Một số vụ giám định ban đầu chưa đủ căn cứ pháp lý, phải bổ sung trong quá trình giải quyết, dẫn đến kéo dài thời gian bồi thường. - Một số giám định viên thiếu tinh thần trách nhiệm, năng lực làm việc yếu. - Việc phối hợp giải quyết giám định giữa phòng bảo hiểm cháy và phòng bồi thường còn chưa tốt , chưa được nhuần nhuyễn. - Đôi lúc ở một vài vụ việc tinh thần thái độ phục vụ của cán bộ chưa thực sự đúng mức, gây hoài nghi trong khách hàng. - Việc kiểm tra, hướng dẫn bồi thường dưới phân cấp chưa thường xuyên và chưa có hiệu quả. - Trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý bồi thường và tiến hành giải quyết bồi thường trên phân cấp chưa đều. Quy trình giải quyết bồi thường và luân chuyển hồ sơ bồi thường trong nội bộ cần được điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình mới.
  37. III. Một số đánh giá về hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn 1. Kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ Năm 2000 sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm tại địa bàn Hà Nội sẽ càng sôi động hơn với sự tham gia của tất cả các công ty bảo hiểm đã đi vào hoạt động ổn định. Do đó việc san sẻ thị trường và giảm thị phần của công ty là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó đầu tư nước ngoài cũng chưa có chiều hướng tăng. Nhận thức được tình hình trên cũng như đánh giá đúng khả năng của mình, thông qưa phân tích kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ trong vòng năm năm 1996-2000 sẽ giúp công ty đề ra phương hướng hoạt động trong những năm tới nhằm giữ vững địa bàn, hoàn thành kế hoạch doanh thu. Kết qủa hoạt động kinh doanh là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh quá trình tiến hành hoạt động từ khâu khai thác đến khâu giám định bồi thường, đề phòng hạn chế tổn thất. Kết quả kinh doanh có tính chất quy ước và được xác định chếnh lệch tổng thu và tổng chi. Trong tổng chi có các khoản chi sau: chi bồi thường, chi hoa hồng, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi dự trữ, chi thuế, chi quản lý. Trước năm 99 được xác định bằng 4% doanh thu phí. Nhưng kể từ ngày 1/1/99 do có sự chồng chéo trong việc tính thuế doanh thu, luật thuế VAT được thi hành, hoạt động kinh doanh bảo hiểm có thuế suất 10%. Theo quy định của công ty, doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm cháy năm 1999 là 11.643 triệu đồng là doanh thu chưa có VAT (từ năm 98 trở về trước doanh thu phí bảo hiểm là doanh thu có thuế). Vậy công ty phải nộp thuế năm 99 là 11.643 x 10% = 1.164.3 triệu đồng và số thuế năm 2000 mà công ty phải nộp là 7.908 x 10% = 790,8 triệu đồng. Tình hình chi kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại BVHN giai đoạn 1997 - 2000 được thể hiện qua bảng sau:
  38. Bảng 5: Tình hình chi kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn Chi bồi thường Chi hoa hồng Chi ĐPHCTT Chi dự trữ Chi thuế Chi quản lý Năm Tổng Mức chi Tỷ lệ Mức chi Tỷ lệ Mức Tỷ lệ Mức Tỷ lệ Mức chi Tỷ lệ Mức chi Tỷ lệ chi chi chi % % % % % % 1997 5.104,3 3.220,60 63,1 548,84 10,80 176,22 3,50 304,9 5,97 243,94 4,78 609,80 11,90 1998 2.666,9 451,21 16,92 647,07 24,26 203,80 7,64 359,2 13,47 287,32 10,77 718,30 26,93 1999 4.961,2 2.437,30 49,13 737,20 14,86 230,40 4,64 409,6 8,26 327,60 6,60 819,10 16,51 2000 4.870,4 659,00 13,54 1.039,90 21,36 260,70 5,35 582,2 11,95 1.164,30 23,90 1.164,30 23,90 2001 3.038,7 350,00 11,52 490,01 16,12 221,69 7,30 395,4 13,02 790,80 26,02 790,80 26,02
  39. Qua bảng số liệu ta có thể nhận xét như sau: - Trong tổng chi thì khoản chi bồi thường chiếm tỷ trọng chủ yếu, đặc biệt là năm 1997 và năm 1999 là hai năm xảy ra nhiều vụ cháy gây thiệt hại lớn kiện cho số tiền bồi thường rất cao, ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận. Nhưng trong vòng hai năm trở lại đây, khoản chi bồi thường đã giảm đi rất nhiều, từ chỗ chiếm 63,1% năm 1997 và 49,13% năm 1999 thì đến năm 2000 là 13,54% và năm 2001 là 11,52% trong tổng chi. - Trong năm năm qua, chi hoa hồng cũng tăng lên rất nhanh chứng tỏ công ty đã chú trọng và quan tâm hơn tới quyền lợi của đội ngũ cộng tác viên, đại lý, người trực tiếp khai thác, bởi đây là khâu quyết định sự thành bại của mỗi công ty bảo hiểm và mỗi nghiệp vụ bảo hiểm. - Trong các khoản chi thì chi đề phòng hạn chế tổn thất tăng khá chậm qua các năm cho thấy dù công ty có quan tâm nhưng chưa thực sự đầu tư lớn cho công tác này. - Việc thực hiện thuế GTGT với thuế suất tăng lên khiến cho khoản chi thuế của công ty tăng lên đáng kể. Trong tổng thu thì khoản thu từ phí bảo hiểm là chủ yếu. Các khoản thu- chi của nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn trong vòng 5 năm trở lại đây được thể hiện qua bảng sau:
  40. Bảng 6: Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn Doanh Tổng chi Lợi % chi phí Doanh Lợi Nhuận Năm thu phí nhuận / doanh thu / chi / chi phí thu phí (đ / đ ) 1997 6.0989 5.104,3 993.7 83,70 1,19 0,19 1998 7.183 2.666,9 4.516,1 37,13 2,69 1,69 1999 8.191 4.961,2 3.229,8 60,57 1,65 0,65 2000 11.643 4.870,4 6.764,6 41,90 2,39 1,39 2001 7.908 3.038,7 4.862,2 39,92 2,60 1,60 Nguồn số liệu: Công ty BVHN Như vậy, có thể thấy thừ năm 1997 cứ 1 đồng chi phí tạo ra 1,19 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận thì đến năm 1998, do bồi thường ít nên con số này là 2,69 đồng doanh thu và 1,69 đồng lợi nhuận. Năm 2000 con số này đạt tới 2.39 đồng doanh thu và 1.39 đồng lợi nhuận và năm 2001 là 2,6 đồng doanh thu và 1,6 đồng lợi nhuận. Số chi của nghiệp vụ này ngày càng giảm. Từ chỗ chiếm 83,7% doanh thu năm 1997 thì đến năm 2001 con số này đã giảm xuống còn 42%, trong đó khoản chi bồi thường giảm đi đáng kể. Những con số này cho thấy tình hình kinh doanh của nghiệp vụ này rất phát triển. Lợi nhuận của nghiệp vụ này tăng dần qua các năm chứng tỏ nó đã trở thành một nghiệp vụ mạnh của công ty. Như vậy, tình hình thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn tại BVHN cho thấy rất có hiệu quả. Nghiệp vụ này đang ngày càng được nâng cao gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên địa bàn Hà nội phát triển không ngừng. Để hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn ngày càng có hiệu quả cao hơn nhất là trong từng khâu thì phải đưa ra các giải pháp phù hợp ttrong tình hình hiện nay qua đó góp phần nâng cao uy tín của công ty trên thị trường. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cùng nghiên cứu chương sau.
  41. 2.Một số hạn chế và khó khăn trong quá trình triển khai nghiệp vụ Bên cạnh những ưu điểm trên BVHN cũng không tránh khỏi những thiếu sót, những hạn chế cần phải khắc phục đó là: -Còn ít những cán bộ đầu đàn, giỏi một nghiệp vụ và biết nhiều nghiệp vụ liên quan nhất là chưa nâng cao được trình độ ngoại ngữ chuyên ngành điều này làm hạn chế các nghiệp vụ đối ngoại. -Vấn đề phối hợp cộng tác giữa các khâu công việc của qui trình nghiệp vụ đôi khi còn chưa ăn khớp với nhau và còn ít được đôn đốc kiểm tra. -Chưa áp dụng đầy đủ các khâu của quá trình Marketing, chỉ chú trọng tuyên truyền quảng cáo, thiếu tìm hiểu dự đoán thị trường và các biến động của môi trường xung quanh (môi trường kinh doanh). Như vậy có thể thấy rằng tuy còn có những điều phải khắc phục nhưng cho đến nay có thể nói BVHN đã tìm được đúng con đường cho mình và đã thu được kết quả đáng khích lệ. Trong thời gian tới công ty cần phát huy những thành quả đã đạt được và khắc phục các mặt còn hạn chế để không ngừng lớn mạnh trở thành một trong những đơn vị kinh tế chủ lực của kinh tế Nhà nước.
  42. Chương III Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại BVHN. I. Phương hướng, mục tiêu thực hiện nhiệm vụ kinh doanh năm 2001 của công ty BHHN Năm 2001, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm tại địa bàn Hà Nội ngày càng sôi động hơn với sự tham gia của tất cả các công ty bảo hiểm đã đi vào hoạt động ổn định. Do đó công ty đã phải san sẻ thị trường và giảm thị phần nhiều hơn. Bên cạnh đó đầu tư nước ngoài cũng chưa có chiều hướng tăng. Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực từ đầu năm 2001 đặt ra yêu cầu kinh doanh bảo hiểm theo tư duy pháp luật mới. Xác định được những khó khăn và thử thách, công ty bảo hiểm Hà Nội đã đè ra phương hướng hoạt động năm 2001là : Mục tiêu: - Hoàn thành kế hoạch Tổng công ty giao:76,5 tỷ đồng - Phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch 5%:3,85 triệu - Tổng doanh thu bảo hiểm gốc:80.350 triệu đồng. - Doanh thu bảo hiểm hoả hoạn :11.000 triệu đồng Chiến lược kinh doanh: - Tăng trưởng, hiệu quả. - Giữ vững địa bàn và làm chủ thi trườngbảo hiểm Hà Nội . - Củng cố kinh doanh theo chiều sâu,nâng cao chất lượng phục vụ, cùng tồn tại và phát triển với khách hàng. - Kinh doanh theo tư duy mới của luật bảo hiểm. II. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ Sau một thời gian thực tế tìm hiểu tại công ty bảo hiểm hà nội, qua quá trình thu thập số liệu cũng như phân tích tình hình hoạt động kinh doanh, với
  43. mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn, em xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp kiến nghị sau: 1. Đẩy mạnh công tác khai thác. Công tác tuyên truyền quảng cáo: trong giai đoạn 1997-2001 cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn, chất lượng của công tác khai thác đã, đang và ngày càng được cải thiện, dịch vụ bảo hiểm được giới thiệu và đi tới tận nơi khách hàng, tạo thêm nhiều cơ hội để khách hàng nghiên cứu, so sánh và lựa chọn những bản chào phí bảo hiểm phù hợp với yêu cầu, điều kiện tham gia cũng như đáp ứng các mong đợi về chất lượng phục vụ . Trong cơ chế thị trường, khách hàng thường rất khó tính, hơn nữa với sự xuất hiện của nhiều công ty bảo hiểm trong và ngoài nước cùng triển khai nghiệp vụ này thì biện pháp tốt nhất để dành khách hàng chính là công tác tuyên truyền quảng cáo. Khi đi khai thác bảo hiểm do khách hàng chưa có sự hiểu biết về loại hình nghiệp vụ này nên đòi hỏi cán bộ khai thác phải hướng dẫn tận tình, nêu rõ cho khách hàng thấy những mặt thuận lợi khi họ tham ra bảo hiểm tại công ty bảo hiểm Hà Nội mà ở các công ty khác không có, chỉ có cách thông qua những mặt mạnh như vậy, Bảo Việt Hà Nội mới có thể duy trì và củng cố được các mối quan hệ cũ, xây dựng những mối quan hệ mới tốt đẹp. Thu hút khách hàng qua thành phần trung gian cũng là điều đáng quan tâm. Bảo việt Hà Nội cần đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa mối quan hệ với các ngành quản lý, chủ quan và các ngành trên địa bàn thủ đô có liên quan như: các ngân hàng thương mại, phòng cảnh sát PCCC, sở kế hoạch và đầu tư, Cục thuế Hà Nội, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân lớn để thông qua những đối tượng này, công ty giới thiệu sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn với khách hàng. Ngoài ra để khai thác đạt hiệu quả cao cần xây dựng và có kế hoạch thực hiện chiến lược khai thác, mở rộng thị trường, trong đó chú trọng một số khâu sau: - Chiến lược hoàn thiện và phát triển sản phẩm BH phi nhân thọ: +Hoàn chỉnh và làm chủ các sản phẩm truyền thống như: BH xe cơ giới, BH học sinh, BH con người
  44. +Phát triển các loại hình BH có thế mạnh: BH cháy, BH con người, BH hàng hoá vận chuyển nội địa, BH xây lắp, BH du lịch, BH xe cơ giới +Nghiên cứu các sản phẩm BH có tính phổ biến và khả thi trình Bảo Việt cho tiến hành như: BH chữa bệnh cho người nước ngoài làm việc tại Việt nam , BHTNDS và vật chất mở rộng cho xe mô tô +Chiến lược phủ kín địa bàn thông qua sử dụng đội ngũ cộng tác viên, đại lý -Mạnh dạn áp dụng mềm dẻo, linh hoạt chính sách khách hàng trên cơ sở nguyên tắc và chính sách của Bảo Việt. -Đổi mới tư duy và phương pháp tiếp thị. -Chú trọng tạo động lực phát triển khai thác BH, quan tâm đến chế độ và quyền lợi cho người trực tiếp khai thác. -Chú trọng khai thác tập trung thông qua các đầu mối lớn như: phòng CSGT, công an thành phố, cục thuế, cục đầu tư thành phố, sở GD, cục đăng kiểm, ban quản lý dự án, các tổng công ty 90,91 -Tập trung ưu tiên các nghiệp vụ có doanh thu và hiệu quả cao như: BH xây lắp, BH cháy, BH thân xe, BH đầu tư -Tăng cường mối quan hệ để có sự ủng hộ của các ngành, các cấp trong khai thác BH, làm chủ thị trường. 2. Nâng cao chất lượng công tác giám định và giải quyết bồi thường. Cán bộ công ty bảo hiểm Hà Nội cần thấy rõ và đầy đủ về chức năng cơ bản rất quan trọng của công tác giám định bồi thường. Nếu làm tốt công tác này sẽ có tác dụng to lớn trong công tác khai thác, lôi cuốn khách hàng tham gia bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh sau cháy.
  45. Do công tác giám định chỉ mang tính chất tương đối nên dễ dẫn đến sự phản ánh không chính xác và trung thực. Vì vậy các cán bộ làm công tác này ngoài trình độ chuyên môn cao, tư cách đạo đức phải “khách quan, vô tư, trung thực” để phản ánh đúng toàn bộ sự diễn biến gây ra rủi ro. Đồng thời họ còn phải có sự đúc kết và tập hợp thành sổ tay nghiệp vụ giám định bảo hiểm cháy và gián đoạn kinh doanh sau cháy để dễ dàng tra cứu và đưa ra kết luận chính xác. Về công tác bồi thường, khách hàng chỉ thực sự cảm thấy được ý nghĩa của bảo hiểm khi bồi thường tổn thất. Vì vậy để tạo uy tín của công ty đối với khách hàng, công ty cần phải bồi thường nhanh chóng kịp thời chính xác và dứt điểm. Bên cạnh đó công ty cần phải tăng cường và bổ sung quỹ bồi thường để khi có tổn thất xảy ra. Bên cạnh đó công ty cần phải tăng cường và bổ sung quỹ bồi thường để khi có tổn thất lớn xảy ra có thể bồi thường nhanh chóng, đồng thời sử dụng quỹ này đầu tư vào các lĩnh vực an toàn tăng khả năng bồi thường cho khách hàng. Để làm tốt công tác bồi thường công ty cần phải giảm bớt thủ tục rườm rà tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng nhận tiền bồi thường. Về công tác giám định: Bảo Việt Hà Nội nên thường xuyên cử cán bộ bảo hiểm của mình tham gia các khoá học của Tổng công ty để nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng phục vụ, đồng thời tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ với các công ty giám định, các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực. Những vụ phức tạp nên phối hợp, mời các công ty giám định có uy tín trong nước hoặc nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam tham gia. Về công tác bồi thường: khách hàng chỉ thấy rõ tác dụng của bảo hiểm khi gặp rủi ro. Trách nhiệm của công ty lúc này là phải bồi thường, khẩu hiệu “ bồi thường nhanh chóng, chính xác và công bằng”phải luôn luôn được tuân theo trong mọi trường hợp vì đây là hình thức tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả nhất tạo uy tín cho công ty bằng việc làm cụ thể chứ không bằng lời nói suông. Song song với việc phục vụ tốt khách hàng, Bảo Việt Hà Nội cần tăng cường và bổ sung quỹ dự trữ bồi thường bằng đầu tư vốn nhàn rỗi: mua công trái nhà nước, mua bất động sản Thực tế cho thấy, thủ tục giải quyết bồi thường vẫn còn rườm rà, phức tạp, tốn nhiều thời gian, do vậy công ty cần có tài liệu hướng dẫn khách hàng, cụ thể phải làm ngay công việc gì, phải nộp giấy tờ gì để họ nhanh chóng nhận được tiền bồi thường góp phần ổn định sản xuất kinh doanh.
  46. Bên cạnh đó, BVHN nên sớm thực hiện các biện pháp sau: -Tập trung cải tiến quy trình trong khâu giám định và bồi thường để giảm bớt những thủ tục hành chính gây ra phiền hà cho khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ đồng thời hỗ trợ đắc lực cho khâu khai thác. -Tăng cường công tác kiểm tra giám sát trong khâu giám định- bồi thường để đảm bảo “trả nhanh- trả đủ- trả chính xác” góp phần bảo vệ quyền lợi đối với khách hàng và hiệu quả kinh doanh của công ty. 3. Kiện toàn công tác tổ chức nhân sự “ Luôn luôn tự điều chỉnh và tự hoàn thiện mình” là một trong những phương châm hành động của toàn bộ hệ thống Bảo việt trong bất kỳ giai đoạn nào. Vì vậy, đào tạo cán bộ giỏi là một trong những vấn đề mà công ty cần quan tâm. Cán bộ giỏi nghiệp vụ thì không những thực hiện công việc một cách nhanh gọn, trôi chảy mà khi khách hàng thắc mắc, yêu cầu, cán bộ có thể giải đáp được rõ ràng, tạo niềm tin cho khách hàng. Mặt khác, có được cán bộ giỏi nghiệp vụ, có trình độ tiếng Anh thông thạo, công ty có thể xâm nhập được thị trường nhanh chóng, trực tiếp và đỡ tốn kém không phải thông qua môi giới. Bên cạnh đó, trình độ cán bộ bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội còn nhiều biểu hiện chưa đạt yêu cầu, vì vậy công ty cần tổ chức các khoá học, các cuộc hội thảo không chỉ trong nội bộ công ty mà cần phối hợp với các công ty bảo hiểm nước ngoài như: AIG, LG, CIGNA, Munich Re về các chuyên đề liên quan đến các nghiệp vụ, đồng thời cử cán bộ đi học ngắn hạn và dài hạn ở nước ngoài nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường. Hơn nữa, công ty cần phát hiện, nhìn nhận đúng năng lực, trình độ của từng cán bộ và có chính sách đãi ngộ ưu đãi thích đáng để họ có thể toàn tâm, toàn ý đóng góp công sức vào sự phát triển chung của công ty. Hướng dẫn cán bộ, công nhân viên trong công ty thực hiện đúng các quy định, chính sách, luật pháp của nhà nước.
  47. Tổ chức khen thưởng đối với những cán bộ làm được việc và xử phạt công minh đối với những cá nhân làm việc thiếu trách nhiệm, ỷ lại, không chấp hành nội quy, quy chế của công ty. Phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên, từ đó khẳng định được sức mạnh của cả tập thể. Công ty cần bổ sung đủ các cán bộ lãnh đạo nghiệp vụ bảo hiểm có đủ trình độ cho các phòng ban và các chi nhánh của công ty. Bên cạnh đó, công ty nên thường xuyên nâng cao tinh thần trách nhiệm và giáo dục đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ công nhân viên, không để xảy ra bất cứ một sự việc tiêu cực nào xảy ra, giải quyết công việc một cách chính xác, trung thực và khoa học, đó chính là nền tảng để tạo lòng tin, thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm . 4. Hoàn thiện một số công tác khác - Tiếp tục chấn chỉnh công tác quản lý của công ty nhất là quản lý tài chính, ấn chỉ, quản lý cán bộ và quản lý nghiệp vụ. Tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh các qui chế qui trình quản lý và nghiệp vụ. - Tiếp tục hoàn thiện công tác thống kê đáp ứng yêu cầu quản lý và phục vụ cho việc xác định hiệu quả kinh doanh đối với công ty và các phòng. - Kiện toàn một bước về tổ chức bộ máy hoạt động công ty, xây dựng, điều chỉnh mô hình bộ máy, sắp xếp cán bộ và lao động cho phù hợp, giảm thiểu tỷ trọng gián tiếp. Tiến hành xem xét giữa phân cấp quản lý và quản lý phân cấp, xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Bổ sung lực lượng cán bộ lãnh đạo cấp phòng và cán bộ quản lý nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ kinh doanh trong giai đoạn mới. Chú trọng công tác kiểm tra và tự kiểm tra, xây dựng và thực hiện quy chế an ninh và quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. + Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo. + Tiếp tục đổi mới mọi mặt hoạt động để đáp ứng với tình hình của thị trường hiện nay.
  48. Công tác quản lý rủi ro. Một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ chưa đạt hiệu quả tối ưu- đó là thực hiện chưa tốt công tác PCCC. để làm tốt công tác này, công ty cần phải kết hợp chặt chẽ hơn nữa với phòng cảnh sát PCCC, các cấp chính quyền và các ban ngành để kiểm tra tình hình thực hiện PCCC ở các đơn vị . Công tác tính phí. Hoạt động bảo hiểm hoả hoạn cũng là một hình thức kinh doanh dich vụ quỹ dùng để chi trả bồi thườngđược hình thanh từ việc đóng gópcủa người được bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm . Vì vậy, việc tính toán đúng mức phí phải đảm bảo đủ chi trả bồi thường, đảm bảo kinh doanh cólãi, đồng thời phải tạo được mức phí có thể cạnh tranhđược với các công ty trong và ngoài nước. Ngoài ra công ty cũng nên góp ý với Tổng công ty đề nghị với bộ tài chính đưa ra một hành lang pháp lý cụ thể nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các công ty tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường hiện nay. Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội. Cùng với nhũng cố gắng nỗ lực của cả tập thể lớn, hy vọng rằng Bảo Việt Hà Nội sẽ tiếp tục lớn mạnh và không ngừng đi lên trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong hệ thống Bảo Việt Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội. Cùng với nhũng cố gắng nỗ lực của cả tập thể lớn, hy vọng rằng Bảo Việt Hà Nội sẽ tiếp tục lớn mạnh và không ngừng đi lên trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong hệ thống Bảo Việt
  49. Kết Luận Bảo hiểm hoả hoạn là nghiêp vụ bảo hiểm rất cần thiết trong đời sống và trong hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân Việt Nam. Qua một thời gian hoạt động, chỉ nói riêng trong phạm vi Bảo Việt Hà Nội, Bảo hiểm cháy đã đem lại một nguồn thu lớn cho Công ty và góp phần gánh vác trách nhiệm cho nhiều khách hàng. Cùng với sự phát triển của xã hội, phạm vi bảo hiểm sẽ ngày càng trở nên rộng rãi hơn, thể hiện tiềm năng phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn. Tuy nhiên, vì là một nghiệp vụ truyền thống, lại rất phức tạp do liên quan nhiều đến luật pháp hiện hành nên sẽ không tránh khỏi những vướng mắc, tồn tại cần có thời gian để hoàn thiện dần. Qua việc mở rộng quan hệ, đi sâu đi sát thị trường và đổi mới phương thức hoạt động, Bảo hiểm hoả hoạn sẽ ngày càng thể hiện rõ vị trí của nó đối với cả Công ty và khách hàng. Với một cơ chế đầu tư thoáng và mang tính khuyến khích cao như hiện nay, sẽ có rất nhiều cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp nước ngoài đến sinh sống và bỏ vốn vào kinh doanh tại Việt Nam. Chắc chắn họ sẽ quan tâm đến luật pháp của Việt Nam và phát sinh nhu cầu về Bảo hiểm tài sản. Khi đó, nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn sẽ thực sự khẳng định tầm quan trọng và hiệu quả của mình. Mặc dù thời gian công tác tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội không phải là nhiều, nhưng những kiến thức mà em thu thập được là vô cùng bổ ích, góp phần nâng cao hiệu quả công việc và trình độ nghiệp vụ để em có điều kiện ứng dụng tốt vào công tác thực tế sau này.
  50. Đề CƯƠNG SƠ Bộ Lời nói đầu Chương I Khái quát chung về bảo hiểm hoả hoạn I. Lý luận chung về bảo hiểm 1. Sự ra đời và vai trò của bảo hiểm. 2.Các loại hình bảo hiểm 3.Giới thiệu chung về bảo hiểm hoả hoạn II. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn 1. Một số khái niêm cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm hỏa hoạn 2. Rủi ro được bảo hiểm. 3. Rủi ro không được bảo hiểm Chương ii Tình hình hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại Bảo Việt Hà Nội I. Giới thiệu chung về công ty bảo việt hà nội 1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức của công ty 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của BVHN trong những năm gần đây ( 1997 - 2003) II. Triển vọng phát triển nghiệp vụ 1. Tình hình thị trường bảo hiểm Việt nam và thị trường bảo hiểm hỏa hoạn. 2.Những yếu tố tác động đến việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại Bảo Việt Hà Nội. III. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn tại Công ty bảo hiểm Hà Nội từ 1997-2003. 1. Tình hình khai thác.
  51. 2.Tình hình đề phòng hạn chế tổn thất: 3.Tình hình giám định và bồi thường IV. Một số đánh giá về hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn 1. Kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ 2.Một số hạn chế và khó khăn trong quá trình triển khai nghiệp vụ Chương III Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn tại BVHN. I.Phương hướng, mục tiêu thực hiện nhiệm vụ kinh doanh năm 2003 của công ty BHHN II.Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ 1. Đẩy mạnh công tác khai thác 2. Nâng cao chất lượng công tác giám định và giải quyết bồi thường. 3. Kiện toàn công tác tổ chức nhân sự 4. Hoàn thiện một số công tác khác Kết luận
  52. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm PGS - TS Hồ Sĩ Sà ( chủ biên ) 2. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm PGS - TS Nguyễn Cao Thường ( chủ biên ) 3. Giáo trình bảo hiểm ( Nhà xuất bản tài chính 1999 ) 4. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành TS - David Bland ( chủ biên ) 5. Các tạp chí: - Bảo hiểm - Tài chính - Nghiên cứu kinh tế - Phát triển kinh tế - Con số & sự kiện - Ngân hàng - Kinh tế và dự báo 4. Một số tài liệu tham khảo khác: - Báo cáo tổng kết của công ty Bảo Hiểm Hà Nội từ năm 1997-2003 - Các đơn bảo hiểm cháy